VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
CÁC HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG CHẦU VĂN<br />
Ở NAM ĐỊNH<br />
TRẦN HẢI MINH<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Trong quá trình hình thành và phát triển, diễn xướng chầu văn ở Nam Định đã tồn tại dưới 4 hình<br />
thức truyền thống cơ bản là: hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng (hay hầu bóng), hát chầu văn trong<br />
nghi lễ giỗ tổ dòng họ, hát chầu văn trong nghi lễ thờ Thành hoàng làng, thi hát chầu văn.<br />
Hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng là hình thức phổ biến nhất của hát văn (còn gọi là hát chầu<br />
thờ). Hình thức này chủ yếu được thực hiện trong các đền, phủ, nơi thờ tự các thánh trong điện Tứ phủ.<br />
Hình thức thi hát chầu văn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của hát văn. Vì thế, hình thức này<br />
có những quy định rất chặt chẽ, bài bản. Hát văn trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ và trong nghi lễ thờ cúng<br />
Thành hoàng làng là hai hình thức phái sinh của hát văn hầu đồng.<br />
Từ khóa: Chầu văn, diễn xướng chầu văn<br />
Abstract<br />
In the process of formation and development, “chau van” performation in Nam Dinh existed under<br />
the four traditional basic forms are: “Chau van” singing in “Hau Dong” rituals (or mediumship ritual),<br />
“Chau van” singing in rituals of family death anniversary , “chau van” singing in rituals of tutelary god<br />
worship and “chau van” singing competition.<br />
“Chau van” singing in “Hau Dong” rituals is the most common form of Van singing (also called<br />
worship singing). This form is mainly performed in the temple, palace, place of worship of Saints in<br />
sanctuary of Tu phu. “Chau van” singing competition form have special significance for the development<br />
of Van singing. Therefore, this form is stipulated with strict rules, basically. Van singing in rituals of<br />
family death anniversary, in rituals of tutelary god worship are the two derivative forms of Hau Dong<br />
singing.<br />
Keyword: “Chau van”, “Chau van” performation<br />
<br />
N<br />
<br />
am Định được coi là cái nôi của<br />
hát chầu văn. Đây là loại hình dân<br />
ca nghi lễ, được diễn xướng trong<br />
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu. Ở<br />
Nam Định có hai lễ hội lớn nổi tiếng trong cả<br />
nước, đó là lễ hội Phủ Giầy (tháng 3 âm lịch) và<br />
lễ hội Đền Trần (tháng 8 âm lịch). Trong hai lễ<br />
hội này và trong sinh hoạt tín ngưỡng của các<br />
đền, phủ ở Nam Định, hát chầu văn là thành tố<br />
không thể thiếu của nghi lễ hầu đồng. Vì thế,<br />
hát chầu văn loại này còn được gọi là chầu văn<br />
72<br />
<br />
Số 8 - Tháng 6 - 2014<br />
<br />
hầu đồng hay chầu văn hầu bóng. Ngoài hình<br />
thức này, hát chầu văn ở Nam Định còn được<br />
thực hiện trong nghi lễ thờ Thành hoàng làng,<br />
thờ tổ dòng họ và trong hát thi.<br />
1. Hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng<br />
Các cuộc lên đồng được diễn ra ở các đền,<br />
miếu, phủ trước bệ thờ Thánh. Trên bàn thờ<br />
(trong hậu cung) có ngai đặt bài vị hoặc tượng<br />
Thánh. Phía trên có treo những vật thờ như<br />
nón, lẵng hoa và thường có hai con rắn bằng<br />
vải quấn trên xà.<br />
<br />
NGHỆ THUẬT<br />
<br />
Phía ngoài hậu cung, ở gian giữa ngôi nhà<br />
chính, có hương án, trên bày các đồ tế tự như<br />
đỉnh, bình hương, giá nến... hai bên là các giá<br />
để cờ quạt, binh khí, theo mỗi chư vị được thờ.<br />
<br />
thần thông biến hoá của chư vị Thánh. Cung<br />
văn cũng hát kể về Thánh xuống trần làm việc<br />
quan chấm đồng bắt lính, ban tài, phát lộc hay<br />
chèo đò du ngoạn, múa hát vui chơi...<br />
<br />
Trước hương án là một bệ xây rộng hơn<br />
chiếc chiếu hoa lớn, cao khoảng 40cm, nơi<br />
diễn ra các cuộc hành lễ, trong đó có lên đồng<br />
và hát văn. Người lên đồng ngồi trên bệ xây,<br />
mặt hướng vào hương án. Từ ngoài cửa trông<br />
vào, bên trái (có nơi là bên phải) bệ thờ là chỗ<br />
dành cho cung văn và những người phụ họa.<br />
Họ ngồi trên chiếu trải lên nền gạch. Phía bên<br />
phải bệ thờ là chỗ của những người giúp việc<br />
hầu bóng, của tín chủ, của các con nhang đệ<br />
tử. Còn xung quanh là những người đứng xem.<br />
<br />
Khi vào cuộc lên đồng, “thông thường cung<br />
văn sẽ hát bài văn chầu Tứ phủ Công đồng,<br />
tụng ca và thỉnh mời chư vị Thần Thánh về dự<br />
cuộc lễ” (3, tr.48).<br />
<br />
Mỗi cuộc hầu đồng dài hay ngắn, không có<br />
một quy định nào bó buộc mà phụ thuộc vào<br />
việc con đồng của tín chủ cầu xin ông Hoàng,<br />
bà Chúa hay vị Thần Thánh nào đó, và được chư<br />
vị phán bảo những vấn đề hệ trọng hay bình<br />
thường. Mỗi cuộc lên đồng, có thể bao gồm từ<br />
một, hai hay ba giá đồng. Mỗi giá đồng, tương<br />
ứng với sự hiện diện của một chư vị Thánh. Có<br />
con đồng chỉ lên một vài giá rồi lại đến người<br />
khác. Nhưng thông thường họ cũng phải ngồi<br />
tới ba giá đồng, bởi vì, khi đã nhập cuộc, họ bị<br />
kích động (điều mà ta quen gọi là máu đồng<br />
bóng), nên không thể dừng lại ở một hay hai<br />
giá đồng.<br />
Trong thực tế, có trường hợp diễn ra những<br />
cuộc ngồi đồng mà không có tín chủ. Khi ấy,<br />
lên đồng được xem là nhu cầu tự thân của con<br />
đồng. Họ ý thức rằng, việc lên đồng là hoàn<br />
toàn cần thiết, vì đã là con cái nhà Thánh thì<br />
phải lên đồng hầu Thánh. Mặt khác, khi ngồi<br />
đồng, họ tìm thấy những giờ phút siêu thoát<br />
khỏi trần tục.<br />
Tham gia cuộc hầu đồng, trước hết, phải kể<br />
đến con đồng chính, là người trần đại diện cho<br />
Thánh. Khi Thánh nhập vào họ thì họ trở thành<br />
Thánh để phán bảo người trần.<br />
Người làm mối liên hệ, giới thiệu giữa người<br />
trần với Thánh và thỉnh Thánh về trần chính là<br />
cung văn. Trong suốt quá trình Thánh đồng<br />
giáng hạ thì người cung văn, bằng tiếng đàn,<br />
giọng hát của mình, sẽ giới thiệu lý lịch, tài<br />
Số 8 - Tháng 6 - 2014<br />
<br />
Khi lên đồng, bà đồng ngồi khoanh chân<br />
(xếp bằng tròn), đầu trùm khăn đỏ (gọi là khăn<br />
phủ diện), hai tay đặt trên đầu gối giữ hai mép<br />
khăn. Sau khi đảo đồng, là giai đoạn Thánh ốp,<br />
bà đồng sẽ bỏ khăn phủ diện và tay đặt trên<br />
trán, miệng hú để ra hiệu vị nào nhập đồng.<br />
Nếu Tứ phủ nhập đồng thì bà đồng dùng tay<br />
phải để ra hiệu: một ngón trỏ là Mẫu Thượng<br />
Thiên, hai ngón là Mẫu Thượng Ngàn. Nếu các<br />
quan Hoàng nhập đồng thì bà đồng ra hiệu<br />
bằng tay trái, một ngón trỏ là ông Hoàng Cả,<br />
ba ngón là ông Hoàng Ba... Khi đã biết là vị nào<br />
nhập đồng thì cung văn sẽ hát giá văn phù<br />
hợp và người phụ đồng sẽ dâng khăn chầu, áo<br />
ngự của vị ấy. Thánh sẽ lấy hương viết thư phù<br />
rồi đội khăn, mặc áo (có người hầu phụ giúp).<br />
Thư phù là bà đồng cầm một vài nén hương<br />
đốt sẵn, hướng vào đồ vật được dâng lên, vẽ<br />
vào khoảng không những vòng tròn hoặc số<br />
tám, như kiểu viết chữ.<br />
Tiếp theo là Thánh ngự đồng, làm việc: ban<br />
truyền, phán bảo; hoặc múa mồi, múa kiếm<br />
(tuỳ tính cách từng vị); hoặc du ngoạn vui<br />
chơi; rồi đến ban tài phát lộc. Sau đó, Thánh<br />
sẽ thăng đồng bằng cách đặt tay lên trán, ngả<br />
đầu ra sau, có thể hú hoặc không, có khi ngã<br />
ra để báo hiệu sự tỉnh lại rồi vái tạ. Trong quá<br />
trình ấy, mọi người sẽ xúm lại thỉnh, tấu, và<br />
cung văn sẽ vê đàn, trống phách dồn dập, hát<br />
câu Thánh giá hồi cung.<br />
Mỗi cuộc lên đồng tuy có cả một hệ thống<br />
chư vị như Tứ phủ chầu bà, Ngũ vị tôn ông, các<br />
quan Hoàng, các Thánh cô, Thánh cậu, nhưng<br />
không phải cứ lên đồng là phải hầu đủ mấy<br />
mục các bóng thánh. Mặt khác, mỗi con đồng<br />
do vận số mà chỉ ứng với một vài vị nào đó, chứ<br />
không phải là tất cả. “Riêng Đức Thánh Trần và<br />
Liễu Hạnh công chúa, do được thờ phổ biến<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
73<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
ở nhiều nơi, nên các cuộc hầu đều có giá văn<br />
này, còn các chư vị khác thì tuỳ từng đền, từng<br />
nơi cũng có hầu” (4, tr.168).<br />
Như vậy, thông qua nghiên cứu diễn xướng<br />
chầu văn trong quan hệ với nghi lễ hầu đồng,<br />
ta thấy: Hát văn hầu Thánh Tứ phủ, chỉ được<br />
tổ chức tại các đền phủ của cộng đồng - gọi là<br />
hát chầu thờ.<br />
Đây là hình thức hát hầu Thánh trực tiếp,<br />
dâng văn, vọng bái thần điện, làm trung gian<br />
kết nối Thánh với người hầu đồng. Hình thức<br />
sinh hoạt này được cố định trong những ngày<br />
lễ tiết quan trọng của tín ngưỡng Tứ Phủ. Tuỳ<br />
theo từng đền phủ, vào lễ giao thừa, lễ thượng<br />
nguyên hay ngày tiệc của Thánh…, thủ nhang<br />
đền và cung văn phải sắm sửa lễ vật để dâng<br />
văn chầu thờ.<br />
<br />
Để chuẩn bị cho văn hầu, từ ngày hôm<br />
trước, ông Thống (thày cúng bản đền) phải<br />
làm lễ Phát tấu, tụng kinh thỉnh mời chư vị<br />
Thánh về chứng giám cho người bắc ghế hầu.<br />
Mở đầu văn hầu, ông Thống phải làm lễ Khao<br />
thỉnh mời công đồng, sơn trang về chứng lễ<br />
trước khi hầu. Tuỳ theo từng điều kiện, người<br />
ta có thể thay lễ Khao thỉnh bằng việc diễn tấu<br />
bản Văn công đồng. Thời xưa, kết thúc một<br />
cuộc hầu đồng, cung văn thường phải dâng<br />
văn chầu để thủ đền lễ tạ.<br />
<br />
Đây là hình thức sinh hoạt phổ biến nhất<br />
của hát văn. Tất nhiên nơi tổ chức phải là điện<br />
thần Tứ phủ trong các đền, phủ của cộng đồng<br />
hoặc các điện thờ tại tư gia. So với những hình<br />
thức sinh hoạt hát văn khác, hát văn hầu đồng<br />
có một số điểm khác biệt quan trọng:<br />
<br />
“Như thế, có thể nói, hát hầu đồng thực sự<br />
là một tác phẩm liên văn - liên khúc, một cuộc<br />
diễn xướng trường thiên của nghệ thuật hát<br />
văn” (2, tr.316). Và, do chuyển tải nhiều bản văn<br />
khác nhau nên đây là hình thức diễn xướng có<br />
số lượng làn điệu lớn nhất. Bên cạnh đó, cũng<br />
có thể nói đây là hình thức diễn xướng mang<br />
tính tổng hợp nhất của nghệ thuật hát văn. Lúc<br />
này, nghệ thuật múa, nghệ thuật sân khấu (hoá<br />
thân nhập đồng) trong sự giao đãi giữa cung<br />
văn với chân đồng, giữa chân đồng với đám<br />
đông con nhang đệ tử được bộc lộ toàn vẹn.<br />
<br />
Thứ nhất, trong hát văn, mỗi bản văn được<br />
thể hiện bằng nhiều làn điệu âm nhạc khác<br />
nhau. Do vậy, mỗi bản văn là một liên khúc.<br />
Trong các hình thức sinh hoạt khác của hát<br />
văn, người ta chỉ dâng một bản văn. Riêng<br />
trong sinh hoạt hát hầu đồng, người ta phải<br />
lần lượt dâng nhiều bản văn khác nhau ứng<br />
với các vị Thánh trong điện thần Tứ phủ theo<br />
thứ tự từ cao xuống thấp. Mỗi bản văn ứng với<br />
một vị Thánh - gọi là giá đồng. Mỗi cuộc hầu<br />
đồng (gọi là văn hầu) bao giờ cũng gồm nhiều<br />
giá đồng. Trong đó, một văn hầu bao gồm<br />
những giá đồng nào, hoàn toàn tuỳ thuộc vào<br />
căn số của chân đồng. Giữa các giá đồng, âm<br />
nhạc luôn được kết nối liên tục không ngừng<br />
nghỉ. Giá trước vừa kết thúc, giá sau phải bắt<br />
vào ngay lập tức với giai điệu Kiều bóng - gọi<br />
<br />
Thứ hai, nếu như trong các hình thức diễn<br />
xướng hát văn khác, cung văn phải hát trọn<br />
vẹn một bản văn thì trong hát văn hầu đồng,<br />
họ thường không nhất thiết phải hát đầy đủ<br />
các văn bản của từng giá đồng. Ở đây, việc ứng<br />
diễn giữa cung văn và chân đồng được đề cao<br />
lên hàng đầu. Tuỳ theo sự hứng khởi tại chỗ<br />
của chân đồng, người cung văn sẽ co giãn bản<br />
văn theo tình huống diễn xướng, thậm chí việc<br />
bỏ hẳn một phần cũng được chấp nhận. Tính<br />
khuôn thước của bài bản và làn điệu thường<br />
bị phá vỡ hoặc cắt đứt. Chẳng hạn, cung văn<br />
có thể điệp câu, điệp từ kéo dài câu văn khi<br />
chân đồng hứng khởi nghe văn; hay có trường<br />
hợp Thánh nấn ná mãi chưa chịu thăng thì<br />
cung văn phải hát thêm văn (có thể hát lại<br />
một đoạn nào đó hoặc ứng tác tại chỗ); hay<br />
<br />
Theo quy định, hát chầu thờ là trách nhiệm<br />
của người trưởng cung văn các khu vực đền,<br />
phủ. Điều đó thể hiện rằng, chất lượng âm<br />
nhạc hát chầu thờ luôn được coi trọng bởi<br />
cung văn bao giờ cũng là người có năng lực<br />
nghệ thuật cao nhất trong cộng đồng.<br />
<br />
74<br />
<br />
bóng của vị Thánh tiếp theo. Nếu Ngài không<br />
giáng, chân đồng xua tay ra hiệu, cung văn lại<br />
hát điệu Kiều bóng để mời vị Thánh kế tiếp. Cứ<br />
thế cho đến khi gặp giá nào thánh giáng, chân<br />
đồng tung khăn phủ diện, cung văn sẽ bắt đầu<br />
diễn tấu bản văn mới.<br />
<br />
Số 8 - Tháng 6 - 2014<br />
<br />
NGHỆ THUẬT<br />
<br />
trường hợp chưa hát hết bản văn mà Ngài đã<br />
thăng thì cung văn cũng phải tức thời hát câu<br />
kết thúc mỗi giá đồng “Xe loan thánh giá hồi<br />
cung” và diễn tấu phân đoạn chuyển tiếp. Đây<br />
là trường hợp của đa số những ông đồng, bà<br />
đồng không biết nghe văn. Nhưng dù thế nào<br />
thì cung văn cũng phải theo họ. Đó là nguyên<br />
tắc của lễ hầu đồng.<br />
Nhìn chung, diễn xướng chầu văn hầu<br />
đồng ở Nam Định có những đặc điểm sau:<br />
+ Diễn xướng chầu văn hầu đồng ở Nam<br />
Định mang tính quy phạm, bố cục chặt chẽ,<br />
mang tính cổ điển, nặng về tín ngưỡng hơn là<br />
sinh hoạt nghệ thuật.<br />
+ Hình thức hoạt động phong phú, đa<br />
dạng, phát triển cả trong lễ hội ở đền, phủ và<br />
trong lễ thờ Thánh ở tư gia.<br />
+ Diễn xướng chầu văn ở Nam Định đã<br />
tiếp thu ảnh hưởng của dân ca Bắc bộ như<br />
cò lả, trống quân, ca trù, hát xẩm... và của âm<br />
nhạc chèo.<br />
2. Hát chầu văn trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ<br />
Trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ, hát văn được<br />
dùng để ca ngợi cụ tổ. Hình thức sinh hoạt này<br />
không nằm trong nghi thức của tín ngưỡng Tứ<br />
phủ. Thông thường, khi một dòng họ nào đó<br />
có nhu cầu, họ mời cung văn đến để sửa soạn<br />
một bản văn phù hợp với điển tích của cụ tổ.<br />
Người cung văn sẽ phải nắn vần, sắp điệu để có<br />
được một bản văn hoàn chỉnh. Tiếp đó, trong<br />
ngày giỗ tổ dòng họ, cung văn sẽ đến nhà thờ<br />
tổ họ, dâng bản văn đó dưới hình thức hát thờ.<br />
Tất nhiên, hình thức sinh hoạt này thường chỉ<br />
diễn ra ở những dòng tộc mà con cháu có đời<br />
sống khá giả, đủ điều kiện vật chất để biện lễ.<br />
Bởi lẽ, mỗi bản văn đó trên thực tế đều là một<br />
tác phẩm mới, nằm ngoài hệ thống chầu văn<br />
Tứ phủ. Nó thực sự là một đơn đặt hàng cho<br />
những sáng tạo riêng của người cung văn.<br />
3. Hát chầu văn trong lễ cúng Thành hoàng làng<br />
Trong hình thức này, hát văn được dùng<br />
để ca ngợi đức Thành hoàng làng. Đây cũng là<br />
điểm đáng chú ý bởi nói chung, thành hoàng<br />
làng không thuộc diện Tứ Phủ. Trong dịp lễ<br />
cúng đình, thường người ta tổ chức tế lễ Thành<br />
Số 8 - Tháng 6 - 2014<br />
<br />
hoàng trước, sau đó mới dâng bản văn chầu,<br />
ca ngợi ngài. Đây cũng là dịp để người cung<br />
văn sáng tạo một tác phẩm riêng ngoài hệ<br />
thống văn chầu Tứ phủ.<br />
Cũng cần nói thêm rằng, hát văn không<br />
bao giờ được dùng trong nghi thức Phật giáo.<br />
Nếu có chăng thì hát văn chỉ được dùng trong<br />
trường hợp khu biệt tại gian thờ Mẫu riêng.<br />
Đó là những ngôi chùa có cấu trúc bồi ghép<br />
thêm hệ thống thần điện Tứ phủ kiểu dạng<br />
tiền Phật, hậu Mẫu.<br />
4. Thi hát chầu văn<br />
Hình thức hát chầu văn thi được coi là điểm<br />
nhấn quan trọng, biểu hiện tính tổ chức nghề<br />
nghiệp ở tầng bậc cao của nghệ thuật hát<br />
văn. Thi hát văn xưa chỉ được tổ chức ở Hà Nội<br />
và Hải Phòng. Đây được coi là hai trung tâm<br />
quy tụ nhiều bậc tài danh của giới cung văn<br />
nhà nghề. Nam Định là trung tâm lớn của tín<br />
ngưỡng Tứ phủ. Song, hát văn vốn là nghề<br />
kiếm sống của các cung văn. Do đó, đời sống<br />
kinh tế của họ phụ thuộc vào giới con nhang<br />
đệ tử - các ông đồng, bà đồng. Đây là mối quan<br />
hệ hữu cơ in đậm tính thị trường giữa cung<br />
văn và chân đồng - tức mối quan hệ giữa cung<br />
và cầu. Từ bao đời nay, thành phần chủ yếu<br />
của giới các chân đồng thường là tầng lớp tiểu<br />
thương, tiểu chủ - tầng lớp có đời sống kinh tế<br />
cao và khá ổn định trong xã hội. Theo đó việc<br />
ban tài phát lộc của những ông đồng, bà đồng<br />
ở các đô thị lớn bao giờ cũng đạt mức cao nhất<br />
trong các trung tâm tín ngưỡng Tứ phủ. Trong<br />
các cuộc thi ở Hà Nội, Hải Phòng khi đó, giới<br />
cung văn Nam Định tham dự rất đông. Từ sau<br />
cách mạng Tháng Tám (1945), thi hát văn được<br />
tổ chức thường niên ở Phủ Giầy (Nam Định).<br />
Có một quy định bất thành văn trong<br />
nghề, ai tài giỏi thì được giữ nhiều đền. Các<br />
vị chủ nhang đồng ở các đền phải chiêu mộ<br />
những cung văn tài giỏi về làm bởi lẽ “hát<br />
hay, đàn ngọt, phách giòn” luôn là một yếu tố<br />
quan trọng để thu hút các chân đồng. Thông<br />
thường họ lựa chọn những đền phủ nào có<br />
cung văn nổi tiếng để bắc ghế hầu Thánh. Mà<br />
cung văn muốn nổi tiếng thì phải cố chiếm lấy<br />
nhiều giải thi hát văn. Giải thi luôn được coi là<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
75<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
“chứng chỉ” danh giá của các nghệ sĩ. Do vậy,<br />
ngày xưa các cuộc thi hát văn thường được tổ<br />
chức hàng năm tại nhiều đền phủ khác nhau.<br />
Các thí sinh có thể thi mỗi năm một lần tại một<br />
đền. Bên cạnh đó, có nhiều thí sinh đã được<br />
giải ở đền này rồi, lại sang đền khác thi tiếp.<br />
Các cụ kể rằng xưa nếu cung văn không thi thì<br />
rất khó hành nghề, ít được mọi người mời vì<br />
không biết tới.<br />
Ban giám khảo cuộc thi hát văn thường<br />
gồm có ba vị, thông thường, đền nào tổ chức<br />
thi thì cung văn trưởng đền ấy phải đứng ra<br />
cầm trịch. Giám khảo là những người am hiểu<br />
Nho học, tinh thông nghề nghiệp. Họ nhất<br />
thiết phải biết lề luật hát văn để soạn thảo<br />
những bản văn thi, trong đó sắp đặt các điệu<br />
hát để sao cho thuận ngón đàn, câu hát và phù<br />
hợp với tính chất từng đoạn văn. Bản văn thi<br />
được viết bằng chữ Hán hoặc Nôm trên giấy<br />
bản, đóng thành nhiều quyển cho các thí sinh<br />
bốc thăm. Phần làn điệu âm nhạc của bản văn<br />
được giám khảo tự sắp đặt sao cho mỗi quyển<br />
một kiểu. Tên làn điệu được ghi bằng mực son<br />
ở bên lề từng đoạn thơ. Có thể gọi đó là sơ đồ<br />
âm nhạc của bản văn thi.<br />
Trong ban giám khảo, thủ nhang đồng và<br />
trưởng cung văn của bản đền là hai vị giám<br />
khảo quan trọng nhất. Họ bao giờ cũng là<br />
người có uy tín, đứng đầu một tổ chức phường<br />
hội trong tín ngưỡng Tứ phủ. Cần phải thấy<br />
rằng người thủ nhang đồng ở đây tuy không<br />
phải là cung văn nhưng là người rất am tường,<br />
sành sỏi về nghệ thuật hát văn. Hai người chia<br />
nhau nhiệm vụ trong ban giám khảo. Một<br />
người chấp bút ghi điểm cho thí sinh, còn<br />
người kia theo dõi quyển văn thi, tay cầm dùi<br />
gõ vào cái kiểng đồng để bắt lỗi. Vị giám khảo<br />
thứ ba thường là một cụ tiên chỉ am hiểu Nho<br />
học tại địa phương. Với nhiệm vụ cầm trống<br />
chầu, vị giám khảo thứ ba này tất phải là người<br />
sành nghe chầu văn. Ông ta sẽ gõ “tùng” vào<br />
mặt trống để điểm câu kết, còn gõ “cắc” vào<br />
tang trống để tính điểm thưởng cho thí sinh.<br />
Điểm cho thí sinh được tính bằng một hình<br />
khuyên (vòng tròn nhỏ) do vị giám khảo chấp<br />
76<br />
<br />
Số 8 - Tháng 6 - 2014<br />
<br />
bút vẽ bằng mực son vào tờ bảng điểm. Mỗi<br />
tiếng “cắc” sẽ được một khuyên thưởng.<br />
Nếu thí sinh phạm lỗi, vị giám khảo giữ cái<br />
kiểng sẽ gõ “boong” một tiếng bắt lỗi, vị giám<br />
khảo chấp bút sẽ trừ đi từ ba tới sáu khuyên<br />
thưởng của thí sinh. Các nghệ nhân kể rằng:<br />
Khi nghe tiếng kiểng bắt lỗi, nhiều thí sinh giật<br />
mình toát mồ hôi hột, phải một lúc mới lấy lại<br />
được bình tĩnh. Qua đó chúng ta có thể thấy<br />
được cuộc thi hát văn xưa thật quy củ, chặt chẽ<br />
và nghiêm túc.<br />
Trước các cuộc thi, ban giám khảo dán<br />
bảng thông báo, niêm yết danh mục các tên<br />
huý của thánh bản đền và Thành hoàng làng<br />
sở tại. Theo đó, các thí sinh phải xem xét chuẩn<br />
bị trước. Các từ ngữ phạm húy, cần phải đọc<br />
trại đi. Tiếng đọc trại phải lơ lớ gần với tên húy.<br />
Ví dụ “Sòng Sơn” đọc thành “Sùng San”, “Liễu<br />
Hạnh” đọc thành “Lão Hiện”, “Hưng Đạo” thành<br />
“Hưng Điệu”, “Thuỷ cung” thành “Thoải quan”...<br />
Cách đọc trại tên huý như thế nào hoàn toàn<br />
do bản đền quy định theo một kiểu thống<br />
nhất. Các thí sinh buộc phải tuân thủ, không<br />
được phép sáng tạo theo cách riêng. Trong các<br />
cuộc thi hát văn, phạm huý bị coi là một lỗi rất<br />
nặng. Khi đó, thí sinh dù có hát hay đến mấy<br />
cũng sẽ bị đuổi ngay ra khỏi cuộc thi.<br />
Ở đây, điều đáng lưu ý là quy chuẩn cuộc thi<br />
bắt buộc thí sinh phải vừa đánh đàn nguyệt,<br />
vừa hát. Nó được coi là một trong những chuẩn<br />
mực của một cung văn có đẳng cấp. Còn việc<br />
đánh phách giữ nhịp thì nhờ người thân trong<br />
nghề hoặc cũng có khi nhờ một người bạn thi<br />
cùng giúp đỡ. Theo các nghệ nhân, trong cuộc<br />
thi, vai trò người đánh phách thực ra cũng rất<br />
quan trọng. Bởi thường thì người đánh phách<br />
tỉnh táo hơn thí sinh dự thi nên khi cùng ngồi<br />
nhìn vào bản văn thi, đễn chỗ nào sắp chuyển<br />
làn điệu, họ sẽ dằn tay phách to hơn, “dõng<br />
dạc” hơn nhằm nhắc nhở người hát rằng “sang<br />
lối đấy, sang lối đấy”. Người trong nghề gọi<br />
kỹ thuật đó là “kiệu” người đàn. Bên cạnh đó,<br />
người đánh phách giỏi còn có thể phụ trợ,<br />
kích hoạt, nâng đỡ tiếng đàn, câu hát một<br />
cách đồng điệu bằng nhịp độ và lối phách của<br />
<br />