intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cân đối năng lượng và một số bệnh liên quan

Chia sẻ: 2ne1 2en1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

52
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thế nào là cân đối/cân bằng năng lượng? Khoa học Dinh dưỡng đã xác định cân đối năng lượng là phải hội đủ cả 4 yếu tố: Đủ nhu cầu năng lượng khuyến nghị theo lứa tuổi, giới và tình trạng sinh lí Nếu tính theo trọng lượng cơ thể thì nhu cầu năng lượng khuyến nghị (NCNLKN) cho trẻ em cao hơn hẳn người lớn. Do đó trẻ có ăn uống đủ nhu cầu năng lượng thì mới phát triển tốt cả thể lực và trí tuệ và đáp ứng được các nhu cầu vui chơi học tập; người...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cân đối năng lượng và một số bệnh liên quan

  1. Cân đối năng lượng và một số bệnh liên quan Thế nào là cân đối/cân bằng năng lượng? Khoa học Dinh dưỡng đã xác định cân đối năng lượng là phải hội đủ cả 4 yếu tố: Đủ nhu cầu năng lượng khuyến nghị theo lứa tuổi, giới và tình trạng sinh lí Nếu tính theo trọng lượng cơ thể thì nhu cầu năng lượng khuyến nghị (NCNLKN) cho trẻ em cao hơn hẳn người lớn. Do đó trẻ có ăn uống đủ nhu cầu năng lượng thì mới phát triển tốt cả thể lực và trí tuệ và đáp ứng được các nhu cầu vui chơi học tập; người lớn có đủ năng lượng mới đáp ứng được nhu cầu làm việc và cống hiến cho gia đình và xã hội. Viện Dinh dưỡng Bộ Y tế xác định NCNLKN dựa vào tuổi, giới, tình trạng sinh lý và mức độ lao động. Ví dụ NCNLKH cho trẻ 1-3 tuổi với cân nặng trung bình 14 kg là 1.180 Kcal/ngày; trẻ 4-6 tuổi, nặng trung bình 20 kg cần 1.470 Kcal và trẻ 7-9 tuổi nặng trung bình 27 kg cần 1.825 Kcal/ngày.
  2. Cân đối tỷ trọng của 3 chất dinh dưỡng sinh năng lượng P:L:G Tỷ trọng năng lượng (%) Protein (P):Lipid (L):Glucid (G) cho người Việt Nam hiện nay là 12-14:18-25:70-69.
  3. Năng lượng từ P là 12-14 %, nhưng cần đảm bảo số lượng (gam) P từ các thức ăn nguồn động vật đối với trẻ 1-3 tuổi cần phải chiếm ≥60% protein tổng số, với trẻ 4-9 tuổi ≥50% và với người lớn 30-35%. Nhu cầu năng lượng L cho người lớn nên hạn chế ở mức 18-25%, với năng lượng từ các acid béo no ≤10%, từ các acid béo không no (như linoleic, alpha-linolenic, decosahexaenoic,…) 4-10%. NCNL lipid cho phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ (15-49) là 20%, phụ nữ có thai/ cho con bú là 20-25%, có thể tới 30%. Ở trẻ em, do nhu cầu năng lượng cao để phát triển và hoạt động vui chơi, giải trí nên nhu cầu L rất cao, trẻ 6-11 tháng tuổi có thể đến 40%, trẻ 1-3 tuổi 35-40%. Năng lượng G chiếm 70-69%, phấn đấu giảm dần xuống Năng lượng tiêu hao: Hậu quả sẽ là Thừa cân/béo phì. Như vậy, ngoài đảm bảo nhu cầu chuyển hóa cơ bản để cơ thể tồn tại, cần phải ăn uống đủ năng lượng để trẻ phát triển, vui chơi, học tập tốt và người lớn làm việc, xây dựng gia đình và đất nước ngày càng giàu đẹp hơn. Cân đối năng lượng giữa các bữa ăn và sắp xếp thời gian ăn uống hợp lý Cần phân bố năng lượng hợp lý cho các bữa chính trong ngày, nên ăn nhiều vào bữa sáng (khoảng 40% năng lượng), ăn vừa phải vào bữa trưa (khoảng 30-35%), giảm ăn về chiều
  4. tối (khoảng 30-25%); Trẻ em cần được ăn uống đủ các bữa phụ theo lứa tuổi; Hạn chế ăn vặt và ăn uống vào ban đêm. Bệnh liên quan đến thiếu năng lượng: Suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng (Protein Energy Malnutrition – PEM). Bệnh được gọi chung là suy dinh dưỡng (SDD), thường xẩy ra khi chế độ ăn nghèo năng lượng, chất đạm và các vi chất dinh dưỡng, hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, biểu hiện ở 3 thể thiếu cân, thấp còi và gầy còm với nhiều mức độ, nhưng đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển thể chất, tinh thần vận động và trí tuệ của trẻ. Nguyên nhân SDD chủ yếu là do sai lầm về nuôi dưỡng khiến trẻ không được cung cấp đầy đủ năng lượng, các chất đạm, béo, bột đường, vitamin và muối khoáng. Suy dinh dưỡng còn do trẻ bị bệnh như viêm phổi, sởi, tiêu chảy, nhất là trẻ từ 6 tháng - 2 tuổi. Trẻ bị bệnh sẽ kém ăn, gây thiếu cả số và chất lượng các chất dinh dưỡng, dẫn đến SDD. Ngược lại, trẻ SDD thường bị suy giảm miễn dịch, rất dễ mắc các bệnh nhiễm trùng. Cách phát hiện SDD sớm là dựa vào cân nặng, chiều cao, vòng cánh tay của trẻ; Đơn giản nhất là dựa vào cân nặng trên biểu đồ: nếu đường nối các điểm ghi cân nặng hàng tháng của trẻ nằm trong kênh A và có chiều đi lên là trẻ phát triển bình thường; chiều nằm ngang hoặc đi xuống ở kênh B và kênh C là SDD thiếu cân vừa/ độ II và nặng/ độ III. Điều quan trọng là trẻ SDD thường bị thiếu máu, thiếu vi chất, đặc biệt là thiếu vitamin A gây khô mắt có thể dẫn đến mù vĩnh viễn. SDD hoàn toàn có thể điều trị khỏi nhưng cần phát hiện sớm. SDD nhẹ và vừa có thể điều trị ngay tại nhà bằng điều chỉnh chế độ ăn uống. Cần cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng. Nếu trẻ đang bú mẹ vẫn tiếp tục cho bú, bú kéo dài đến 2 năm. Tuỳ theo lứa tuổi mà cho trẻ ăn thêm bột, cháo nhưng phải chế biến với thịt hoặc trứng, đậu đỗ, dầu mỡ và các loại rau, hoa quả. Để điều trị phục hồi SDD vừa và nặng, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sử dụng các sản phẩm đặc biệt giầu năng lượng, protein và đa vi chất dinh dưỡng đồng thời cho uống vitamin A liều cao 1 liều duy nhất: Trẻ dưới 6 tháng 50.000 đơn vị; Trẻ từ 6 tháng - 1 tuổi 100.000 đơn vị; Trẻ trên 1 tuổi 200.000 đơn vị. Nếu trẻ vừa SDD vừa bị tiêu chảy, tuyệt đối không được cai sữa, không được cho trẻ kiêng. Nếu trẻ bị SDD rất nặng, nhất là khi bị bệnh nhiễm trùng kèm theo, phải được đưa đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế. Bệnh liên quan đến thừa năng lượng: Thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tăng huyết áp và các bệnh mạn tính không lây:
  5. WHO định nghĩa thừa cân (TC) là tình trạng vượt quá cân nặng nên có so với chiều cao, béo phì (BP) là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khỏe. Người BP ngoài thân hình phì nộn, nặng nề, khó coi... còn có nguy cơ mắc nhiều bệnh như rối loạn lipit máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, sỏi mật, xương khớp... và cả ung thư. Trẻ TC-BP dễ sớm mắc các bệnh mạn tính không lây như tăng huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, rối loạn lipid máu. Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng (2002) cho thấy trong số học sinh tiểu học TC-BP ở Hà Nội có 66,7% tăng triglycerid; 10,5% tăng cholesterol toàn phần; 5,7% tăng LDL-C và 5,7% giảm HDL-C, 16,6% tăng huyết áp, cao hơn nhiều so với trẻ bình thường. PGS. TS. Phạm Văn Hoan
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0