Chính sách của Hoa Kì về hợp tác công tư giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp - bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
lượt xem 5
download
Bài nghiên cứu này đã trở thành động cơ của sự đổi mới, không chỉ trong giới học thuật mà còn thúc đẩy phần lớn sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi, không chỉ riêng nước Mĩ mà còn cả thế giới. Thành công đó có sự đóng góp công sức không nhỏ sự đầu tư của các DN tư nhân. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chính sách của Hoa Kì về hợp tác công tư giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp - bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 CHÍNH SÁCH CỦA HOA KÌ VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ GIỮA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ DOANH NGHIỆP - BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Nguyễn Thị Tùng Lâm+, Trường Đại học Ngoại Thương Đào Thị Thu Giang +Tác giả liên hệ ● Email: ntlam@ftu.edu.vn Article History ABSTRACT Received: 01/9/2020 In the United States, government cuts in investment in infrastructure have long Accepted: 19/10/2020 contributed to the forcing of universities to have relationships with businesses Published: 20/11/2020 to satisfy their financial needs. This partnership allows private funding sources to operate more strongly and effectively in the higher education sector. Thanks Keywords to this coordination, the relationship between universities and businesses is higher education, business, promoted to a new ladder with higher quality, enhancing the creativity and the public-private partnerships, best coordination of the parties involved. Based on experience and practical USA. results, the article introduces selected theoretical frameworks and core issues in the policy of cooperation between US higher education institutions and businesses, the lessons and implications for Vietnam. 1. Mở đầu Ngay từ những ngày đầu của nền cộng hòa, Hoa Kì đã được hưởng nhiều lợi ích từ quan hệ đối tác công tư vì hoạt động khá hiệu quả. Khởi đầu cho các mối quan hệ hợp tác sau này chính là được phát triển từ sự liên kết giữa chính phủ liên bang, chính quyền tiểu bang và các doanh nghiệp (DN) tư nhân. Sau đó, xuất phát từ mong muốn thúc đẩy hơn nữa việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT) ở khu vực tư nhân, Hoa Kì đã thiết lập một môi trường thuận lợi trong đổi mới và sáng tạo thông qua sự hợp tác với các trường đại học (ĐH). Đây là cơ hội tạo ra sự gắn bó và lâu dài giữa các DN và cơ sở giáo dục đại học (GDĐH). Sự hợp tác của các bên đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện những nhiệm vụ quốc gia và ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng, từ sức khỏe, năng lượng, môi trường, quốc phòng… Nhiều khám phá vượt trội được tạo ra thông qua sự hợp tác của các trường ĐH và sự đầu tư của DN. Ít ai có thể hình dung được những phát minh mang tính đột phá như: Tia laser, radio FM, hình ảnh cộng hưởng từ, GPS, mã vạch, thuật toán cho Google, máy siêu âm, kháng sinh, công nghệ nano, máy tính, DNA tái tổ hợp, bóng bán dẫn, cải thiện dự báo thời tiết, chữa bệnh bạch cầu, phương pháp khảo sát ý kiến công chúng, khái niệm về giá, vốn nhân lực, bàn chải đánh răng điện và Viagra… đều có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm của các trường ĐH trên khắp nước Mĩ. Kết quả là, những nghiên cứu này đã trở thành động cơ của sự đổi mới, không chỉ trong giới học thuật mà còn thúc đẩy phần lớn sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi, không chỉ riêng nước Mĩ mà còn cả thế giới. Thành công đó có sự đóng góp công sức không nhỏ sự đầu tư của các DN tư nhân. Chính vì thế, hợp tác giữa trường ĐH và DN trong NCKH là một phần không thể thiếu đối với sứ mệnh và mục tiêu phát triển của các trường ĐH Hoa Kì. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Khung lí thuyết được chọn lựa để nghiên cứu sự kết nối và đẩy mạnh sự hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp Hoa Kì Ở Hoa Kì, sự quan tâm ngày càng tăng đối với quan hệ công tư của trường ĐH với DN bắt nguồn từ ngân sách đầu tư của chính phủ eo hẹp hơn, độ phức tạp của dự án lớn hơn, tìm kiếm giá trị tốt hơn, tiết kiệm chi phí hơn, sự chuyển giao công nghệ nhanh hơn, xây dựng ý thức mạnh mẽ hơn trong việc nhận diện rủi ro và ý thức trách nhiệm. Điều này thể hiện sự mong muốn tận dụng trình độ chuyên môn của khu vực GDĐH và kinh nghiệm cũng như nguồn tài chính của DN. Sự hợp tác này được mô tả như là một “liều thuốc” thực hiện sứ mệnh quốc gia cho tất cả các thách thức về hạ tầng vật chất kĩ thuật và khoa học công nghệ (KHCN) tại Hoa Kì. Các loại quan hệ đối tác được xác định cụ thể như: (1) Kết cấu liên minh; (2) Tài trợ đổi mới; (3) Xây dựng các trung tâm nghiên cứu KHCN… đều được dựa trên những lí thuyết căn bản như: Chiến lược, chính sách đào tạo sinh viên nhằm tiếp cận với môi trường làm việc chuyên nghiệp, cung cấp việc làm thông qua việc chuyển giao kiến thức… Tất cả đều tập trung vào lợi ích của sự hợp tác. Nhóm hưởng lợi đầu tiên là sinh viên, sau đó đến giảng viên và các doanh nghiệp, cuối cùng là cộng 59
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 đồng. Sự tác động này bao gồm bên trong nội bộ trường ĐH và bên ngoài đối với nền kinh tế địa phương và quốc gia do các trường ĐH tạo ra từ mối quan hệ hợp tác này. 2.1.1. Khung lí thuyết được chọn lựa để kết nối và đẩy mạnh sự hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp Hoa Kì Có 2 khung lí thuyết và 1 mô hình được xem là cốt lõi, đó là: 2.1.1.1. Hệ thống đổi mới chiến lược quốc gia (National Innovation System - NIS) Trên thực tế, khi nói đến đổi mới sẽ luôn được hiểu là theo hệ thống. Ở đây không chỉ riêng trong lĩnh vực KHCN, mà còn bao gồm tất cả các tổ chức khác (ví dụ: Hệ thống tài chính quốc gia, Hệ thống GDĐH; thị trường lao động, chính sách pháp lí,...) (Kenneth & Judith, 2008). Christopher Freeman đã định nghĩa, “Hệ thống đổi mới quốc gia là mạng lưới các tổ chức trong khu vực công và tư nhân có hoạt động, tương tác, hỗ trợ nhau trong việc khởi xướng, nhập khẩu, sửa đổi và khuếch tán các công nghệ mới” (Robert, 2014). Hệ thống đổi mới hoạt động có hiệu quả hay không sẽ là nhân tố quyết định tới sự thành công và khả năng cạnh tranh của nó trên thị trường trong và ngoài nước. Do nhiều yếu tố khác nhau, không có hệ thống đổi mới quốc gia nào giống nhau (Kenneth & Judith, 2008). 2.1.1.2. Mô hình tuyến tính và phi tuyến tính của đổi mới (Linear and Non-Linear Model of Innovation) - Mô hình tuyến tính của đổi mới: Bắt đầu bằng nghiên cứu cơ bản liên kết với nghiên cứu ứng dụng, phát triển và phổ biến (Godin & Benoît, 2006). Các mô hình đổi mới hiện nay xuất phát từ các phương pháp như Định hình xã hội về công nghệ và xã hội học tập (Social shaping of Technology and Social Learning) (Ilkka & Tuomi, 2006). Những ý tưởng hiện tại trong “Đổi mới mở” (Chesbrough, 2003) và “Đổi mới người dùng” (Bogers, 2010) xuất phát từ những ý tưởng sau này. Hai phiên bản của mô hình tuyến tính đổi mới thường được trình bày: “Đẩy công nghệ” và “Kéo thị trường”. (1) Mô hình “Đẩy công nghệ” (Technology Push Model) (Rothwell, 1994): Từ những năm 1950 đến giữa những năm 1960, quá trình đổi mới công nghiệp thường được coi là một sự tiến bộ tuyến tính từ khám phá khoa học, thông qua phát triển công nghệ trong các công ty, đến thị trường. Các giai đoạn của mô hình “Đẩy công nghệ” là: Khoa học cơ bản → Thiết kế và kĩ thuật → Sản xuất → Tiếp thị → Bán hàng (Basic science→Design and Engineering → Manufacturing → Marketing → Sales) (Nicolov, 2012). (2) Mô hình “Kéo thị trường” (Market pull Model): Từ giữa những năm 1960 đến đầu những năm 1970, xuất hiện mô hình “Kéo thị trường”. Theo mô hình này, thị trường là nguồn ý tưởng mới để chỉ đạo R & D, có vai trò phản ứng trong quá trình này. Các giai đoạn của mô hình “Kéo thị trường” là: Cần thị trường - Phát triển - Sản xuất - Bán hàng (Market Need-Development-Manufacturing-Sales). - Mô hình Phi tuyến tính của đổi mới: Là khái niệm nói về những sáng kiến, ý tưởng hay những sản phẩm đưa tới người dung mà họ không trông mong trước, họ đã không biết trước cái họ muốn. 2.1.1.3. Mô hình Triple Helix phân tích mối quan hệ công tư và sự hợp tác của trường đại học và doanh nghiệp Hình 1. Mô hình hợp tác giữa các Tổ chức công - Công ty - Trường ĐH (Seija, 2014) Trong mô hình này, mỗi lĩnh vực được thể hiện bằng một vòng tròn với sự tương tác chồng chéo hiển thị. Mô hình này lần đầu tiên được đưa ra bởi Etzkowitz và Leydesdorff vào những năm 1990, với ấn phẩm “The Triple Helix, quan hệ ĐH-DN-Chính phủ: Một phòng thí nghiệm Phát triển Kinh tế Dựa trên Tri thức” (Etzkowitz & Ledersdorff, 1995). Sự tương tác giữa các trường ĐH, DN và chính phủ đã tạo ra các tổ chức trung gian mới, chẳng hạn như văn phòng chuyển giao công nghệ và Trung tâm nghiên cứu khoa học, và Etzkowitz và Ledersdorff đưa ra 60
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 giả thuyết về mối quan hệ giữa ba bên và giải thích sự xuất hiện của các tổ chức mới này. Mô hình này đã được áp dụng rộng rãi bởi các nhà hoạch định chính sách đã tham gia vào việc chuyển đổi từng lĩnh vực (Saad et al., 2011). Hình 2. Mô hình hợp tác giữa Trường ĐH - DN Mô hình Triple Helix mới đặt trường ĐH đóng vai trò hàng đầu trong đổi mới, ngang tầm với các công ty và chính phủ. Sự kết hợp các yếu tố từ trường ĐH, DN và chính phủ có thể tạo ra sự đổi mới và phát triển kinh tế thông qua các định dạng xã hội, các thể chế mới dành cho việc sản xuất, chuyển giao và ứng dụng kiến thức. Tóm lại, tất cả các phương pháp này đều thừa nhận, bằng cách này hay cách khác, vai trò của trường ĐH và DN trong đổi mới. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn chính là nằm ở quy mô, phạm vi chuyên sâu của các bên liên quan. 2.1.2. Các chính sách cụ thể trong chiến lược đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp của Hoa Kì 2.1.2.1. Kết hợp giữa nhiệm vụ cụ thể của các tập đoàn doanh nghiệp với sự chuyển giao công nghệ của chính phủ và trung tâm nghiên cứu của các trường đại học Gần đây, các trung tâm nghiên cứu tư nhân đang đối mặt với áp lực phải tạo ra nhiều phát minh mới, nhằm vào các nhu cầu cụ thể và xác định của khách hàng. Do đó, quan hệ đối tác chiến lược này ngày càng được coi trọng, được thúc đẩy bởi các chương trình cụ thể của chính phủ và xu hướng phát triển thời đại. Một cuộc khảo sát được thực hiện những năm 1997 bởi Tạp chí NC&PT (Research and Development Magazine) cho thấy, phần lớn trong số này là nghiên cứu cơ bản, liên kết chặt chẽ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nhằm tạo ra kiến thức khoa học mới. Để bù đắp sự thiếu hụt đó, hầu hết các công ty Hoa Kì hình thành mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức khác, bao gồm DN nhỏ và trường ĐH. Quan hệ đối tác là một cách để xác định và nắm bắt các sáng kiến được tạo ra và thực hiện bởi các tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp (Francisco, 2018). 2.1.2.2. Cắt giảm tài trợ nghiên cứu của chính phủ liên bang dành cho các trường đại học để tăng cường sự đầu tư của doanh nghiệp trong môi trường giáo dục Vấn đề này đã có tác động lớn đến các trường ĐH - là những nơi trước đây nhận sự hỗ trợ trực tiếp từ chính quyền. Do đó, nhiều trường ĐH đã hướng quan tâm đến việc hình thành mối quan hệ với DN. Dữ liệu từ các cuộc khảo sát của Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) cho thấy, bắt đầu từ 2015, chính phủ đầu tư chưa tới 50% cho các dự án nghiên cứu cơ bản (37,8 tỉ trong tổng số 84 tỉ tiền tài trợ) - điều chưa từng xảy ra trước đó (Jeffrey Mervis, 2017). Đây là kết quả của sự thay đổi chiến lược về chi tiêu ngân sách quốc gia và thể hiện sự đầu tư tăng lên của các DN vào trường ĐH. Sự thay đổi chính sách đầu tư vào nghiên cứu của chính phủ Hoa Kì đã cho phép mình trở thành bộ phận kết nối trực tiếp giữa các tập đoàn và các trường ĐH trong việc hợp tác cho NC&PT. Bằng cách tạo ra một cơ chế thuận lợi để liên kết NC&PT được dễ dàng, thông qua các kết quả thực tế đã làm cho các mối quan hệ chặt chẽ hơn. 2.2. Các kết quả đạt được 2.2.1. Sự hợp tác giữa các bên mang lại nhiều lợi ích hữu hình Bao gồm: (1) Chia sẻ rủi ro và chi phí cho nghiên cứu dài hạn; (2) Tiếp cận các khả năng đầu tư bổ sung; (3) Tiếp cận các kĩ năng chuyên ngành; (4) Tiếp cận các nhà cung cấp và thị trường mới; (5) Truy cập vào các cơ sở dữ liệu hiện đại; (6) Tạo cơ hội mới cho học tập công nghệ…( Emanuela Todeva, 2005). Trong mối quan hệ này, những đối tác tham gia mang đến các kĩ năng và bối cảnh rất khác nhau, phát triển thành một cộng đồng đổi mới chung mà vẫn giữ được nền tảng cơ bản riêng của mình, Sự đa dạng này có nghĩa là các thành viên được chia sẻ những kiến thức 61
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 cần thiết và hiệu quả, không chỉ ở cấp độ kĩ thuật thông thường, mà còn ở cơ cấu tổ chức, dẫn đến hiệu quả cao hơn… Quan hệ đối tác giữa cơ sở GDĐH và DN có thể có xu hướng thúc đẩy sự hình thành niềm tin dễ dàng hơn so với các liên minh chỉ trong khu vực tư nhân. Hầu hết đều nhằm vào hai mục tiêu sau: Thứ nhất, Cải thiện kĩ thuật nghiên cứu để các kĩ sư sẽ được chuẩn bị tốt hơn, đóng góp vào thực hành kĩ thuật; Thứ hai, Hỗ trợ DN Hoa Kì trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Việc thành lập mối liên kết giữa các cơ sở GDĐH và DN được thúc đẩy bởi họ nhận thức rằng những tiến bộ kĩ thuật quan trọng sẽ tạo ra khâu đột phá không chỉ cải tiến sản phẩm mà còn trang bị cho sinh viên những kiến thức nghiên cứu mới, chưa từng có. Thể hiện ở việc: (1) Cung cấp sự tương tác liên tục của các nhà nghiên cứu hàn lâm, sinh viên và giảng viên với các đồng nghiệp của họ, cụ thể là các kĩ sư và nhà khoa học trong ngành, đảm bảo rằng các chương trình nghiên cứu đó vẫn phù hợp; (2) Nhấn mạnh việc tổng hợp kiến thức kĩ thuật; nghĩa là, các chương trình nghiên cứu nên tìm cách tích hợp các chuyên ngành khác nhau để tập hợp các kiến thức, phương pháp và công cụ cần thiết để giải quyết các vấn đề quan trọng đối với các học viên kĩ thuật; (3) Góp phần tăng hiệu quả của tất cả các cấp giáo dục kĩ thuật. Để đối phó với áp lực tài chính, các trường ĐH Hoa Kì đã chứng kiến những biến đổi với các đối tác kinh doanh: - Về mặt thể chế, các cấu trúc và hình thức tổ chức mới đã xuất hiện. Bao gồm trung tâm nghiên cứu ĐH, văn phòng chuyển giao công nghệ và văn phòng liên lạc công nghiệp, công viên khoa học… (Chapple, 2005). - Về mặt quản lí, là sự thay đổi trong phương pháp đánh giá nghiên cứu học thuật để đối phó với những căng thẳng và xung đột do khối lượng công việc chức năng mới này tạo ra (Geuna, 1999). 2.2.2. Một số minh chứng thực tế về tính hiệu quả của quá trình hợp tác công tư Theo thống kê của Ilana Kowarski (2020), tỉ lệ tài trợ của các tổ chức, DN Hoa Kì đã tăng lên trong những năm gần đây. Bảng. Danh sách 10 trường ĐH được tài trợ trong năm tài chính 2019 (Ilana Kowarski, 2020) Càng ngày, mối quan hệ giữa các cơ sở GDĐH và DN càng trở nên “chặt chẽ và phức tạp cả về cấu trúc, nội dung và lĩnh vực tác động” (Böhme et al., 1978). Các DN thường không tự mình đầu tư vào nghiên cứu vì đây không phải thế mạnh của họ. Quan hệ hợp tác chính là một phương tiện linh hoạt để đạt được các mục tiêu cấp bách của họ. Trong thời kì cần thiết, việc hợp tác có thể là một phương tiện hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ cần thiết để đáp ứng những thách thức nhiều mặt của đào tạo và kinh doanh, thậm chí là cả những vấn đề của quốc gia, điển hình như đẩy mạnh tiến bộ của KHCN trong việc giúp chính phủ chống chủ nghĩa khủng bố. 2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về sự hợp tác công tư giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp Hoa Kì Ở Việt Nam, hợp tác giữa các cơ sở GDĐH với DN không còn là điều mới mẻ; nhưng hiện tại, mối quan hệ này chưa phát huy được hết tác dụng, bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đên việc lãng phí nguồn lực của các bên. Từ việc nghiên cứu lí thuyết và mô hình hợp tác công tư đã được áp dụng thành công tại Hoa Kì có thể rút ra một số bài học của mối quan hệ này là: (1) Để đạt được hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào việc chọn lựa, gắn kết, lắp ráp các đối tác phù hợp; (2) Để có sự hợp tác hoàn hảo cần những người có chuyên môn cao, am hiểu về nhiều lĩnh vực; (3) Việc tiếp cận sự đổi mới cần các kĩ năng tốt nhất, mối quan hệ mà các dự án hợp tác đòi hỏi mỗi bên tham gia cần nắm vững và phát triển cẩn thận các tiêu chí để đánh giá đúng các đối tác tiềm năng; (4) Việc nghiên cứu kĩ các phương án hợp tác và lịch sử của đối tác tiềm năng là điều cần thiết đối với các bên liên quan. Để có thể áp dụng tốt các bài học trên, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cần xem xét thực hiện một số công việc nhằm thúc đẩy, phát triển mối quan hệ giữa cơ sở GDĐH và DN như sau: 62
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 2.3.1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về nguồn nhân lực cho sự hợp tác Tại Hoa Kì, các đối tác đều tham gia vào việc xây dựng các chính sách, trong đó chủ yếu tập trung phát triển vào nhu cầu ngày càng tăng về nguồn lực mới cho nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đến công nghệ thông tin và công nghệ sinh học để đáp ứng nhu cầu mới nổi. Nhiều người tin đây là nền tảng để duy trì sự tăng trưởng dựa trên công nghệ mà ngày nay đã đặc trưng cho nền kinh tế Hoa Kì. Như vậy, bài toán đưa ra không phải là các chương trình hợp tác này có tồn tại hay không, mà nguồn nhân lực có đủ tốt hay không mà việc hoàn thiện chính sách và cơ chế pháp lí đối với nguồn nhân lực sẽ là tiêu chuẩn quan trọng để đạt được những lợi ích như mong muốn. 2.3.2. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để sự hợp tác thành công Từ các chính sách của chính phủ liên bang Hoa Kì cho thấy việc định hình môi trường đổi mới sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành vốn và quản trị DN, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động cạnh tranh và quyết định hiệu suất. Phạm vi và tính đa dạng của các chính sách này là đáng kể, liên quan đến thuế, tài chính, tiền tệ, giáo dục và đào tạo; xúc tiến thương mại; chính sách quản lí, bảo vệ sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, kiểm soát xuất khẩu… (Ed Zchau, 1986). Những chính sách này đều có thể ảnh hưởng và quyết định trực tiếp đến quá trình đổi mới; ví dụ: bảo vệ sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng trong sự phát triển liên tục của ngành công nghệ sinh học. Do đó, Chính phủ là bộ phận quyết định trong việc thúc đẩy, phát triển sự hợp tác, thể hiện vai trò là chủ thể, tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhất để giải phóng nguồn lực và thu hút sự tham gia của các bên. 2.3.3. Xác định giá trị của giới lãnh đạo Giới lãnh đạo cung cấp chuyên môn kĩ thuật cao, trình độ quản lí có kinh nghiệm và linh hoạt. Lãnh đạo hiệu quả cũng là một tài sản trong việc truyền tải thông điệp của tập đoàn tới chính phủ và các bên liên quan khác. Đối với các chương trình của chính phủ tài trợ, việc xác định các nhóm quản lí hiệu quả là một phần quan trọng của quy trình đánh giá. Bằng chứng điển hình là sự lãnh đạo hiệu quả trong việc quản lí các khu KHCN như các công ty tại Silicon Valley… đã được chứng minh là cần thiết cho lợi ích và tầm quan trọng của mối quan hệ giữa phòng thí nghiệm quốc gia, lực lượng nghiên cứu của các trường ĐH và nguồn vốn của các tập đoàn DN. 2.3.4. Nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của các cam kết và chi phí chung trong quá trình hợp tác Thành công trong quan hệ hợp tác phụ thuộc vào các bên tham gia hành động theo cách thúc đẩy các mục tiêu chung. Động lực này có thể được tăng cường nếu các bên đưa ra cam kết về quỹ hoặc nguồn lực. Hiệp hội hoạt động tốt nhất khi có lợi ích rõ ràng thông qua việc tham gia hoặc tăng chi phí khi giảm hợp tác. Có một cổ phần lớn trong kết quả của quan hệ đối tác giúp tăng cường động lực của những người liên quan để làm quan hệ thành công. Tương tự, đóng góp tư nhân cho tập đoàn cũng cung cấp một động lực mạnh mẽ để chấm dứt những nỗ lực không đạt được mục tiêu. Mục tiêu này bao gồm thúc đẩy NC&PT nhằm cải thiện sức khỏe, khám phá nguồn năng lượng mới, tăng cường truyền thông để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của DN. 2.3.5. Vai trò của việc xây dựng hệ thống đánh giá theo tiêu chuẩn Việc đưa vào một chương trình đánh giá phù hợp và liên tục là một phần không thể thiếu trong tổ chức của quan hệ đối tác. Lần lượt đo lường sự thành công đòi hỏi phải có sự rõ ràng về mục tiêu hợp tác và kết quả mong muốn. Qua thực tiễn tại Hoa Kì cho thấy, các mục tiêu của quan hệ đối tác khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá thành công cũng khác nhau. Ví dụ như quá trình đánh giá của chương trình Công nghệ tiên tiến ở nhiều khía cạnh là sự kết hợp quy trình lựa chọn cạnh tranh khắt khe với đánh giá độc lập về thành tích thương mại và kĩ thuật của dự án, cũng như tiềm năng của nó đối với lợi ích kinh tế trên diện rộng. Điều quan trọng, các giải thưởng thường xuyên được theo dõi và đánh giá nghiêm ngặt. Khi kết quả của hoạt động đánh giá được tích hợp nhiều hơn vào các hoạt động của chương trình, kiến thức được tạo ra có thể giúp các đối tác thích nghi theo cách thúc đẩy kết quả tốt hơn. 3. Kết luận Rõ ràng, hợp tác công tư là một mối quan hệ phản ánh các vấn đề cụ thể với việc chuyển từ ngành công nghiệp sang xã hội tri thức. Việc hợp tác này trải qua quá trình chuyển đổi từ mối quan hệ kinh doanh của DN với trường ĐH nhằm giải quyết các vấn đề như tìm nguồn cung ứng sản phẩm mới hoặc cung cấp một lối thoát cho nghiên cứu học thuật… Mối quan hệ này rất mở rộng so với trước đây. Nó không chỉ tập trung ở việc xây dựng hạ tầng cơ sở mà hiện nay còn bao gồm cả các tổ chức văn hóa, phi lợi nhuận và xã hội dân sự. Thông qua sự hợp tác, học thuật không còn giới hạn trong các lĩnh vực cơ bản mà đã được mở rộng từ các ngành kĩ thuật hay y học sang nghiên cứu đa ngành liên quan đến khoa học xã hội và nghệ thuật, bao gồm cả GDĐH và sau ĐH, cũng như học tập suốt đời. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả cảm ơn sự tài trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo qua đề tài “Đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp trong hoạch định chiến lược, quản trị rủi ro và hợp tác công tư”, thuộc Chương trình KH&CN cấp Bộ, Mã số: CT.2019.09.07. 63
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 59-64 ISSN: 2354-0753 Tài liệu tham khảo Axel Sommer (2011). Managing Green Business Model Transformations. Springer. Bogers, M.; Afuah, A.; Bastian, B. (2010). Users as innovators: A review, critique, and future research directions. Journal of Management, 36 (4), 857-875. Böhme, G. et al. (1978). The scientification of Technology. Chapple, W., A. Lockett, D. Siegel (2005). Assessing the relative performance of U.K. university technology transfer offices: parametric and non-parametric evidence. Forthcoming in Research Policy. Charles W. Wessner, (Editor) (2003). Government-Industry Partnerships for The Development of New Technologies. National Research Council of The National Academies. Washington, D.C. Chesbrough, Henry William (2003). Open Innovation: The new imperative for creating and profiting from technology. Boston. Harvard Business School Press. ISBN 978-1578518371. Ed Zchau (1986). Government Policies for Innovation and Growth in NRC, The Positive Sum Strategy, Harnessing Technology for Economic Growth, Washington, D.C. 1986, pp. 535-39. Emanuela Todeva, David Knoke (2005). Strategic Alliances and Models of Collaboration. Researchgate. Etzkowitz Henry, Leydesdorff (1995). The Triple Helix - University-Industry-Government Relations: A Laboratory for Knowledge Based Economic Development. Rochester, NY. SSRN 2480085. Francisco Moris (2018). Definitions of Research and Development: An Annotated Compilation of Official Sources. National Center for Science and Engineering Statistics National Science Foundation. Fusfeld, H.I. (1995). Industrial Research - Where It’s Been, Where It’s Going. Research-Technology Management. Geuna, A. (1999). The Economics of Knowledge Production. Funding and the Structure of University Research. Godin, Benoît (2006). The Linear Model of Innovation: The Historical Construction of an Analytical Framework. Science, Technology & Human Values, 31(6), 639-667. Hagedoorn, J., A. N. Link & N.S. Vonortas (2000). Research partnerships. Research Policy, 29, 567-586. Ilana Kowarski (2020). 10 Universities with the Biggest Endowments. U.S. News. Ilkka., Tuomi (2006). Networks of innovation: change and meaning in the age of the Internet. Oxford University. Jeffrey Mervis (2017). U.S. government share of basic research funding falls below 50%. AAAS. Sciencemag. Kenneth L. Simons, Judith L. Walls (2008). The U.S. National Innovation System. V.K. Narayanan and Gina Colarelli O'Connor, Encyclopedia of Technology and Innovation, Wiley-Blackwell. Laestadius & H. Etzkowitz (eds). Innovation Governance in an Open Economy: Shaping Regional Nodes in a Globalized World. Routledge. National Research Council (2002). Making the Nation Safer: The Role of Science and Technology in Countering Terrorism. Washington, D.C.: National Academy Press. Nicolov, Mirela & Badulescu, (2012). Different Types of Innovations Modeling. Proceedings of the 23rd International DAAAM Symposium, 23(1), ISSN 2304-1382 ISBN 978-3-901509-91-9, B. Katalinic, Published International, Vienna, Austria, EU. Patrick Llerena (2010). Elements for a knowledge-based theory of the firm: towards a dual theory of the firm. BETA, University of Strasbourg. Robert D. Atkinson (2014). Understanding the U.S. National Innovation System. The Information Technology & Innovation Foundation. Rothwell, Roy (1994). Towards the Fifth‐generation Innovation Process. International Marketing. Saad, Mohammed; Zawdie, Girma, eds. (2011). Theory and Practice of the Triple Helix Model in Developing Countries. Routledge. SBIR Report. https://www.sbir.gov. Small business innovation research (sbir) program policy directive. https://sbir.nih.gov. The Triple Helix Concept (2011). Stanford University Triple Helix Research Group. Virkkala, Åge Olav Mariussen, Antti Mäenpää, (2014). The Ostrobothnian Model of Smart Specialisation. ISBN 978-952-476-576-3. Publisher: University of Vaasa. Seija Virkkala, Age Olav Mariussen, Antti Maenpaa, Jerker Johnson (2014). Ostrobothnian Model of Smart Specialisation. ISBN 978-952-476-576-3. Publisher University of Vaasa. 64
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương ôn tập Đảng Cộng Sản Việt Nam
44 p | 254 | 73
-
Thoại Ngọc Hầu Và Công Cuộc Đào Kênh Ở An Giang Vào Nửa Đầu Thế Kỉ XIX
13 p | 282 | 16
-
Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử
3 p | 138 | 16
-
Kinh nghiệm quốc tế về chính sách bảo trợ xã hội đối với trẻ tự kỉ và gia đình ở một số nước trên thế giới
9 p | 114 | 12
-
SỰ THÔI THÚC PHẢI CẢI CÁCH Ở hOA KỲ
5 p | 98 | 11
-
Nghiên cứu tổng quan về chiến lược phát triển giáo dục STEM tại Hoa Kì và bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam
12 p | 96 | 11
-
Xu thế và chính sách của khoa học công nghệ thế giới những năm đầu thế kỷ XXI: Phần 2
179 p | 12 | 7
-
Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội
9 p | 66 | 4
-
Nâng cao vai trò khoa học xã hội và nhân văn phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế xã hội tỉnh Bình Dương thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa
7 p | 54 | 4
-
Văn hóa các quốc gia Đông Nam Á: Phần 1
106 p | 16 | 4
-
Đo lường năng lực kĩ thuật số của sinh viên: Nghiên cứu trường hợp tại Thành phố Hồ Chí Minh
6 p | 12 | 3
-
Bàn về thuật ngữ kĩ năng, kĩ năng nghề và phát triển kĩ năng nghề trong quản lí đánh giá, cấp chứng chỉ kĩ năng nghề quốc gia
6 p | 30 | 3
-
Vận tải hàng hóa ở cảng Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cuối thế kỉ XIX
10 p | 11 | 3
-
Quá trình bần cùng hóa nông dân Bắc kì thời thuộc địa (1858-1945)
7 p | 30 | 2
-
Kinh nghiệm của Hoa Kì về dự báo số lượng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông
6 p | 32 | 2
-
Những hạn chế của vua Càn Long trong thời kì cầm quyền (1735 – 1796)
8 p | 57 | 2
-
Chính sách cân bằng Việt Nam của chính quyền Nixon sau Hiệp định Paris (01-6/1973)
13 p | 54 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn