intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CẬP NHẬT VỀ NHIỄM HERPES SINH DỤC (GENITAL HSV INFECTIONS) (Kỳ 4)

Chia sẻ: Thuoc Thuoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

138
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quản lý bạn tình Bạn tình của người bị herpes sinh dục được hưởng lợi từ lượng giá và tư vấn.Các bạn tình có triệu chứng có thể được lượng giá và điều trị giống như người bị nhiễm herpes sinh dục. Các bạn tình không có triệu chứng của người nhiễm herpes sinh dục có thể được hỏi thêm về các tiền sử tổn thương đường sinh dục và thử nghiệm huyết thanh HSV chuyên biệt. Những tình huống đặc biệt *Dị ứng, bất dung nạp, phản ứng có hại Dị ứng và các phản ứng có hại khác xảy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CẬP NHẬT VỀ NHIỄM HERPES SINH DỤC (GENITAL HSV INFECTIONS) (Kỳ 4)

  1. CẬP NHẬT VỀ NHIỄM HERPES SINH DỤC (GENITAL HSV INFECTIONS) (Kỳ 4) oooOOOooo Quản lý bạn tình Bạn tình của người bị herpes sinh dục được hưởng lợi từ lượng giá và tư vấn.Các bạn tình có triệu chứng có thể được lượng giá và điều trị giống như người bị nhiễm herpes sinh dục. Các bạn tình không có triệu chứng của người nhiễm herpes sinh dục có thể được hỏi thêm về các tiền sử tổn thương đường sinh dục và thử nghiệm huyết thanh HSV chuyên biệt. Những tình huống đặc biệt *Dị ứng, bất dung nạp, phản ứng có hại Dị ứng và các phản ứng có hại khác xảy ra do acyclovir, valacyclovir, famciclovir thì rất hiếm. Giảm nhạy cảm với acyclovir đã được báo cáo.
  2. *Nhiễm HIV Tình trạng giảm miễn dịch của bệnh nhân có thể làm cho các đợt herpes ở vùng sinh dục, quanh hậu môn, miệng kéo dài hoặc nặng hơn. Các thương tổn của HSV thường gặp trên người nhiễm HIV và có thể nặng, đau và không điển hình.Liệu pháp kháng virus làm giảm tình trạng nặng và tần suất các triệu chứng của herpes sinh dục; liệu pháp ức chế hoặc liệu pháp theo chu kỳ với các chế phẩm kháng virus dùng đường uống có hiệu lực làm mất đi các triệu chứng lâm sàng của HSV trên người HIV dương tính. Một số nhà chuyên môn đề nghị thử nghiệm huyết thanh HSV chuyên biệt ở người nhiễm HIV dương tính, và liệu pháp ức chế được khuyến cáo cho những người nhiễm HSV-2. -Khuyến cáo liệu pháp ức chế dùng hàng ngày trên bệnh nhân nhiễm HIV: Acyclovir 400-800mg x 2-3 lần/ ngày (uống) hoặc Famciclovir 500mg x 2 lần/ ngày (uống) hoặc Valacyclovir 500mg x 2 lần/ ngày (uống) *Khuyến cáo liệu pháp theo chu kỳ trên bệnh nhân nhiễm HIV: Acyclovir 400mg x 3 lần/ ngày x 5-10 ngày (uống) hoặc Famciclovir 500mg x 2 lần/ ngày x 5-10 ngày (uống)
  3. hoặc Valacyclovir 1g x 2 lần/ ngày x 5-10 ngày (uống) Acyclovir, Valacyclovir, Famciclovir an toàn khi dùng cho bệnh nhân giảm miễn dịch với liều lượng được khuyến cáo để điều trị herpes sinh dục. Ở trường hợp HSV nặng, điều trị đầu tiên với acyclovir 5-10mg/kg IV mỗi 8 giờ là cần thiết. Nếu tổn thương vẫn tồn tại hoặc tái phát trên bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc kháng virus, HSV kháng thuốc cần được xác định, bệnh nhân cần được quản lý bởi một nhà chuyên môn về HIV, và điều trị xen kẽ cần được thực hiện. Các trường hợp kháng acyclovir sẽ dẫn đến kháng valacyclovir và nhiều nguy cơ kháng cả famciclovir. Foscarnet 40mg/kg IV mỗi 8 giờ dùng cho đến khi mất triệu chứng lâm sàng, có hiệu quả trong điều trị herpes sinh dục kháng acyclovir. Cidofovir gel 1% bôi tại sang thương mỗi ngày, liên tiếp 5 ngày có thể có hiệu quả. Herpes sinh dục ở phụ nữ có thai Đa số bà mẹ của các đứa trẻ mắc phải herpes sinh dục trong thời kỳ bào thai có rất ít bằng chứng về tiền căn và lâm sàng của herpes sinh dục. Nguy cơ lây truyền cho bào thai từ bà mẹ bị nhiễm rất cao (30-50%) ngay cả ở các bà mẹ mắc phải herpes sinh dục vào lúc gần sanh, và thấp ( < 1%) ở các bà mẹ có tiền sử herpes tái phát đã ổn định hoặc mắc phải herpes sinh dục trong nữa đầu của thai kỳ. Tuy nhiên, bởi vì herpes sinh dục tái phát phổ biến hơn nhiễm HSV trong nữa
  4. đầu của thai kỳ, tỷ lệ nhiễm HSV mắc phải trong thời kỳ bào thai từ bà mẹ bị herpes tái phát rất đáng kể. Dự phòng nhiễm herpes trong thời kỳ bào thai bao gồm dự phòng mắc phải herpes sinh dục trong cuối thai kỳ và tránh cho trẻ tiếp xúc với tổn thương herpes trong lúc sanh. Bà mẹ không biết về herpes sinh dục cần được tư vấn để tránh quan hệ với bạn tình nhiễm herpes sinh dục trong quí III của thai kỳ. Cũng tương tự, bà mẹ không biết về herpes môi-miệng cần phải tránh tiếp xúc tình dục bằng miệng với bạn tình nhiễm herpes môi-miệng trong quí III của thai kỳ. Một số chuyên gia tin rằng thử nghiệm huyết thanh chuyên biệt được dùng để xác định bà mẹ có thai có nguy cơ nhiễm HSV và tiến hành tư vấn để tránh nguy cơ mắc phải herpes sinh dục trong thai kỳ. Thử nghiệm này có thể được đề nghị cho bà mẹ không có herpes sinh dục mà họ có bạn tình nhiễm HSV. Hiệu quả của liệu pháp kháng virus làm giảm các nguy cơ lây truyền HSV cho bà mẹ có thai thì chưa được nghiên cứu. Tất cả bà mẹ có thai cần được hỏi kỹ về tiền sử herpes sinh dục, cần được khám cẩn thận về các triệu chứng của herpes sinh dục bao gồm triệu chứng tiền báo, các tổn thương herpes. Bà mẹ không có triệu chứng hoặc dấu hiệu của herpes sinh dục có thể sanh ngã âm đạo (deliver vaginally). Đa số các chuyên gia khuyến cáo các bà mẹ có herpes sinh dục tái phát khi sanh phải mổ bắt con (cesarean section) để phòng ngừa herpes cho thai nhi. Tuy nhiên, mổ bắt con thì không hoàn toàn loại trừ hết các nguy cơ lây truyền HSV cho trẻ.
  5. Độ an toàn của acyclovir, valacyclovir, famciclovir dùng đường toàn thân ở phụ nữ có thai thì chưa rõ. Một số dữ liệu thì khuyên không nên chỉ định vì làm tăng nguy cơ dị dạng bào thai ở phụ nữ điều trị acyclovir trong 3 tháng đầu thai kỳ. Kinh nghiệm về valacyclovir, famciclovir dùng lúc trước khi sanh cũng chưa đầy đủ. Acyclovir có thể dùng uống cho phụ nữ có thai bị herpes sinh dục đợt đầu tiên hoặc herpes tái phát nặng và có thể dùng đường tĩnh mạch cho bà mẹ có thai nhiễm HSV nặng. Điều trị bằng acyclovir muộn trong thai kỳ làm giảm tần suất mổ bắt con ở những bà mẹ có herpes sinh dục tái phát bởi vì làm giảm bớt số lần tái phát, đã được đa số chuyên gia khuyên dùng. Không có dữ liệu cung cấp cách dùng liệu pháp kháng virus ở bà mẹ có thử nghiệm huyết thanh HSV dương tính mà không có tiền căn herpes sinh dục. Nguy cơ nhiễm herpes là rất cao ở trẻ em có bà mẹ mắc phải herpes sinh dục trong giai đoạn muộn của thai kỳ, nên bà mẹ cần được tư vấn và quản lý bởi các chuyên gia. Một số chuyên gia khuyên dùng liệu pháp acyclovir trong tình huống này, một số chuyên gia khác thì lại thích dùng biện pháp mổ bắt con để làm giảm nguy cơ herpes trẻ sơ sinh, một số chuyên gia khác thì lại khuyến cáo cả hai. Herpes ở trẻ sơ sinh Đứa trẻ nhiễm HSV trong thai kỳ, cần lập lại các thử nghiệm virus học, theo dõi các tổn thương, tư vấn từ một chuyên gia. Một số chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ cần được cấy dịch tiết từ niêm mạc để phát hiện HSV trước khi thấy phát sinh các dấu hiệu lâm sàng của herpes trẻ sơ sinh. Thêm vào đó, một số chuyên gia
  6. khuyên dùng acyclovir cho trẻ sanh ra từ bà mẹ mắc HSV gần ngày sanh bởi vì nguy cơ nhiễm herpes của trẻ rất cao. Tất cả những đứa trẻ bị herpes trẻ sơ sinh có thể được lượng giá và điều trị bằng acyclovir đường toàn thân. *Chế độ khuyến cáo: Acyclovir 20mg/kg thể trọng IV mỗi 8 giờ: +Dùng 21 ngày: ở bệnh lý lan tỏa, bệnh lý thần kinh trung ương; +Dùng 14 ngày : nếu bệnh lý chỉ giới hạn ở da, niêm mạc. (Lược dịch từ: Sexually Transmitted Diseases Treatment Guidelines, CDC 2006)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1