Phạm Minh Tân và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 59 - 67<br />
<br />
CHẾ TẠO, NGHIÊN CỨU TÍNH CHẤT QUANG<br />
CỦA HẠT NANO ORMOSIL CHỨA TÂM MÀU<br />
CÓ CÁC NHÓM CHỨC NĂNG VÀ ỨNG DỤNG ĐÁNH DẤU SINH HỌC<br />
Phạm Minh Tân1,3*, Trần Thu Trang1,3, Trần Thanh Thủy2,<br />
Nghiêm Thị Hà Liên1, Vũ Thị Thùy Dương1,<br />
Tống Kim Thuần2, Trần Hồng Nhung1<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Viện Vật lý - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam<br />
Viện Công nghệ Sinh học - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam<br />
3<br />
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Các hạt nano ormosil được tổng hợp bằng phương pháp Stöber từ precursor Methyltriethoxysilane<br />
CH3Si(OC2H5)3 (MTEOS). Hạt nano ormosil pha tâm mầu Rhodamine B (RB) dạng cầu, phân tán<br />
trong nước, kích thước vài chục nano mét, có các nhóm chức năng như -NH2, -SH, -OH trên bề<br />
mặt. Hạt được bọc bằng bovine serum albumin (BSA). Các hạt nano huỳnh quang được gắn kết<br />
với các kháng thể đặc hiệu vi khuẩn Escherichia coli O157:H7. Vi khuẩn E.Coli O157:H7 được<br />
đánh dấu huỳnh quang bằng hạt nano ormosil thông qua tương tác và nhận biết đặc hiệu kháng<br />
nguyên - kháng thể. Các kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng ứng dụng của các hạt nano huỳnh<br />
quang trong các phân tích sinh học.<br />
Từ khóa: dye-doped silica-based nanoparticles, biofunctionalisation, cell detection<br />
<br />
MỞ ĐẦU*<br />
Hạt nano silica là các hạt SiO2 kích thước<br />
nano có thể chứa được một số lượng lớn tâm<br />
màu hữu cơ trong một hạt silica đơn. Do đó<br />
hạt nano silica chứa tâm màu có độ chói và độ<br />
khuếch đại tín hiệu cao gấp nhiều lần so với<br />
phân tử màu đơn lẻ. Vì vậy lựa chọn hạt nano<br />
silica ứng dụng trong phân tích sinh học có<br />
thể cải thiện đáng kể độ nhạy phân tích.<br />
Trong các loại hạt nano silica chứa tâm màu<br />
hữu cơ thì hạt với nền ormosil (organically<br />
modifified silica) đang được hướng tới ứng<br />
dụng trong truyền tải gen và thuốc cùng<br />
nhiều ứng dụng quang tử quan trọng khác.<br />
Hạt nano silica/ormosil có nhiều ưu điểm<br />
trong các ứng dụng sinh học vì chúng có thể<br />
chứa cả tâm màu và thuốc kỵ nước hoặc tan<br />
trong nước. Bằng cách thay đổi các loại<br />
thuốc, hạt nano silica/ormosil có thể điều trị<br />
các bệnh khác nhau.<br />
Bằng cách thay đổi loại tâm màu, các hạt<br />
nano silica/ormosil có thể có hiệu suất lượng<br />
tử cao và dải phát quang rộng lấp đầy vùng<br />
khả kiến và hồng ngoại [5]. Hơn nữa, do bị<br />
*<br />
<br />
Email: phamtantn@gmail.com<br />
<br />
cầm giữ trong nền silica, các tâm màu được<br />
bảo vệ khỏi các ảnh hưởng của môi trường<br />
cũng như tác động trực tiếp của ánh sáng nên<br />
sự phân hủy quang cũng được giảm thiểu.<br />
Các tâm màu được bảo vệ bởi nền silica nên<br />
cường độ huỳnh quang có thể được điều<br />
khiển bởi số lượng tâm màu trong một hạt và<br />
được giới hạn chỉ bởi sự dập tắt huỳnh quang<br />
do nồng độ [6]. Để sử dụng trong các ứng<br />
dụng y sinh, hạt nano silica/ormosil phải có<br />
khả năng gắn kết với phân tử sinh học đích.<br />
Mặt khác, để gắn kết hạt nano silica/ormosil<br />
có bản chất vô cơ với phân tử sinh học có bản<br />
chất hữu cơ thì cần phải thay đổi hóa học bề<br />
mặt hạt. Đồng thời, hạt nano silica/ormosil<br />
phải được bảo vệ khỏi sự tấn công của môi<br />
trường sinh học có các pH khác nhau. Mặt<br />
khác, để có thể sử dụng trong các mục đích<br />
dẫn thuốc điều trị hay các ứng dụng in-vivo<br />
hạt nano silica/ormosil phải tương thích với<br />
cơ thể sống. Vì vậy, việc biến đổi tương thích<br />
sinh học là khâu mấu chốt trong nghiên cứu<br />
ứng dụng vật liệu này trong y – sinh. Đây là<br />
vấn đề đang được các nhà vật liệu học trong<br />
và ngoài nước quan tâm.<br />
59<br />
<br />
Phạm Minh Tân và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Báo cáo này trình bày các kết quả nghiên cứu<br />
chế tạo hạt nano ormosil pha tâm màu<br />
Rhodamine B (RB) dạng cầu, phân tán trong<br />
nước, kích thước vài chục nano mét, có các<br />
nhóm chức năng như -NH2, -SH, -OH trên bề<br />
mặt. Các dung dịch hạt silica/ormosil được<br />
chế tạo thường có tính axit yếu, với pH<br />
khoảng 5 – 6, do đó dung dịch này thường bị<br />
vẩn đục trong các môi trường có tính bazơ<br />
hoặc trung tính do các hạt silica/ormosil bị kết<br />
đám. Vấn đề đặt ra là phải làm sao để các hạt<br />
này có thể sử dụng được trong các môi trường<br />
có pH khác nhau. Phương án bọc BSA được<br />
lựa chọn do tiếp thu các kết quả bọc hạt nano<br />
vàng của nhóm nghiên cứu [9]. Các hạt nano<br />
sau khi chế tạo được gắn kết với kháng thể để<br />
nhận biết vi khuẩn E.Coli O157:H7.<br />
THỰC NGHIỆM<br />
Hóa chất<br />
Methyltrimethoxysilane<br />
(MTEOS),<br />
Aminopropyltriethoxysilane (APTEOS), 3trimethoxysilyl- 1 propanthiol (TMPT),<br />
dimethylsulfoxide (DMSO), Butanone-2 được<br />
mua từ Merck. Chất màu Rhodamine B (RB)<br />
được mua từ Exciton Co. Chất hoạt động bề<br />
mặt Aerosol-OT (AOT) (96%) của Fluka,<br />
Bovine serum albumin (BSA) của Biochem<br />
và túi rửa bán thẩm thấu của Sigma-Aldrich.<br />
Chế tạo hạt nano ORMOSIL chứa tâm<br />
màu RB<br />
Chế tạo hạt nano ORMOSIL chứa tâm màu<br />
RB được thực hiện theo phương pháp Stöber,<br />
trình bày trên sơ đồ hình 1. Đầu tiên, hỗn hợp<br />
chất hoạt động bề mặt AOT và butanone-2<br />
được pha với nhau theo một tỉ lệ: 0,15 g AOT<br />
: 250 µl butanone-2, sau đó được rung siêu<br />
âm cho tới khi dung dịch trong suốt. Sau đó<br />
lấy 990 µl dung dịch hoạt động bề mặt này<br />
cộng với 300 µl MTEOS precursor, khuấy từ<br />
cho dung dịch đồng nhất. Tiếp theo 10 ml<br />
nước cất hai lần được thêm vào và khuấy từ<br />
1h. Sau đó 75 µl chất màu RB trong DMSO<br />
được cho thêm vào và khuấy từ 10 phút. Đối<br />
với các mẫu đối chứng, 75 µl dung dịch<br />
DMSO không có chất màu được thêm vào<br />
dung dịch. Sau đó cho xúc tác APTEOS để<br />
chế tạo hạt có nhóm chức amin (-NH2) hoặc<br />
NH4OH để chế tạo hạt có nhóm chức<br />
60<br />
<br />
96(08): 59 - 67<br />
<br />
hydroxyl (-OH). Hệ dung dịch này được<br />
khuấy từ liên tục trong 20h ở nhiệt độ phòng.<br />
Cho thêm precursor TMPT vào dung dịch có<br />
xúc tác NH4OH tiếp tục khuấy từ 10h nữa để<br />
chế tạo hạt có nhóm chức thiol (-SH). Cuối<br />
cùng, dung dịch thu được được đưa vào túi<br />
bán thẩm thấu 10000MWCO và được rửa<br />
nhiều lần bằng nước cất hai lần ( 8 - 9 lần),<br />
mỗi lần 8h dưới tác động của máy khuấy từ<br />
để loại những chất còn thừa trong các phản<br />
ứng và loại toàn bộ hoạt động bề mặt AOT và<br />
Butanone-2.<br />
Bọc hạt nano ORMOSIL bằng bovine<br />
serum albumin (BSA)<br />
Một lượng BSA được cho vào trong dung<br />
dịch đệm MES (axit 2-(N-morpholino)<br />
etansulfonic, pH = 5,5, khuấy từ 30 phút.<br />
BSA pha trong MES được đưa vào dung dịch<br />
nano ORMOSIL sau khi đã chế tạo xong.<br />
Hỗn hợp nano ORMOSIL - BSA trong MES<br />
được khuấy từ khoảng 30 phút ở 40C cho tới<br />
khi dung dịch trở nên trong suốt. Sau đó để<br />
ổn định trong tủ lạnh 1-2 ngày. BSA được<br />
hấp phụ trực tiếp lên bề mặt hạt nano<br />
ORMOSIL.<br />
Để khảo sát lượng BSA bọc đủ lên hạt nano<br />
ORMOSIL chứa tâm màu RB, các mẫu được<br />
bọc BSA với lượng thay đổi từ 0 đến 1,5 mg<br />
với bước là 0,1 mg. Mẫu sau khi chế tạo được<br />
chia làm 2 đưa vào trong môi trường nước<br />
pH = 6 và PBS 4.5X pH = 7,4 (là hỗn hợp<br />
dung dịch gồm NaCl (0.15 M)87.0g; KH2PO4<br />
2.0g; Na2HPO4 29.0g; NaN3 2.0g pha trong<br />
4.5 lít nước cất). Sau 24h các mẫu được đo<br />
phổ hấp thụ và huỳnh quang.<br />
Khảo sát các hạt nano ORMOSIL chứa<br />
tâm màu<br />
Kích thước và hình dạng của hạt nano<br />
ORMOSIL được khảo sát bằng kính hiển vi<br />
điện tử quét SEM (Hitachi-S480) và kính hiển<br />
vi điện tử truyền qua TEM (JEL 1011). Cấu<br />
trúc hóa học của hạt nano được xác định qua<br />
phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại (Impact 410<br />
Nicolet FTIR). Tính chất quang của hạt nano<br />
được khảo sát thông qua việc phân tích phổ<br />
hấp thụ (JASCO-V570-UV-VIS-NIR) và phổ<br />
huỳnh quang (Cary Eclipse, Varian).<br />
<br />
Phạm Minh Tân và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
AOT,<br />
Butanone-2,<br />
MTEOS<br />
<br />
96(08): 59 - 67<br />
<br />
H 2O<br />
Dye/DMSO<br />
<br />
APTEOS<br />
<br />
NH4OH<br />
<br />
TMPM<br />
<br />
HS<br />
<br />
SH<br />
<br />
HS<br />
<br />
SH<br />
SH<br />
<br />
H<br />
<br />
H2N<br />
<br />
OH<br />
<br />
HO<br />
<br />
NH2<br />
<br />
HO<br />
<br />
OH<br />
<br />
OH<br />
NH2<br />
<br />
OH<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ chế tạo hạt nano ORMOSIL chứa tâm màu RB.<br />
<br />
Đánh dấu vi khuẩn<br />
Kháng thể thương phẩm đơn dòng E.coli<br />
O157:H7 kháng kháng nguyên thân O mua<br />
của hãng Abcam (dòng tế bào D3C6), kí hiệu<br />
ab 75244 nhận từ thỏ với trọng lượng phân tử<br />
170.000 Dalton, pha loãng bằng dịch PBS 0,1<br />
M, pH=7,3, tới nồng độ ngưng kết tế bào trên<br />
phiến kính là 11,8 ng/ml.<br />
Phương pháp tạo phức hợp hạt nano<br />
ormosil phát quang và kháng thể đặc hiệu<br />
E. coli O167:H7: lấy 80 µl kháng thể đặc<br />
hiệu nồng độ 11,8 mg/ml cho vào ống<br />
Eppendof, bổ sung 5 µl hạt nano ORMOSIL<br />
nồng độ 4,77 mg/ml và 1200 µl EDAC 4 mM<br />
pha trong đệm MES pH 5.5, vortex đều. Hỗn<br />
hợp dịch được ủ lắc ngang liên tục ở 300C<br />
trong 3 giờ. Sau đó ly tâm ở 35.000-40.000<br />
vòng/phút trong 60 phút ở 40C để loại bỏ hạt<br />
nano ORMOSIL và kháng thể thừa. Rửa 2 lần<br />
với dịch PBS pH 7,4. Cặn thu được phân tán<br />
vào 1000 µl PBS và bảo quản ở 40C.<br />
Gắn kết đặc hiệu vi khuẩn E. coli O157:H7<br />
bằng phức hệ kháng thể - hạt nano ormosil:<br />
Vi khuẩn E. coli O157:H7 do Viện Đại học<br />
mở cung cấp, được nuôi cấy lắc trong môi<br />
trường MPA dịch thể ở 370C. Dịch nuôi cấy<br />
vi khuẩn được pha loãng trong đệm PBS tới<br />
nồng độ 104CFU/ml. Lấy 500µl phức hợp hạt<br />
nano ORMOSIL-kháng thể cho vào ống<br />
<br />
eppendof, bổ sung 25µl dịch huyền phù vi<br />
khuẩn có mật độ 104CFU/ml. Ủ hỗn hợp ở<br />
nhiệt độ 300C trên máy lắc ngang. Sau 5, 10,<br />
15, 20, 25, 30 phút, ly tâm 10.000 vòng/phút<br />
loại bỏ dịch nổi chứa phức hợp không gắn kết<br />
với vi khuẩn đích. Rửa cặn chứa vi khuẩn đã<br />
gắn kết với phức hợp bằng PBS, pH 7,4 từ 23 lần, sau đó cặn được phân tán vào 1,5ml<br />
PBS. Mẫu được khảo sát bằng kính hiển vi<br />
huỳnh quang Nikon Ti-E Eclipse C1 Plus,<br />
kính hiển vi điện tử truyền qua (JEL 1011) và<br />
phổ kế huỳnh quang (Cary Eclipse, Varian).<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Các hạt nano silica/ormosil có các nhóm chức<br />
–NH2, -OH, -SH, được chế tạo theo điều kiện<br />
đã nêu trên được bảo quản trong bóng tối và<br />
nhiệt độ 40C. Tất cả các hạt nano<br />
silica/ormosil đã chế tạo đều được nghiên cứu<br />
về hình thái, kích thước, cấu trúc hóa học và<br />
tính chất quang<br />
Hình dạng, kích thước và cấu trúc hóa học<br />
của các hạt nano ORMOSIL<br />
Hình 2 trình bày ảnh TEM và SEM của các<br />
hạt cho thấy cả 3 loại hạt với các nhóm chức NH2, -OH, -SH đều có dạng cầu, đơn phân<br />
tán, kích thước khá đồng đều, hạt SiO2-NH2<br />
(hình 2a) kích thước khoảng 70nm đến 80nm,<br />
hạt SiO2-OH và SiO2-SH kích thước khoảng<br />
100 đến 110nm (hình 2 b) và c).<br />
61<br />
<br />
Phạm Minh Tân và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 59 - 67<br />
<br />
b)<br />
<br />
a)<br />
<br />
c)<br />
<br />
Hình 2. a) Ảnh TEM của hạt nano SiO2-NH2<br />
b) Ảnh SEM của hạt nano SiO2-OH<br />
c) Ảnh TEM của hạt nano SiO2-SH<br />
<br />
Cấu trúc hóa học của các hạt nano ORMOSIL<br />
Cấu trúc hóa học của hạt nano silica/ormosil có nhóm chức NH2 được xác định bằng phân tích<br />
phổ tán xạ micro Raman và phổ hấp thụ hồng ngoại<br />
<br />
6SBA60<br />
<br />
Si-O-CH3<br />
<br />
0.07<br />
0.06<br />
<br />
6000<br />
<br />
C−êng ®é (®vty)<br />
<br />
C−êng ®é (®vty)<br />
<br />
0.08 O-Si-O Si-CH3<br />
<br />
Si-CH3<br />
<br />
8000<br />
<br />
4000 Si-O-Si<br />
-NH2<br />
<br />
2000<br />
<br />
0.05<br />
<br />
OH<br />
<br />
0.04<br />
<br />
Si-CH3<br />
<br />
0.03<br />
<br />
Si-CH3<br />
<br />
-C3H6-NH2<br />
C=O<br />
<br />
0.02<br />
0.01<br />
OH<br />
<br />
0.00<br />
<br />
0<br />
<br />
-0.01<br />
<br />
500<br />
<br />
1000 1500 2000 2500 3000 3500<br />
-1<br />
<br />
Sè sãng (cm )<br />
<br />
500<br />
<br />
1000<br />
<br />
1500<br />
<br />
2000<br />
<br />
2500<br />
<br />
3000<br />
<br />
3500<br />
<br />
4000<br />
<br />
-1<br />
<br />
Sè sãng (cm )<br />
<br />
b)<br />
a)<br />
Hình 3. Phổ tán xạ micro Raman (hình a) và phổ hấp thụ hồng ngoại (hình b) của hạt nano SiO2-NH2<br />
<br />
Phổ tán xạ micro Raman của hạt nano SiO2NH2 ngoài hai nhóm vạch đặc trưng cho dao<br />
động của liên kết Si-O ở 480 cm-1 và Si-CH3<br />
ở 2921 cm-1 còn có nhóm vạch 883 cm-1 đặc<br />
trưng cho dao động của nhóm amine NH2 ở<br />
906 cm-1 (hình 3a). Phổ hấp thụ hồng ngoại<br />
của hạt nano ORMOSIL có các vạch đặc<br />
trưng cho các dao động của liên kết Si-O<br />
(545, 1030, 1126 cm-1), Si-CH3 (780, 1277,<br />
2882, 2930, 2960 cm-1) và -OH (857, 900,<br />
3424 cm-1), ngoài ra phổ còn có nhóm vạch<br />
nằm trong dải từ 1467-1634 cm-1 ứng với dao<br />
động của nhóm -C3H6 -NH2. Điều này chứng<br />
tỏ lớp SiO2-C3H6NH2 đã được hình thành<br />
trên hạt.<br />
62<br />
<br />
Tương tự như trên, phổ hấp thụ hồng ngoại của<br />
hạt SiO2-SH (hình 4) có vạch tại 2886 cm-1 đặc<br />
trưng cho liên kết –SH, vạch tại 2930 cm-1<br />
đặc trưng cho liên kết –CH2, chứng tỏ sự có<br />
mặt của lớp SiO2-SH.<br />
Tính chất quang của các hạt nano ormosil<br />
chứa tâm màu RB<br />
Hình 5 biểu diễn phổ hấp thụ chuẩn hóa của<br />
các hạt silica/ormosil chứa tâm màu RB có<br />
các nhóm chức khác nhau, từ hình phổ cho<br />
thấy phổ hấp thụ của các hạt nano<br />
silica/ormosil có các nhóm chức khác nhau có<br />
dạng giống với phổ hấp thụ của RB tự do<br />
trong nước, với sự dịch đỉnh nhẹ so với đỉnh<br />
RB trong nước.<br />
<br />
Phạm Minh Tân và Đtg<br />
<br />
C−êng ®é hÊp thô (®vty)<br />
<br />
0 .1 2<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 59 - 67<br />
<br />
S i-O<br />
<br />
0 .0 9<br />
<br />
0 .0 6<br />
<br />
Si - C H 3<br />
<br />
C H 2<br />
S -H<br />
<br />
0 .0 3<br />
<br />
0 .0 0<br />
500<br />
<br />
1000<br />
<br />
1500<br />
<br />
2000<br />
<br />
2500<br />
<br />
S è sã n g (c m<br />
<br />
-1<br />
<br />
3000<br />
<br />
3500<br />
<br />
4000<br />
<br />
)<br />
<br />
Hình 4. Phổ hấp thụ hồng ngoại của hạt nano SiO2-SH<br />
<br />
Phổ huỳnh quang của các hạt nano<br />
silica/ormosil có các nhóm chức khác nhau<br />
cũng có sự dịch đỉnh khác nhau tương tự như<br />
phổ hấp thụ: hạt có nhóm -OH và -SH đỉnh<br />
hấp thụ và huỳnh quang dịch về phía sóng<br />
dài hơn so với hạt có nhóm -NH2. Có thể giải<br />
thích sự dịch đỉnh phổ do nguyên nhân: tương<br />
tác giữa tâm màu với nền có các nhóm chức<br />
khác nhau. Các nhóm chức hữu cơ không<br />
tham gia quá trình thủy phân và ngưng tụ sẽ<br />
nằm trong các lỗ xốp của lớp SiO2 phía ngoài<br />
hạt và lỗ xốp trên bề mặt hạt. Các tâm màu<br />
cũng phân tán trong lỗ xốp [10]. Tương tác<br />
giữa tâm màu với các nhóm chức khác nhau<br />
là khác nhau dẫn tới sự dịch đỉnh khác nhau<br />
so với đỉnh của RB tự do trong nước. Phổ hấp<br />
thụ của hạt có nhóm -NH2 có nền rất cao,<br />
chứng tỏ chất lượng nền SiO2 chưa tốt, nền<br />
không trong suốt.<br />
1.2<br />
<br />
§é hÊp thô chuÈn hãa<br />
<br />
1.0<br />
<br />
Rb/H 2O<br />
SiO 2-SH<br />
<br />
0.8<br />
<br />
SiO 2-OH<br />
SiO 2-NH 2<br />
<br />
0.6<br />
0.4<br />
0.2<br />
0.0<br />
450<br />
<br />
500<br />
<br />
550<br />
<br />
600<br />
<br />
650<br />
<br />
700<br />
<br />
B−íc sãng (nm)<br />
<br />
Hình 5. Phổ hấp thụ chuẩn hóa của hạt nano<br />
silica/ormosil có các nhóm chức khác nhau<br />
<br />
Để xác định các đặc trưng của phổ huỳnh<br />
quang, chúng tôi tiến hành đo phổ huỳnh<br />
quang của các mẫu hạt nano silica/ormosil ở<br />
cùng ở một độ hấp thụ, các kết quả cho thấy<br />
cường độ huỳnh quang của các hạt nano<br />
silica/ormosil có nhóm chức khác nhau là<br />
khác nhau. Cường độ huỳnh quang tăng dần<br />
từ 122 đến 466 (đvty) ứng với lần lượt các<br />
mẫu SiO2-SH, SiO2-OH và SiO2-NH2 (hình<br />
6). Sự khác nhau về cường độ huỳnh quang<br />
có thể giải thích do ảnh hưởng của kích thước<br />
hạt và chất lượng nền. Kích thước của hạt<br />
SiO2-SH và SiO2-OH là 100 - 110 nm lớn, do<br />
đó số lượng cũng như nồng độ tâm màu trong<br />
một hạt là rất lớn (khoảng 6900 phân tử RB<br />
trong một hạt). Mặt khác, nền của hai loại hạt<br />
này trong suốt, chứng tỏ kích thước lỗ xốp<br />
nhỏ, vì vậy nồng độ tâm màu trong các lỗ xốp<br />
là rất lớn, dẫn đến sự dập tắt huỳnh quang do<br />
nồng độ. Với hạt SiO2-NH2 kích thước 70-80<br />
nm nồng độ tâm màu khoảng 3900 phân tử<br />
RB trong một hạt, chất lượng nền đục chứng<br />
tỏ kích thước lỗ xốp lớn, do đó nồng độ tâm<br />
màu trong các lỗ xốp nhỏ hơn nên hiệu ứng<br />
dập tắt huỳnh quang cũng giảm đi [10].<br />
Bọc hạt nano ORMOSIL bằng protein BSA<br />
Các hạt nano silica/ormosil chứa tâm màu RB<br />
sau khi bọc BSA (SiO2@BSA) phân tán trong<br />
môi trường MES pH= 5,5 được khảo sát hình<br />
dạng, kích thước trên kính hiển vi điện tử quét<br />
(SEM). Kết quả được trình bày trên hình 7b)<br />
cho thấy các hạt nano phân tán tốt hơn so với<br />
mẫu hạt tương ứng khi chưa được bọc BSA<br />
(hình 7b)).<br />
63<br />
<br />