Chǎm sóc ban đầu cho vận động viên - K. Bert Fields
lượt xem 19
download
Chǎm sóc ban đầu cho vận động viên K. Bert Fields Bắt đầu từ những nǎm 1970, số vận động viên (VĐV) tham gia tập luyện các môn thể thao như bơi, chạy, tennis, thể dục nhịp điệu, xe đạp và bóng bàn đã đạt con số kỷ lục. Hiện nay cứ 3 người dân Mỹ thì có 1 người tập luyện thể dục hàng ngày. Cũng lúc này thì các hoạt động thể thao của nữ thanh, thiếu niên và thiếu nhi cũng phát triển đáng kể. Số lượng học sinh nữ trong các trường Trung học tham gia các...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chǎm sóc ban đầu cho vận động viên - K. Bert Fields
- Chǎm sóc ban đầu cho vận động viên K. Bert Fields Bắt đầu từ những nǎm 1970, số vận động viên (VĐV) tham gia tập luyện các môn thể thao như bơi, chạy, tennis, thể dục nhịp điệu, xe đạp và bóng bàn đã đạt con số kỷ lục. Hiện nay cứ 3 người dân Mỹ thì có 1 người tập luyện thể dục hàng ngày. Cũng lúc này thì các hoạt động thể thao của nữ thanh, thiếu niên và thiếu nhi cũng phát triển đáng kể. Số lượng học sinh nữ trong các trường Trung học tham gia các hoạt động thể dục thể thao đã tǎng lên một cách đáng ngạc nhiên: trong những nǎm 70 bằng 700% so với thập kỷ trước. Hiện nay, trừ số lượng những người tham gia tập luyện ở các lớp giáo dục thể chất còn có khoảng trên 25 triệu trẻ em Mỹ tham gia tập luyện trong các tổ chức thể thao. Chắc chắn rằng xu hướng phát triển thể thao cũng gắn liền với sự tǎng chấn thương trong thể thao. Bác sĩ gia đình khám và đánh giá chấn thương cho VĐV ở mọi lứa tuổi. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, các bác sĩ gia đình cần hiểu rõ: a. Vai trò của kiểm tra trước khi tập luyện. b. Phương pháp đánh giá và xử trí các chấn thương trong thể thao. c. Quan hệ giữa thể thao, huấn luyện, điều trị và phục hồi chấn thương. Chương này sẽ tháo luận những vấn đề trên. Kiểm tra sức khỏe trước khi tập luyện thể thao Mục tiêu chủ yếu của kiểm tra trước tập luyện trong các trường phổ thông là dể làm giảm những nguy cơ đặc hiệu trong thi đấu (hơn là phát hiện các bệnh tật).
- Kiểm tra trước cần phải được tiến hành như một cuộc thǎm khám chuẩn xác của bác sĩ đối với bệnh nhân. Các cuộc kiểm tra sức khỏe hàng loạt tại nhiều cơ sở khác nhau không cho phép phát triển mối quan hệ gần gũi giữa bác sĩ và VĐV. Sự riêng tư không chỉ thể hiện sự tôn trọng đối với các VĐV trẻ mà còn tạo cơ hội cho những câu hỏi nhạy cảm. Tiền sử: Các nghiên cứu luôn cho thấy rằng việc khai thác tiền sử bệnh cung cấp lượng thông tin chẩn đoán rất lớn trong khi khám trước tập luyện. Những thông tin cơ bản để đánh giá nguy cơ có thể xảy ra trong khi chơi thể thao thường có thể được xác định qua các câu hỏi ở bảng 11.1. Bảng 11.1: Các câu hỏi chủ chốt để hỏi trong kiểm tra trước tập luyện. Câu hỏi Nguy cơ 1. Có ai trong gia đình VĐV ( ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) Bệnh lý tim mạch đột tử trước tuổi 50 không ? 2. Có bao giờ VĐV bị ngất trong khi tập hoặc phải ngừng Bệnh lý tim mạch tập do chóng mặt không? 3. VĐV có bị hen ( khò khè) , sốt viêm mũi dị ứng, ho sau Hen gắng sức luyện tập không? 4. VĐV đã bao giờ bị gãy xương, mang nẹp bột, hoặc Chấn thương cơ xương chấn thương khớp chưa? 5. VĐV có tiền sử bị chấn động não ( bị nốc ao) không? Chấn thương thần kinh 6. Đã bao giờ VĐV bị say nóng chưa( Bệnh liên quan tới Bệnh liên quan tới sức nóng sức nóng )?
- 7. VĐV có điều gì cần nói với bác sĩ không? Thói quen có hại cho sức khỏe/ hoạt động tình dục 8. VĐV có bị bệnh gì mãn tính không hoặc có thường Các bệnh lý chung xuyên phải đến gáp bác sĩ vì vấn đề sức khỏe đặc biệt gì đó không? 9. VĐV có dùng thuốc gì không? Các bệnh lý chung 10. VĐV có bị dị ứng với thuốc gì hay ong đốt không? Các bệnh lý chung 11. VĐV có bị mất một tạng nào trong những tạng đôi Các bệnh lý chung không (mắt, tai, thận, tinh hoàn , buồng trứng...)? Các câu hỏi này sàng lọc được những tình trạng bệnh lý nghiêm trọng có thể gây đột tử như phì đại cơ tim hoặc say nóng. Các câu hỏi này cũng xác định các vận động viên có nguy cơ do những vấn đề chung như hen do tập quá sức hoặc chấn thương đã được điều trị không thích hợp. Đối với mỗi câu trả lời dương tính cần hỏi kỹ hơn. Khám thực thể: Trong thǎm khám ngắn trước luyện tập, cần phải phát hiện 3 vấn đề bất thường rất phổ biến là: Huyết áp cao, tiếng thổi tim và vấn đề có liên quan đến chỉnh hình - đặc biệt là những bất thường ở đầu gối. Cần tập trung đánh giá thêm những chi tiết đã phát hiện ở phần hỏi tiền sử, bao gồm những vùng giải phẫu dễ xảy ra chấn thương có liên quan đến môn thể thao VĐV sẽ tham gia. Các test trong phòng thí nghiệm (ví dụ như phân tích nước tiểu) ít có tác dụng để phát hiện vận động viên nào có nguy cơ cao trong khi chơi thể thao và thường cho kết quả dương tính giả. Khuyến nghị và theo dõi: Sau khi khám thực thể, mức độ tham gia của bệnh nhân sẽ được quyết định. Có thể bệnh nhân sẽ chỉ được tham gia chơi một số môn thể
- thao cụ thể nào đó hoặc được tham gia chơi tất cả các môn thể thao; Có thể phải khám lại sau khi có những test chẩn đoán đặc biệt, phục hồi chức nǎng hoặc điều trị hoặc bị loại ra khỏi các cuộc luyện tập. Theo các nghiên cứu chỉ có khoảng 1% các VĐV đáng bị loại. Phần lớn các VĐV muốn và cần được gợi ý về một sự lựa chọn khác khi có quyết định của y học là không được tham gia chơi thể thao. Các bác sĩ nên có nhiều hướng dẫn cho việc theo dõi họ tiếp theo. Hầu hết các bang yêu cầu đánh giá trước sức khỏe của VĐV hàng nǎm. Những hướng dẫn này cho phép người bác sĩ có thể nắm được tình trạng chấn thương xảy ra với VĐV trong nǎm trước; cập nhật được những thay đổi về sức khỏe của VĐV ; tiếp tục xây dựng mối quan hệ với VĐV và sàng lọc lại được những hành vi có nguy cơ cao. Người bác sĩ nên có các hình thức khám đặc hiệu cho mỗi một thương tích có ý nghĩa hay một vấn đề mới nảy sinh nào đó về sức khỏe. XáC ĐịNH NGUYÊN NHÂN CHấN THƯƠNG THể THAO Các môn thể thao khác nhau có những nguy cơ chấn thương khác nhau. Ví dụ như các môn thể thao tương đối an toàn như bắn cung hoặc bóng bàn thì tỷ lệ chấn thương là 2-5% tổng số VĐV trong một mùa giải. Chạy cự ly dài, các môn thể thao không va chạm, đòi hỏi sự luyện tập cǎng thẳng và gây ra tỷ lệ chấn thương hàng nǎm là 50-60%. Các môn thể thao trong đó xảy ra nhiều va chạm như bóng đá, vật, bóng bầu dục có tỉ lệ chấn thương trong một mùa giải lên tới 60-80%, trong đó 25% VĐV bị chấn thương nặng. Bảng 11.2 cho ta thấy tỷ lệ chấn thương ở các môn thể thao khác nhau. Bảng 11.2: So sánh tỉ lệ chấn thương ở một số môn thể thao Chấn thương trong 100 VĐV Môn TT Tổng số CT Kéo dài > 5 ngày
- Bóng chày (con trai) 19 4.5 Bóng rổ (con trai) 31 7.4 Bóng đá (con trai) 81 25.1 Các môn điền kinh (con 33 12.5 trai) Các môn điển kinh (con 35 17.5 gái) Vật (con trai) 75 26.3 Theo Sullivan JA, Grana WA; The Pediatric Athlete, Park Ridge, IL, Academy of Orthopedic Surgeon, p 1 25. Vì bác sĩ gia đình điều trị các VĐV bị chấn thương của nhiều môn thể thao nên họ phải có một hệ thống xếp loại chung để giúp cho việc chẩn đoán định hướng và điều trị. Nghiêm trọng nhất là các chấn thương đe doạ sự sống, may thay loại này lại hiếm gặp. Các loại khác là chấn thương lớn (macrotrauma) và các vi chấn thương (microtrauma). Các chấn thương lớn bao gồm sự đứt đoạn đột ngột các cấu trúc giải phẫu (ví dụ như trật khớp vai). Các vi chấn thương hay xảy ra hơn và liên quan đến sự lặp đi lặp lại những vi đứt đoạn các cấu trúc giải phẫu. (ví dụ Viêm gân Achilles). Đó là các chấn thương do quá tải (overuse injuries), và các bác sĩ có thể phát hiện nguyên nhân đặc hiệu. Chấn thương lớn thường là các chấn thương đòi hỏi cần có sự đánh giá và điều trị khẩn cấp. Ví dụ như trong trường hợp trật khớp vai thì chẩn đoán và điều trị rất dễ trước khi có sự co cơ phản ứng. Phát hiện sớm chấn thương dây chằng thập trước đầu gối cho phép bảo vệ tổn thương chỉ ở mức rách một phần, qua đó giúp
- cho VĐV không phải trải qua cuộc đại phẫu phục hồi dây chằng bị đứt hoàn toàn. Các gãy xương chỉ bắt đầu liền sau khi bất động. Tương tự như vậy, việc thực hiện các thủ thuật như nẹp bất động, chườm đá và nâng cao chân giảm sưng nề trong trường hợp bong gân khớp gối để cho quá trình phục hồi chức nǎng có thể được bắt đầu. Mỗi khi phát hiện được chấn thương lớn, người bác sĩ gia đình nên sơ cứu hoặc chuyển lên tuyến trên kịp thời. Chấn thương nhỏ không mang tính khẩn cấp và cho phép bác sĩ có thời gian đánh giá một cách cẩn thận. Việc điều trị tập trung vào mục đích chủ yếu là đưa VĐV được quay trở lại tập luyện thể thao nhanh chóng và an toàn. Các yếu tố tạo điều kiện (tố bẩm) Một yếu tố khác cần ]ưu ý đến trong đánh giá các chấn thương trong thể thao là các yếu tố giải phẫu hoặc các đặc tính riêng của môn thể thao gây ra chấn thương. Ví dụ như bệnh "Little League Elbow" là một chấn thương thể thao đặc hiệu chí xảy ra ở VĐV bóng chày trẻ mà ở VĐV này trung tâm cốt hoá của mỏm xương giữa chưa hợp nhất được. Stress vẹo ra ngoài của động tác ném bóng vòng cung làm tổn hại đến trung tâm cối hoá và gân đau. Các bác sĩ không thể làm thay đổi được xu hướng phát triển của khuỷu tay khi có ảnh hưởng của stress vẹo ngoài luôn lặp lại, nhưng các bác sĩ có thể gợi ý cho các VĐV chưa dậy thì thay đổi các hoạt đọng thể thao sao cho họ chỉ có thể có một số lần xác định chơi bóng chày trong một tuần. Một vài loại chấn thương chỉ xảy ra trước hết ở một số môn thể thao xác định. Ví dụ Hội chứng ép nén xương bánh chè-đùi (Patellofemoral Stress Syndrome - PFSS) đi từ chứng đau thông thường nhất, xảy ra ở các môn thể thao như chạy cự ly dài, đua xe đạp và ballet nhưng hiếm khi xảy ra ở các môn như bơi, bóng chày hoặc bóng rổ. Như vậy, PFSS là hội chứng quá tải thường xảy ra ở những môn thể thao sức bền. Nói một cách khác, những bệnh nhân có cơ tứ đầu đùi yếu (các bó
- cơ xếp không thẳng hàng) rất dễ bị PFSS khi chơi bất cứ môn thể thao nào. Nói chung các môn thể thao sức bền và những môn thể thao hoạt động mạnh thường thể hiện những hình thái chấn thương khác nhau. Tương tự như vậy, các môn thể thao không mang trọng lượng như bơi, lặn, đua xe đạp thì tỉ lệ va chạm thấp hơn các môn thể thao có mang trọng lượng, nhưng các VĐV này thường có các chấn thương liên quan đến hoạt động cơ, ví dụ như giãn dây chằng lưng. Bảng 11.3 chỉ cho chúng ta thấy một số loại chấn thương hay gặp ở 5 môn thể thao. Bảng 11.3: Các chấn thương hay gặp ở 5 môn thể thao Chạy cự ly dài Viêm gân Achille Nhuyễn sụn xương bánh chè Nhức xương bàn chân Viêm cân mạc bàn chân Gãy xương do sức nén Hội chứng dải chậu-chày Hội chứng hình lê Viêm gân chày sau Bóng đá Chấn thương da Chấn động não Bong gân cổ chân bên
- Viêm gân Achille Chấn thương sụn chêm (50% các cầu thủ chuyên nghiệp) Rách dây chằng liên hợp đầu gối Rách dây chằng chữ thập trước Rách cơ tứ đầu, gân kheo và cơ dạng Bóng rổ Chấn thương da Dãn dây chằng cung Gãy xương do sức nén Bong gân cổ chân và gãy xương Viêm gân Achille Va giập Bệnh đầu gối của người nhảy Dãn dây chằng chày trước Viêm mào chậu và bệnh Osgood-schlatter ở thiếu niên Viêm gân cơ quay Tennis Rách cơ quay ( VĐV già hơn)
- Khuỷu tay tennis "Chân tennis" - Đứt đầu giữa của cơ bụng chân hoặc cơ gan chân gãy. Giãn dây chằng phần lưng trên Cǎng cơ thẳng to Viêm gân Achille và đứt Bong gân cổ chân Bóng chày Đấu thủ trưởng thành Viêm cơ quay vai Co kéo lồi mổm khuỷu Đứt dây chằng liên hợp giữa Bệnh thần kinh trụ Đấu thủ trẻ tuổi Little league shoulder Little league elbow Co kéo lồi mỏm khuỷu Bệnh thần kinh trụ Viêm xương sụn tách lồi cầu xương cánh tay
- Chấn thương do chạy/trượt Bong gân cổ chân hoặc gãy Xây xước hoặc đụng dập Bong gân hoặc gãy cột sống cổ Dãn dây chằng khoeo Các chấn thương xảy ra trong hầu hết các môn thể thao thường hên quan tới vùng giải phẫu yếu. Bong gân cổ chân là một ví dụ điển hình ( Xem chương 44 về chấn thương cổ chân). Đó là những chấn thương thường gặp nhất trong bóng đá, bóng rổ. Mắt cá chân là nơi có rất ít cơ nâng đỡ để tạo nên sự vững chắc của nó; vì vậy tính vững chắc của nó phụ thuộc vào khớp xương, bao khớp, và 4 dây chằng. Đối với động tác gập về mu hoặc gập về lòng thì cổ chân thực hiện rất dê dàng. Dây chằng delta ở mặt giữa làm vững chắc và hạn chế có hiệu quả sự vặn ngược của cổ chân, nhưng dây chằng bên nhỏ hơn, không thể chịu được lực vặn ngược một cách hiệu quả. Vì vậy, bong gân do lực vặn ngược chiếm tỷ lệ rất lớn (90%). Nhão dây chằng (có thể phát hiện qua thǎm khám trước thi đấu) là yếu tố làm tǎng nguy cơ chấn thương. Xác định cơ chế chấn thương Hiểu biết về cơ chế sinh học sẽ cho phép chúng ta giải thích sự xuất hiện các chấn thương đặc hiệu. Bất cứ yếu tố nào làm tǎng stress cũng có thể làm tǎng nguy cơ xảy ra chấn thương. Ví dụ, ở VĐV sức bền mỗi ngày xương bánh chè phải trượt nhẹ nhàng trong rãnh bánh chè hàng nghìn lần. Thậm chí một thay đổi rất nhỏ của chuyển động bình thường, đơn cử như ở VĐV mà các bó cơ tứ đầu đùi sắp xếp không thẳng hàng (góc Q quá lớn) thì rất dễ gây ra hội chứng nén ép bánh chè-đùi. Khớp yếu do bị chấn thương cũ hoặc cổ chân không được phục hồi tốt rất dễ bị các chấn thương nặng.
- ở VĐV chạy luôn có nguy cơ tái phát tình trạng viêm gân Achille trong giai đoạn huấn luyện tốc độ quá mức hoặc huấn luyện trên đồi. Tại sao cả hai loại hình huấn luyện trên đều làm nặng thêm tổn thương gân Achille trong khi chạy chậm với đoạn đường dài hơn lại có thể không xảy ra hiện tượng trên. Câu trả lời là ở chỗ: Cơ có xu hướng bị rách tại chỗ nối gân - cơ trong pha co cơ lệch tâm. Co cơ lệch tâm có nghĩa là cơ được co chặt lại đồng thời tǎng độ dài. Vì vậy, trong khi VĐV chạy trên đồi gót chân của chân sau rơi xuống tiếp xúc mặt đất tạo áp lực tối đa ép gân Achille. Cơ chế trong giai đoạn huấn luyện tốc độ cũng lương tự: bàn chân phải chịu áp lực gấp tối đa về phía mu trước khi rời đất. Chạy chậm và mặt đất bằng phẳng hơn không xảy ra cơ chế sinh cơ học như vậy. Hiểu được cơ chế của chấn thương là điều kiện rất thuận lợi cho điều trị, trường hợp khuỷu tay tennis" là một ví dụ. Bình thường trong môn tennis cú ve trái rất hay được sử dụng. Sự di chuyển của thân mình nhịp nhàng với chuyển động của vợt cho phép VĐV đánh bóng với lực tương đối mạnh. áp lực gây ra bởi va chạm giữa bóng và đầu vợt truyền thẳng qua cánh tay VĐV tới thân mình và làm phân tán áp lực. Nếu cánh tay VĐV lùi lại sau mặt phẳng cơ thể thì áp lực lại chủ yếu được chuyển tới khoang cơ duỗi khuỷu. Sự lặp đi lặp lại áp lực dẫn đến các vết rách vi thể và viêm lồi cầu bên. Sử dụng nẹp cẳng tay, các bài tập phục hồi các cơ duỗi và các thuốc giảm đau chống viêm sẽ làm giảm các triệu chứng bệnh, đồng thời VĐV phải điều chỉnh động tác ve trái sao cho đúng kỹ thuật. ĐáNH GIá BệNH NHÂN Bị CHấN THƯƠNG TáI PHáT Khi VĐV bị chấn thương, vai trò của các bác sĩ là phải đánh giá được các nguyên nhân có thể gây ra chấn thương, chẩn đoán và đưa ra các lời khuyên diều trị. Trong khi đánh giá, sử dụng câu hỏi kết thúc mở, câu hỏi lấy bệnh nhân làm trung tâm. Điều này giúp các bác sĩ phát triển được mối quan hệ với VĐV và dễ dàng khai thác những vấn đề riêng tư như trục trặc gia đình, suy nhược hoặc rối loạn tính cách. Thông thường các bác sĩ không cho VĐV tham gia thi đấu để giữ cho
- họ tình trạng ổn định về tâm lý và giảm bớt áp lực thi đấu đến khi VĐV trở nên khá hơn. Việc ghi chép lịch sử huấn luyện một cách kỹ lưỡng sẽ là đầu mối để xem xét VĐV có thường bị chấn thương do quá sức hay không. Các huấn huyện viên giàu kinh nghiệm đưa ra quy tắc 50:20:4, xác nhận rằng 50% VĐV tǎng cường 20% lượng vận động hoặc hơn trong mỗi tuần (hơn là 10% hay ít hơn như đã khuyên) sẽ bị chấn thương trong vòng 4 tuần. Tập luyện quá nhiều thì một điều rõ ràng là cơ dễ bị mệt mỏi và VĐV tǎng nguy cơ gây cǎng thẳng, bong gân, và thỉnh thoảng có thể là các chấn thương nghiêm trọng hơn. Phục hồi chấn thương là phần xung yếu trong tiền sử. Cần nhớ rằng các chấn thương thông thường nhất là chấn thương tái phát. Nếu VĐV bị chấn thương khớp trước đó thì cần hỏi khớp đó đã bị chấn thương ra sao và VĐV đã được phục hồi chức nǎng lượng thời gian bao lâu. Cơ có tác dụng bảo vệ rất mạnh cho khớp khỏi chấn thương, nếu VĐV không phục hồi được tới hoặc hơn 90% sức cơ bình thường thì nguy cơ chấn thương sẽ tǎng lên. "Nghiện tập luyện thể thao" là nói về VĐV không muốn ngừng tập luyện. Ngược với logic là phải giảm tập luyện trong thời gian chấn thương thì các VĐV này lại có thể tǎng cường hoạt động bằng nỗ lực của họ. Chấn thương trở thành đối thủ của họ và họ tấn công chống lại nó, dẫn tới các chấn thương trầm trọng hơn hoặc làm cho các tổn thương nhỏ trở thành mãn tính. Đến khi các bác sĩ can thiệp điều trị thì thường không có kết quả. Các yếu tố bên ngoài và môi trường cũng có thể góp phần vào các nguy cơ chấn thương và nên được khai thác trong tiền sử. Chủng loại và tình trạng của các phương tiện bảo vệ, giày, chạy hoặc làm việc ngoài trời và điều kiện sân bãi có thể góp phần gây ra những chấn thương đặc thù. Trong điều kiện khí hậu nóng-ẩm, mệt mỏi xảy ra nhanh hơn và nguy cơ chấn thương tǎng lên với tình trạng VĐV bị
- kiệt sức. Còn trong điều kiện khí hậu lạnh thì quá trình điều nhiệt làm ấm cơ xảy ra chậm trễ và dễ xảy ra các chấn thương theo kiểu giãn dây chằng. Đánh giá về mặt tâm lý của VĐV cũng quan trọng. Sức ép tâm lý do huấn luyện viên, gia đình và bản thân VĐV. ở tuổi vị thành niên thường có nhiều thay đổi và lòng tự trọng bị tổn thương khi thành lích tụt xuống. Các VĐV tự cho mình là giỏi bởi những thành tích thể thao thì khi phải đối đầu với những lúc tự buộc tội mình có thể dẫn tới trầm cảm. Những VĐV có tố chất mạnh mẽ có thể không kiên nhẫn cố gắng thi đấu khi chấn thương và dẫn tới những vấn đề tồi tệ hơn. Các VĐV thi đấu dể làm hài lòng cha mẹ có thể không hiểu rằng trong thâm tâm họ không muốn thi đấu và các triệu chứng chấn thương trở thành một lối thoát. Tiền sử về ǎn uống có thể cung cấp các thông tin quan trọng về nguyên nhân có thể gây ra một số chấn thương. Các VĐV sức bền vì muốn giữ cho cơ thể nhẹ nhàng nên thường ǎn ít Calo hơn nhu cầu. Kết quả là cơ thể thiếu nǎng lượng và quá trình dị hoá dẫn đến phá huỷ cơ và chấn thương do va chạm. Thói quen dinh dưỡng thiếu chất, thói quen ǎn uống kỳ quặc, và sử dụng thêm các chất như mật ong, men rượn bia và các axit amin thiết yếu thường dẫn tới xao nhãng nhu cầu dinh dưỡng. Vì có rất nhiều VĐV nghe hoặc xem những chương trình quảng cáo khắc hoạ các vận động viên ngôi sao mời chào về một số loại thức ǎn thêm hoặc vitamin nên các bác sĩ phải loại trừ khái niệm rằng một số chế độ ǎn bổ sung sẽ đưa ai đó tới chức vô địch. Trong khi các chế độ ǎn chay có thể cung cấp một cách thích hợp mọi nhu cầu cho tập luyện, thì các bữa ǎn chay tự nấu có thể không đáp ứng đủ tổng nhu cầu protein. Vì vậy, nhiều VĐV có lợi khi được các nhà dinh dưỡng xem xét và cố vấn cho họ về chế độ ǎn. Các yếu tố nguy cơ khác: Mặc dù có sự đòi hỏi về mặt thể chất dối với các môn thể thao, các VĐV thường dính líu vào các hành vi có nguy cơ cao cho sức khỏe. Thực tế, các VĐV cũng như là các đồng nghiệp của họ thường có uống rượu, quan hệ tình dục không bảo vệ, lái xe không đeo dây an toàn hoặc một số hành vi có
- nguy cơ cao khác. Hơn nữa, VĐV hay sử dụng một số thuốc mà ở người cùng nhóm tuổi ít dùng (ví dụ như steroid tǎng đồng hoá). Bảng 11.4 chỉ ra một số loại thuốc mà các VĐV các trường hợp thường dùng. Bảng 11.4 : Tỷ lệ sử đụng ma tuý trong số 1200 VĐV đại học Phần trǎm sử dụng Thuốc Rượu 62 Marijuana (cần sa) 22 Cocain 7 Amphetamin 6 Thuốc an thần 2 Steroid tǎng đồng hoá 2 Thuốc gây ảo giác 1 Heroin 0.1 Theo Scheineider Rc, Kenedy JC, Plant ML; Sports injuries: Mechanisms. Prevention and Treatment. Baltimore, Wiliam & Wilkins, 1985, trang 632- 635. Quan sát trực tiếp ở VĐV có những dấu hiệu như khỏe hơn, tǎng cân, thay đổi thái độ cư xử hàng ngày hoặc thay đổi tác phong học tập, có thể gợi ý cho các bác sĩ gia đình hỏi về những thuốc mà VĐV đã dùng như steroit tǎng đồng hoá, dẫn chất của testosteron, amphetamin và cocain. Các VĐV ít khi tự nguyện nói ra những hoạt động bất hợp pháp của họ mà thường chỉ tâm sự với những bác sĩ làm việc rất
- gần gũi với đội tuyển của họ. Chú ý đến những thay đổi về hành vi hoặc thể chất và đề xướng một cuộc trao đổi là những kỹ nǎng quan trọng của người bác sĩ. Bảng 11.5 nêu một số triệu chứng là manh mối của việc nghi ngờ sử dụng thuốc. Bảng 11.6 chú trọng đến một số dấu hiệu và triệu chứng có thể xác định được việc sử dụng steroid tǎng đồng hoá. Bảng 11.5: Các dấu hiệu thực thể và những thay đổi hành vi gặp trong sử dụng ma tuý. Triệu chứng thực thể Những thay đổi hành vi Sụt cân không rõ nguyên nhân Giảm thành tích học tập Kích thích mắt Nóng nẩy Nhịp tim nhanh trước vận động (nhiều VĐV Dạng Paranoia hoặc những hành động đáng bị mất chứng nhịp tim chậm của VĐV) ngờ Kích thích mũi Thay đổi khẩu vị Co đồng tử Khó ngủ Các dấu hiệu bồn chồn Uể oải (mất tính linh hoạt bình thường) Mất khả nǎng thực hiện công việc hoặc chậm chạp Luôn cần tiền Bảng 11.6 Dấu hiệu và triệu chứng khi sử dụng Steroid tǎng đồng hoá
- ứ dịch Tǎng cân Teo tinh hoàn Rậm lông Trứng cá Trầm tiếng Kích thích Hung hãn Giảm khoái cảm tình dục Ǎn ngon miệng Trong khi các VĐV hút thuốc ít hơn so với dân số chung thì một số nghiên cứu lại chỉ ra là có 6% VĐV vẫn sử dụng thuốc lá bằng cách hút, hít hoặc nhai. Các VĐV khi bắt đầu sử dụng các sản phẩm thuốc lá có thể là vì sức ép của các bạn cùng lứa. Phần lớn họ nhận thức được những thói quen này có ảnh hưởng tiêu cực đối với thành tích của họ và có thể đáp ứng với sự giúp đỡ của các bác sĩ. Tình bạn giữa các thành viên trong đội có thể phát triển được một nhóm bạn mới ngǎn cản việc sử dụng thuốc lá. Hành vi tình dục mạo hiểm ít khi làm nản lòng VĐV. Sinh hoạt tình dục bừa bãi của các VĐV chuyên nghiệp và các tấm ảnh trên báo chí về những phụ nữ khêu gợi xúm vào các VĐV ngôi sao giầu có, góp phần cho nhận thức rằng hành vi của họ đem lại ít hậu quá. Sự thừa nhận mới đây về HIV dương tính của một trong số
- các VĐV quốc gia nổi tiếng nhất đã giúp truyền đi một thông điệp khác. Sinh hoạt tình dục lành mạnh, bao hàm cả việc kiêng cữ tình dục đối với các VĐV thanh thiếu niên, là những đối tượng có những điều kiện về thể chất và tâm lý rất mạnh mẽ đối với tình dục sẽ là những thử thách khó khǎn gấp đôi. Cần có những mô hình tích cực hơn để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiêng cữ hoặc an toàn tình dục. Những trường hợp sau minh hoạ tính cần thiết của việc khai thác, đánh giá sâu hơn nữa các hệ thống cơ quan khác ngoài hệ thống cơ xương khi đánh giá chấn thương ở VĐV. Ví dụ trường hợp Kristy Kristy, là một VĐV của trường trung học, thường phải đến thầy thuốc gia đình vì chấn thương. Cô đã từng rất khỏe mạnh, có một cơ thể tuyệt vời và dường như là một VĐV được quan tâm nhất, được coi như là một món quà tặng của thiên nhiên. Cô là nhà vô địch quốc gia của môn chạy vượt rào và đã thi đấu xuất sắc trong một số cuộc đua khác. Chấn thương của cô thường rất khó xác định khi thǎm khám lâm sàng và không có biểu hiện bất thường về thực thể. Điển hình nhất là cô thường phàn nàn bị đau cơ, giãn cơ trong ngày mới trở lại luyện tập. Nhằm nghiên cứu kỹ chấn thương của Kristy, bác sĩ gia đình đã đến xem hai buổi tập của cô và tìm hiểu rõ nguyên nhân tái phát chấn thương. Cha của Kirsty cũng luôn tham gia các buổi tập cũng như thi đấu của cô. Ông ta luôn luôn lớn tiếng phê bình và chống lại những hướng dẫn của huấn luyện viên. Sau khi các VĐV khác đã về nghỉ, cha của Kristy thường bắt cô tập thêm vượt rào hoặc chạy nước rút. Chỉ khi Kristy bị chan thương thì cô mới được giải thoát khỏi áp lực đó. Bác sĩ gia đình đã tóm tắt những điều ông đã biết được về Kristy thông qua việc thǎm khám trước thi đấu trong biểu đồ và thầm đánh giá những yếu tố quan trọng trong sự hiểu biết về chấn thương của VĐV.
- Khi xem xét lại những chấn thương của Kristy thì bác sĩ gia đình thấy cô thường bị chấn thương vào những ngày mà ngày trước đó cô đã bị thất bại trong thi đấu. Ngược lại, sau những ngày giành được chiến thắng thì mặc dù có đau đôi chút nhưng cô vẫn có thể vượt qua mà không gặp khó khǎn gì. Những thông tin thêm về gia đình của Kristy cho thấy quan hệ của cha mẹ cô không được tốt đẹp cho lắm và hoạt động của gia đình hoàn toàn tập trung vào con cái. Bố của Kristy đã từng là VĐV chạy của trường trung học cũng như đại học, và thành tích của ông cũng chỉ ở mức trung bình. Sự tham gia của ông vào sự nghiệp của Kristy có thể phản ánh những thất vọng ông đã gặp phải trong thi đấu thất bại. Những điều bất lợi nữa là huấn luyện viên của Kristy, người hiểu được những điều áp đặt không hợp lý của cha cô. Sự dính dáng của ông vào sự nghiệp của Kristy có thể đã phản ánh nỗi thất vọng trong thi đấu thất bại của chính ông. Hoàn cảnh gia đình đã cǎng thẳng còn bị rắc rối thêm bởi sự việc là huấn luyện viên, đã biết về sự áp đặt vô lý của ông bố, lại chĩa mũi phê phán về Kristy mỗi khi cô kêu ca về chấn thương. Điều then chốt khi làm việc với Kristy là phải hiểu được những cǎng thẳng của cô và thuyết phục cô không nên tập luyện quá sức. Khi cô bị những chấn thương nhỏ thì có nghĩa là cô cũng phải có thời gian để tránh xa những sức ép mà cô phải đối mặt trong luyện tập. Kristy và bác sĩ gia đình đã nhất trí rằng thất bại trong một số cuộc đua là hoàn toàn chấp nhận được và cô phải tự rèn luyện cho chính mình chứ không phải cho cha cô hoặc huấn luyện viên. Dần dần cô đã bắt đầu tự xác định phương thức hoạt động cho chính mình và chấn thương giảm đi. Cuối cùng cô đã có thể nói rằng cô thực sự vui sướng và thoải mái khi tham gia thi đấu và sau đó đã tham gia vào các giải thi đấu của trường học. ĐáNH GIá CáC CHấN THƯƠNG CấP
- Một sự chuẩn bị tốt nhất của thầy thuốc gia đình đối với những tình trạng đe doạ sự sống của VĐV là việc hiểu biết về những vấn đề liên quan đến môn thể thao của VĐV đó. Bác sĩ phục vụ cho cuộc thi việt dã có thề phải đối phó với tình trạng đột quị hoặc rối loạn nhịp tim. Bác sĩ phục vụ cho một đội bóng đá phải chuẩn bị để đánh giá các chấn thương như chấn thương đầu, vỡ lách, chấn thương cột sống cổ, và xẹp đường hô hấp (gãy thanh quản). Kiến thức cơ bần về hồi sức tim phổi, kế hoạch bất động và vận chuyển bệnh nhân đến bệnh viện là một phần rất quan trọng trong sự chuẩn bị của người bác sĩ. Việc chẩn đoán nhanh và cấp cứu kịp thời có thể cứu sống được tính mạng của VĐV. Để nắm được cơ chế chấn thương, cần thử lập lại một cách chính xác những gì VĐV đã làm trước khi họ bị đau. Ví dụ, qua phân tích video về chấn thương do ném bóng đã cho thấy rằng vai phải chuyển dịch cùng với thân mình. Khi điều này không xảy ra thì các cơ xoay là nơi xảy ra những vi chấn thượng lặp đi lặp lại Khi VĐV thực hiện lực ném mạnh, động tác của vai tǎng và giảm nhanh và đầu xương cánh tay di chuyển ra ngoài hõm khớp 2-3cm. Nếu các vi chấn thương thích đáng đã xảy ra cho cơ xoay khi đầu xương cánh tay tác động lên vùng gân yếu, gây ra rách cơ xoay. ờ ví dụ này, chấn thương do quá tải dẫn tới suy yếu rồi chấn thương lớn. Biện pháp đề phòng hữu hiệu chấn thương này là tǎng cường sức mạnh cơ quay và thay đổi động tác sinh cơ học trong khi ném bóng để tránh viêm gân mãn tính sớm xảy ra. Một số đặc tính về giải phẫu gây ảnh hưởng đến cơ chế sinh cơ học của một vài chấn thương được thể hiện ở bảng 11.7. Bảng 11.7: Những vấn đề giải phẫu dẫn đến chấn thương trong các môn thể thao phổ biến VĐV chạy Các vấn đề về thẳng hàng Thay đổi giải phẫu bàn chân
- Các dạng bất thường chức nǎng (ví dụ quay sấp quá tầm) Cẳng gân khoeo hoặc phức hợp gân Achille Bóng đá Yếu cơ ( đặc biệt là yếu cơ tứ đầu hoặc cơ cổ) Yếu dây chằng vai, đầu gối, cổ chân Yếu cơ quay Bóng chày Hạn chế duỗi khuỷu Lỏng khớp vai Bệnh lý thần kinh trụ Cǎng gân khoeo Bóng rổ Bàn chân bẹt Chân vòm Xương đốt bàn chân dài, mong Hội chứng Marfan Lỏng lẻo dây chằng Thể dục nhịp điệu (xem VĐV chạy) Đau thắt lưng Mất tính mềm dẻo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn