LUẬN VĂN:

Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư

xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên

địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Những năm gần đây, cùng với môi trường chính trị ổn định, nền kinh tế nước ta

phát triển khá mạnh, GDP hàng năm tăng từ 7,5-8%. Một trong những yếu tố góp phần

đạt được những thành tựu đó là tăng đầu tư xây dựng (ĐTXD). Tuy nhiên, cùng với

những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế thì ĐTXD ở nước ta, nhất là ĐTXD từ vốn ngân

sách Nhà nước (NSNN), đang gặp phải nhiều vấn đề nan giải, trong đó có tình trạng thất

thoát, lãng phí (TTLP).

Thực tế những năm vừa qua đã cho thấy, nhiều nơi, nhiều lúc tình trạng thất

thoát, đặc biệt tình trạng lãng phí trong ĐTXD đã xảy ra rất trầm trọng. Các cơ quan

pháp luật, Chính phủ cũng đã tiến hành nhiều biện pháp ngăn chặn, xử lý, nhiều vụ án

đã được đưa ra xét xử nghiêm minh, nhưng vẫn còn nhiều vụ việc, nhiều công trình

lãng phí tiền bạc của NSNN nhiều tỷ đồng chưa được giải quyết một cách kịp thời,

đúng pháp luật. Vẫn còn một số công trình thiết kế không đảm bảo, thi công chưa

xong thì phải sửa đổi thiết kế, đến khi hoàn thành thì cũng chẳng có thể sử dụng như

dự kiến. Có công trình xây dựng (CTXD) chỉ vài năm sau đã không đáp ứng được nhu

cầu phải cải tạo, nâng cấp rất tốn kém...

Giáo sư David Dapice của Đại học Harvard cho rằng, với tốc độ đầu tư cao như

báo cáo của Việt Nam, tỷ lệ tăng trưởng lẽ ra phải đạt mức 9-10%. Như vậy, với tốc

độ tăng trưởng thực tế đạt được, số vốn TTLP trong đầu tư hàng năm lên đến 1 tỷ USD

[11].

Là một địa phương đang trong quá trình phát triển, vốn ĐTXD từ NSNN

hàng năm lên đến hàng nghìn tỷ đồng, Thanh Hoá cũng nằm trong tình trạng TTLP

như thế. Với mong muốn tìm ra các giải pháp giảm thiểu hơn nữa TTLP trong

ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh, đề tài “Chống thất thoát, lãng phí trong

đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” được

chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Từ năm 2003 đến nay, trên phạm vi cả nước, đã có nhiều bài nói, bài viết

đăng tải trên các Báo và Tạp chí, đồng thời có cả những cuộc hội thảo khoa học,

công trình nghiên cứu về tình hình và giải pháp chống TTLP trong ĐTXD. Có thể

nêu ra một số công trình nghiên cứu, bài báo và bài viết trên tạp chí như: Đề án

chống TTLP trong ĐTXD của Bộ Xây dựng thực hiện tháng 9/2004; Hội thảo

khoa học về “Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong XDCB – Thực

trạng và giải pháp” do Bộ Công an tổ chức ngày 10/11/2005 tại Hà Nội; luận văn

thạc sỹ kinh doanh và quản lý “Một số giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong

đầu tư xây dựng từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Đak Lak” của tác giả Phan

Xuân Lĩnh, năm 2006; luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý “Phòng, chống thất

thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ nguồn ngân sách Nhà nước ở nước ta

hiện nay” của tác giả Ngô Văn Quý; bài “Thất thoát vốn đầu tư XDCB và giải

pháp ngăn chặn” của tác giả Trần Lưu Dung, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự

báo, số 8/2004; bài “Tham nhũng, tiêu cực trong đầu tư XDCB, tiền thất thoát đủ

trả lương cho bộ máy hành chính, sự nghiệp cả nước” của tác giả Trần Công

Hùng, đăng trên Báo Tiền phong số 225 ngày 11/11/2005; bài “Tập trung chỉ đạo

tạo sự chuyển biến rõ rệt trong lĩnh vực đầu tư XDCB” của tác giả Võ Hồng

Phúc, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, đăng trên Tạp chí Thời báo Kinh tế số 1/2005; bài

“Phát triển kinh tế – xã hội và cuộc đấu tranh chống TTLP” của tác giả Trương

Giang Long, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 11/2005; bài “Những

nguyên nhân chủ yếu và biện pháp nhằm giảm thiểu TTLP trong đầu tư và xây

dựng” của tác giả Hoàng Xuân Hoà, Ban Kinh tế Trung ương, đăng trên Tạp chí

Khu công nghiệp Việt Nam số 9/2005; ....

Ngoài ra còn còn có một số công trình khác đã công bố cũng liên quan đến

TTLP, quản lý kiểm tra, kiểm soát hoạt động ĐTXD. Tuy nhiên, chưa có công trình

nào nghiên cứu đề tài này dưới dạng luận văn, luận án khoa học trên địa bàn tỉnh

Thanh Hoá nhằm giúp cho địa phương chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN có

hiệu quả hơn. Thực hiện đề tài, luận văn sẽ tham khảo, lựa chọn, kế thừa những ý

tưởng của các công trình đã nghiên cứu và công bố, đồng thời đi sâu nghiên cứu lý

luận để đề ra những giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn

tỉnh Thanh Hoá.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là nhận dạng và phân tích thực trạng TTLP trong ĐTXD

từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và đề xuất các giải pháp chống TTLP hiệu

quả hơn

Phù hợp với mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở khoa học của việc chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.

- Phân tích thực trạng TTLP và thực trạng chống thất thoát, lãng phí trong đầu

tư xây dựng từ vốn NSNN ở Thanh Hoá.

Đề xuất các phương hướng và giải pháp tăng cường chống TTLP trong ĐTXD

từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu trong luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình trạng TTLP và giải pháp chống

TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

Phạm vi nghiên cứu trong luận văn bao gồm khảo sát thực trạng các dạng TTLP

và các giải pháp chống TTLP ở các công trình xây dựng từ vốn NSNN do Uỷ ban nhân

dân (UBND) tỉnh Thanh Hoá quản lý, không nghiên cứu các dự án ĐTXD bằng nguồn

vốn khác.

Thời gian khảo sát đánh giá từ năm 2003 đến nay và đề xuất giải pháp cho thời

gian tới.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, các

thành tựu khoa học kinh tế, kỹ thuật hiện đại.

Trong khi giải quyết các vấn đề cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp duy vận

biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương

pháp tổng hợp dựa trên nghiên cứu các tài liệu, các văn bản, báo cáo, kết luận của các

ngành liên quan ở cấp tỉnh, các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương, địa

phương về TTLP và chống TTLP trong ĐTXD trong thời gian qua gắn với thực tiễn ở

Thanh Hoá. Trong phạm vi hẹp có sử dụng ý kiến của các chuyên gia.

6. Những đóng góp khoa học của luận văn

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về TTLP và phương thức chống TTLP trong

ĐTXD từ vốn NSNN.

- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ

nguồn vốn NSNN ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến nay.

- Đề xuất giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn vốn NSNN ở Thanh

Hoá trong thời gian tới để có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng

của tỉnh trong việc xây dựng chương trình công tác trong lĩnh vực phòng, chống tham

nhũng, TTLP trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba (khoá X) của

Đảng

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn

được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.

Chương 1

Một số vấn đề chung về thất thoát, lãng phí

và chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư

xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

1.1. một số vấn đề chung về đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

1.1.1. Đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

1.1.1.1. Khái niệm đầu tư xây dựng

Đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm thu được kết

quả lớn hơn trong tương lai.

Nếu xét về tính mục đích, thì đầu tư là hoạt động không chỉ nhằm bảo toàn giá

trị đầu tư, mà còn phải sinh lời. Mức độ sinh lời càng cao thì càng khuyến khích nhà

đầu tư bỏ vốn đầu tư. Tuy nhiên, với nhà đầu tư là các cơ quan nhà nước thì, ngoài các

dự án đầu tư buộc phải sinh lời, nhiều dự án đầu tư hướng tới phúc lợi xã hội hơn là lợi

nhuận cá biệt của dự án.

Nếu xét về phương diện hoạt động thực tiễn, đầu tư là một quá trình lâu dài từ

khâu chuẩn bị đầu tư, khâu thực hiện đầu tư đến khâu khai thác kết quả đầu tư. Nhưng

trong thực tiễn kinh tế, nhiều khi người ta chỉ chú trọng quá trình chuẩn bị và thực

hiện đầu tư, tách rời khâu khai thác kết quả đầu tư ra khỏi quá trình đầu tư.

Có rất nhiều loại đầu tư. Tuỳ theo các góc độ xem xét khác nhau, người ta có

thể phân ra đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch; đầu tư trực tiếp và đầu tư gián

tiếp; ĐTXD và đầu tư không xây dựng; đầu tư mới và đầu tư mở rộng, đầu tư hiện đại

hoá…

Đầu tư xây dựng (ĐTXD) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các tài sản cố định

cho các tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị và hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng kỹ

thuật, kết cấu hạ tầng KT-XH, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, quốc phòng, an

ninh (QPAN) và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Đây là dạng đầu tư rất quan

trọng vì nó góp phần nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia. Bản thân quá trình

ĐTXD luôn là một phức hợp hoạt động trong đó nổi lên vai trò của chủ bỏ vốn đầu tư,

chủ sử dụng kết quả đầu tư, tổ chức đấu thầu xây dựng, nhóm dân cư thụ hưởng kết

quả đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTXD. Trong ĐTXD hoạt

động xây dựng giữ vị trí quan trọng, quyết định kết quả đầu tư.

- Hoạt động xây dựng là là quá trình bao gồm: lập quy hoạch xây dựng, lập dự

án đầu tư xây dựng công trình, thiết kế xây dựng công trình, thi công xây dựng công

trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án ĐTXD công trình, lựa chọn

nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng

công trình... Hoạt động xây dựng kết tinh thành công trình xây dựng [16, tr.16].

- Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con

người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất,

có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên

mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây

dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, năng lượng và

các công trình khác... [16, tr.16].

1.1.1.2. Đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

a. Phân loại vốn đầu tư xây dựng

Có nhiều cách phân loại vốn ĐTXD

* Nếu căn cứ vào quan hệ của chủ đầu tư và nguồn vốn đầu tư thì người ta phân

thành vốn chủ sở hữu (vốn góp thêm, vốn huy động từ phát hành cổ phiếu, vốn hình

thành từ lợi nhuận không chia, từ các quỹ của doanh nghiệp…) và vốn vay (vay các tổ

chức tín dụng, vay nước ngoài, vay chính phủ, vay thông qua phát hành trái phiếu …)

* Nếu căn cứ vào tiêu chí ai tài trợ vốn cho đầu tư thì người ta chia vốn đầu tư

thành:

+ Vốn ĐTXD do khu vực tư nhân trong nước tài trợ. Đây là nguồn vốn đầu tư

hình thành từ vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay của các tổ chức tài chính trong

nước, vốn huy động trong dân cư…

+ Vốn ĐTXD do tư nhân nước ngoài tài trợ gồm vốn của tư nhân, của doanh

nghiệp và của các tổ chức tài chính nước ngoài.

+ Vốn ĐTXD do Chính phủ và các tổ chức tài chính nước ngoài tài trợ trực tiếp

không qua NSNN bao gồm các khoản vốn hỗ trợ trực tiếp các tổ chức và cá nhân trong

nước đầu tư.

+ Vốn ĐTXD do Nhà nước tài trợ gồm vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước và vốn ĐTXD được cấp trực tiếp từ NSNN (từ đây gọi là vốn ĐTXD từ NSNN).

ở nước ta, vốn ĐTXD từ NSNN có tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng, thường

chiếm tỷ trọng từ 40-50% tổng đầu tư xã hội. Xét trên tổng thể nền kinh tế, vốn ĐTXD

từ NSNN được hình thành từ 2 kênh (i) từ khoản tích luỹ của NSNN: là phần còn lại

của tổng thu NSNN sau khi trừ chi phí thường xuyên, chi trả nợ, chi lập quỹ dự trữ tài

chính và một số khoản chi đầu tư phát triển khác; (ii) là khoản vay trong nước (tín phiếu,

công trái, trái phiếu Chính phủ) và vay nước ngoài thông qua các dự án ODA được đưa

vào cân đối NSNN.

Theo phân cấp quản lý của Luật Ngân sách nhà nước, vốn ĐTXD từ NSNN bao

gồm (i) vốn ĐTXD do trung ương quản lý và (ii) vốn ĐTXD do địa phương quản lý.

- Vốn ĐTXD do trung ương quản lý là số vốn đầu tư từ ngân sách trung ương

được cân đối cho các chương trình, dự án đầu tư của các Bộ, ngành trung ương theo kế

hoạch đầu tư xây dựng hàng năm, nằm trong quy hoạch và kế hoạch 5 năm do Quốc

hội thông qua.

- Vốn ĐTXD do địa phương quản lý bao gồm vốn đầu tư được cân đối từ tổng

chi ngân sách địa phương dành cho đầu tư phát triển, vốn được hỗ trợ, bổ sung từ

nguồn vốn ĐTXD tập trung của ngân sách trung ương và vốn ĐTXD từ nguồn để lại

theo Nghị quyết của Quốc hội.

b. Đặc điểm của vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước

Vốn ĐTXD từ NSNN thường tập trung cho các dự án xây dựng có vốn lớn, các

dự án thuộc lĩnh vực công cộng, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, vào các lĩnh vực có

thời gian xây dựng kéo dài, thời gian thu hồi vốn lâu hoặc không thu hồi vốn mà chỉ

tính lợi ích và hiệu quả xã hội như các công trình giao thông, điện nước, trường học,

trạm y tế, bệnh viện công, công sở, các công trình văn hoá, công trình phục vụ quốc

phòng và an ninh. Vì không thể phân tích được hiệu quả kinh tế tài chính cá biệt của

các dự án đầu tư này, nên khi xây dựng dự án dễ có xu hướng xuê xoa trong xem xét

các yêu cầu và chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư, hệ quả là có thể tạo cơ hội TTLP vốn

đầu tư của Nhà nước.

ở nước ta, vốn ĐTXD từ NSNN, về nguyên tắc, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

nước đại diện quản lý nên khó tìm ra cá nhận chịu trách nhiệm đích thực về hiệu quả

sử dụng nguồn vốn đó. Để thực hiện ĐTXD, Nhà nước uỷ thác vốn đó cho nhiều cơ

quan nhà nước với cơ chế quản lý nhiều khâu, nhiều cấp phức tạp và một chế độ trách

nhiệm chung. Chính vì thế, khó tìm thấy trách nhiệm và động lực cá nhân trong bảo

toàn và sử dụng hiệu quả vốn ĐTXD từ NSNN. Hơn nữa, chế dộ, cơ cấu phân quyên

quản lý và cơ chế vận hành của các cơ quan nhà nước thường lạc hậu so với yêu cầu

của thực tế nên dễ dẫn đến hiện tượng quan liêu trong quản lý quá trình sử dụng vốn

ĐTXD từ NSNN. Những đặc điểm này làm cho vốn ĐTXD từ NSNN được coi như

"của chùa", tiềm ẩn nhiêu cơ hội để các phần tử tiêu cực trong bộ máy quản lý nhà

nước và các chủ thể liên quan lợi dụng tham nhũng, làm thất thoát tiền vốn của Nhà

nước.

Ngoài ra, không loại trừ những đề án, kế hoạch, chương trình được đầu tư theo

phong trào, theo mục tiêu chính trị, xã hội thuần tuý, khó hoặc không quan tâm đến

hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư… Bên cạnh đó, quá trình đầu tư các công trình hình

thành bằng vốn ĐTXD từ NSNN, từ khâu kế hoạch, thiết kế, thi công, giám sát thi

công, đấu thầu, mua sắm thiết bị đến nghiệm thu công trình, thường được thực hiện

theo một dây chuyền kép kín trong nội bộ các cơ quan nhà nước, do đó thường xảy ra

tình trạng các chủ đầu tư và các nhà thầu chia chác nhau tiền của Nhà nước.

Một đặc điểm nữa của vốn ĐTXD từ NSNN là quy mô vốn lớn nên vừa đòi hỏi

quá trình chuẩn bị đầu tư phức tạp, kéo dài (thậm chí còn bị thói quan liêu của cán bộ

nhà nước làm cho dài hơn), đòi hỏi sự phê chuẩn của nhiều cơ quan nhà nước nên càng

tạo cơ hội cho nạn tham ô, tham nhũng. Ngoài ra, quy chế và kỷ luật đấu thầu các công

trình xây dựng bằng tiền NSNN thường chịu sức ép của các cơ quan, tổ chức có thế

lực trong lĩnh vực quyết định đầu tư của Nhà nước.

c. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước

ĐTXD từ vốn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác

động đến các quá trình kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ

vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bằng việc cung cấp những dịch vụ công

cộng như hạ tầng kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng... mà các thành phần kinh tế

khác không muốn, không thể hoặc không được đầu tư, các dự án đầu tư từ NSNN

được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã

hội phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

ĐTXD từ vốn NSNN được coi là một công cụ để Nhà nước chủ động điều tiết,

điều chỉnh hàng loạt các quan hệ và những cân đối lớn của nền kinh tế như điều chỉnh

cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ thông qua các chương trình, dự án đầu tư lớn như

chương trình 135, dự án xây dựng các tuyến đường ô tô vào trung tâm các xã, dự án

xây dựng các hồ đập thuỷ lợi lớn như Hồ Cửa Đạt, chương trình kiên cố hoá kênh

mương, chương trình kiên cố hoá lớp học... Nhà nước đã bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng để

đầu tư phát triển kinh tế ở những vùng sâu, vùng xa nhằm thực hiện chủ trương xoá

đói giảm nghèo, đảm bảo sự công bằng trong việc thụ hưởng các thành quả của tăng

trưởng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc.

ĐTXD từ vốn NSNN là “vốn mồi” để thu hút, tạo điều kiện thu hút các nguồn

lực trong nước và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Có đủ vốn đầu tư trong nước mới

góp phần giải ngân, hấp thụ được các nguồn vốn ODA, có hạ tầng kinh tế – xã hội tốt

mới thu hút được vốn FDI; có vốn đầu tư "mồi" của Nhà nước mới khuyến khích phát

triển các hình thức BT, BOT...

ĐTXD từ vốn NSNN có vai trò mở đường cho sự phát triển nguồn nhân lực,

phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Các dự án đầu tư

vào các lĩnh vực trên rất tốn kém, độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp nên thường

được Nhà nước đầu tư bằng nguồn NSNN, như dự án đầu tư các phòng thí nghiệm, các

bệnh viện, các trung tâm y tế dự phòng, các trạm trại nghiên cứu giống mới, các

trường đại học... sẽ cung cấp các dịch vụ công, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư

của nền kinh tế – xã hội.

1.1.2. Trình tự trong hoạt động đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà

nước

Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng và đặc điểm của sản xuất xây dựng chi

phối, nên hoạt động ĐTXD (đặc biệt là hoạt động ĐTXD từ vốn NSNN) đòi hỏi phải

tuân thủ trình tự các bước theo quy định. Vi phạm trình tự ĐTXD sẽ gây ra TTLP và

tạo sơ hở cho tham nhũng trong hoạt động ĐTXD.

Theo Luật Xây dựng, trình tự thực hiện dự án đầu tư bao gồm các bước sau:

Bước 1: Lập quy hoạch chi tiết

Bước 2: Lập hồ sơ xin chủ trương đầu tư

Bước 3: Lập dự án đầu tư hoặc Báo cáo kinh tế – kỹ thuật

Bước 4: Thẩm định và phê duyệt dự án

Bước 5: Chuẩn bị mặt bằng

Bước 6: Khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công và tổng dự toán công trình

Bước 7: Thẩm định và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và tổng dự toán

Bước 8: Tổ chức đấu thầu

Bước 9: Ký kết hợp đồng, tổ chức thi công xây dựng

Bước 10: Nghiệm thu, quyết toán và bàn giao đưa vào khai thác sử dụng

Theo tuần tự, bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau. Tuy nhiên, do tính chất

và quy mô của dự án mà một vài bước có thể gộp vào nhau như: Đối với dự án vừa và

nhỏ thì có thể không cần phải có bước lập quy hoạch chi tiết, lập hồ sơ xin chủ trương

đầu tư mà lập luôn báo cáo kinh tế – kỹ thuật xây dựng công trình. Khi bước trước đã

thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện các bước tiếp theo phải kiểm tra để đánh

giá đầy đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của bước đó, nếu đạt yêu cầu về

các tiêu chuẩn, quy phạm đã quy định (nếu có) cho bước đó được cấp có thẩm quyền

chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo. Đáng lưu ý nhất là thực hiện trình tự theo

các bước phải được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt nghiêm túc.

Thực hiện đầy đủ các yêu cầu về trình tự nêu trên là cơ sở để khắc phục những

khó khăn, tồn tại do đặc điểm của sản phẩm và đặc điểm của sản xuất xây dựng gây ra.

Vì vậy, những quy định về trình tự ĐTXD có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến chất

lượng công trình, chi phí xây dựng công trình trong quá trình thi công xây dựng, tác

động của công trình sau khi hoàn thành xây dựng đưa vào sử dụng đối với nền kinh tế

của vùng, của khu vực cũng như đối với cả nước. Do đó, việc chấp hành trình tự đầu tư

và xây dựng có ảnh hưởng rất lớn, có tính chất quyết định không những đối với chất

lượng công trình, dự án đầu tư mà còn ảnh hưởng rất lớn đến TTLP, có hay không tạo

sơ hở cho tham nhũng về vốn và tài sản trong hoạt động ĐTXD...

Như vậy, việc thực hiện nghiêm túc trình tự ĐTXD là một đặc trưng cơ bản trong

hoạt động đầu tư, có tác động trực tiếp và gián tiếp đến tình trạng TTLP, tham nhũng

trong hoạt động ĐTXD. Vì vậy, quá trình ĐTXD phải có giải pháp quản lý thích hợp để

ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực làm cho TTLP, tham nhũng có thể xảy ra.

1.2. thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

1.2.1. Nhận diện thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước

1.2.1.1. Khái niệm thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng

Hiện nay chưa có tài liệu, văn bản quy phạm nào đưa ra một định nghĩa hay

một khái niệm cụ thể nào về thất thoát, nhưng qua thực tế hoạt động kinh tế – xã hội

nói chung và trong ĐTXD nói riêng thì có thể hiểu thất thoát là tổn thất, mất vốn đầu

tư do các hành động chủ quan của những người liên quan nhằm chuyển nguồn vốn đó

thành tài sản của những người và tổ chức có liên quan mà không phải chủ đầu tư.

Như vậy khái niệm thất thoát hàm ý là gian lận, trộm cắp, tức là những người

liên quan đến quá trình thực hiện ĐTXD đã tự ý lấy ra từ tổng vốn đầu tư một khoản

giá trị nào đó và biến chúng thành sở hữu của mình. Thất thoát là hành vi mang tính

đạo đức, cố ý làm sai, trái các quy định của pháp luật, là hành động đáng bị xã hội lên

án và nhà đầu tư phải tìm mọi cách loại trừ chúng ra khỏi dự án đầu tư của mình.

ở một khía cạnh khác thì thất thoát là phần giá trị vốn bị mất đi, không sử dụng

vào công trình do bị rút bớt như một số công trình đáng ra phải dùng thép fi.20 nhưng

chỉ dùng thép fi.18; do bị thay đổi chủng loại, chất lượng vật tư để lấy chênh lệch giá,

như thay gạch thủ công cho gạch tuy nen; thay gỗ nhóm 2 bằng gỗ nhóm 3, hoặc do

khai man, khai khống để trục lợi như thực tế không phải vét bùn nhưng khai khống

khối lượng vét bùn. Điểm đặc trưng của thất thoát là nguồn giá trị to lớn lấy ra từ tổng

vốn đầu tư, được hạch toán vào chi phí xây dựng công trình, nhưng thực tế không

được đưa vào công trình. Đó là hành vi của những kẻ xấu lợi dụng công trình xây

dựng để rút tiền của Nhà nước biến thành tài sản riêng. Hành vi này không những để

lại hậu quả chất lượng công trình không đảm bảo, làm giảm hiệu quả ĐTXD công

trình, mà còn gây bất bình trong xã hội.

Khác với thất thoát, lãng phí trong ĐTXD cơ bản là việc chi phí tiền vốn, tài

sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên cho công trình nhiều hơn

mức cần thiết hoặc công trình xây dựng không được sử dụng hiệu quả cho phép do quy

hoạch, chất lượng, thời gian xây dựng công trình không hợp lý. Đối với lĩnh vực đã có

định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng

phí là việc quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà nước, thời gian lao động trong

khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc

không đạt mục đích đã định [19, tr.62].

Lãng phí biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau: lãng phí sức lao động, thời

gian, tiền của. Song việc đo lường mức độ lãng phí lại rất khó khăn, khó định lượng

chính xác. Cùng một sự vật, một hiện tượng ở góc độ này là lãng phí, nhưng ở góc độ

khác lại không lãng phí. Việc sử dụng nguồn lực đúng định mức, đúng tiêu chuẩn, chế

độ và đạt được mục tiêu trước mắt nhưng không đạt được mục tiêu lâu dài, không phù

hợp với tổng thể, không sử dụng được phải phá đi, hoặc phải cải tạo, sửa đổi bổ sung

mới sử dụng được, thực chất là lãng phí rất lớn, nhưng trong chỉ đạo thực tiễn có khi

lại quan niệm rằng không lãng phí. Hơn nữa, mức độ lãng phí nhiều khi chỉ thể hiện rõ

sau khi công trình đã được xây dựng, thậm chí sau khi đã được sử dụng. Chính vì thế

xác định xem ai là người có trách nhiệm trong việc để xảy ra lãng phí khi xây dựng

công trình thường là công việc rất khó khăn.

ở nước ta hiện nay các ngành chức năng chưa quan tâm đúng mức đến xây

dựng phương pháp xác định, đánh giá lãng phí, trong khi có lúc, có sự việc lãng phí

còn lớn hơn, tác hại nghiêm trọng hơn cả thất thoát.

Nguyên nhân dẫn đến lãng phí trong lĩnh vực ĐTXD, một phần, có thể do yếu

kém năng lực nên thiết kế và luận chứng kém, ví dụ như yếu kém về trình độ chuyên

môn, trình độ quản lý dẫn đến việc sử dụng vốn ĐTXD không đạt được mục đích, dẫn

đến công trình hoàn thành không sử dụng được hoặc phải cải tạo mới sử dụng được,

công trình không mang lại hiệu quả, hoặc hiệu quả thấp do chi phí xây dựng cao hơn

chi phí đầu tư cần thiết cho dự án. Phần khác, lãng phí còn do cơ chế chính sách quản

lý ĐTXD chưa hợp lý, chưa hiệu quả…Nếu thất thoát có động cơ cá nhân trục lợi, thì

lãng phí ít khi xuất phát từ sự trục lợi cá nhân.

Từ khái niệm trên cho ta thấy TTLP đều cùng phản ánh một hiện tượng giống

nhau, đó là sự mất mát nguồn lực, mất đi cơ hội tăng thêm năng lực cơ sở vật chất cho

xã hội. Thất thoát, lãng phí có quan hệ gần gũi, gắn bó với nhau. Nhiều dự án đầu tư

lãng phí là do động cơ thất thoát thúc đẩy. Cũng có khi khó phân biệt đâu là là thất

thoát, đâu là lãng phí, ví dụ như định mức xây dựng quá cao tạo điều kiện cho tổ chức

thi công rút ruột công trình… Do vậy trong thời gian qua, trên các phương tiện thông

tin đại chúng, kể cả trong diễn đàn Quốc hội, diễn đàn hội thảo khoa học và trong các

văn bản của Chính phủ, của các bộ, UBND tỉnh Thanh Hoá cụm từ thất thoát luôn đi

liền với cụm từ lãng phí. Trong luận văn này chúng tôi cũng sử dụng cách xem xét

chung đó mà không tách bạch rõ ràng đâu là thất thoát, đâu là lãng phí.

1.2.1.2. Các dạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước

Từ thực tiễn phát hiện các sai phạm trong quản lý ĐTXD từ vốn NSNN được

khái quát thành các dạng TTLP trong đầu tư xây dựng cơ bản. Dưới đây chúng tôi

trình bày một số dạng điển hình.

- TTLP vốn đầu tư do công trình xây dựng không theo quy hoạch hoặc hiệu quả

sử dụng công trình thấp do tuân thủ quy hoạch có chất klượng không cao, chủ trương

đầu tư không theo chiến lược lâu dài. ở nước ta, rất phổ biến hiện trạng nhiều dự án

phải bỏ dở như Nhà máy lọc dầu Tuy Hạ, hoặc sau khi hoàn thành, do nhiều lý do,

không thể đưa vào vận hành sản xuất như ở Công ty Dệt Nam Định, nhà sàng than

Nam Cầu Trắng – Hòn Gai hoặc sản xuất không có hiệu quả như hàng loạt nhà máy xi

măng lò đứng mua của Trung Quốc...Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng đó là do quy

hoạch phát triển chưa được lập đầy đủ, không đồng bộ, tính dự báo còn hạn chế, chưa

quy định được sự tuân thủ lẫn nhau giữa các loại quy hoạch phát triển.. .

- TTLP do khâu khảo sát, lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, tổng dự toán và

tổng mức đầu tư của dự án không chính xác. Nếu việc khảo sát, lập dự án đầu tư thiếu

chính xác, lập và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công, tổng dự toán, dự toán không chính

xác, sẽ dẫn tới hậu quả là các dự án khi thực hiện đều phát sinh khối lượng làm tăng vốn

đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án.

Đối với công trình xây dựng thì vai trò của tư vấn thiết kế hết sức quan trọng.

Họ không chỉ đóng vai trò làm cho công trình trở nên đẹp, tiện lợi mà còn ảnh hưởng

đến giá thành của công trình. Đây là những công việc sáng tạo thuần tuý khoa học,

nhưng trong lĩnh vực này không hiếm những nhà thiết kế, do năng lực yếu, đã làm

loang lổ bộ mặt kiến trúc đương đại của nước nhà. Hiện còn tồn tại nhiều công trình

xấu, kém do lỗi của các nhà thiết kế về các phương diện thiết kế không chính xác,

không chi tiết, dẫn đến tình trạng thi công đến đâu, hoàn chỉnh thiết kế và nghiệm thu

quyết toán đến đó. Thiết kế kém là nguyên nhân quan trọng gây TTLP lớn trong

xây dựng cơ bản. Thậm chí không ít nhà thiết kế đã thông đồng với chủ đầu tư và

đơn vị thi công quyết toán khống khối lượng, xác nhận các phần việc phát sinh để

lấy thêm tiền. Thủ đoạn cổ điển nhưng phổ thông hiện nay là nhà thiết kế thường

thiết kế dư ra (về kết cấu, vật liệu, khối lượng). Khi thi công, các nhà thi công biết ý

cứ rút định mức, thay đổi kết cấu vật liệu, nhưng khi quyết toán lại theo thiết kế.

- TTLP trong việc thực hiện công tác đấu thầu. Dạng TTLP này xuất hiện do

lập và duyệt giá gói thầu (giá trần xét thầu) vượt chế độ; xây dựng tiêu chuẩn đánh giá

hồ sơ mời thầu không đầy đủ, không rõ ràng; tiêu chí chấm thầu không cụ thể; thực

hiện ký kết hợp đồng giao thầu chậm so với kế hoạch đấu thầu; áp dụng sai hình thức

đấu thầu, chỉ định thầu cho các công trình phải đấu thầu; chọn thầu đơn vị không đủ

năng lực dẫn đến thi công chất lượng công trình không đảm bảo, phải phá đi làm lại

gây thiệt hại tiền của của Nhà nước. Ngoài ra còn phải kể đến dạng TTLP do tham

nhũng trong quá trình tổ chức đấu thầu như chủ đầu tư thông đồng với một hoặc nhiều

nhà thầu tham gia đấu thầu để gửi giá, nâng giá công trình, sau đó chia nhau. Cụ thể là

họ tiết lộ những thông tin quan trọng trong hồ sơ đấu thầu của các đối thủ cạnh tranh,

thậm chí còn hướng dẫn cách lập hồ sơ đấu thầu có những lợi thế cần thiết cho việc

chọn đơn vị trúng thầu. Hoặc khi lập hồ sơ đấu thầu và tổ chức đấu thầu, chủ đầu tư

đã cố ý đưa ra những điều kiện để loại bỏ những đối thủ cạnh tranh khác có giá thấp

hơn; hoặc thống nhất giá bỏ thầu thấp để trúng thầu, khi thi công sẽ cho phép phát

sinh và quyết toán cao hơn giá trúng thầu... Cũng còn phải kể đến các nhà thầu tham

gia đấu thầu thống nhất trước với nhau làm quân xanh, quân đỏ để một đơn vị trúng

thầu với điều kiện ưu đãi.

- TTLP do các dự án chậm tiến độ phải kéo dài thời gian. ở nước ta khâu chuẩn

bị đầu tư và đền bù, giải phóng mặt bằng còn rất yếu kém, không kịp thời, thi công

không đảm bảo tiến độ, làm tăng lãi vay trong quá trình đầu tư, tăng tiền thuê tư vấn,

kéo dài thời gian đưa công trình vào khai thác sử dụng... Tất cả các yếu kém đó gây

lãng phí rất lớn vốn đầu tư.

- TTLP trong khâu nghiệm thu, thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn

thành thể hiện dưới dạng nghiệm thu sai về khối lượng thực hiện, thực tế thi công ít

nhưng nghiệm thu nhiều, quyết toán tăng khống nhiều lần, áp dụng không đúng đơn

giá, định mức, chấp nhận cho đơn vị xây dựng thay đổi chủng loại vật tư, dùng các

loại vật tư rẻ tiền, chất lượng kém vào công trình, ăn bớt vật tư, rút ruột công trình, cố

tình nghiệm thu thanh quyết toán những hệ số ưu đãi ngoài chế độ quy định...

- TTLP trong khâu thanh, quyết toán vốn đầu tư dự án. Dạng TTLP này chủ

yếu là thanh toán vốn đầu tư chậm làm chậm tiến độ công trình; tạm ứng vốn vượt

định mức quy định, khó thu hồi; ứng khối lượng, thanh toán chưa đủ thủ tục; khi thi

công phải thay đổi, bổ sung chi phí phát sinh do thiết kế, dự toán không chính xác nên

khi thanh toán chỉ căn cứ vào báo cáo quyết toán của đơn vị thi công, không có giám

sát, kiểm tra cụ thể “thực thanh, thực chi” nên dễ thanh toán khống.

- TTLP do chi tiêu bừa bãi vượt định mức, lập khống chứng từ để rút tiền nhà

nước chia nhau dưới các hình thức phổ biến như chi vượt mức nhưng không báo cáo

hoặc không được cấp có thẩm quyền cho phép; lập khống chứng từ bằng cách lập

khống các bảng lương, bảng khoán, mua hoá đơn đỏ (liên 2) để khai khống các chi

phí; gửi giá đơn vị bán vật tư, cung cấp dịch vụ không được thể hiện qua hợp đồng và

hoá đơn bán hàng, đơn vị bán hàng trích chi trả lại cho bên mua dưới các hình thức

chiết khấu bán hàng và hoa hồng không đúng với nội dung và quy định của chính sách

tài chính kế toán. Trúng thầu hoặc được giao thầu công trình, sau đó không thực hiện

mà bán thầu hoặc giao cho một số người núp bóng đơn vị để thực hiện, hợp thức hoá

chứng từ rút tiền chênh lệch chia nhau…

1.2.2. Nguyên nhân thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước

1.2.2.1. Nguyên nhân từ cơ chế, chính sách pháp luật quản lý đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước

Nhà nước có hai tư cách trong quản lý các dự án ĐTXD từ vốn NSNN, đó là tư

cách của cơ quan công quyền và tư cách của chủ đầu tư.

Với tư cách cơ quan công quyền, những quy định của nhà nước về điều kiện để

ĐTXD cũng có thể gây TTLP cho các dự án đầu tư. Chẳng hạn, nếu các quy định về

quản lý đầu tư và quản lý xây dựng không minh bạch, khó thực hiện, khó tiếp cận cơ

quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thủ tục hành chính liên quan đến cấp phép,

giải phóng mặt bằng, quản lý môi trường, lao động...quá phức tạp, không công

khai...thì buộc các chủ đầu tư và người tham gia xây dựng, thi công dự án phải gian

dối hoặc “quan hệ ngầm” với công chức nhà nước nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án,

thậm chí để có được dự án theo ý tưởng của họ. Tất cả các chi phí không cần thiết cho

dự án như chi phí quan hệ, chi phí tạo đối thủ cạnh tranh giả, chi phí móc ngoặc với

bên thiết kế... là tiền thân của TTLP. Trong thực tế, nguyên nhân này rất quan trọng và

chiếm tỷ trọng lớn trong các nguyên nhân dẫn đến sự tham ô, tham nhũng, anh em của

TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN. Chính vì thế, để giảm thiểu TTLP trong hoạt động

nhà nước nói chung, trong đầu tư nhà nước nói riêng, các nhà nước hiện đại đang có

xu hướng tiến tới một nhà nước công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình cao.

Với tư cách chủ đầu tư, Nhà nước phải quản lý dự án của mình như các chủ đầu

tư khác. Nhưng do Nhà nước là một bộ máy quyền lực thực thi trách nhiệm do xã

hội giao nên các quyết định của nó phải được quy dịnh thành luật, công chức và các

cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý dự án đầu tư của nhà nước theo cơ chế

đại diện. Cách thức quản lý này tiềm ẩn các cơ hội để công chức và cơ quan nhà

nước lợi dụng quyền hạn trục lợi từ vốn đầu tư nhà nước. Ví dụ, nếu như là vốn đầu

tư cá nhân thì chủ đầu tư có động cơ thuê tư vấn thiết kế và thẩm định đúng yêu cầu

nhằm tiết kiệm tiền của của chính họ. Vì rằng họ đầu tư để kiếm lời, do đó giảm

thiểu chi chi phí đầu tư là mục tiêu của họ. Nhưng đối với công chức nhà nước thì

sự việc khác hẳn. Nếu tiết kiệm chi phí đầu tư thì NSNN được lợi, cá nhân họ

không được gì cả. Còn nếu rút ruột công trình thì NSNN chịu thiệt, còn cá nhân họ

lại có tiền để chia nhau. Trong điều kiện còn thiếu thốn thì sự cám dỗ này là rất lớn.

Vì thế, công chức thiết kế, công chức thẩm định, công chức phê duyệt, công chức

quản lý đấu thầu... có thể móc ngoặc với nhau để tư lợi riêng. Hơn nữa, các cơ quan

thanh tra của Nhà nước, hoặc có thể tham gia vào đường dây móc ngoặc đó, hoặc

thiếu thông tin, thiếu năng lực nên khó kiểm soát được quá trình từ chuẩn bị đến

thực hiện đầu tư. Đặc biệt là ở các nước mà số dự án đầu tư từ vốn NSNN lớn như

nước ta thì Nhà nước càng khó kiểm soát quá trình đầu tư.

Hơn nữa, nền kinh tế nước ta vẫn chưa hoàn thành bước chuyển từ cơ chế quản

lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ

thống thể chế của Nhà nước mới đang từng bước hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế

mới. Trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các Luật, Nghị định

quy định về quản lý liên quan đến đầu tư nói chung, ĐTXD nói riêng, nhưng các vấn

đề vướng mắc trong các văn bản đó cũng không ít. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung

một số cơ chế, chính sách pháp luật trở nên thiếu đồng bộ với các cơ chế, luật khác.

Ngoài ra, tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu chặt chẽ, không đầy đủ,

đặc biệt là các văn bản hướng dẫn cho những trường hợp cụ thể; tính không đồng bộ

giữa văn bản luật và văn bản của Chính phủ, giữa văn bản của Chính phủ và văn bản

của các bộ đã tạo nhiều kẽ hở, tạo cơ chế chạy chọt, xin cho làm lãng phí vốn nhà

nước. Tình trạng trách nhiệm không rõ ràng của các cá nhân và tổ chức liên quan đến

quản lý ĐTXD từ vốn NSNN cũng tạo cơ hội cho TTLP. Cơ chế điều hành của quản

lý nhà nước còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kiểm tra giám sát hình thức...đã dẫn

đến các chi phí tiêu cực phát sinh dưới nhiều hình thức như “chi hoa hồng” cho việc

“làm ngơ, bỏ qua”, công chức “vòi vĩnh” khi có cơ hội làm ăn...

1.2.2.2. Nguyên nhân từ chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư

từ vốn ngân sách nhà nước

Bản thân công việc hoạch định chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch ở tầm

quốc gia, vùng, địa phương là một công việc khó khăn, không khi nào đảm bảo độ

chính xác 100%. Tuy nhiên, để có thể sử dụng nguồn lực NSNN và tài nguyên quốc

gia một cách hiệu quả cần phải có chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đúng dắn và

được điều chỉnh, bổ xung kịp thời, có cơ sở và luận cứ khoa học. Nếu chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch có chất lượng thấp, thông tin không đầy đủ, không dựa trên các quy

luật khách quan thì toàn bộ các dự án đầu tư của Nhà nước theo các chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch đó có nguy cơ gây lãng phí rất lớn.

Đáng tiếc là từ khi chuyển sang quản lý theo cơ chế mới, thừa nhận kinh tế thị

trường và giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, chất lượng chiến lược, quy hoạch

và kế hoạch cả cấp quốc gia lẫn địa phương đều chưa đáp ứng yêu cầu. Chiến lược đầu

tư của Nhà nước còn tham quá nhiều mục tiêu, dàn trải theo địa bàn, theo lĩnh vực và

kém hiệu quả. Điển hình là chiến lược đầu tư cho ngành giấy, ngành đánh cá xa bờ,

ngành đường, ngành xi măng…Các địa phương còn theo đuổi chiến lược kéo vốn nhà

nước về địa phương càng nhiều càng tốt mà chưa chú trọng đến điều kiện vận hành kết

quả đầu tư. Thực trạng lâu nay thường xảy ra ở các cấp, các ngành là kế hoạch vốn từ

ngân sách Nhà nước thường bị động, kéo dài vì phải qua nhiều cấp, nhiều ngành rà

soát, tổng hợp, chờ Trung ương phê duyệt, sau đó phải thông qua hội đồng nhân dân

cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã mới thông báo vốn về cho các địa phương triển khai đầu tư

xây dựng, lúc này thường vào cuối quý một trong năm. Cách làm này làm chậm triển

khai xây dựng công trình. Trong quá trình xây dựng, vì các lý do khác nhau như thủ

tục thiết kế, thẩm tra, thẩm định thiết kế, thủ tục đấu thầu, thủ tục nghiệm thu, quyết

toán công trình đều cần có thời gian nhất định và phải thực hiện đầy đủ theo quy trình,

kết quả là thời gian thực hiện đầu tư kéo dài, giải ngân chậm, cuối năm kế hoạch giải

ngân không kịp, đơn vị thi công phải biến báo để giữ lại vốn đầu tư. Trên thực tế, co

quan nhà nước cứ ghi kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho nhiều dự án mà thực tế chưa

đủ điều kiện vẫn bố trí kế hoạch. Theo quy chế thì việc ghi kế hoạch vốn phải cân đối

với khả năng, khối lượng thực hiện, trong khi đó điều kiện thực tế chưa có làm cho

việc triển khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn, việc giải ngân chậm, kéo dài thời gian

thi công, chậm nghiệm thu, chậm thanh quyết toán công trình, gây ra hiện tượng đầu

tư dàn trải, khi thì “công trình chờ vốn”, khi lại “vốn chờ công trình”. Một vấn đề khác

là kế hoạch chưa kiểm soát được rủi ro, nhất là rủi ro do thời tiết gây ra, nên nhiều khi

cấp vốn cho công trình rồi, nhưng công trình không thực hiện thi công được, dẫn đến

hiện tượng thừa, thiếu vốn giả tạo ở các dự án.

Ngoài ra, chất lượng thấp của quy hoạch ngành, vùng và địa phương là nguyên

nhân lớn nhất dẫn đến lãng phí trong ĐTXD nói chung, ĐTXD từ vốn NSNN nói

riêng. Trong nhiều năm nay quy hoạch ngành, vùng của nước ta vẫn ở trong tình trạng

chưa hoàn chỉnh. Công tác quy hoạch chưa được Nhà nước chú trọng đầu tư đi trước

một bước, tầm nhìn quy hoạch ngắn, thiếu tính chiến lược, chưa đánh giá hết các yếu

tố khách quan và chưa phù hợp với quy luật thị trường nên tính định hướng của quy

hoạch còn yếu, thiếu tính kế thừa nên quy hoạch phải điều chỉnh thường xuyên, tính

thực tế không cao, quy hoạch không mang tính tổng thể, thiếu lộ trình thực hiện….Chất

lượng thấp của quy hoạch đã dẫn đến hậu quả nhiều công trình đầu tư từ vốn NSNN

không vận hành được sau khi hoàn thành buộc phải tháo dỡ hoặc có sử dụng cũng không

hiệu quả. Đây là khoản lãng phí lớn của nước ta trong những năm qua.

1.2.2.3. Nguyên nhân từ yếu kém trong công tác chuẩn bị dự án đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách Nhà nước

Công tác điều tra, khảo sát quá sơ sài, không bao quát được tình hình kinh tế,

chính trị, xã hội, không tính được ảnh hưởng của công trình xây dựng đến môi trường,

chưa chú ý đến điều tra thị trường tiêu thụ và các yếu tố sản xuất…sẽ dẫn đến sự lãng

phí do phải sửa chữa, thậm chí dỡ bỏ công trình xây dựng, gây tác động bất lợi cho các

công trình xung quanh. Hiện tượng làm cầu, xây nhà cao tầng gây nứt, lún, sập nhà

dân xung quanh không phải hiếm gặp ở các dự án đầu tư của Nhà nước.

Đôi khi chủ trương đầu tư xuất phát từ ý muốn áp đặt chủ quan, động cơ cá

nhân thành tích của lãnh đạo, thấy nơi khác làm mình cũng làm cũng rất đến sự lãng

phí rất lớn. Chẳng hạn, nhiều chủ đầu tư là cơ quan nhà nước đã không cân nhắc, tính

toán đầy đủ các yếu tố kinh tế, kỹ thuật khi lập dự án xây dựng nên khi triển khai thực

hiện phát sinh những yếu tố bất lợi làm chậm tiến độ thi công, làm phát sinh kinh phí

khắc phục mới đưa vào sử dụng được, hoặc phải điều chỉnh dự án đầu tư, có khi công

trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng không phát huy được hiệu quả, đến lúc đó thì

chủ đầu tư mới nhận thấy đựơc những hạn chế, thiếu sót trong việc xây dựng dự án

của mình, nhưng mọi việc đều đã muộn, không thể khắc phục được. Điển hình ở nước

ta là việc bố trí địa điểm xây dựng nhà máy đường, nhà máy giấy không gắn với vùng

nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, thị trường lao động ... làm cho chi phí sản xuất tăng

cao, khi nhà máy đi vào hoạt động, càng sản xuất càng lỗ. Để khắc phục chủ đầu tư

phải di chuyển nhà máy hoặc phải dỡ bỏ nhà máy ... dẫn đến TTLP càng nghiêm trọng

hơn. Hoặc khi xây dựng một công trình thuỷ lợi, thuỷ điện ở một địa điểm nào đó, do

không khảo sát kỹ địa chất, thủy văn nên dẫn đến phát sinh thêm chi phí gia cố xử lý

nền móng, mà nếu khảo sát kỹ thì nên xây dựng ở vị trí khác có thể tiết kiệm rất nhiều

tiền chi phí sử lý nền móng này… Cũng có khi đầu tư xây dựng một nhà máy không

chú ý đến xử lý nước thải như nhà máy hoá chất, nhà máy sản xuất giấy, nhà máy sản

xuất phân bón..., xử lý khói bụi như nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện ... dẫn đến ô

nhiểm môi trường của một vùng, một khu vực, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội,

sức khoẻ của dân cư trong vùng. Để khắc phục Nhà nước phải đầu tư hệ thống xử lý

rất tốn kém, có khi phải di chuyển nhà máy hoặc dỡ bỏ gây nên sự TTLP vốn đầu

tư….

Như vậy, công việc chuẩn bị dự án đầu tư không tôt không chỉ ảnh hưởng trực

tiếp đến hiệu quả đầu tư trước mắt mà còn ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, đời sống

kinh tế xã hội của vùng, của khu vực và cả nước. Thông thường, những sai lầm trong

chuẩn bị đầu tư gây ra 60%-70% tổng số TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.

1.2.2.4. Nguyên nhân từ buông lỏng kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện

dự án đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

Quản lý trong ĐTXD, trách nhiệm lớn nhất thuộc về chủ đầu tư, Ban quản lý dự

án, công trình. Nếu không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên của chủ đầu

tư, đại diện chủ đầu tư (Ban quản lý dự án hoặc đơn vị được thuê tư vấn giám sát) và

giám sát của đơn vị thiết kế thì bên thi công dễ vì lợi nhuận mà tìm mọi cách để “rút

ruột” công trình như bớt xén vật tư, tráo đổi chủng loại vật tư, thi công không đúng kỹ

thuật, khai khống khối lượng hoàn thành...

ở nước ta, hoạt động giám sát của cộng đồng, của công dân chưa được coi trọng

tương xứng với yêu cầu đặt ra cho công tác ĐTXD, chưa phát huy được tính tích cực

tự giác của quần chúng nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực

trong ĐTXD cũng là một nguyên nhân làm cho tổ chức thi công gian dối, tìm cách lấy

tiền của Nhà nước trong ĐTXD từ vốn NSNN. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 09/5/2005 về quy chế giám sát đầu tư cộng

đồng, tuy nhiên hệ thống luật định, chế tài còn thiếu, chưa đồng bộ, không cho phép mỗi

công dân và các tổ chức công dân tham gia giám sát xã hội có hiệu quả. Đặc biệt không

có những chế tài, điều kiện đảm bảo thực thi việc giám sát một cách thuận lợi, có hiệu

quả, bảo vệ danh dự, lợi ích và nhiều khi cả tính mạng của người phát hiện, tố cáo

những hành vi tham nhũng, lãng phí. Chính vì thế, thất thoát trong ĐTXD từ vốn NSNN

ở nước ta mới ở tình trạng nghiêm trọng.

Thanh tra là biện pháp cần thiết để chống TTLP trong ĐTXD. Tuy vậy, nếu không

dành đủ thời gian, không bố trí người tài giỏi và không trao cho họ đủ quyền và phương

tiện thì số vụ tham nhũng, tiêu cực được các cơ quan thanh tra phát hiện chưa phản ảnh

đầy đủ thực trạng tình hình tiêu cực, tham nhũng hiện nay, do đó kẻ tham nhũng còn chưa

sợ. Năng lực ngành thanh tra, nhất là thanh tra xây dựng nếu còn hạn chế, cả về mặt thể

chế cũng như chất lượng cán bộ, phương tiện, điều kiện làm việc, thì khó phát hiện ra các

hành vi làm thất thoát vốn Nhà nước. Mặc dù Quốc hội nước đã ban hành Luật Thanh tra

năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 46/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 về tổ

chức và hoạt động của Thanh tra xây dựng, nhưng nếu thiếu cán bộ đáp ứng yêu cầu thì

chất lượng thanh tra không đảm bảo. Mặt khác, khi thanh tra phát hiện cán bộ có sai

phạm, tiêu cực thì việc đề xuất cách xử lý đối với những cá nhân vi phạm mà kết quả

thanh tra đã khẳng định nếu chưa thực sự nghiêm khắc và thích đáng, còn tình trạng né

tránh đối với cá nhân, tập thể vi phạm thì vô hình chung càng khuyến khích những kẻ liều

lĩnh vi phạm hơn nữa. Điều này thể hiện rõ ở nước ta thời gian qua, do công tác thanh tra

chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều bất cập trong việc thanh tra các vụ việc tiêu cực, thất

thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng, công tác thanh tra chưa làm đầy đủ, chu đáo chức

năng, nhiệm vụ của mình, thiếu tích cực, kiên quyết trong việc phát hiện và xử lý các vi

phạm, cơ quan thanh tra thiếu một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực ngang

tầm với nhiệm vụ được giao, không ít trường hợp những cán bộ được giao nhiệm vụ thanh

tra, kiểm tra các công trình xây dựng thiếu bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc, dẫn

đến phạm tội, vi phạm pháp luật...nên hầu như các hiện tượng làm thất thoát vốn Nhà

nước chưa được xử lý thích đáng.

1.3. chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà

nước

1.3.1. Sự cần thiết đẩy mạnh chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở nước ta

1.3.1.1. Tác hại của thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước

TTLP nói chung và trong ĐTXD từ vốn NSNN nói riêng gây hậu quả không

tốt, thậm chí là nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đây

là một trong những nguyên nhân làm nghèo đất nước, kìm hãm sự phát triển và làm

giảm uy tín quốc gia. Sự nguy hại của TTLP đã được nhiều nước và tổ chức quan tâm

nghiên cứu và tìm cách ngăn chặn.

Trước hết, TTLP làm tăng chi phí phát triển. Như nguyên Thủ tướng Phan Văn

Khải đã nói tại hội nghị triển khai các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch và ngân

sách năm 2005 diễn ra ngày 30/12/2004: “Lẽ ra tăng trưởng năm 2004 tăng không chỉ

là 7,7% và năm 2005 tăng trưởng hoàn toàn có thể đạt 8,5% nếu bộ máy hành chính

không yếu kém, trì trệ và tiêu cực”. ở nước ta, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

tại kỳ họp Quốc hội tháng 11/2004, để tăng thêm 1 đồng GDP cần đầu tư 4,7 đồng. Trong

khi đó, nước láng giềng Trung Quốc chỉ cần bỏ ra 3,5 đồng thì tăng thêm được 1 đồng

GDP.

Thứ hai, TTLP trong đầu tư xây dựng từ vốn NSNN lớn làm ảnh hưởng đến uy

tín của Chính phủ trong huy động ODA nói riêng, vay nước ngoài nói chung. Trong

khi đó, vốn vay đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội của nước ta chủ yếu dựa vào

nguồn vay ưu đãi ODA. Trong 5 năm 2001-2005, nước ta đã thu hút khoảng 11,2 tỷ

USD ODA. TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN làm giảm uy tín của Chính phủ khi vay

nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường tài chính thế giới

do các tổ chức định mức tín nhiệm đánh giá thấp hiệu quả đầu tư của Nhà nước, từ đó

lo ngại khả năng trả nợ đúng hạn của Chính phủ. Hơn nữa, mức tín nhiệm thấp do ảnh

hưởng của TTLP trong đầu tư còn buộc chính phủ phải chấp nhận vay với lãi suất cao

làm cho chi phí đầu tư càng tăng cao, dẫn đến mức lãng phí lớn hơn.

Thứ ba, TTLP trong dầu tư xây dựng từ vốn NSNN gây bức xúc và bất bình lớn

trong xã hội. Vì xét cho cùng, tiền của NSNN là do dân cư đóng góp. Việc đầu tư dẫn

đến lãng phí làm thu hẹp nguồn lực có thể được sử dụng hiệu quả hơn trong các lĩnh

vực có lợi cho dân cư. Hơn nữa, thất thoát làm cho một bộ phận dân cư có thu nhập

không chính đáng, giúp họ giàu lên nhanh chóng, cho phép họ ăn chơi phè phỡn gây

phản cảm rất lớn đối với đa số dân cư còn lao động nhọc nhằn kiếm miếng ăn. Nếu

tình trạng thất thoát vốn nhà nước từ các công trình ĐTXD có tính phổ biến và kéo dài

quá lâu có thể gây nên các bất ổn trong xã hội và trong lòng tin của dân cư vào Nhà

nước.

Thứ tư, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN, nếu không được ngăn chặn hiệu quả,

sẽ làm thoái hoá, biến chất đội ngũ công chức nhà nước liên quan đến vốn NSNN và

quản lý ĐTXD từ vốn NSNN. Trên thực tế, công chức nước ta có thu nhập thấp so với

mức trung bình của khu vực và thế giới. Ngay cả trong điều kiện nước ta, thu nhập của

công chức cũng ở mức trung bình, không đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt cơ bản của gia

đình. Vì thế, động cơ và mức độ thúc bách tìm kiếm thu nhập của họ rất lớn. Nếu tình

trạng TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN không bị kiểm soát chặt chẽ, nếu cơ hội có thể

tăng thu nhập từ TTLP đó khá nhiều, thì số cán bộ sa ngã tất yếu sẽ tăng lên. Như vậy

TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN đã góp phần làm tha hoá đội ngũ cán bộ quản lý

kinh tế của nước ta, đặc biệt là công chức quản lý kinh tế.

Thứ năm, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN để lại hậu quả không dễ khắc phục

cho đất nước và cho các thế hệ tương lai. Các công trình xây dựng kém chất lượng,

không sử dụng được hoặc có sử dụng được cũng không hiệu quả không chỉ làm tiêu

tan nguồn của cải mà đất nước rất khó nhọc mới kiếm được, mà còn đòi hỏi chi phí lớn

để sửa chữa, hoàn thiện, thậm chí tháo dỡ chúng. Trong khi đó chúng ta đang phải thắt

lưng buộc bụng dồn tiền để CNH, HĐH đất nước, tiến kịp các nước tiên tiến trong khu

vực và trên thế giới. Sự lãng phí nguồn của cải do TTLP đem lại không chỉ làm chúng

ta khó khăn trong hiện tại, mà còn chồng chất thêm khó khăn cho con cháu trong

tương lai, nhất là khi nguồn tài nguyên quý giá đã bị chính các công trình xây dựng

kém chất lượng và không hợp lý đó bào mòn.

1.3.1.2. Tình hình thất thoát, lãng phí nghiêm trọng trong đầu tư xây dựng từ

vốn ngân sách nhà nước ở nước ta

Dư luận xã hội nước ta cho rằng vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng bị TTLP rất

lớn, có thể lên tới 20-30% tổng mức đầu tư. Những năm qua, trung bình mỗi năm nước

ta chi khoảng 150.000 tỷ đồng để đầu tư nâng cấp, xây dựng hệ thống hạ tầng. Nếu 20-

30% tổng vốn bị TTLP, thì có nghĩa hàng năm chúng ta mất khoảng 30.000-45.000 tỷ

đồng. Đây là khoản mất mát quá lớn trong khi năng lực tài chính của Nhà nước còn

mỏng, nhu cầu vốn cho tăng trưởng còn vượt quá khả năng tài trợ của đất nước. TTLP

vốn nhà nước làm cho đại biểu quốc hội bức xúc, làm nản lòng các cử tri và gây nên

sự hoài nghi về năng lực điều hành của Nhà nước.

Kết quả thanh tra một số DAĐT của Nhà nước cho thấy số tiền bị TTLP chiếm

tỷ lệ không nhỏ. Ví dụ ở dự án khách sạn Bàn Cờ thành phố Hà Nội, ở dự án hầm chui

cầu Văn Thánh 2 thành phố Hồ Chí Minh tổng giá trị bị TTLP lớn hơn 30% giá trị

công trình. ở nhiều dự án khác đã và đang bị thanh tra cũng cho thấy số vốn nhà nước

đầu tư cho xây dựng bị TTLP là rất lớn. Đây là tình trạng gây bức xúc nhiều năm qua

mà Nhà nước ta chưa có giải pháp giải quyết thoả đáng.

Tình hình TTLP vốn trong đầu tư xây dựng ở nước ta không chỉ biểu hiện ở

những con số thống kê số tiền thất thoát mà còn ở rất nhiều công trình xây dựng từ vốn

NSNN bị bỏ dở, không sử dụng được hoặc có sử dụng cũng không hiệu quả. Không có

số liệu thống kê chính thức về các công trình loại này, nhưng đâu đó ở các địa phương

đều hiện diện các công trình như vậy. Ví dụ Nhà máy đường ở Đồng Nai, một số chợ ở

các tỉnh…

Tình trạng TTLP diễn ra ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư dự án Nhà nước.

Theo đánh giá của Thanh tra nhà nước tại Hội nghị thanh tra toàn quốc tháng 2/2003,

trong lĩnh vực xây dựng các hiện tượng vi phạm chế độ của Nhà nước diễn ra ở tất cả

các khâu, cụ thể là 35% số dự án công trình vi phạm về trình tự, thủ tục và pháp luật

về đầu tư xây dựng; 19% vi phạm về quy chế đấu thầu; 25,7% vi phạm về thiết kế;

45,75% vi phạm về nghiệm thu; 39,65% vi phạm về thanh quyết toán công trình...

Những TTLP kể trên đã đến lúc phải được ngăn chặn hiệu quả. Để có thể làm

được điều đó, cần phải biết rõ chống TTLP như thế nào.

1.3.2. Nguyên tắc, nội dung chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước

1.3.2.1. Nguyên tắc chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn

ngân sách nhà nước

Xác định đúng các nguyên tắc hành động là điều kiện cần thiết để đấu tranh

chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN một cách thành công. Do ĐTXD là một hoạt

động thực tiễn nên thay đổi theo thời gian, theo công trình, hành vi trục lợi gây TTLP

cũng biến đổi theo thời cuộc nên khó có thể tìm ra những chỉ dẫn cụ thể cho việc chống

TTLP. Dựa vào tổng kết thực tiễn, căn cứ vào thực chất và nguyên nhân của TTLP trong

ĐTXD từ NSNN, có thể thấy, các nhà quản lý, để chống TTLP thành công, thường tuân

thủ các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, phải có quyết tâm chống TTLP đến cùng và phải tập hợp được những

người ủng hộ tham gia. Bởi vì chống TTLP là công việc nội bộ trong bộ máy nhà nước

là chính. Rất nhiều khi người ta lầm tưởng rằng, đấu tranh chống TTLP trong sử dụng

vốn nhà nước là công việc thanh trừng nội bộ. Bản thân người chống thất thoát và

người làm thất thoát hoặc gián tiếp góp phần gây thất thoát đều có thể làm trong cùng

một cơ quan, một hệ thống bộ máy quản lý nhà nước. Do đó, khi đấu tranh chống

TTLP thường gặp tình huống vì nể, che đỡ cho nhau, vừa khó phát hiện sai phạm, vừa

khó thi hành các biện pháp kỷ luật. Hơn nữa, để có thể rút tiền nhà nước chuyển thành

tiền cá nhân các cán bộ gây thất thoát, chúng thường phải tổ chức thành “dây”, thành

“cầu”, thành ê kíp che đỡ, bảo vệ lẫn nhau. Nếu những người chống TTLP không

quyết tâm, không có lực lượng ủng hộ thì khó phát hiện được sai phạm của họ, đôi khi

còn bị phản công, bị kỷ luật oan. Do đó, nguyên tắc hàng đầu của chống TTLP là Nhà

nước phải thể hiện rõ quyết tâm chính trị của mình và có đủ lực lượng để thực hiện.

Nguyên tắc thứ hai là phải chống TTLP một cách liên tục, chống có hệ thống,

bài bản. Bởi vì, mỗi cá nhân, tổ chức bị kỷ luật vì làm TTLP vốn đầu tư của Nhà nước

thì lại có những cá nhân, tổ chức mới bổ sung. Khi nguồn vốn nhà nước còn rất lớn,

khi cơ hội trục lợi vẫn còn, khi còn có thể dùng quyền hạn để mưu lợi cá nhân thì còn

có người sa ngã, tham lam sử dụng tổ chức để bòn rút vốn nhà nước. Muốn chống

TTLP một cách liên tục và hệ thống thì Nhà nước phải thiết lập được cơ chế quản lý

vốn đầu tư từ NSNN một cách hiệu quả, nhất là chú trọng thanh tra, kiểm soát và đào

tạo cán bộ, công chức.

Nguyên tắc thứ ba là phát huy vai trò giám sát của xã hội, nhất là các cơ quan

báo chí, cộng đồng dân cư liên quan đến công trình đầu tư, đối với các dự án đầu tư

sử dụng NSNN. Bởi lẽ, không thể hy vọng cơ chế kiểm soát của Nhà nước có thể làm

chủ hết mọi thông tin về dự án đầu tư sử dụng NSNN. Thậm chí, cả các dự án được

xây dựng một cách công tâm nhất cũng không tránh khỏi sai sót. Do đó cần phát huy

vai trò cung cấp thông tin và giám sát trực tiếp của xã hội nhằm giảm thiểu cơ hội gây

TTLP.

Nguyên tắc thứ tư nhằm quán triệt mục tiêu của chống TTLP trong đầu tư xây

dựng từ vốn NSNN là tiết kiệm và hướng tới sử dụng hiệu quả vốn đầu tư của Nhà

nước. Hiệu quả vốn đầu tư nhà nước phải được xem xét trên bình diện quốc gia, có

tính dài hạn. Tránh biến chống TTLP thành công cụ phục vụ lợi ích bản vị, địa

phương, tổ chức. Hơn nữa, cần phân định các TTLP do cố ý và do yếu kém năng lực

để có hướng xử lý phù hợp nhằm vừa đạt được mục tiêu chống TTLP, vừa bảo toàn

sức mạnh của bộ máy nhà nước.

1.3.2.2. Nội dung chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn

ngân sách nhà nước

* Xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng công

trình

Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng công trình bao gồm hai bộ

phận: Quản lý chi NSNN và quản lý ĐTXD từ vốn NSNN. Trên thực tế, cả hai bộ

phận này đều rất phức tạp và chịu sức ép từ nhiều phía khác nhau. Tuy nhiên, để

chống TTLP vốn nhà nước, cần thiết lập cơ chế phân bổ vốn đầu tư hiệu quả. Tính

hiệu quả của cơ chế này phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Quản lý chặt chẽ các khoản chi đầu tư theo hệ thống định mức tiên tiến;

- Đảm bảo thứ tự ưu tiên trong sử dụng vốn nhà nước đã được chiến lược đầu tư

chung xác định;

- Cho phép việc giải ngân nhanh chóng, giảm phiền hà, nâng cao trách nhiệm

của các cá nhân và tổ chức đối với việc sử dụng hiệu quả vốn nhà nước.

Cơ chế quản lý ĐTXD từ vốn NSNN phải đảm bảo tính hiệu lực, khách quan,

giảm chi phí liên quan đến thủ tục đầu tư. Đồng thời cơ chế này phải đáp ứng yêu cầu

chung đối với ĐTXD như bảo vệ môi trường, cảnh quan, an toàn, quy hoạch không

gian…, cũng như yêu cầu giám sát của tổ chức hưởng thụ kết quả đầu tư. Do chủ đầu

tư vốn nhà nước thường là một cơ quan nhà nước nên luật pháp phải quy định rõ

quyền hạn của cơ quan này với tư cách chủ đầu tư để họ có khả năng giám sát chặt chẽ

quá trình đầu tư. Nếu không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư vốn

nhà nước sẽ có xu hướng buông lỏng quá trình giám sát đầu tư. Ngoài ra, các dự án

đầu tư bằng vốn NSNN phải tuân thủ một quy trình quản lý đầu tư chặt chẽ, trong đó

trách nhiệm, quyền hạn của các bên tư vấn lập dự án, chủ đầu tư, thẩm định phải được

quy định rõ theo một quy trình khoa học. Nếu quy trình và chế độ quản lý các dự án

đầu tư từ NSNN được xây dựng tốt, các tổ chức và cá nhân liên quan có năng lực,

công tâm và chấp hành kỷ luật quản lý tốt thì cơ hội cho TTLP sẽ giảm thiểu rất nhiều.

* Nâng cao chất lượng chiến lược, kế hoạch và quy hoạch đầu tư của Nhà

nước.

Việc xác định đúng đắn chiến lược, kế hoạch và quy hoạch đầu tư của Nhà

nước có ý nghĩa rất quan trọng nhằm chống TTLP. Xác định chiến lược, kế hoạch, quy

hoạch đầu tư sai không những dẫn đến đầu tư kém hiệu quả, hoặc không có hiệu quả

mà còn dẫn đến hậu quả kìm hảm, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng,

một khu vực hay một địa phương. Chiến lược , kế hoạch, quy hoạch đầu tư đúng

không chỉ giảm lãng phí do nâng cao hiệu quả đầu tư trước mắt mà còn tạo điều kiện

phát triển hiệu quả lâu dài, mang lại nhiều lợi ích cho dân cư của vùng, của khu vực

và cả nước trên cơ sở nguồn lực như nhau. Vì vậy, xác định chiến lược, kế hoạch, quy

hoạch đầu tư đúng sẽ hạn chế lãng phí trước khi đầu tư.

Chiến lược, kế hoạch quy hoạch đầu tư đúng thể hiện ở việc luận chứng đầu tư

có đầy đủ cơ sở khoa học, phương thức xây dựng được chấp nhận rộng rãi, hạn chế các

chỉ tiêu mơ hồ, không phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, tài

nguyên thiên nhiên, dân số và lao động. Kế hoạch đầu tư đúng phải thể hiện ở sự lựa

chọn đúng địa điểm đầu tư, đúng quy mô dự án, dự tính trước vùng nguyên liệu, lựa

chọn thiết bị công nghệ phù hợp, dự báo được khả năng bao tiêu sản phẩm, lực lượng

xây dựng, nguồn vốn cho ĐTXD, phân tích thị trường, hiệu quả kinh tế… Kế hoạch

đầu tư đúng phải bao hàm các phương án đầu tư xây dựng tối ưu, chú trọng các giải

pháp bảo vệ môi trường, các giải pháp an toàn trong quá trình thi công và quá trình

khai thác sản xuất để khi dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng không dẫn

đến những sự cố kỹ thuật gây hậu quả làm TTLP về vốn, tài sản và nhân lực.

Chiến lược, kế hoạch, quy hoạch đầu tư đúng còn phải bao hàm được các dự

báo về triển vọng phát triển kinh tế xã hội, vị thế của địa phương, quốc gia trong môi

trường chung và đánh giá được các biến đổi có thể xảy ra để có biện pháp đối phó dự

phòng…

*Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khảo sát,

thiết kế, dự toán, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn NSNN

Trên thực tế, TTLP do chất lượng hồ sơ khảo sát, thiết kế, dự toán không đảm

bảo theo đúng yêu cầu về quy phạm, quy chuẩn của Nhà nước là rất lớn. Chính vì vậy,

nếu chúng ta phòng ngừa tốt từ khâu này thì kết quả chống TTLP sẽ rất tốt.

Để nâng cao chất lượng và trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khảo sát,

thiết kế, dự toán, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn NSNN

thường người ta áp dụng các phương cách sau:

- Quy định chặt chẽ về chất lượng hồ sơ dự án đầu tư xây dựng từ vốn

NSNN như trong hồ sơ phải cung cấp các số liệu khảo sát đúng với tình hình thực

tế về địa chất, địa hình, khí hậu và đặc điểm tự nhiên, về đặc điểm về tài nguyên,

nguồn nhân lực, về đặc điểm về nguyên liệu... tránh tối đa những sai sót gây hậu

quả, dẫn đến TTLP trong quá trình thi công xây dựng công trình. Hơn nữa, hồ sơ

thiết kế không những phải tuân thủ tiêu chuẩn định mức, quy phạm, quy chuẩn nhà

nước, phải đánh giá được tính hợp lý giữa quy mô thiết kế so với yêu cầu kỹ thuật,

công nghệ, thống kê trung thực khối lượng thiết kế .... mà còn phải đưa ra dự toán

tính toán đúng đơn giá, chế độ chính sách của Nhà nước, áp dụng đúng giá cả theo

từng loại vật tư, thiết bị có tính đến thời điểm tính toán, thời điểm nghiệm thu thanh

toán, tính toán khối lượng chính xác so với bản vẽ thiết kế, áp dụng quản trị rủi ro

để tính toán trước sự biến động của giá cả, tiền lương… nhằm đối phó với tình

trạng nống giá của bên thi công vượt quá giá trị thực của công trình, với sức ép của

tổ chức thi công khi buộc phải phải điều chỉnh, sửa đổi thiết kế, tránh hiện tượng

phải phá bỏ khối lượng đã làm để làm lại theo thiết kế điều chỉnh, bổ sung.

- Nâng cao trách nhiệm của đơn vị thẩm định dự án đầu tư xây dựng từ vốn

NSNN, buộc họ phải chịu kỷ luật hành chính và đền bù vật chất nếu không phát hiện

ra những sai sót trong hồ sơ khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng

dự toán công trình, kể cả do năng lực yếu kém trong chuyên môn. Hình phạt sẽ tăng

cấp nếu tổ chức thẩm định thông đồng cùng nhà thầu để thẩm định sai lệch.

- Đề cao trách nhiệm của cơ quan phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn

NSNN. Nếu xảy ra sai sót hoặc phát hiện có TTLP trong thực thi dự án đầu tư xây

dựng từ vốn NSNN thì cơ quan và cá nhân phê duyệt không chỉ chịu trách nhiệm về

mặt hành chính mà còn phải bồi thường vật chất nhằm nâng cao tránh nhiệm giám sát

của họ. Muốn vậy, phải phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong cơ

quan phê duyệt để có cơ sở truy cứu trách nhiệm. Không nên để một dự án sai mà

không có cá nhân và cơ quan phê duyệt chịu trách nhiệm. Ngoài ra, cần yêu cầu các cá

nhân và cơ quan phê duyệt phải có đủ trình độ và thông tin cần thiết để phê duyệt dự

án. Làm được như vậy sẽ giảm thiểu nguy cơ phê duyệt dễ dãi, hạn chế nguy cơ TTLP

khi chưa sử dụng vốn đầu tư.

* Chống TTLP trong đầu tư xây dựng từ nguồn NSNN trong khâu đấu thầu

Đấu thầu là hoạt động cần thiết nhằm giao công trình xây dựng cho nhà thầu có

năng lực, uy tín và chi phí thấp nhất. Để chống TTLP trong đấu thầu công trình xây

dựng từ vốn NSNN, cần hoàn thiện quy chế đấu thầu, nhất là các quy định về sự trung

thực của hồ sơ, bí mật thông tin, tiêu chí lựa chọn, hình thức đầu thầu…

Ngoài ra, cần thiết lập kỷ luật thực thi đấu thầu nghiêm minh bằng cách đưa ra

các chế tài đủ mạnh nhằm trừng phạt các cá nhân, tổ chức thông thầu, làm lộ thông tin

hoặc cố tình tổ chức đấu thầu giả…

* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu thanh tra, giám sát thi

công

Để chống TTLP, cần lựa chọn và đào tạo thanh tra viên trong lĩnh vực ĐTXD

một cách chuẩn mực sao cho họ thành thạo các kỹ năng kiểm tra, giám sát cả việc thi

công lẫn việc sử dụng vốn và đánh giá chất lượng công trình. Ngoài ra, cần phải trang

bị cho họ các phương tiện đo, đếm, thẩm định chất lượng cần thiết nhằm đưa công việc

thanh tra, giám sát đi vào chuẩn tắc. Đồng thời, cần đặt ra yêu cầu cao về đạo đức, kỷ

luật hành nghề cho các thanh tra viên đi đôi với việc bảo vệ họ một cách hiệu quả

trước sự tấn công của các cá nhân tha hoá. Một vấn đề quan trọng nữa là phải có chế

độ lương bổng thoả đáng để ràng buộc trách nhiệm của thanh tra viên vào quá trình

ĐTXD cũng như thu hút được người tài bổ xung vào đội ngũ của họ. Tránh bố trí cán

bộ yếu kém, do không làm được ở bộ phận khác vào thanh tra.

* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu nghiệm thu công trình

Để chống TTLP trong khâu nghiệm thu công trình, người ta thường áp

dụng các phương thức giám định chất lượng công trình tiên tiến, trong đó công

nghệ giám định và phương tiện kỹ thuật phải bảo đảm yêu cầu. Tuy nhiên, biện

pháp nghiệm thu hiệu quả là sử dụng các phương pháp quản lý chất lượng theo

quá trình, ví dụ tiêu chuẩn ISO, và sự trung thực của cán bộ nghiệm thu. Để chống

hiện tượng thông đồng, móc ngoặc trong nghiệm thu công trình, cần đặt yêu cầu

bảo hành chất lượng nghiệm thu theo thời gian và chế độ gắn trách nhiệm của bên

thi công với quá trình sử dụng sau này của công trình. Nên đưa các yêu cầu này

vào hợp đồng thuê thi công xây dựng.

Ngoài ra, chủ đầu tư cần chú trọng tìm cơ quan tư vấn hoặc cá nhân cán bộ kỹ

thuật có uy tín, có trình độ trong lĩnh vực nghiệm thu công trình xây dựng.

* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu thanh quyết toán vốn

đầu tư

Vốn ĐTXD chỉ được thanh toán cho cho giá trị khối lượng thực hiện hoàn

thành, đủ thủ tục pháp lý theo quy định như có quyết định phê duyệt dự án, phê duyệt

thiết kế, dự toán thi công, phê duyệt đơn vị trúng thầu, phê duyệt kế hoạch vốn...có đủ

điều kiện thanh toán như hợp đồng giữa chủ đầu tư (Bên A) và nhà thầu (Bên B), có

nghiệm thu khối lượng thực hiện, bên A chấp nhận và đề nghị thanh toán...

Khi dự án đầu tư đã hoàn thành sẽ được nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư xây

dựng dự án hoàn thành để bàn giao lại cho đơn vị sử dụng quản lý và khai thác. Toàn

bộ vốn ĐTXD dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khi hoàn thành dự án đều được

nghiệm thu đầy đủ và báo cáo quyết toán sẽ được thẩm tra để phê duyệt. Khâu thẩm

tra quyết toán chính xác giúp ngăn chặn tình trạng quyết toán khống bằng thủ đoạn

thay đổi chủng loại vật liệu, tự ý thay đổi thiết kế, ăn bớt khối lượng...góp phần ngăn

chặn TTLP vốn đầu tư. Ngoài ra, cần đề ra các chế tài có khả năng xử lý kỷ luật các

sai phạm trong khi thanh quyết toán nếu được phát hiện về sau này.

Chương 2

thực trạng thất thoát, lãng phí và chống

thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa

bàn tỉnh thanh hoá

2.1. Thực trạng đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn

tỉnh Thanh Hoá

2.1.1. Khái quát về tình hình đầu tư và kết quả đầu tư xây dựng từ nguồn

vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

2.1.1.1. Khái quát về đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Do có điểm xuất phát về kinh tế thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nhìn chung

là yếu kém, nhất là miền núi, lại là nơi thường chịu nhiều tác động của thiên tai, nên

tỉnh Thanh Hoá rất ưu tiên khuyến khích đầu tư phát triển, coi đó là một trong những

yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần ổn

định chính trị – xã hội.

Số liệu thống kê cho thấy, đầu tư trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá thời gian qua

đã có sự tiến bộ. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong 5 năm (2000-2005) đạt

21,3 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 11% và tăng 45% so với thời kỳ

1996-2000, trong đó vốn NSNN 25%, vốn tín dụng 15%, vốn doanh nghiệp nhà

nước 5%, vốn đầu tư nước ngoài 8%, vốn khu vực dân cư và các thành phần kinh

tế khác 47,0% [4, tr.21]. Nếu xét riêng năm 2006 thì tổng vốn đầu tư trên địa bàn

tỉnh là 7,7 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN 3,69 ngàn tỷ đồng. Năm 2007 tổng

vốn đầu tư tăng lên 10,8 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN là 5,09 ngàn tỷ đồng.

Năm 2008 tổng vốn đầu tư ước đạt 14,5 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN là

6,757 ngàn tỷ đồng (bảng 2.1).

Bảng 2.1: Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2003-2008

Đơn vị tính: Tỷ đồng

2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)

Tổng số 4.200 4.645 5.810 7.700 10.800 14.500

Vốn nhà nước 1.930 2.245 2.655 3.690 5.090 6.757

Tỷ trọng 46% 49% 46% 48% 47% 47%

Tăng trưởng 16% 18% 39% 38% 33%

Vốn dân cư và các 2.270 2.400 3.155 4.010 5.710 7.743

thành phần KT khác

Tỷ trọng 54% 51% 54% 52% 53% 53%

Tăng trưởng 31% 27% 42% 36% 6%

Nguồn: UBND tỉnh Thanh Hoá

Ngoài sự tăng trưởng về tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn, thì phương thức

đầu tư cũng có sự chuyển hoá rất cơ bản. Trước đây, đầu tư chủ yếu được tài trợ từ cấp

phát NSNN, nay đã xuất hiện nhiều hình thức đầu tư đa dạng như chính sách góp vốn

hoặc cổ phần nhà nước, đầu tư của tư nhân trong nước vào thành lập doanh nghiệp

mới, tham gia xây dựng các công trình cùng Nhà nước. Cho đến nay đã hình thành

và phát triển cơ cấu nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh theo hai loại chính đó là: vốn

nhà nước, vốn của dân cư và các thành phần kinh tế khác (trong đó có vốn đầu tư

trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài).

Tuy nhiên, trong tổng đầu tư trên địa bàn tỉnh, nguồn vốn nhà nước (vốn

NSNN, vốn tín dụng nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước) vẫn giữ vai trò quyết định

và là động lực thúc đẩy các nguồn vốn khác phát triển, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

đầu tư của tỉnh (bình quân 46-50%). Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cũng giữ mức

tăng trưởng cao, bình quân hàng năm tăng 29%. Nếu như năm 2003 vốn đầu tư nhà

nước ở mức 4.200 tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên mức 10.800 tỷ đồng (gấp 2,6 lần),

Có được kết quả đầu tư tăng trưởng và tiến bộ đó là do Thanh Hoá đã vận dụng

và ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư, huy động các

nguồn lực, đặc biệt từ khu vực kinh tế tư nhân và dân doanh.

2.1.1.2. Tình hình thực hiện đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh

Hoá

Như phần trên đã phân tích, trong tổng số vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh

Thanh Hoá thì vốn đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Đến lượt mình, trong nguồn vốn

đầu tư nhà nước (bao gồm vốn đầu tư từ NSNN, vốn đầu tư từ tín dụng nhà nước, vốn

đầu tư của doanh nghiệp nhà nước) vốn đầu tư từ NSNN (bao gồm vốn do địa phương

quản lý, vốn do trung ương quản lý) cũng chiếm tỷ trọng lớn và tăng mạnh, trong đó vốn

đầu tư từ NSNN do tỉnh quản lý có tốc độ tăng rõ rệt. Nếu năm 2003 nguồn vốn đầu tư từ

NSNN do tỉnh quản lý mới đạt 546,6 tỷ đồng, thì đến năm 2007 đã tăng lên đến 1.897,7 tỷ

đồng (bảng 2.2).

Bảng 2.2: Vốn đầu tư từ ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý

Đơn vị tính: Tỷ đồng

2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)

Vốn nhà nước 1.930,0 2.245,0 2.655,0 3.690,0 5.090,0 6.757,0

Vốn địa phương 546,6 907,1 842,4 1.062,2 1.897,7 2.045,6 quản lý

Tỷ trọng 28% 40% 32% 29% 37% 30%

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá

Nguồn vốn do địa phương quản lý bao gồm: vốn cân đối ngân sách của tỉnh,

vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu, vốn nước ngoài (vốn viện trợ, vay ưu đãi của

nước ngoài), vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng ưu đãi (vốn kích cầu) (bảng 2.3).

Vốn ngân sách tỉnh (bao gồm vốn cân đối ngân sách tập trung và vốn khai thác

từ quỹ đất) đã được tập trung đầu tư ưu tiên cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như

giao thông, giáo dục - đào tạo, phát triển các khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh, xây

dựng các trụ sở cơ quan hành chính... và giải quyết những yêu cầu bức xúc của địa

bàn.

Tỉnh đã sử dụng sự hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách tập trung để thực hiện một số

chương trình, dự án kích cầu và để đạt được mục tiêu huy động được lượng vốn đáng kể từ

khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác cho đầu tư phát triển. Một số nguồn vốn

Trung ương được sử dụng hỗ trợ theo mục tiêu như chương trình 134, 135, dự án trung tâm

cụm xã , hạ tầng làng nghề, hạ tầng kinh tế cửa khẩu, đầu tư âu trú bão, khu di tích lịch sử

Lam Kinh, hạ tầng thương mại – du lịch, các dự án trọng điểm như trường Đại học Hồng

Đức, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Nhi, các dự án hạ tầng thuộc khu kinh tế Nghi

Sơn, khu công nghiệp Bỉm Sơn, hệ thống đê kè biển, và các dự án hạ tầng giao thông, thuỷ

lợi, đường vành đai biên giới....Nguồn vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đã góp phần

phát triển kinh tế – xã hội toàn tỉnh, đặc biệt là góp phần đẩy nhanh quá trình thực hiện mục

tiêu xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân

tộc miền núi, biên giới, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

Vốn nước ngoài được đầu tư cho các dự án xây dựng hạ tầng nông thôn dựa vào

cộng đồng, cải thiện môi trường đô thị, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông

thôn, trang thiết bị cho các bệnh viện, khắc phục hậu quả bảo lụt, xoá đói, giảm

nghèo...

Vốn trái phiếu Chính phủ được sử dụng đầu tư các dự án đường liên xã, đường

nối các huyện phía Tây, đường đến trung tâm xã chưa có đường ô tô, các công trình

thuỷ lợi miền núi, kiên cố hoá trường học....

Vốn vay kích cầu được bố trí cho các dự án hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, kiên cố

hoá kênh mương, giao thông nông thôn

Bảng 2.3: Phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý

Đơn vị tính: Tỷ đồng

2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)

Cân đối ngân sách tỉnh 75,05 256,26 256,82 389,34 702,59 526,72

Hỗ trợ của Trung ương 413,31 527,31 451,80 531,37 666,70 795,70

Vốn nước ngoài 40,76 45,98 44,75 121,50 108,00 110,00

Trái phiếu Chính phủ 50,00 20,00 420,41 613,20

Tín dụng ưu đãi 17,50 60,00 30,00

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá

Tổng nguồn vốn đầu tư do tỉnh quản lý được phân bổ cho các ngành nông, lâm,

ngư nghiệp; giao thông; thương mại – du lịch; quản lý nhà nước; giáo dục - đào tạo;

khoa học – công nghệ; y tế; xã hội – môi trường; văn hoá - thể dục thể thao; hạ tầng đô

thị; hạ tầng khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp; an ninh quốc phòng; và các

ngành khác... Trong các lĩnh vực đó tỉnh chú trọng tập trung đầu tư vào lĩnh vực nông,

lâm, ngư nghiệp (chú trọng nhất là vào các công trình thuỷ lợi, thường chiếm 3/4 số

vốn trong lĩnh vực này), và lĩnh vực phát triển giao thông. Từ năm 2006 Thủ tướng

Chính phủ có Quyết định thành lập Khu kinh tế Nghi Sơn, để tạo điều kiện thu hút các

nhà đầu tư vào Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã dành tỷ lệ vốn lớn (khoảng

gần 10%) đầu tư phát triển hạ tầng, kích cầu cho các nguồn vốn khác phát triển. Trong

lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tỉnh cũng đã tạo điều kiện nâng cấp cơ sở vật chất, kiên cố

hoá trường lớp học đảm bảo để các trường đạt chuẩn quốc gia... (bảng 2.4),

Bảng 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư từ nguồn ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý

Đơn vị tính: Tỷ lệ %

2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)

14,6 25,1 18,3 25,7 24,0 17,5 Nông, lâm, ngư nghiệp

37,5 17,9 42,2 28,8 13,5 27,4 Giao thông

1,4 2,0 2,9 2,8 2,8 1,8 Thương mại - Du lịch

5,0 4,6 4,4 4,6 5,6 4,4 Quản lý nhà nước

12,7 13,8 10,1 17,9 8,9 8,4 Giáo dục - Đào tạo

2,6 1,3 1,3 Khoa học – Công nghệ

9,7 7,3 5,5 Y tế 5,9 6,5 12,5

4,4 5,4 7,4 Xã hội – Môi trường

6,9 7,3 4,8 6,2 3,6 1,5 Văn hoá - TDTT

15,1 5,5 2,7 3,7 2,6 3,6 Hạ tầng đô thị

9,9 11,8 9,9 Hạ tầng khu KT Nghi

sơn và các KCN

An ninh quốc phòng 1,7 1,7 1,3 2,3 2,2 1,9

Khác 3.1 3,0 3,2 2,3 2,5 2,2

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá

2.1.1.3. Tình hình thực hiện công tác đấu thầu dự án đầu tư từ nguồn vốn

ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá

Trong thời gian qua, công tác đấu thầu trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có nhiều

chuyển chuyển biến tích cực trên các mặt, từ khâu quản lý nhà nước về đấu thầu đến

khâu tổ chức đấu thầu và thực hiện gói thầu của các chủ đầu tư, đơn vị tư vấn và các

nhà thầu. Từ sau khi có Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ

ban hành quy chế đấu thầu, Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/502000, Nghị định

số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Quy chế đấu thầu; Thông tư số 01/2004/TT-BKH ngày 02/02/2004 của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính

phủ, đặc biệt từ sau ngày 29/11/2005, ngày Quốc hội thông qua Luật Đấu thầu, Chính

phủ ban hành Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/6/2006, Nghị định 58/2008/NĐ-CP

ngày 15/5/2008 về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng

theo Luật Xây dựng, trách nhiệm của các chủ đầu tư được nâng cao cả trong khâu

tuyển chọn các nhà thầu lẫn trong khâu chọn tư vấn đánh giá hồ sơ dự thầu. Công tác

tổ chức đấu thầu, công tác quản lý thực hiện gói thầu được thực hiện một cách nghiêm

túc và đạt kết quả tốt hơn, đáp ứng yêu cầu đặt ra. Hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ

định thầu được hạn chế tối đa (những gói thầu áp dụng hình thức này đều nằm trong

phạm vi cho phép của pháp luật về đấu thầu), hình thức đấu thầu rộng rãi được áp

dụng nhiều hơn, đấu thầu đã thể hiện được tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và

đem lại hiệu quả kinh tế. Tình trạng thông thầu, dàn xếp thầu hoặc bán thầu đã cơ bản

được khắc phục. Các nhà thầu được lựa chọn thực sự có kinh nghiệm và năng lực để

thực hiện các gói thầu, vì vậy chất lượng và tiến độ các công trình xây dựng cơ bản

đáp ứng với yêu cầu đặt ra.

Từ năm 2004 -2005 thực hiện quy định của Nhà nước về đấu thầu trong ĐTXD,

tỉnh Thanh Hoá đã đưa vào đấu thầu 1.277 gói thầu, trong đó số gói thầu đấu thầu rộng

rãi là 553 gói, số gói thầu đấu thầu hạn chế là 280 gói, số gói thầu chỉ định thầu và tự

thực hiện là 431 gói, số gói thầu chào hàng cạnh tranh là 13 gói. Với tổng giá gói thầu

được duyệt là 4.045,8 tỷ đồng, tổng giá trị trúng thầu là 3.827,7 tỷ đồng, giảm thầu so

với giá gói thầu được duyệt là 218,2 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ bình quân 3,37%. (bảng 2.5)

Bảng 2.5: Kết quả đấu thầu giai đoạn 2004-2007 từ nguồn ngân sách

do tỉnh Thanh Hoá quản lý

Đơn vị tính: Tỷ đồng

2004 2005 2006 2007 Cộng

Số gói thầu 239 325 369 344 1.277

Tổng dự toán các gói thầu 627,1 549,7 733,5

Tổng giá gói thầu được duyệt 606,2 538,2 730,8 2.170,6 4.045,8

Tổng giá trị trúng thầu 604,9 534,9 700,0 1.987,9 3.827,7

Giảm thầu so với dự toán 33,2 14,8 33,5

Tỷ lệ giảm thầu so với dự 3,54 2,7 4,57 toán (%)

Giảm thầu so với giá gói thầu 1,4 3,3 30,8 182,7 218,2

Tỷ lệ giảm thầu so với giá gói 0,23 0,62 4,22 8,42 BQ: 3,37 thầu (%)

Số gói thầu đấu rộng rãi 73 89 83 308 553

Số gói thầu đấu hạn chế 74 43 147 16 280

Số gói thầu chỉ định 91 191 135 14 431

Số gói thầu chào hàng cạnh tranh 01 02 04 06 13

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá

2.1.1.4. Tình hình quyết toán vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước ở

tỉnh Thanh Hoá

Thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao tại Thông tư 45/2003/TT-BTC

ngày 15/3/2003, Sở Tài chính đã thẩm tra và UBND tỉnh phê duyệt quyết toán vốn đầu

tư các dự án hoàn thành từ năm 2004-2007 với tổng giá trị đề nghị quyết toán của chủ đầu

tư là 2.179,6 tỷ đồng, thẩm tra, trình UBND tỉnh phê duyệt là 2.120,5 tỷ đồng, tiết kiệm

cho ngân sách là 59,1 tỷ đồng (bảng 2.6).

Bảng 2.6: Tình hình thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng từ NSNN do địa

phương tỉnh Thanh Hóa quản lý

Đơn vị tính: Tỷ đồng

2004 2005 2006 2007 Cộng

Số công trình được quyết toán 225 138 178 234 775

Giá trị đề nghị quyết toán của 585,2 459,2 401,5 733,7 2.179,6

chủ đầu tư

Giá trị quyết toán qua thẩm tra 570,6 444,9 387,2 717,8 2.120,5

Giá trị giảm qua thẩm tra 14,6 14,3 14,3 15,9 59,1

Tỷ lệ giảm (%) 2,5 3,1 3,6 2,2 3,0

Nguồn: Sở Tài chính tỉnh Thanh Hoá

2.1.2. Thực trạng quản lý vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước trên

địa bàn tỉnh Thanh Hoá

2.1.2.1. Thành công trong quản lý đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách

nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Trong những năm vừa qua, công tác quản lý ĐTXD đã được UBND tỉnh quan

tâm chỉ đạo, HĐND tỉnh và các đoàn thể chính trị xã hội tăng cường kiểm tra giám sát,

các ngành, các huyện, thị xã, thành phố và các chủ đầu tư đã có nhiều cố gắng cải tiến

chất lượng nên đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư đã được quan tâm và giao kế hoạch

ngay từ đầu năm nên các chủ đầu tư đã chủ động trong việc chuẩn bị hồ sơ, thủ tục đầu

tư. Sở Xây dựng đã thông báo rộng rãi năng lực của các đơn vị tư vấn đến các chủ đầu

tư và trên các phương tiên thông tin đại chúng để các chủ đầu tư có cơ sở xem xét việc

lựa chọn nhà thầu tư vấn nên tiến độ và chất lượng chuẩn bị hồ sơ dự án đầu tư, hồ sơ

thiết kế và dự toán từng bước được nâng lên.

Cải cách thủ tục hành chính trong ĐTXD bước đầu đã có hiệu quả, các cơ quan

đơn vị đã thực hiện khá tốt việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, thời gian xử lý hồ sơ rút

ngắn so với quy định của nhà nước, sự phối kết hợp giữa các ngành trong lĩnh vực

ĐTXD có những chuyển biến tích cực hơn, tránh được những hiện tượng phiền hà

trong giải quyết thủ tục đầu tư. Chất lượng và thời gian thực hiện công tác thẩm định

dự án đầu tư, thiết kế và dự toán đã được các ngành quan tâm chỉ đạo nên từng bước

có tiến bộ. UBND tỉnh đã ban hành các quyết định về cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư

cho các công trình cấp huyện, quyết định về phân cấp và uỷ quyền cho cấp huyện

quyết định đầu tư, vì vậy các huyện được chủ động hơn và chịu trách nhiệm cao hơn

nên các công trình được đẩy nhanh tiến độ, chất lượng công trình được nâng cao.

Công tác phân bổ kế hoạch vốn cho công trình, dự án được thực hiện sớm và

tương đối tập trung, hạn chế việc phân bổ vốn cho các dự án khởi công mới vào cuối

năm. Trong quá trình thực hiện tỉnh đã chủ động điều chỉnh kế hoạch một cách hợp lý,

linh hoạt. Ưu tiên bố trí thanh toán cho các dự án hoàn thành đã có quyết toán được

phê duyệt, vì vậy đến nay cơ bản không còn nợ khối lượng xây dựng cơ bản của các

dự án đã được phê duyệt quyết toán. Các dự án được giao kế hoạch đều phù hợp với

quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và đảm bảo đầy đủ hồ sơ

thủ tục theo quy định.

Công tác tổ chức đấu thầu có nhiều đổi mới, chú trọng nhiều hơn hình thức đấu

thầu rộng rãi. Tiến độ và chất lượng thực hiện các dự án có chuyển biến khá hơn.

Công tác giám sát đánh giá đầu tư, kiểm tra các dự án sau đấu thầu đã được các ngành,

các cấp quan tâm. Công tác quyết toán dự án hoàn thành đã được đẩy nhanh tiến độ.

Chính vì vậy mà trong những năm vừa qua kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của

tỉnh được ĐTXD với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây

dựng mới như: Cảng Nghi Sơn, đường ra cảng, đường Mục Sơn – Cửa Đạt, đường Hồ

Chí Minh, đường nối cảng Nghi Sơn với đường Hồ Chí Minh, đường Lang Chánh –

Yên Khương, đường Hồi Xuân – Tén Tần, công trình thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt, khách

sạn Sao Mai, Khu công nghiệp Tây Bắc Ga thành phố Thanh Hoá, trường Đại học Hồng

Đức, Bệnh viện Đa khoa, Bệnh viện Phụ sản, Bệnh viện Nhi, Trung tâm truyền hình kỹ

thuật số, hạ tầng các khu du lịch, khu di tích, nhà tưởng niệm, tượng đài...Các trục giao

thông chính được nâng cấp, hầu hết các cầu qua sông lớn được xây dựng nối liền các

vùng miền. Nhiều tuyến đường giao thông liên huyện được làm mới. Đường giao thông

nông thôn ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng, ven biển được bê tông hoá hoặc cấp phối.

Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới. Các công trình thuỷ lợi đầu

mối, hệ thống kênh mương nội đồng được đầu tư kiên cố, bảo đảm tưới chủ động cho

hầu hết diện tích lúa nước và một phần diện tích mầu ở các huyện đồng bằng. Cơ sở vật

chất trường học, y tế được tăng cường; đã có hơn 56,5% số phòng học được kiên cố hoá

[4, tr.21-22].

2.1.2.2. Một số hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng

từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Công tác kế hoạch vốn đầu tư đã được tỉnh quan tâm chỉ đạo, tuy nhiên hàng

năm kế hoạch vốn đầu tư vẫn còn phải giao thành nhiều đợt do không đáp ứng yêu cầu

về hồ sơ, thủ tục. Nguyên nhân của việc này một phần do quy định về thủ tục trong

quản lý ĐTXD còn phức tạp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ĐTXD

được ban hành và sửa đổi, thay đổi liên tục, có một số nội dung cần phải xử lý trong

giai đoạn chuyển tiếp nên các ngành, các chủ đầu tư còn lúng túng trong quá trình thực

hiện. Ngoài ra, giá vật liệu, nguyên, nhiên liệu, giá nhân công liên tục thay đổi nên

phải điều chỉnh, bổ sung tổng mức đầu tư, tổng dự toán, dự toán nhiều lần cũng gây

khó khăn trong quá trình thực hiện. Nguyên nhân một phần nữa là do năng lực và trách

nhiệm của nhiều chủ đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, năng lực của các ban quản lý dự án

nhìn chung còn yếu nên còn lúng túng trong quá trình làm việc và chưa thực sự giúp

được các chủ đầu tư quản lý dự án.

Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế –

xã hội, quy hoạch chung xây dựng và quy hoạch chi tiết chưa được quan tâm đúng

mức. Một số ngành đề xuất những dự án quy hoạch chưa thực sự mang tính chiến lược

và chưa thực sự cần thiết, dẫn đến việc sử dụng vốn đầu tư của nhà nước chưa thực sự

hiệu quả. Chất lượng công tác quy hoạch chưa có những chuyển biến đáng kể.

Công tác chuẩn bị đầu tư đã có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm, nhiều dự án

được giao kế hoạch chuẩn bị từ đầu năm hoặc từ những năm trước vẫn chưa phê duyệt

được. Thời gian, chất lượng lập và thẩm định hồ sơ dự án, thiết kế, dự toán vẫn chưa

đáp ứng được yêu cầu, nhiều dự án phải điều chỉnh, bổ sung, thiết kế vẫn còn sai sót

nhiều, nên gây chậm trễ trong quá trình triển khai thi công. Nguyên nhân là do một bộ

phận cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực đất

đai và ĐTXD năng lực còn hạn chế, trách nhiệm chưa cao, nên việc xử lý hồ sơ còn

cứng nhắc, thiếu linh hoạt, dẫn đến chậm trễ, gây khó khăn cho các chủ đầu tư. Tuy Sở

Xây dựng đã có thông báo rộng rãi về năng lực của các đơn vị tư vấn, nhưng thực tế,

một số chủ đầu tư vẫn hợp đồng với những đơn vị tư vấn thiếu năng lực, thời gian lập

hồ sơ còn kéo dài và chất lượng chưa cao. Năng lực của lực lượng làm công tác thẩm

định ở các ngành, các huyện còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công

việc

Công tác đấu thầu tuy có nhiều chuyển biến nhưng đối với một số dự án việc

đấu thầu chưa thực sự cạnh tranh, không lựa chọn được những nhà thầu có đủ năng lực

về tài chính và kỹ thuật để đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ. Tiến độ thực hiện và

giải ngân của một số dự án vẫn chậm so với yêu cầu, một số dự án không có đủ hồ sơ

để giao kế hoạch phải điều chuyển vốn cho các dự án khác. Nguyên nhân một phần do

việc chỉ đạo thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng chưa thực sự quyết liệt. Cấp uỷ,

chính quyền và các đoàn thể chính trị các huyện, xã có dự án đầu tư trên địa bàn chưa

xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối hợp với các chủ đầu tư thực hiện đền

bù giải phóng mặt bằng, dẫn đến có nhiều vướng mắc trong lĩnh vực này.

2.2. Thực trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

2.2.1. Thực trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước trong thời gian qua ở tỉnh Thanh Hoá

Thực hiện chủ trương của Chính phủ, đặc biệt là Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg ngày

15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội

về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước và chống TTLP trong ĐTXD,

trong những năm qua UBND tỉnh Thanh Hoá đã chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra, rà

soát các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, kết quả cho thấy tình hình TTLP trên địa bàn tỉnh

diễn ra còn nhiều, thể hiện ở một số dạng TTLP do sai phạm của tư vấn thiết kế và thẩm

định; nhà thầu và tư vấn giám sát thi công không đúng khối lượng, chủng loại vật liệu gây

ra và một số TTLP do các sai phạm khác. Cụ thể, theo báo cáo thanh tra ĐTXD trên địa bàn

tỉnh Thanh Hoá, tình hình TTLP như sau:

- Năm 2002: Thanh tra 4 dự án gồm 14 công trình thuộc các ngành Giao thông

vận tải, Nông nghiệp & PTNT, đã phát hiện sai phạm trong các giai đoạn đầu tư ở 14

công trình với số tiền là 8.579.542.488 đồng/153.245.755.808 đồng, chiếm 5,6%. Trong

đó, số sai phạm do tư vấn thiết kế dự toán và thẩm định gây nên là 5.892.967.744 đồng,

chiếm 68,69% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là

1.493.691.795 đồng, chiếm 17,41% tổng sai phạm; sai phạm khác: 1.193.082.816 đồng,

chiếm 13,91% tổng sai phạm. Trong số các vụ trên, điển hình là 3 dự án (8 công trình)

tại ngành giao thông, do Công ty tư vấn xây dựng giao thông thiết kế lập dự toán, Sở

Giao thông Vận tải thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi công là: Công ty xây dựng

công trình giao thông I, II; Công ty Tân Thành (TNHH); Công ty xây dựng giao thông

thuỷ lợi Thanh Hoá (TNHH); Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá;

Công ty cầu Thanh Hoá; Công ty 492 Bộ Quốc phòng; Xí nghiệp xây dựng đường sắt

Thanh Hoá; Công ty cầu I Thăng Long. Đã phát hiện sai phạm là 6.575.995.355

đồng/122.998.151.808 đồng, chiếm 5,35% (riêng công trình đường Hồi Xuân – Tén

Tần, do tư vấn thiết kế tự ý thay đổi vị trí khai thác đá, làm cho giá trị dự toán sai tăng

4.717.043.907 đồng trên tổng số sai phạm 4.947.585.427 đồng, chiếm 95,34%), trong đó

tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên 5.820.671.744 đồng, chiếm 88,51%; sai do nhà

thầu và tư vấn giám sát gây nên: 705.521.816 đồng, chiếm 10,73%; sai phạm khác

49.761.816 đồng, chiếm 0,76% [40, tr.2-3].

- Năm 2003: Thanh tra 8 dự án gồm 34 công trình thuộc các ngành Y tế, Giáo

dục đào tạo và tại 2 huyện Thạch Thành, Quảng Xương. Qua thanh tra đã phát hiện sai

phạm ở 34 công trình với số tiền là 2.722.995.984 đồng/32.418.948.236 đồng, chiếm

8,4%, trong đó số sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 1.076.810.685

đồng, chiếm 39,55% tổng sai phạm; Sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên

là 1.090.659.561 đồng, chiếm 40,05% tổng sai phạm; sai phạm khác: 555.525.738

đồng, chiếm 20,4% tổng sai phạm. Một trong các TTLP điển hình là tại ngành Y tế,

thanh tra 4 dự án (11 công trình), do Công ty HAAI Trường đại học Kiến trúc Hà Nội,

Công ty Kiến trúc Thanh Hoá (TNHH) thiết kế, Sở Xây dựng thẩm định. Các đơn vị

trúng thầu và thi công là Công ty Xây dựng I, II, III Thanh Hoá, Công ty Sơn Trang

(TNHH), Công ty Đường sắt I Thanh Hoá, Công ty đầu tư XD phát triển đô thị số 4

thuộc Tổng công ty Đầu tư PT nhà và Đô thị, Công ty XD công trình kỹ thuật đô thị

Thanh Hoá. Thanh tra đã phát hiện sai phạm là 607.060.565 đồng/15.268.129.368

đồng, chiếm 3,98%, trong đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên

174.599.217 đồng, chiếm 28,76% tổng sai phạm; sai do nhà thầu và tư vấn giám sát

gây nên 388.228.110 đồng, chiếm 63,95% tổng sai phạm; sai phạm khác: 44.233.238

đồng, chiếm 7,29% tổng sai phạm. Thanh tra tại ngành Giáo dục đào tạo 2 dự án (11

công trình), do Viện Thiết kế trường học Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế, lập dự toán;

Công ty Tư vấn và Đầu tư Bộ Xây dựng thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi công

là Công ty Xây dựng số I, II Thanh Hoá, Công ty Xây dựng K2, Công ty Xây dựng

công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá, đã phát hiện sai phạm là 1.583.654.215

đồng/13.441.323.000 đồng, chiếm 11,78%, trong đó sai do tư vấn thiết kế và thẩm

định gây nên 865.815.715 đồng, chiếm 54,67% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu

và tư vấn giám sát gây nên 206.546.000 đồng, chiếm 13,04% tổng sai phạm; sai phạm

khác: 511.242.500 đồng, chiếm 32,29% tổng sai phạm [40, tr.3].

- Năm 2004: Thanh tra 18 dự án gồm 140 công trình thuộc các đơn vị: Chi cục

định canh định cư kinh tế mới Thanh Hoá, Sở Giao thông vận tải, Công ty thuỷ nông

Bắc Sông Mã, Sở Thuỷ sản, thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn và các huyện Ngọc

Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Thiệu Hoá. Qua thanh tra đã phát hiện sai

phạm với số tiền là 31.000.776.555 đồng/290.556.305.901 đồng, chiếm 10,67%, trong

đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 11.844.031.911 đồng, chiếm

38,21% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là

15.104.449.715 đồng, chiếm 48,72% tổng sai phạm; sai phạm khác:

4.050.438.329đồng, chiếm 13,07% tổng sai phạm. Trong các sai phạm trên, điển hình

thanh tra tại thành phố Thanh Hoá 6 dự án (gồm 7 công trình) do Công ty Tư vấn xây

dựng giao thông Thanh Hoá, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Công ty Kiến trúc

Việt Nam thiết kế, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi

công là: Công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng Thanh Hoá, Công ty Sông Đà 25,

Công ty xây dựng Hưng Thịnh (TNHH), Công ty Đầu tư và phát triển hạ tầng Hoàng

Long (TNHH), đã phát hiện phạm 7.427.420.538 đồng/69.253.320.691 đồng, chiếm

10,73%, trong đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 5.118.649.170

đồng, chiếm 68,92% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên

là 2.308.771.624 đồng, chiếm 31,08%. Tại Ban quản lý các công trình giáo dục huyện

Ngọc Lặc, thanh tra 3 công trình trường học do Viện thiết kế trường học Bộ Giáo dục

đào tạo thiết kế, lập dự toán, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm định. Các đơn vị trúng

thầu và thi công là: Công ty Xây dựng số I, III Thanh Hoá, Công ty Xây dựng K2, đã

phát hiện sai phạm 196.078.711 đồng/1.487.444.000 đồng, chiếm 13,18%, trong đó sai

do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên 97.630.270 đồng, chiếm 49,79% tổng sai

phạm; sai do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là 56.826.923 đồng, chiếm 28,98%

tổng sai phạm; sai phạm khác: 41.622.292 đồng, chiếm 21,23% tổng sai phạm. Tại

ngành Thuỷ sản, thanh tra dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt hải sản xa bờ (108 vỏ

tàu) do Công tyTư vấn thiết kế Bộ Thuỷ sản thiết kế, lập dự toán, Sở Thuỷ sản Thanh

Hoá thẩm định. Các đơn vị đóng tàu là: Xí nghiệp tàu thuyền Tân Châu Thanh Hoá, Xí

nghiệp cơ khí tàu thuyền Đà Nẵng, HTX Châu Hưng và Tổ hợp Hải Châu TP Vinh –

Nghệ An, đã phát hiện sai phạm 16.710.882.000 đồng /111.461.000.000 đồng, chiếm

14,99%, trong đó sai phạm do tư vấn và thẩm định gây nên là 4.203.306.000 đồng,

chiếm 25,15% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu thi công và chủ đầu tư quyết toán

khống là 10.255.273.000 đồng, chiếm 61,37% tổng sai phạm; sai phạm khác:

2.252.303.000 đồng, chiếm 13,48% tổng sai phạm. Sai phạm nghiêm trọng ở đây là cả

4 cơ sở đóng tàu nêu trên đều thiết lập 2 bản hợp đồng có giá trị khác nhau: 1 bản theo

giá dự toán được duyệt, nộp cho Cục đầu tư để làm cơ sở vay vốn, 1 bản có giá trị thấp

hơn để A-B thanh toán với nhau; Các cơ sở đóng tàu và Chủ dự án đã thoả thuận trên

hợp đồng rút bớt kích thước tàu (cả chiều dài lẫn chiều cao). Từ việc làm trên, các đơn

vị đóng tàu đã chi lại cho Chủ dự án 6.866.578.000 đồng, chiếm 14,82% giá trị vỏ tàu.

Tại thị xã Sầm Sơn, thanh tra 8 công trình do Công ty Tư vấn giao thông Thanh Hoá

và Viện Quy hoạch Thanh Hoá thiết kế, lập dự toán, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm

định. Các đơn vị trúng thầu và thi công là: HTX xây dựng Tân Hưng Sầm Sơn, Công

ty Xây dựng Sơn Trang (TNHH), Công ty Xây dựng Hợp Lực (TNHH), Công ty Xây

dựng Khánh Hưng (TNHH), Công ty Xây dựng Thành Công (TNHH), Công ty Xây

dựng Vũ Phong (TNHH), đã phát hiện sai phạm 1.912.860.000 đồng /22.301.392.000

đồng, chiếm 8,58%, trong đó số sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là:

488.405.000 đồng, chiếm 25,53% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám

sát gây nên là: 1.146.977.000 đồng, chiếm 59,96% tổng sai phạm; sai phạm khác:

277.478.000 đồng, chiếm 14,51% tổng sai phạm. Sai phạm có tính điển hình ở đây là

các nhà thầu đã xuất hiện ngay trong giai đoạn lập dự án thiết kế kỹ thuật và dự toán

công trình; nhà thầu trực tiếp nộp tiền thiết kế phí cho đơn vị tư vấn. Thực chất việc ra

quyết định chỉ định thầu, đấu thầu chỉ là hình thức [41, tr.3-5].

- Năm 2005: Thanh tra 19 dự án, công trình thuộc các lĩnh vực: Xây dựng,

giao thông tại một số đơn vị, địa phương. Qua thanh tra phát hiện 18 dự án, công

trình có khuyết điểm, sai phạm ở mức độ khác nhau trong hầu hết các giai đoạn

ĐTXD làm thiệt hại ngân sách nhà nước 11.874,2 triệu đồng, trong đó điển hình

một số dự án có sai phạm như: Việc ĐTXD tại thành phố Thanh Hoá, thanh tra 6

dự án với 7 hạng mục công trình, đã phát hiện các khuyết điểm, sai phạm trong các

khâu đầu tư, xây dựng với số tiền sai phạm là 7.427,4 triệu đồng, chiếm 10,73% giá

trị xây lắp được duyệt, trong đó sai phạm về đơn giá, biện pháp thi công do lỗi của

tư vấn và cơ quan thẩm định chiếm 69% bằng 5.118,6 triệu đồng, sai về khối lượng,

thuế: 2.308,8 triệu đồng. Thanh tra ĐTXD tại thị xã Bỉm Sơn 6 dự án ĐTXD, đã

phát hiện sai phạm trong các khâu thiết kế, lập dự toán, thẩm định trình duyệt, thi

công, nghiệm thu, thanh quyết toán với số tiền 390,03 triệu đồng, chiếm 5,15% giá

trị xây lắp, trong đó sai phạm do nhà thầu thi công 260,25 triệu đồng, chiếm 66,7%

sai phạm; sai phạm do đơn vị tư vấn thiết kế, lập dự toán, cơ quan thẩm định, cơ

quan quyết toán gây nên là 129,78 triệu đồng, chiếm 33,3% sai phạm [44, tr.3-4].

- Năm 2006, thanh tra 56 dự án, công trình thuộc các lĩnh vực: xây dựng, giao

thông, thuỷ lợi tại một số địa phương, qua thanh tra phát hiện 56/56 dự án, công trình

có khuyết điểm, sai phạm ở mức độ khác nhau trong hầu hết các khâu của quy trình

ĐTXD, với tổng số tiền sai phạm là 5.090.150.963 đồng, kiến nghị thu hồi và giảm trừ

quyết toán 923.599.895 đồng, số tiền đề nghị thu 265.067.000 đồng, đã thu

154.698.352 đồng. Trong đó điển hình một số dự án sai phạm như công trình gói thầu

CT02 thuộc dự án đường Hồ Chí Minh đã phát hiện sai phạm ở tất cả các khâu trong

quy trình đầu tư xây dựng, với số tiền 1.621.073.748 đồng/27.265.699.255 đồng,

chiếm 5,95%, trong đó sai do đại diện chủ đầu tư gây nên: 1.498.295.733

đồng/1.621.073.748 đồng, chiếm 92,43% số sai phạm; sai do nhà thầu thi công gây

nên: 122.778.015 đồng/1.621.073.748 đồng, chiếm 7,57% số sai phạm. Thanh tra dự

án xây dựng hệ thống kênh tiêu Đa Bút và dự án sửa chữa, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi

tưới nước vùng nguyên liệu mía Sao Vàng do Ban quản lý dự án Thuỷ lợi Thanh Hoá

làm chủ đầu tư đã phát hiện các sai phạm, khuyết điểm, với tổng số tiền 572.101.000

đồng, gồm thi công thiếu khối lượng, nhưng vẫn nghiệm thu thanh toán:

366.820.000đồng, sai sót trong khảo sát, thiết kế và thi công gây lãng phí: 264.446.500

đồng, sai do thẩm định dự toán: 29.091.000 đồng, sai do thiết kế và thẩm định:

176.190.000 đồng. Thanh tra tại huyện Ngọc Lặc, đoàn thanh tra đã phát hiện các sai

phạm trong công tác giám sát thi công chưa chặt chẽ, không phát hiện, ngăn chặn kịp

thời việc các nhà thầu thi công không đúng thiết kế, không đúng chủng loại vật liệu,

làm giảm chất lượng công trình; phê duyệt sai dự toán 2 công trình trường mầm non.

Thanh tra tỉnh đã kiến nghị các chủ đầu tư không quyết toán với tổng số tiền:

1.188.728.401đồng [45, tr.4-5].

- Năm 2007, thanh tra dự án sửa chữa, nâng cấp đoạn K9+949 - K22+204

Trạm bơm xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hoá phát hiện lập dự toán thiết kế có

nhiều sai sót trong việc áp dụng định mức, làm tăng giá trị dự toán 1.726.576.000

đồng, nghiệm thu thanh toán sai 200.140.000 đồng. Thanh tra một số công trình xây

dựng trường học thuộc trương trình kiên cố hoá trường lớp học (chương trình

159/CP) tại huyện Bá Thước, phát hiện sai phạm 782.990.000 đồng; đã kiến nghị

giảm trừ quyết toán 67.347.000 đồng, ra quyết định thu hồi về tài khoản chờ xử lý

105.802.000 đồng, đã thu 49.000.000 đồng. Thanh tra dự án nước sạch, vệ sinh môi

trường nông thôn Thanh Hoá (xây dựng hệ thống nước sạch cho miền núi) do Trung

tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Thanh Hoá làm chủ đầu tư, phát hiện

thanh toán sai khối lượng với giá trị 334.345.000 đồng; đã kiến nghị giảm trừ quyết

toán 67.347.000 đồng, ra quyết định thu hồi 203.679.000 đồng, đã thu 203.000.000

đồng. Thanh tra dự án đầu tư điều chỉnh, bổ sung nâng cấp Bệnh viện đa khoa tỉnh

Thanh Hoá (do Ban quản lý XDCB tỉnh Thanh Hoá làm chủ đầu tư) phát hiện

nghiệm thu, thanh toán sai khối lượng, áp giá vật tư chưa đúng với tổng giá trị

269.158.000đồng, đã kiến nghị giảm trừ quyết toán 238.330.000 đồng. Thanh tra dự

án cải tạo, nâng cấp đường Cầu Hổ – Cảng Nghi Sơn (dự án do Ban quản lý dự án

giao thông I làm chủ đầu tư), phát hiện dự toán sai khối lượng và nghiệm thu thanh

toán sai khối lượng với giá trị 114.402.000 đồng; số phải xử lý thu hồi 79.414.985

đồng, đã thu 17.400.000 đồng. Thanh tra dự án đầu tư xây dựng tại trường đại học

Hồng Đức (cơ sở 3), qua thanh tra 5 hạng mục công trình, phát hiện 4 hạng mục có

sai sót ở các khâu thiết kế, lập dự toán, thẩm định trình duyệt, tổ chức thi công, với

số tiền 771.521.025 đồng, trong đó đề nghị giảm trừ quyết toán 218.621.025 đồng.

Thanh tra dự án đường giao thông ngã ba Thành Trực đi cầu Thạch Định (Thạch

Thành) phát hiện nghiệm thu sai so với thực tế thi công và đã ra quyết định thu hồi

20.012.000 đồng, đã thu vào tài khoản chờ xử lý của Thanh Tra tỉnh tại Kho bạc Nhà

nước tỉnh. Thanh tra dự án đầu tư xây dựng nhà khám bệnh, điều trị vô sinh và quản

lý hành chính Bệnh viện Phụ sản Thanh Hoá, phát hiện dự toán sai tăng 98.900.000

đồng, nghiệm thu thanh toán sai 53.530.000 đồng; đã thu hồi 51.175.000 đồng vào

tài khoản chờ xử lý của Thanh tra tỉnh. Thanh tra việc thực hiện các dự án ĐTXD

trên địa bàn huyện Hậu Lộc, phát hiện dự toán sai, thi công không đúng khối lượng,

chủng loại vật liệu với giá trị 417.290.799 đồng, kiến nghị thu hồi 245.472.135 đồng

[47, tr.1-2].

Ngoài ra, như Báo Gia đình và Xã hội ngày 26/2/2005 có đăng “Dự án Hồ chứa

nước Cửa đạt – Thanh Hoá, tổng vốn đầu tư 4.500 tỷ đồng, do Sở Nông nghiệp và

PTNT làm chủ đầu tư, mới triển khai đợt I, đã phát hiện 21 công trình xây dựng bị rút

ruột, công tác giải phóng mặt bằng đều có sai phạm tham nhũng; công trình đầu tư từ 2-

3 tỷ đồng thì bị thất thoát 2-3 trăm triệu đồng”. Qua báo cáo kết quả thanh tra các dự án

tái định cư công trình Hồ Cửa Đạt, số 310/KL-TTTH ngày 24/902004 nêu rõ: Qua thanh

tra 21 công trình XDCB của 3 dự án, phát hiện sai phạm với số tiền: 1.506.521.002 đồng

gồm sai phạm do nhà thầu thi công thiếu khối lượng: 1.013.468.643 đồng; sai phạm do

tư vấn áp dụng biện pháp thi công không đúng gây thiệt hại tính ra là 311.412.698 đồng;

sai phạm do tư vấn tính bù giá chênh lệch vật liệu đến hiện trường xây lắp sai, làm thiệt

hại số tiền 181.693.661 đồng [41, tr.7].

Đối với dự án đầu tư xây dựng theo Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã tại

11 huyện miền núi Thanh Hoá, Thanh tra Xây dựng đã phát hiện và không thanh toán

số tiền sai phạm là: 1.657.985.000 đồng ; xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định

126/CP số tiền là 45.900.000 đồng; đồng thời buộc sửa chữa khắc phục về chất lượng

xây dựng các công trình có sai phạm [37, tr 2]. Công trình Đập Bản Hao – xã Sơn

Điện, huyện Quan Sơn do Đoàn quy hoạch thuỷ lợi khảo sát địa hình không kỹ, dẫn

đến vị trí đặt mương không đảm bảo an toàn, công trình mới xây dựng xong đã trôi

một đoạn mương bê tông, do đó việc dẫn nước trong kênh mương không còn tác dụng

[37, tr 2]. Công trình chợ trung tâm cụm xã Sơn Điện sau khi bàn giao hầu như không

sử dụng, vô chủ [37, tr.3]. Công trình trường tiểu học Bản Sum, trường trung học cơ

sở Bản Hạ xã Sơn Hà - huyện Quan Sơn do công ty đầu tư xây dựng HUD 4 thi công

vi phạm về chất lượng, thi công không đúng thiết kế làm sai giảm tiết diện thép dầm,

sàn bê tông sai giảm kích thước gây rạn nứt bê tông, võng trần. Công trình Đập Bai

San, xã Tân Lập – huyện Bá Thước nhà thầu là công ty NN&PTNT thi công sai thiết

kế, sai quy trình phần bê tông vỏ đập làm giảm chất lượng và tuổi thọ đập [37, tr.3].

Thực hiện chỉ thị 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ từ

tháng 6/2005 đến tháng 10/2005, Sở Xây dựng tiến hành kiểm tra 41 công trình có kết

quả như sau: Năng lực của chủ đầu tư: 29/41 chủ đầu tư thực hiện đầy đủ thủ tục cơ sở

pháp lý về quản lý ĐTXD theo Nghị định 52, NĐ12, NĐ 07. 12/41 chủ đầu tư chưa

thực hiện đầy đủ thủ tục. Về công tác tư vấn: có 3/41 đơn vị không đảm bảo tư cách

pháp nhân (chủ yếu là khảo sát địa chất và thí nghiệm); 4/41 dự án thiết kế sai sót phải

xử lý (Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Nga Sơn, trường trung học phổ thông

Lương Đắc Bằng Hoằng Hoá, trụ sở UBND xã Tiến Lộc, nhà đa năng trường trung

học phổ thông Hà Trung). Chỉ có 4/41 công trình thực hiện giám sát tác giả. Tư vấn

giám sát, do năng lực còn yếu, nên đến 18/41 công trình sai phạm kỹ thuật và hồ sơ

quản lý. 19/41 công trình tư vấn giám sát chưa đảm bảo tư cách pháp nhân theo NĐ16

CP. Đối với nhà thầu thi công: 9/41 nhà thầu chưa đảm bảo về hồ sơ quản lý theo Nghị

định 209 và Quyết định 18/BXD, 32/41 nhà thầu chưa đảm bảo yêu cầu cơ bản. Về

chất lượng xây lắp có 27/41 công trình thi công sai hoặc thiếu so với thiết kế. Có 10/41

nhà thầu đưa thép không rõ xuất xứ, chất lượng kém vào công trình [36, tr.2-3].

2.2.2. Nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn

ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá

Nguyên nhân đưa đến tình trạng TTLP, tiêu cực, sai phạm trong hoạt động

ĐTXD có nhiều, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:

2.2.2.1. Nguyên nhân từ góc độ cơ chế, chính sách pháp luật

Trong quá trình chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ

chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống thể chế của Nhà nước đang từng

bước hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế mới. Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách

pháp luật vẫn còn chậm được nghiên cứu ban hành hoặc đã ban hành nhưng chưa phù

hợp với tình hình thực tế, chậm được sửa đổi và bổ sung; các quy định còn nhiều bất

cập, thiếu đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều sơ hở cho phép các đối tượng thoái

hoá, biến chất lợi dụng. Trong các quy định hiện hành còn thiếu các chế tài cụ thể,

hoặc chế tài chưa đủ mạnh để xử lý các trường hợp phạm tội như quy định chọn nhà

thầu có giá thấp nhất mà chưa quan tâm đến điều kiện năng lực thực hiện dự án; cơ

chế, chính sách giá cả, chế độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư còn nhiều bất

cập nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án; thủ tục hành chính còn rườm rà, bất

cập, trong quá trình thực hiện còn lúng túng; người có quyền quyết định về đầu tư lại

không có quyền quyết định về tài chính, tình trạng “xin – cho” (xin vốn, xin chỉ tiêu,

chạy vốn, chạy chỉ tiêu) gây nên tiêu cực tham nhũng trong ĐTXD rất nghiêm trọng;

hệ thống tiêu chuẩn, chỉ tiêu, định mức kinh tế – kỹ thuật phục vụ quản lý ĐTXD, bao

gồm cả quản lý quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư mặc dù đã thường xuyên

được nghiên cứu, sửa đổi nhưng vẫn còn thiếu, có khi không đáp ứng kịp với sự thay

đổi của cơ chế thị trường, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Về công tác quy hoạch, kế hoạch: Thiếu các văn bản pháp lý để quản lý nhà

nước về quy hoạch. Công tác quy hoạch chưa đi trước một bước, tầm nhìn ngắn, thiếu

tính chiến lược, chưa đánh giá hết các yếu tố khách quan và quy luật thị trường nên

tính định hướng của quy hoạch còn yếu, thiếu tính thừa kế nên chất lượng quy hoạch

thấp, tính thực tế không cao, quy hoạch không mang tính tổng thể, thiếu lộ trình thực

hiện, quy hoạch không gắn với kế hoạch bố trí vốn. Đa số các công trình giải quyết

mang tính tình thế, cần đến đâu phát triển đến đó, trong khi nguồn vốn đầu tư có hạn,

bố trí đầu tư dàn trải dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công ở hầu hết các công

trình, thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển ngành với tổng thể phát triển

kinh tế – xã hội. Tình trạng quy hoạch sai, quá sơ sài, “quy hoạch treo”, chồng chéo,

mang tính cục bộ, khép kín đã gây nên nhiều lãng phí. Nhiều dự án đầu tư không có

quy hoạch, không đúng quy hoạch phải phá đi làm lại, phải di chuyển, gây lãng phí

lớn. Công tác điều tra cơ bản sơ sài, chưa đủ thông tin phục vụ công tác quy hoạch.

Công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch còn hạn chế. Chủ trương

đầu tư thường từ ý muốn áp đặt chủ quan, động cơ cá nhân thành tích của lãnh đạo,

thấy nơi khác làm mình cũng làm. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức,

vốn bố trí cho công tác quy hoạch còn quá nhỏ bé. Việc chủ trương đầu tư được quyết

định quá chậm khiến cho việc triển khai lập dự án sau này thiếu thời gian. Quyết định

chủ trương là khâu quan trọng bậc nhất nhưng chưa quy tụ được những người có hiểu

biết, có kinh nghiệm tham gia.

2.2.2.2. Nguyên nhân từ góc độ nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công

- Nguyên nhân từ phía nhà thầu tư vấn lập dự án đầu tư, thiết kế, thẩm tra thiết

kế, dự toán, tư vấn đấu thầu, giám sát thi công, tư vấn kiểm toán:

+Một số một số nhà tư vấn thiếu trách nhiệm, không làm đúng, làm đủ chức

năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, thường khảo sát sơ sài, tư liệu, số liệu thiếu

chính xác, gây sai sót trong thiết kế, xác định biện pháp thi công không phù hợp với

thực tế, trong dự toán thì việc bóc tách khối lượng, áp đơn giá, chế độ chính sách không

chính xác, dẫn đến phải làm đi làm lại, làm chậm tiến độ công trình. Đây là lỗi rất phổ

biến mà ít khi được lượng hoá thành tiền. Đơn cử như dự án Nhà luyện tập và thi đấu tỉnh

Thanh Hoá, đơn vị tư vấn lập dự án, thiết kế kỹ thuật và thi công, tư vấn là Trung tâm tư

vấn và chuyển giao công nghệ xây dựng (trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) đã lập dự án

không chính xác, thiết kế không thực tế, không đúng tiêu chuẩn quy phạm làm tổng mức

đầu tư tăng lên so với thiết kế ban đầu (gần 31,2 tỷ đồng) là 11,5 tỷ (làm tròn), mức đầu tư

công trình “đội” lên gần 1/3 giá trị được phê duyệt ban đầu [10]. Nhiều nhà thầu tư vấn

lập dự án đầu tư không đúng trách nhiệm của mình và có xu hướng đưa ra phương án

chiều theo ý chí người lãnh đạo cơ quan chủ đầu tư để có việc làm và thu nhập. Một số

nhà thầu tư vấn giám sát thiếu trách nhiệm, không làm đúng nhiệm vụ được giao, tạo sơ

hở để các nhà thầu lợi dụng tăng khống khối lượng, rút bớt vật liệu, thay đổi chủng loại

vật liệu, quyết toán gian dối, gây thất thoát ngân sách, ảnh hưởng đến chất lượng công

trình.

Mặt khác, năng lực thực tế của các đơn vị tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Toàn

tỉnh có gần 100 công ty hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thiết kế, song chỉ có 14 công

ty đủ năng lực ở từng mảng cụ thể. Thực tế chỉ có 3 công ty đảm bảo làm tốt chức

năng của mình ở mọi mặt, có 7 doanh nghiệp có phòng thí nghiệm kiểm định chất

lượng đủ điều kiện và được công nhận hợp chuẩn. Nhiều đơn vị tư vấn thiết kế chưa

quan tâm lưu trữ hồ sơ thí nghiệm, thiếu biên bản lấy mẫu thí nghiệm hoặc lập biên

bản chưa đảm bảo cơ sở pháp lý [53]. Năm 2006 và 2007 Sở Xây dựng tổ chức kiểm

tra hoạt động tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Trong tổng số 81 doanh

nghiệp đăng ký kinh doanh hoạt động tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh thì có 59

doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tư vấn xây dựng, số còn lại có đăng ký kinh

doanh trong từng lĩnh vực tư vấn nhưng chưa hoạt động hoặc ít hoạt động. Hiện tại, số

doanh nghiệp hành nghề tư vấn xây dựng đủ điều kiện năng lực hoạt động xếp hạng

(H1, H2) trong từng lĩnh vực tư vấn chỉ có 19 doanh nghiệp, số còn lại chưa đủ điều

kiện xếp hạng, cụ thể: lập dự án đầu tư xây dựng công trình kiến trúc: 11 đơn vị đủ

điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng

1 và 10 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); lập dự án ĐTXD công trình giao thông: 6 đơn

vị đủ điều kiện năng lực hoạt động (trong đó có 1 đơn vị đủ điều kiện được xếp hạng

1 và 5 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); lập dự án ĐTXD công trình thuỷ lợi: 2 đơn vị

đủ điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp

hạng 1 và 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); thiết kế công trình kiến trúc: 10 đơn vị đủ

điều kiện năng lực được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 1 và 9 đơn

vị đủ điều kiện được xếp hạng 2); thiết kế công trình giao thông: 6 đơn vị đủ điều kiện

năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 1 và 5 đơn

vị đủ điều kiện xếp hạng 2); thiết kế công trình thuỷ lợi: 2 đơn vị đủ điều kiện năng lực

xếp hạng 2; lập dự án, thiết kế công trình điện: hầu hết các đơn vị chưa đủ điều kiện

năng lực xếp hạng; khảo sát xây dựng: 1 đơn vị đủ điều kiện năng lực hoạt động xếp

hạng 2 lĩnh vực khảo sát địa hình; giám sát thi công: 5 đơn vị đủ điều kiện năng lực

hoạt động xếp hạng 2 gồm: 2 giao thông, 2 thuỷ lợi, 3 kiến trúc (trong đó có 2 đơn vị

đủ điều kiện xếp hạng 2 về hai lĩnh vực [38, tr.1-2].

- Nhà thầu thi công:

Hiện nay nhiều doanh nghiệp hành nghề thi công xây dựng không đủ năng lực

về tài chính, máy móc, trang thiết bị, thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn và

kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình nhận thầu nên khi triển khai thi công không đảm

bảo chất lượng, tiến độ công trình. Mặt khác do phẩm chất, đạo đức, do chạy theo lợi

nhuận, một số nhà thầu đã tìm cách ăn cắp, đánh tráo vật tư, vật liệu, bớt xén quy

trình, quy chuẩn kỹ thuật,...làm cho công trình không đảm bảo chất lượng, gây TTLP.

Chẳng hạn như dự án tuyến đường Nghi Sơn – Bãi Trành chậm tiến độ do năng lực tài

chính, thiết bị, kỹ thuật của nhà thầu (công ty Vĩnh Nguyên) thiếu và yếu. Một số công

cụ như khoan cọc nhồi, ván khuôn, khung thép nhà thầu phải đi thuê. Thêm vào đó,

đây là lần đầu tiên nhà thầu thi công cầu vượt đường bộ và đường sắt nên “vừa học,

vừa làm”. Ban điều hành dự án đã nhiều lần có công văn gửi Bộ chủ quản nêu rõ khả

năng Công ty Vĩnh Nguyên không thể hoàn thành nhiệm vụ, sớm điều chuyển việc thi

công cầu vượt đường sắt và đường bộ cho đơn vị khác có năng lực hơn nhưng chưa

được cấp có thẩm quyền giải quyết [13].

2.2.2.3. Nguyên nhân từ góc độ chủ đầu tư

Các chủ đầu tư là người quản lý, sử dụng công trình, sở hữu vốn đầu tư hoặc là

người được giao quản lý và sử dụng vốn để ĐTXD, đồng thời trực tiếp quản lý điều

hành các dự án ĐTXD, từ khi xin chủ trương đến việc lập dự án đầu tư, thiết kế bản vẽ

thi công, dự toán, tổ chức thực hiện xây lắp công trình và việc quyết toán hoàn thành

công trình đưa vào khai thác sử dụng. Do đó, chủ đầu tư phải là người chịu trách

nhiệm toàn diện đối với dự án đầu tư do mình đề xuất và quản lý. Trên thực tế trình độ

năng lực quản lý dự án của các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án (là người đại diện

chủ đầu tư, giúp chủ đầu tư thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm quản lý của chủ

đầu tư; thay mặt chủ đầu tư giám sát thực hiện các nội dung công việc, thuê tư vấn,

đơn vị thi công và giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ĐTXD) chưa đáp

ứng được công việc được giao, chưa làm tròn chức năng, nhiệm vụ ở một số khâu như

chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng... Một số

chủ đầu tư cung cấp các số liệu, lập đề bài, giao nhiệm vụ để tư vấn thiết kế thực hiện

còn thiếu chính xác hoặc thả nổi, mặc đơn vị tư vấn lo liệu. Việc nghiệm thu đầu vào

của các loại vật liệu đưa vào công trình chưa thực hiện đúng quy định [37, tr.4]. Đặc

biệt do năng lực và trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý còn yếu, chưa đáp ứng

được yêu cầu nên đã hầu như khoán trắng mọi việc thuộc trách nhiệm của mình cho

các đơn vị tư vấn hoặc đơn vị thầu xây dựng, chủ đầu tư chỉ việc ký vào dự án và các

văn bản trình duyệt là xong, dẫn đến tình trạng chủ đầu tư không quản lý một cách

chặt chẽ, sâu sát, kỹ lưỡng các giai đoạn của dự án, làm giảm hiệu quả đầu tư hoặc gây

TTLP vốn đầu tư.

Nhìn chung phần lớn các công trình xây dựng, đặc biệt là công trình có quy mô

nhỏ, đều do chủ đầu tư trực tiếp quản lý thông qua ban quản lý dự án. Bộ phận quản lý

dự án thường là cán bộ kiêm nhiệm trong thời kỳ ĐTXD, trực tiếp điều hành quá trình

thực hiện dự án theo tình hình thực tiễn của mình, sử dụng bộ máy sẵn có phục vụ yêu

cầu của dự án, sau đó bố trí sử dụng hầu hết chuyên viên điều hành dự án vào khai

thác sử dụng khi kết thúc đầu tư. Hình thức này chứa đựng những nhược điểm do cán

bộ quản lý không chuyên nghiệp, không nắm vững trình tự, thủ tục, kỹ thuật xây dựng,

nên thường không làm đầy đủ chức năng của Ban quản lý dự án, dễ bỏ sót trình tự

trong quản lý, giám sát xây dựng hoặc gây ách tắc làm chậm tiến độ xây dựng, đặc biệt

là không giám sát chặt chẽ chất lượng công trình, nên nhiều công trình thi công không

đúng thiết kế hoặc chất lượng kém vẫn được nghiệm thu thanh toán. Năm 2005, qua

kiểm tra 109 công trình xây dựng cho thấy, có tới 41% Ban quản lý dự án của chủ đầu

tư không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ điều hành dự án; 62,65%

công trình còn có khuyết điểm về chất lượng thi công cần phải xử lý, khắc phục. Riêng

giá trị thu hồi do vi phạm chính sách, chế độ tại các công trình xây dựng ở Thanh Hoá

được thanh tra năm 2005 là 569 triệu đồng. Năm 2007 tỉnh Thanh Hoá yêu cầu xử lý

07 công trình không đảm bảo chất lượng.

2.3. Thực trạng chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn

ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá

2.3.1. Mặt mạnh của công tác chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá

Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo chung của Chính phủ, tỉnh Thanh Hoá

đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm hạn chế TTLP trong ĐTXD từ nguồn vốn

NSNN như triển khai quán triệt các quy định về ĐTXD cơ bản, phân cấp quản lý đầu

tư, tập huấn triển khai quán triệt các quy định pháp luật về quản lý ĐTXD...Đồng thời,

tỉnh đã chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực xây dựng nhằm phát hiện,

chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, ngăn ngừa các hành vi chống TTLP trong ĐTXD.

Có thể kể ra một số văn bản sau:

- Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 12/4/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về nâng

cao hiệu quả, chống TTLP trong ĐTXD.

- Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 13/9/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

tăng cường quản lý công tác hoạt động tư vấn xây dựng.

- Chỉ thị số 28/CT-UBND ngày 09/10/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về đẩy

mạnh công tác lập quy hoạch và quản lý đô thị.

- Quyết định số 4090/2007/QĐ-UBND ngày 21/12/2007 của UBND tỉnh Thanh

Hoá về việc ban hành quy định về phân cấp và uỷ quyền trong ĐTXD từ vốn NSNN

của tỉnh Thanh Hoá.

- Văn bản số 2797/UBND-CN ngày 15/7/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công một số công trình.

- Văn bản số 3631/UBND-CN ngày 07/9/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

quản lý chất lượng công trình xây dựng và sử dụng thép kém chất lượng.

- Văn bản số 5172/UBND-CN ngày 12/12/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về

việc mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về kỹ thuật và quản lý ĐTXD cho cán bộ địa chính

xây dựng xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh.

- Thông báo số 3198/TB-UBND ngày 11/8/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về

việc kiểm tra chất lượng thi công các công trình XDCB: Bệnh viện Đa khoa, Bệnh

viện Nhi, trường Đại học Hồng Đức cơ sở 3, trụ sở Huyện uỷ và Trung tâm bồi dưỡng

Chính trị huyện Thường Xuân, Bệnh viện đa khoa khu vực và trường Kỹ thuật Ngọc

Lặc.

- Thông báo số 3812/TB-UBND ngày 16/9/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về

việc kiểm tra chất lượng thi công xây dựng Nhà giảng đường lớn – Trường Chính trị

tỉnh.

- Văn bản số 1409/UBND-CN ngày 13/4/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

nghiên cứu hình thức quản lý dự án ĐTXD công trình.

- Văn bản số 2423/UBND-CN ngày 15/6/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

cấm sử dụng vật liệu làm cốt pha bằng mành tre, luồng trong công trình xây dựng.

- Văn bản số 428/UBND-CN ngày 31/01/2007 về việc xử lý kết quả kiểm tra,

thanh tra các công trình xây dựng có TTLP.

- Văn bản số 1732/UBND-CN ngày 09/5/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc

ban hành quy định hồ sơ, thủ tục ĐTXD cơ bản trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

- Ban hành các mẫu thiết kế công sở phường xã, nhà lớp học, nhà ở giáo viên,

nhà bệnh xá cấp xã phường, nhà văn hoá thôn, mẫu Trung tâm y tế dự phòng cho 11

huyện miền núi, mẫu xử lý chất thải lỏng cho các bệnh viện...

- Ban hành 18 bộ đơn giá phục vụ công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chi

phí ĐTXD theo Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ.

Thông qua chỉ đạo của UBND tỉnh, các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị hữu

quan trong tỉnh đã có nhiều cố gắng trong việc chống TTLP trong ĐTXD từ vốn

NSNN trên địa bàn tỉnh. Cụ thể là:

+ Các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, các đơn vị tư vấn, đơn vị thi công xây lắp

đã cơ bản chấp hành và thực hiện đúng các quy định về ĐTXD theo Luật Xây dựng và

các nghi định của Chính phủ.

+ Đa số các công trình xây dựng hàng năm trên địa bàn tỉnh đảm bảo được chất

lượng, hiệu quả, phát huy tác dụng.

+ Các cơ quan thanh tra chuyên ngành của Sở Xây dựng, Sở Giao thông Vận

tải, Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư,

Sở Tài chính được thành lập và đi vào hoạt động theo quy định của Chính phủ; các

đoàn kiểm tra liên ngành về chất lượng công trình xây dựng hàng năm đều tiến hành

theo quy định của tỉnh. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, đã góp phần giảm

TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.

Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác chống TTLP trong ĐTXD, tỉnh

Thanh Hoá đã chỉ đạo các ngành các cấp phải xác định trách nhiệm trong việc phải

tăng cường hơn nữa các biện pháp quản ĐTXD. UBND tỉnh đã đốc thúc rà soát và

điều chỉnh các quy hoạch xây dựng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

UBND tỉnh cũng chỉ đạo bố trí vốn đầu tư phải theo hướng tập trung, có trọng điểm,

phù hợp với khả năng cân đối vốn năm kế hoạch, đáp ứng tiến độ và kế hoạch thực

hiện. Mặc dù tỉnh đã chỉ đạo ráo riết như vậy, đầu tư các công trình y tế vẫn bị dàn trải

(trong 18 dự án nhóm C có 11 dự án kéo dài từ 3-7 năm). Trong lĩnh vực Giao thông

từ 2002-2005, tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện được nhiều dự án với tổng mức đầu

tư khoảng 600 tỷ đồng, nhưng vẫn còn tình trạng nợ đọng vốn ở các dự án này. Ví dụ

ở công trình đường Hồi Xuân – Tén Tần, mặc dù đã hoàn thành từ năm 2002, nhưng

đến hết năm 2006 vẫn còn nợ đọng 66 tỷ đồng [54, tr.1]. Công tác chỉ đạo thực hiện

quy định của pháp luật về xây dựng đã được tổ chức triển khai đến tận cán bộ xã,

phường, thị trấn. Trên địa bàn toàn tỉnh đã mở được 26 lớp tập huấn cho 2250 cán bộ

làm công tác ĐTXD của 633 xã, phường, thị trấn và các phòng nghiệp vụ của huyện

thị xã, thành phố. Nhìn chung công tác quản lý ĐTXD đã có tiến bộ, đang dần dần đi

vào nề nếp. Đi đối với việc phân cấp quản lý ĐTXD, việc chấn chỉnh nâng cao năng

lực của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng cũng được các ngành, các cấp quan

tâm hơn [54, tr.2].

Về xử lý cán bộ, qua thanh tra ĐTXD trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, thanh tra đã

kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật, khiển trách 52 cán bộ có liên quan đến sai

phạm, trong đó giai đoạn 2002-2004 là 17 người, cụ thể là cách chức 1 giám đốc công

ty, cảnh cáo 2 trưởng phòng cấp sở, khiển trách 1 phó phòng cấp sở, khiển trách, cảnh

cáo và chuyển công tác khác 13 cán bộ tư vấn, thẩm định, giám sát [40, tr.6-7]. Năm

2005 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật hành chính 2 người [44,

phụ lục 1]. Năm 2006 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật hành

chính 16 người [45, phụ lục 1]. Năm 2007 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị

xử lý kỷ luật hành chính 17 người [47, phụ lục 1]

2.3.2. Mặt yếu của công tác chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá

Đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, công tác chống TTLP trong ĐTXD

từ NSNN trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục, đó là:

- Mặc dù tỉnh đã coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra ĐTXD, nhưng chất

lượng một số cuộc thanh tra, kiểm tra ĐTXD còn thấp, biện pháp xử lý một số trường

hợp chưa dứt điểm, đơn vị chủ quản còn xử lý chưa kiên quyết và nghiêm minh. Ví

như năm 2006, thanh tra kiến nghị xử lý hành chính 6 vụ 14 người, nhưng các đơn vị

chủ quản chỉ thực hiện xử lý được 2 vụ 8 người; năm 2007 Thanh tra kiến nghị xử lý

hành chính 17 người, nhưng các đơn vị chủ quản mới xử lý được 14 người. Trên thực

tế, dù đã có Nghị định số 126/2004/NĐ-CP ngày 26/5/2004 của Chính phủ về xử phạt

vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và

quản lý sử dụng nhà, nhưng do mức độ xử phạt theo quy định còn thấp nên tính răn đe

chưa cao. Ví như qua thanh tra thực hiện ĐTXD chương trình 135 và Trung tâm cụm

xã tại các huyện miền núi Thanh Hoá, số tiền xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị

định 126/2004/NĐ-CP là 45.900.000đồng, quá ít so với mức vi phạm. Ngoài ra, tỉnh

chưa xử lý trách nhiệm đối với thủ trưởng cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng,

TTLP mà không tự mình phát hiện để xử lý. Nội bộ từng đơn vị chưa có biện pháp tích

cực để phát hiện, đấu tranh chống các hành vi tham nhũng, lãng phí.

- Thời gian qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành nhưng

chưa đồng bộ, còn nhiều nội dung chưa rõ và bất cập nên rất khó khăn trong quá

trình thực hiện. Tỉnh chưa chủ động ban hành văn bản quy định tạm thời nhằm tháo

gỡ vướng mắc, nên gây gián đoạn, làm chậm tiến độ triển khai; chưa có văn bản

quy định về sự phối hợp hành động giữa các cơ quan chức năng trong kiểm tra,

thanh tra, điều tra, xét xử, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp trong xử lý các

vi phạm trong ĐTXD; các ngành chức năng như Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu

tư, Sở Tài chính... chưa có đủ các văn bản hướng dẫn chuyên ngành, liên ngành

nhằm thực hiện, chấn chỉnh các sai phạm dẫn đến các phần tử cơ hội, tiêu cực,

tham nhũng lợi dụng những sơ hở đó để cố ý làm trái gây TTLP trong ĐTXD trên

địa bàn tỉnh.

- Năng lực và trách nhiệm của nhiều chủ đầu tư chưa cao, như chủ đầu tư chưa

quan tâm đến công tác cập nhật các văn bản của nhà nước quy định về quản lý đầu tư

và xây dựng, cán bộ của các ban quản lý dự án vừa yếu lại vừa thiếu. Một số chủ đầu

tư còn phó thác cho tư vấn việc chuẩn bị hồ sơ dự án, đặc biệt có trường hợp còn phó

thác cho nhà thầu. Công tác kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu hồ sơ thiết kế sơ sài nên

không phát hiện được những sai phạm của các nhà thầu tư vấn. Nhiều khi chủ đầu tư

bỏ qua công tác kiểm tra, đánh giá sự phù hợp về năng lực của các nhà thầu tư vấn xây

dựng dẫn đến hồ sơ dự án kém chất lượng, hoặc có sự thông đồng giữa nhà thầu tư vấn

và nhà thầu xây lắp công trình gây TTLP trong ĐTXD.

Ngoài ra, khi triển khai thi công xây lắp, công tác giám sát các loại vật tư, vật

liệu đưa vào công trình thường chưa làm tốt, thường khoán trắng cho các nhà thầu

mà không kiểm tra, kiểm soát. Ban quản lý dự án tư vấn quản lý dự án, giúp chủ

đầu tư thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư, thế nhưng điều

kiện năng lực hoạt động của các ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh thời gian qua

còn nhiều bất cập, việc cử cán bộ kỹ thuật trực tiếp giám sát thi công thường không

đảm bảo trình độ nghiệp vụ chuyên môn, thường là kiêm nhiệm công tác quản lý

nhà nước, cán bộ giám sát năng lực yếu, có khi không đúng chuyên ngành, không

nắm vững các tiêu chuẩn, quy định của nhà nước có liên quan đến phần việc giám

sát, chưa tham mưu đề xuất cho chủ đầu tư đưa ra các quy trình giám sát chất lượng

thi công của nhà thầu nhằm đảm bảo chất lượng công trình, chưa nắm rõ các tiêu

chuẩn xây dựng của Việt Nam có liên quan đến công việc thực hiện trên hiện

trường, dẫn đến giám sát chất lượng không đúng các bước quy định trong quản lý

đầu tư xây dựng. Cán bộ giám sát thi công xây dựng hầu như không thường xuyên

có mặt tại hiện trường để xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thi công, kiểm

tra, giám sát xây lắp theo quy định dẫn đến chất lượng quản lý của chủ đầu tư ở

nhiều công trình còn thấp, có nhiều sai sót.

- Năng lực của các đơn vị tư vấn lập dự án, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát năng

lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Qua kết quả kiểm tra của Sở Xây dựng chỉ có 19/81

doanh nghiệp tư vấn đủ điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng trong từng lĩnh

vực tư vấn [38, tr.1], dẫn đến chất lượng hồ sơ nhiều khi không đảm bảo, số liệu thiếu

chính xác gây nên TTLP.

- Về phương diện các nhà thầu xây lắp, hiện nay trên địa bàn tỉnh, các doanh

nghiệp đăng ký kinh doanh hành nghề xây dựng phát triển nhanh về số lượng, nhưng

năng lực không đồng đều, nhiều doanh nghiệp không có đủ phương tiện kỹ thuật, xe

máy thiết bị thi công, thiếu cán bộ, thiếu vốn, nhưng vẫn tham gia vào công tác thi

công xây lắp. Mặt khác do chạy theo lợi nhuận, một số nhà thầu đã tìm mọi cách ăn

bớt hoặc đánh tráo vật tư vật liệu, khai khống khối lượng, không thực hiện theo đúng

quy trình, quy phạm về kỹ thuật xây lắp làm cho công trình bị rút ruột, có chất lượng

thấp gây TTLP. Tất cả những yếu kém đó chưa được tỉnh Thanh Hoá chú trọng khắc

phục nên hiện tượng TTLP khó thuyên giảm.

Chương 3

phương hướng và giải pháp tăng cường chống

thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa

bàn tỉnh Thanh Hoá

3.1. Phương hướng tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá trong thời gian tới

3.1.1. Dự báo xu hướng đầu tư xây dựng và tình hình thất thoát, lãng phí từ

vốn ngân sách nhà nước trong những năm tới ở tỉnh Thanh Hoá

Trong những năm gần đây vốn đầu tư cho xây dựng nói chung đều tăng, vốn

ngân sách nhà nước do tỉnh quản lý cũng liên tục tăng, đặc biệt Chính phủ ngày càng

phân cấp mạnh cho địa phương, tăng quyền hạn, trách nhiệm cho các địa phương. Ví

dụ như năm 2003 vốn ngân sách do địa phương quản lý chỉ có 546,4 tỷ đồng thì đến

năm 2006 đã tăng lên là 1.062,2 tỷ đồng, năm 2007 tăng lên đến 1.897,7 triệu đồng và

dự kiến năm 2008 là 2.045,6 tỷ đồng (Bảng 2.2). Dự kiến bình quân các năm tiếp theo

nguồn vốn này tăng khoảng 20% năm. Cụ thể là, trong những năm tới đây ngân sách

tỉnh sẽ tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và phân cấp mạnh cho thành phố Thanh

Hoá, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để ra đời khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn, xây dựng khu đô

thị Ngọc Lặc với chức năng là trung tâm kinh tế, văn hoá của các huyện miền núi, quy

hoạch và phát triển hệ thống thị trấn, thị tứ trên các tuyến giao thông, các tụ điểm kinh tế,

phấn đấu tỷ lệ đô thị hoá đạt 20% trở lên vào năm 2020 [4, tr.55].

Thời gian tới tỉnh cũng tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện Quyết định 253 của

Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc

phòng – an ninh miền Tây Thanh Hoá [4, tr.56]. Cụ thể, về xây dựng kết cấu hạ tầng

kinh tế xã hội là: Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi khu vực

miền núi; hệ thống kênh mương để khai thác dự án thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt; hệ

thống tiêu Đông – Thiệu – Thị, tiêu úng sông Hoàng, sống Yên, sông Nhơm...; quan

tâm đầu tư các công trình thuỷ lợi nhỏ miền núi, bảo đảm nước sinh hoạt, từng bước

giải quyết tưới cho cây công nghiệp tập trung; nâng cấp hệ thống đê điều, đặc biệt là

đê biển để bảo vệ sản xuất và đảm bảo an toàn cho nhân dân, đẩy nhanh xây dựng

cảng tổng hợp Nghi Sơn; đến năm 2010 hoàn chỉnh 3 bến thuộc cụm cảng địa

phương ; xây mới cảng sông Lèn ; đầu tư và nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh

lộ, chú trọng kiên cố hoá mặt đường, công trình thoát nước, hệ thống đường giao

thông nông thôn ; xây dựng các tuyến đường vùng nguyên liệu, các xã chưa có đường

ô tô, đường phía Tây Thanh Hoá, phấn đấu đưa hệ thống đường bộ của cả tỉnh đạt

35% mặt đường được kiên cố hoá ; đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá

như xây âu trú bão Lạch Hới, Hoà Lộc, hoàn thiện và nâng cấp, mở rộng các cảng cá

Lạch Bạng, Lạch Hới, đầu tư các cảng cá Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Sung... ; đầu

tư phát triển lưới điện trung, hạ thế; mở rộng các trạm biến áp 220KV Ba Chè, Nghi

Sơn, đầu tư mới các trạm biến áp 110KV; hoàn thành dự án đầu tư xây dựng và cải

tạo, nâng cấp, chống quá tải mạng lưới điện nông thôn. Từ năm 2007 trở đi có 100%

số xã được dùng điện. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất các trường đại học, cao đẳng,

một số trường chuyên nghiệp, đẩy nhanh chương trình kiên cố hoá trường lớp học các

cấp; nâng cấp, hiện đại hoá Bệnh viện đa khoa tỉnh và các bệnh viện tuyến huyện; xây

dựng xong Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc giai đoạn I; đầu tư

xử lý chất thải, nước thải các bệnh viện; từng bước đầu tư xây dựng trung tâm y tế dự

phòng từ tỉnh đến huyện. Hoàn thiện Trung tâm truyền hình kỹ thuật số; xây dựng

Trung tâm phát lại truyền hình, phát thanh tại Bá Thước. Quy hoạch Khu liên hợp thể

thao và xây dựng Trung tâm đào tạo vận động viên Bắc Trung Bộ. Cải tạo, nâng cấp

các trung tâm văn hoá, nhà bảo tàng, nhà hát... Đầu tư nâng cấp xây dựng hạ tầng kỹ

thuật thành phố Thanh Hoá và các đô thị theo hướng hiện đại và đồng bộ [4, tr.58-60].

Vốn đầu tư cho xây dựng từ nguồn ngân sách tỉnh trong những năm sắp tới sẽ

góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho công nghiệp

hoá tỉnh nhà. Tuy nhiên cùng với sự phân cấp mạnh vốn ngân sách xuống huyện, xã

theo Quyết định số 4090/2007/QĐ-UBND ngày 21/12/2007 của UBND tỉnh thì tình

hình tham nhũng, TTLP sẽ ngày càng khó lường. Tình trạng “chạy dự án” để xin được

cấp vốn cho các công trình của địa phương, tình trạng các dự án đầu tư không hiệu

quả, lãng phí do chạy theo phong trào, các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu, thi

công, giám sát, đền bù vẫn sẽ diễn ra. TTLP trong lĩnh vực ĐTXD bằng vốn NSNN

vẫn sẽ lớn và nghiêm trọng. Đối tượng tham nhũng gây TTLP trong lĩnh vực ĐTXD

vẫn là người có quyền hạn trong việc quản lý và sử dụng tài sản nhà nước do thoái

hoá, biến chất tìm cách chiếm đoạt tài sản đó, đặc biệt chúng sẽ tìm cách móc nối với

những cán bộ có quyền ra quyết định, chủ trương đầu tư, duyệt dự toán, thiết kế kỹ

thuật, đấu thầu...và tập trung vào các dự án có vốn NSNN. Đây là nguồn vốn dễ bị

“gặm nhấm” nhất vì các đối tượng có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền

hạn để chiếm đoạt tài sản luôn cho rằng tiền của Nhà nước là “tiền chùa” và thực tế

vấn đề quản lý vốn ĐTXD từ NSNN của chúng ta còn nhiều sơ hở.

Tình trạng quan liêu, thiếu trách nhiệm gây lãng phí, tình trạng thông đồng giữa

bên A và bên B để trích tỷ lệ vốn công trình chia nhau và thông đồng quyết toán khống

các hạng mục công trình vẫn sẽ diễn ra ở nhiều dự án xây dựng, trong đó thủ đoạn

tham nhũng phổ biến vẫn là khai khống khối lượng xây lắp, đền bù giải phóng mặt

bằng, nâng khống giá vật tư nguyên liệu, thay đổi chủng loại vật tư nhằm tạo chênh

lệch rút tiền chêng lệch và các thủ đoạn có tính phổ biến khác.

Trong Luật Xây dựng, mọi hoạt động xây dựng sẽ được quy định một cách chặt

chẽ và cụ thể. Do đó, các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực ĐTXD sẽ hoạt động với

những thủ đoạn tinh vi hơn, sự thông đồng giữa bên A và bên B sẽ kín đáo hơn.

Xuất phát từ những tình hình nêu trên, đặc biệt là trong tình trạng đã có sự phân

cấp mạnh quyết định đầu tư, quản lý đầu tư xuống cho huyện, xã thì đòi hỏi phải có

những phương hướng, giải pháp cụ thể, đồng bộ và hữu hiệu nhằm năng cao hiệu quả

công tác chống TTLP trong lĩnh vực ĐTXD, bảo vệ an toàn tài sản nhà nước, vì sự bền

vững của các công trình, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từng

bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

3.1.2. Phương hướng tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư

xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá

3.1.2.1. Chống thất thoát, lãng phí phải làm triệt để, có hiệu quả và làm

thường xuyên, đồng bộ

Thời gian qua, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN diễn biến rất phức tạp, mức độ

thiệt hại nghiêm trọng. Hầu hết các công trình ít, nhiều đều xảy ra TTLP, và xảy ra ở

tất cả các giai đoạn của quá trình thực hiện dự án từ công tác quy hoạch, kế hoạch,

công tác điều tra, khảo sát, công tác chuẩn bị đầu tư, công tác quyết định đầu tư , công

tác giải phóng mặt bằng đến công tác triển khai đầu tư xây dựng và quyết toán hoàn

thành công trình. Tình trạng TTLP có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Do đó

vấn đề đặt ra là phải thực hiện việc phòng ngừa, chống TTLP một cách toàn diện, có

hiệu quả và phải làm thường xuyên, từ việc xây dựng chủ trương, chính sách, cơ chế

trong thực hiện quản lý ĐTXD đến việc tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước

trong quản lý ĐTXD; từ việc nâng cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn, phẩm chất

đạo đức của các cá nhân có liên quan đến việc tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn,

thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình thực hiện dự

án. Khi có sai phạm thì phải kiên quyết xử lý dứt điểm, nghiêm minh. Mặt khác, phải

luôn nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp khả thi trong việc phòng chống TTLP vốn

NSNN trong ĐTXD; kịp thời bổ sung, sửa đổi những quy định chưa phù hợp, chưa sát

tình hình thực tiễn.

Cần chỉ đạo sát sao quá trình triển khai chủ trương, chính sách nhằm chống

TTLP trong ĐTXD bằng nguồn vốn NSNN. Tránh hiện tượng chỉ đạo ban đầu thì rầm

rộ, kiểm tra, giám sát thường xuyên, các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo, nhưng sau

một thời gian thường ít được nhắc đến, thậm chí bị quên lãng. Nếu không chống TTLP

thường xuyên, liên tục thì TTLP sẽ tái diễn, thậm chí với mức độ nghiêm trọng hơn,

nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, do áp lực cám dỗ của tiền bạc quá lớn, số cán

bộ thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham ô, tham nhũng lợi dụng đục

khoét tiền của của Nhà nước trong các công trình xây dựng bằng vốn NSNN có xu

hướng tăng lên. Chính vì thế hiệu quả chống TTLP vốn NSNN phụ thuộc vào sự bền

bỉ, kiên tâm của những người có trách nhiệm đấu tranh chống TTLP. Nói cách khác,

để duy trì kết quả chống TTLP vốn NSNN trong ĐTXD cần thiết phải tiến hành các

biện pháp thường xuyên, liên tục, không để khoảng cách, khoảng trống, kẽ hở cho tiêu

cực tái hiện, hoành hoành, không cho phép các hành vi tiêu cực tìm cách ẩn giữa các

đợt đấu tranh chống TTLP.

Chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn

dân, trước hết là trách nhiệm của các ngành, các cấp hữu quan và các cơ quan chức

năng như cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương, quyết định ĐTXD, cơ quan quản

lý nhà nước cấp vốn, các ngành quản lý nhà nước về xây dựng, các đơn vị chủ đầu tư,

các doanh nghiệp làm công tác tư vấn, doanh nghiệp thi công xây dựng... Ngoài ra

phải kể đến các cơ quan hành pháp, tư pháp như thanh tra, điều tra, kiểm sát, kiểm

tra..., cơ quan giám sát như HĐND, Uỷ ban mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị và

các cơ quan báo chí ở các cấp, các ngành, các địa phương có đầu tư xây dựng. Vì vậy,

muốn chống TTLP có chất lượng, hiệu quả phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ

quan này ngay từ đầu và trong cả quá trình ĐTXD. Tránh tình trạng ở cấp này, khâu

này, cơ quan này thì làm tốt mà nơi khác, cấp khác, cơ quan khác không làm hoặc làm

nửa vời, thậm chí đứng ngoài cuộc dẫn đến kết cục không những chống TTLP không

có hiệu quả mà còn gây khó khăn, phức tạp thêm cho công tác này. ở địa phương, các

cơ quan chức năng cần có sự phối hợp đồng bộ để chống TTLP trong ĐTXD từ vốn

NSNN, bao gồm tất cả các cơ quan, từ cơ quan quyết định chủ trương đầu tư như

UBND tỉnh, UBND huyện, các chủ đầu tư như sở, ban, ngành hoặc UBND huyện, xã,

đến các đơn vị tư vấn, các sở chuyên ngành tham mưu thẩm định xây dựng, các cơ

quan bảo vệ pháp luật như Thanh tra tỉnh, Công an tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh,

Toà án tỉnh, các cơ quan giám sát như HĐND, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị,

các cơ quan báo chí... và kể cả Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ. Nếu các cơ quan, đơn vị này

mà có sự phối hợp, gắn kết đồng bộ trong phát hiện, xử lý thì chắc chắn sẽ hạn chế đến

mức thấp nhất TTLP trong ĐTXD trên địa bàn tỉnh

3.1.2.2. Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách

nhà nước phải bắt đầu từ việc tuyên truyền, động viên và nâng cao trách nhiệm của

người có liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng

Nói về nguyên nhân chủ yếu của TTLP trong ĐTXD bằng vốn NSNN, nhiều

nhà quản lý thường đổ lỗi là do “cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng

chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; do sự bất cập giữa thể chế nhà nước với quy luật thị

trường và xã hội; do thể chế tổ chức và quản lý doanh nghiệp chưa theo kịp các cải

cách về luật lệ và chính sách kinh tế...” Điều đó cần phải được nhìn nhận lại. Có đúng

là tình trạng TTLP trong ĐTXD bằng vốn NSNN trong thời gian qua do nguyên nhân

chủ yếu là cơ chế, chính sách hay không? Chúng ta quay lại thời kỳ bao cấp cách đây

hơn hai chục năm, lúc ấy làm gì có đầy đủ các văn bản pháp luật như bây giờ. Các

công trình xây dựng từ NSNN, nếu để xảy ra lãng phí vài khối bê tông, vài tấc gỗ,

công nhân lấy vài “cặp lồng” xi măng, vài thanh sắt, đã bị lên án, bị kỹ luật rất nặng

chứ đâu có chuyện thất thoát, lãng phí lớn và nghiêm trọng như hiện nay. Phải chăng

nếu những người có liên quan trong quản lý ĐTXD có tâm trong sáng, làm việc với

tinh thần trách nhiệm cao, không tiêu cực, tham nhũng thì chắc chắn sẽ không xảy ra

TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN nghiêm trọng như những năm vừa qua. Có thể nói

rằng nguyên nhân thiếu, chưa đồng bộ về văn bản pháp luật về cơ chế chỉ là nguyên

nhân khách quan, dễ bị lợi dụng nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu

dẫn đến TTLP trong ĐTXD từ NSNN. Nguyên nhân về con người có liên quan trong

quá trình quản lý ĐTXD là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu của sự TTLP trong ĐTXD

từ NSNN. Điều đó thể hiện ở chỗ tinh thần trách nhiệm yếu kém của người lãnh đạo,

của công chức, của các chủ thể thị trường. Đối với người lãnh đạo đó là bệnh chạy

theo hình thức, bệnh cục bộ địa phương, bệnh quan liêu mệnh lệnh, coi thường pháp

luật. Đối với công chức đó là bệnh xu nịnh cấp trên, là thói quen xin – cho, hạch sách,

thiếu ý thức trách nhiệm. Đối với chủ thể thị trường, đó là bệnh coi thường trách

nhiệm đối với hợp đồng kinh tế, lẩn, lách pháp luật, chạy theo lợi nhuận không chính

đáng. Những căn bệnh đó dẫn tới chỗ con người bị sa sút đạo đức thể hiện dưới dạng

đòi hối lộ, đưa đút lót, thông đồng, móc ngoặc, gian lận..Ngoài ra còn phải kể đến

năng lực yếu kém của con người trong các khâu của quá trình đầu tư.

Với những nhận định như vậy, chúng ta cần tập trung vào việc tuyên truyền,

giáo dục ý thức, trách nhiệm, vận động quần chúng bảo vệ tài sản nhà nước. Do vậy,

trong công tác phòng chống TTLP trong ĐTXD từ NSNN phải biết phát huy vai trò

tích cực của quần chúng, cụ thể là đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong các cơ

quan, doanh nghiệp có hoạt động ĐTXD để họ tự giác tham gia bảo vệ tài sản và tích

cực tố giác mọi hành vi tham nhũng gây TTLP. Để đạt được yêu cầu này, trước hết,

phải dựa vào cấp uỷ Đảng và các tổ chức quần chúng của đơn vị chủ quản để chủ động

phối hợp, phổ biến và tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước về đấu tranh phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ NSNN. Nội dung tuyên truyền

có thể được lồng ghép với chương trình khác của các ngành, các cấp và cần tập trung

vào các địa bàn trọng điểm, các công trình xây dựng lớn, trong đó chú ý vào các khâu,

các giai đoạn quan trọng trong quá trình đầu tư, thi công xây lắp mà thường có TTLP.

Tuyên truyền những nội dung cơ bản của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, Quy

chế đấu thầu và các văn bản có liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng, công khai các

dự án ĐTXD cả về quy mô, vốn, đơn vị tư vấn, đơn vị thi công xây lắp...trên các

phương tiện thông tin đại chúng để quần chúng cùng tham gia giám sát.

3.2. Giải pháp tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng

từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá trong thời gian tới

3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng

3.2.1.1. Hoàn thiện quy chế phân cấp quản lý đầu tư xây dựng từ vốn ngân

sách nhà nước

Phân cấp trong quản ĐTXD từ vốn NSNN phải nhằm sử dụng có hiệu quả

nguồn vốn đầu tư này, tăng cường tính chủ động, tự chủ trong việc quyết định đầu tư

và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, các địa phương trong việc lập, thẩm định và phê

duyệt dự án đầu tư (quyết định đầu tư).

Sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, có trọng tâm, trọng điểm nhằm không

ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư, mà còn đáp ứng được các yêu cầu, chủ trương phát

triển kinh tế xã hội của các ngành, các địa phương, tạo điều kiện cho chủ đầu tư thực

hiện tốt các trương trình, dự án đề ra. Có hình thức chế tài đủ mức đối với các cá nhân,

tổ chức không sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, đúng trọng tâm, trọng điểm làm ảnh

hưởng đến hiệu quả đầu tư. Tăng cường kiểm tra, xác minh trước khi ra quyết định đầu

tư để tránh hiện tượng một số địa phương, do chưa được phân cấp, nên khi UBND tỉnh

có chủ trương hỗ trợ đầu tư hoặc cho phép đầu tư một số công trình, thì dù nhu cầu

thực tế của địa phương chưa cần thiết nhưng vẫn xin chủ trương đầu tư để tranh thủ

nguồn vốn hỗ trợ, nhiều khi còn tính toán đầu tư vượt quy mô, công xuất để tranh thủ

xin được nhiều kinh phí ở cấp trên, trong khi cân đối vốn ngân sách địa phương không

đảm bảo. Chế tài nghiêm khắc đối với cá nhân và tổ chức sử dụng vốn tuỳ tiện, cần

đâu làm đó, không có kế hoạch, không cân đối vốn đầu tư dẫn đến hậu quả công trình

cần thiết thì không được đầu tư, ngược lại công trình chưa cần thiết, không nằm trong

kế hoạch thì lại được đầu tư, công trình bị kéo dài thời gian thi công… Nói cách khác,

để quản lý tốt nguồn vốn đầu tư, ngoài việc thực hiện nghiêm túc các quy định của

Nhà nước về sử dụng vốn ĐTXD thì tỉnh nên phân cấp rõ, giao quyền tự chủ minh

bạch cho cấp dưới, buộc họ tự chịu trách nhiệm về kết quả ĐTXD bằng nguồn vốn

NSNN.

Cụ thể, tỉnh Thanh Hoá cần thực hiện các nội dung sau trong phân cấp quản lý

đầu tư:

- Căn cứ vào nhu cầu cần thiết đầu tư của địa phương, thông qua kế hoạch

ĐTXD, căn cứ vào quy mô dân số, diện tích tự nhiên và tốc độ phát triển của địa phương,

trên cơ sở kế hoạch cân đối vốn của ngân sách tỉnh, ngay từ quý IV của năm trước năm kế

hoạch, UBND tỉnh thẩm định trình HĐND tỉnh phê duyệt cấp ngân sách ĐTXD về cho

huyện ngay trong đầu năm kế hoạch.

- Trên cơ sở danh mục công trình được đầu tư thì UBND huyện được chủ động

triển khai lập dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, và triển khai các công việc

tiếp theo, kể cả quyết toán hoàn thành xây dựng công trình.

Để làm được như vậy các địa phương phải chịu trách nhiệm về cân đối vốn đối

ứng để cung cấp kịp thời, đầy đủ vốn đảm bảo thời gian thi công xây dựng công trình,

phải chịu trách nhiệm về hiệu quả ĐTXD công trình, và chịu trách nhiệm toàn diện về

tiến độ, chất lượng của công trình. Nói cách khác, cần phân cấp đầu tư để gắn trách

nhiệm của các đơn vị, địa phương được phân cấp với kết quả thực hiện đầu tư các dự

án công trình xây dựng từ khâu đầu đến khâu cuối, từ đó xác định rõ cơ sở để xử lý

nghiêm các đơn vị, địa phương làm sai dẫn đến TTLP trong ĐTXD bằng nguồn vốn

NSNN.

3.2.1.2. Đổi mới công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng từ vốn

ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Để quy hoạch của Thanh Hoá thực sự là sự sắp xếp, bố trí hợp lý các yếu tố của

lực lượng sản xuất, các nguồn lực và tiềm năng của tỉnh phù hợp với tiềm năng của đất

nước, của một vùng từ đó có thể tổ chức tốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội, phân

công và phân công lại lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, nhờ đó mà chống TTLP

một cách bền vững, quy hoạch tỉnh Thanh Hoá cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, thành phố.

Quy hoạch tổng thể cần quy định rõ chức năng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh,

thành phố. Nội dung quy hoạch tổng thể cần thể hiện rõ sự sắp xếp, phân bổ các ngành

kinh tế, xã hội, các điểm dân cư, khu hành chính, thương mại, y tế, giáo dục... trên địa

bàn. Quy hoạch tổng thể phải bao quát được quy hoạch tổng hợp phát triển tất cả các

ngành trên địa bàn tỉnh phù hợp với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, dân số và lao

động, phong tục, tập quán, ngành nghề truyền thống địa phương. Khi triển khai làm dự

án quy hoạch tổng thể phải có sự phối hợp giữa các ngành kinh tế xã hội liên quan với cấp

quản lý đơn vị, lãnh thổ để đảm bảo tính thống nhất, cân đối lợi ích trước mắt và lâu dài.

- Quy hoạch phát triển ngành phải là sự sắp xếp, bố trí các yếu tố theo ngành

hợp lý nhằm tổ chức, quản lý được sự phát triển ngành phù hợp với các điều kiện tự

nhiên, tài nguyên, thiên nhiên, đặc điểm dân số và lao động...của tỉnh thể hiện trên các

vùng để tổ chức và xây dựng phương án phát triển ngành. Khi xây dựng quy hoạch

phát triển ngành, cơ quan chủ quản ngành phải khảo sát, điều tra, thăm dò các điều

kiện tài nguyên thiên nhiên, phong tục tập quán của dân cư...trên các vùng của tỉnh,

thành phố để phân tích, đánh giá khả năng phát triển của ngành, đồng thời bàn bạc và

phối hợp với UBND tỉnh, thành phố để đảm bảo điều kiện cần thiết cho sự phát triển

của ngành đó. Như vậy, quy hoạch phát triển ngành phải đảm bảo tính đồng bộ và

thống nhất giữa ngành và các đơn vị lãnh thổ có liên quan, phải tạo điều kiện để sắp

xếp, bố trí các yếu tố của lực lượng sản xuất phù hợp với phát triển lãnh thổ.

- Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn phải là sự sắp xếp bố trí các cụm dân

cư tập trung trên từng khu vực lãnh thổ, phù hợp với chức năng hoạt động kinh tế – xã

hội – chính trị của vùng, của khu vực lãnh thổ đó. Quy hoạch đô thị phải gắn với quy

hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành để xác định quy mô các đặc điểm

dân cư, khu vực hành chính, trung tâm thương mại, chính trị...qua đó khẳng định vị trí,

chức năng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của một vùng, một tỉnh, một

khu vực. Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn phải gắn với đặc thù của từng vùng

lãnh thổ trên địa bàn tỉnh, tránh tình trạng quy hoạch đô thị là xây dựng các trung tâm

dân cư, thương mại chung chung.

- Quy hoạch xây dựng phải đảm bảo bố trí mặt bằng cụ thể để thi công xây

dựng một công trình cụ thể, một dự án cụ thể khi dự án đó được cấp có thẩm quyền

phê duyệt, đã được cấp đất xây dựng. Quy hoạch xây dựng phải tuân thủ các nội dung

của quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn. Quy hoạch xây

dựng càng cụ thể, càng chi tiết, mặt bằng xây dựng càng bảo đảm chặt chẽ thì việc triển

khai thực hiện dự án càng thuận lợi.

Hơn nữa, để giảm thiểu TTLP trong ĐTXD, tỉnh cần ưu tiên cho công tác quy

hoạch, làm cho quy hoạch thực sự đi trước một bước. Trước mắt tỉnh cần phải khẩn

trương xây dựng dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm

2020 và có tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với tiềm năng, thế mạnh, mục tiêu chiến

lược, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, điều kiện kinh tế thị trường và

hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, nên tiến hành lập, rà soát, điều chỉnh các quy

hoạch theo hướng đảm bảo sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch

xây dựng với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, xóa bỏ tình trạng khép kín,

cục bộ. Thực hiện công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch. Nghiên cứu đổi

mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường

và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng đối

với việc triển khai thực hiện đầu tư theo quy hoạch được phê duyệt. Tăng cường và

nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, công tác dự báo và cung cấp thông tin phục

vụ công tác quy hoạch.

3.2.1.3. Nâng cao chất lượng khâu phê duyệt, quản lý dự án đầu tư từ vốn

ngân sách nhà nước

Cơ quan phê duyệt dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ dự án đầu tư, khi cần thiết

phải tranh thủ ý kiến của các chuyên gia kinh tế, các nhà chuyên môn, nhà khoa học có

uy tín trong lĩnh vực đầu tư để xem xét tính hiệu quả, tính kinh tế, tác dụng của dự án

trên tất cả các mặt, sau đó mới quyết định, nhất là đối với những dự án lớn có ảnh

hưởng tới kinh tế – xã hội của địa phương. Xác định rõ trách nhiệm của người quyết

định đầu tư trong mối liên quan đến chất lượng, hiệu quả của từng dự án công trình.

Kiên quyết thực hiện yêu cầu người quyết định đầu tư phải sử dụng tốt các cơ quan,

đơn vị tham mưu, cơ quan tư vấn để giúp mình xét duyệt các phương án đầu tư, thẩm

định đánh giá dự án đầu tư. Ngoài ra, tất cả các dự án đầu tư phải được công bố công

khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư, tên dự án, quy mô xây

dựng, phạm vi chiếm đất, vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện, đơn vị

tư vấn...tại địa điểm thực hiện dự án đầu tư và trụ sở HĐND xã, phường, thị trấn nơi

có dự án để nhân dân biết và tham gia giám sát, kiểm tra

Thực hiện quy định của Luật Xây dựng, Nghị định 16/2005/NĐ-CP, Nghị định

112/2006/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 02/2007/TT-BXD của Bộ Xây dựng về

nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, theo đó chủ đầu tư phải chịu trách

nhiệm toàn diện về mọi mặt từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc

hoàn thành dự án, chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng, tiến độ xây dựng và hiệu

quả của dự án, về lựa chọn giám đốc điều hành dự án hoặc ban quản lý dự án. Chấm

dứt tình trạng giao cho người không có đủ điều kiện, năng lực và chuyên môn, nghiệp

vụ quản lý dự án. Chủ đầu tư phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý hành chính hoặc xử

lý hình sự khi có quyết định sai thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Tỉnh cũng nên

kiện toàn, sắp xếp lại các ban quản lý dự án, xoá bỏ các ban quản lý không đủ điều

kiện năng lực, thành lập các ban quản lý chuyên nghiệp hoạt động theo mô hình tư vấn

quản lý dự án.

Trước mắt, các chủ đầu tư phải làm đúng trách nhiệm và trực tiếp thực hiện đầy

đủ các phần việc thuộc trách nhiệm của mình, không khoán trắng cho tư vấn và đặc

biệt là các nhà thầu xây lắp, nhất là khâu xin chủ trương đầu tư, ghi vốn kế hoạch cho

công trình..., chấn chỉnh công tác tổ chức quản lý chất lượng công trình. Trong quá

trình triển khai công tác khảo sát, thiết kế, chủ đầu tư phải cử cán bộ có nghiệp vụ

kiểm tra, giám sát và nghiệm thu quá trình thực hiện về quy trình, khối lượng, chất

lượng nhằm đảm bảo chất lượng hồ sơ khảo sát và thiết kế công trình xây dựng.

3.2.1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát công tác đầu tư

xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước

Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong đầu tư xây

dựng ở tỉnh được tiến hành theo kế hoạch, thanh tra, kiểm tra, giám sát đột xuất và

thanh tra, kiểm tra theo đơn thư tố giác, thanh tra, kiểm tra do các cơ quan thông tin

đại chúng và nhân dân phản ánh. Cách làm đó dẫn đến hệ quả là số dự án được thanh

tra, kiểm tra, giám sát chưa bao quát hết các công việc cần thanh tra, các sai phạm bị

phát hiện phần lớn còn dừng lại ở mức cảnh cáo xử lý nội bộ và mức độ vị phạm còn

dừng lại ở mức xử lý hành chính vì vậy tính răn đe còn hạn chế. Trong những năm

tới, với xu hướng phân cấp mạnh về quản lý đầu tư cho các ngành, các cấp, trong khi

các cấp huyện, thành phố, thị xã, xã, phường, thị trấn chưa đủ điều kiện năng lực

thực hiện tốt ở tất cả các khâu của quá trình ĐTXD, cần tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên các dự án đầu tư từ vốn NSNN theo hướng sau:

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định được quyết định đầu tư có phù hợp

với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư hay không để xử lý ngay từ đầu, tránh gây

ra hậu quả rồi mới đi thanh tra.

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định rõ các sai phạm dẫn đến TTLP vốn

ĐTXD, có kết luận và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với cá nhân,

tập thể sai phạm.

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải chỉ cho các chủ đầu tư, các cấp quản lý và

các đơn vị có liên quan những thiếu sót, tồn tại để khắc phục.

- Ngoài ra qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cơ quan thanh tra phải giúp

các đơn vị chức năng phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý đầu tư của các

cấp để uốn nắn, hướng dẫn kịp thời.

Để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần nâng cao tinh thần trách

nhiệm, đạo đức, phẩm chất của cán bộ thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần kiện toàn và

tăng cường cán bộ, điều kiện vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cho cơ quan

thanh tra các cấp, cần thường xuyên giữ vững và nâng cao uy tín của đội ngũ cán bộ

làm công tác thanh tra… Hơn nữa, để duy trì kỷ luật thanh tra, cần có chế độ thù lao

xứng đáng cho cán bộ thanh tra các cấp nhằm đảm bảo cho đội ngũ này an tâm công

tác, toàn tâm, toàn ý vào công việc, đồng thời kiên quyết nghiêm trị những cán bộ

thanh tra lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để tham ô, vụ lợi, thông đồng, tiếp

tay cho kẻ xấu làm TTLP vốn nhà nước. Ngoài ra, phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo

dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với việc bảo vệ tài sản nhà nước, vận động

quần chúng tham gia giám sát, phản ảnh, tố giác những người có biểu hiện tiêu cực

dưới mọi hình thức như: tổ chức đường dây nóng, bố trí hòm thư tố giác tội phạm

tham nhũng...Kịp thời động viên, khen thưởng những quần chúng có thành tích trong

phong trào bảo vệ tài sản nhà nước, phát hiện, đấu tranh chống TTLP vốn nhà nước.

Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các cơ quan báo chí tích cực tham gia giám sát, đi

đầu trong việc chống tham nhũng, TTLP, đưa các vụ việc tiêu cực, TTLP công khai ra

công luận nhằm tạo áp lực xã hội răn đe, ngăn chặn những hành vi tiêu cực làm TTLP

tiền của, tài sản của nhà nước, của nhân dân.

3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ

3.2.2.1. Kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án tiến tới chuyển đổi thành

công ty tư vấn quản lý dự án

Để tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng,

tiến độ xây dựng công trình kể từ giai đoạn chẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi

nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính

khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật cần cải tổ mô hình ban quản

lý dự án đầu tư vốn nhà nước, cụ thể là:

- Đối với trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án, Ban quản lý dự

án phải là người đại diện cho chủ đầu tư thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý

đầu tư xây dựng của công trình. Ban quản lý dự án phải chịu trách nhiệm trước chủ

đầu tư và pháp luật theo nhiệm vụ được giao và quyền hạn được uỷ quyền. Chất lượng

của công trình, dự án có đảm bảo theo yêu cầu thiết kế hay không, dự án có xảy ra

TTLP hay không cần quy về trách nhiệm của ban quản lý dự án và năng lực quản lý,

chuyên môn của cán bộ. Trước mắt cần khẩn trương bổ xung các điều kiện và năng lực

còn thiếu cho các ban quản lý dự án nhóm B, C của các ngành, địa phương mà hiện tại

chưa đủ điều kiện hoạt động theo quy định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày

07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Cố gắng tránh

tình trạng giám đốc các ban quản lý là cán bộ kiêm nhiệm (thường là chánh, phó thủ

trưởng đơn vị) không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về xây dựng. Về lâu dài, cần

kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án không những đảm bảo đủ tiêu chuẩn, điều

kiện hoạt động theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP, mà còn phù hợp với từng dự án và

phải hoạt động có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu đó, cần tuyển chọn, bổ sung cán bộ

cho các ban quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án, loại cấp

công trình và công việc. Cán bộ quản lý dự án phải có văn bằng chứng chỉ đào tạo phù

hợp với công việc được giao và chứng chỉ đó phải do các cơ sở đào tạo hợp pháp cấp.

Giám đốc quản lý dự án phải có trình độ đại học thuộc chuyên ngành xây dựng phù

hợp với yêu cầu của dự án và đáp ứng các điều kiện tương ứng. Do Thanh Hoá hàng

năm phải quản lý gần 200 đầu mục công trình ĐTXD, trong đó chủ yếu là các dự án

nhóm C, mà chủ yếu là đầu tư xây dựng các lớp học, các trung tâm y tế huyện, trụ sở

các xã, phường, thị trấn, các đường giao thông liên xã, các trạm bơm, kênh mương nội

đồng...nên việc kiện toàn bộ máy ban quản lý dự án theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP

cho thấy trước là rất khó khăn, đòi hỏi quyết tâm cao và cách làm thích hợp của

UBND tỉnh.

Theo chúng tôi, Thanh Hoá nên triển khai nhanh việc thực hiện Luật Xây dựng,

Nghị định 16/2005/NĐ-CP bằng việc thành lập các đơn vị tư vấn quản lý dự án để làm

công tác quản lý dự án chuyên nghiệp, vì làm như vậy sẽ giải quyết được các bất cập

đã nêu về quản lý ĐTXD gây TTLP ở Thanh Hoá. Hơn nữa, với mô hình đơn vị tư

vấn, chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức tư vấn quản lý

dự án có đủ điều kiện, năng lực tổ chức quản lý để giúp chủ đầu tư quản lý dự án một

cách hiệu quả, đồng thời giảm nhẹ công việc nghiệp vụ cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư chỉ

nên giữ lại trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý

dự án. Tư vấn quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo thoả thuận trong hợp

đồng ký kết giữa chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án. Tư vấn quản lý dự án chịu trách

nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có 05 Ban quản lý dự án của các sở Xây

dựng, Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đủ điều kiện xếp hạng

1 và một số Ban quản lý dự án thuộc thành phố, thị xã và một số sở như Giáo dục và

Đào tạo, Y tế đủ điều kiện xếp hạng 2. Các Ban quản lý dự án này hoạt động theo mô

hình sự nghiệp tự trang trải từ nguồn phí quản lý dự án. Trước mắt tỉnh cần có chính

sách hoàn thiện các ban quản lý này để chuyển đổi thành các công ty tư vấn quản lý dự

án, ngoài ra bổ sung chức năng cho một số đơn vị tư vấn đủ điều kiện hoạt động tư vấn

quản lý dự án và tỉnh cần ban hành văn bản quy định các chủ đầu tư không đáp ứng

yêu cầu trình độ chuyên môn, bắt buộc phải hợp đồng với các đơn vị tư vấn quản lý dự

án để quản lý dự án. Đối với các dự án lớn thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn tư vấn

quản lý dự án.

3.2.2.2. Nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của cán bộ tham

gia quản lý đầu tư xây dựng

Từ thực trạng công tác quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh trong thời gian

qua cho thấy: công trình đạt chất lượng tốt hay không tốt, xét cho cùng, một phần quan

trọng phụ thuộc vào năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người

cán bộ làm công tác quản lý ĐTXD trong bộ máy nhà nước. Trong đó, tình trạng thiếu

trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, vì thành

tích, không coi trọng tính độc lập, tính khách quan là nguyên nhân quan trọng gây

TTLP.

Để công tác quản lý đầu tư xây dựng có hiệu quả phải thực hiện tốt việc đào tạo

và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia công tác quản lý ĐTXD cả về lĩnh vực chuyên

môn, lĩnh vực quản lý. Đồng thời phải giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức nghề

nghiệp để đảm bảo đủ cán bộ quản lý có năng lực, vừa hồng vừa chuyên. Vấn đề đặt ra

là đào tạo cái gì, đào tạo như thế nào để đội ngũ cán bộ này vừa nâng cao được trình

độ chuyên môn, vừa nâng cao được phẩm chất đạo đức. Muốn vậy, cần xác định cho

được nội dung và chương trình đào tạo phù hợp với công việc mà họ đang đảm nhiệm.

Ví dụ, đào tạo cán bộ làm quản lý quy hoạch đô thị phải có chương trình đào tạo khác

với công chức quản lý thi công; chương trình đào tạo cán bộ quản lý vật liệu xây dựng

khác với chương trình đào tạo cán bộ quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị...Thời

gian đào tạo phải phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng lĩnh vực, trong đó chú trọng

thời gian tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu; chương trình đào tạo, ngoài phần lý thuyết,

cần thiết phải giải đáp, lý giải được các vướng mắc trong thực tế phát sinh của từng

lĩnh vực...

Đối với lĩnh vực cán bộ quản lý ĐTXD, ngoài việc phải có những kiến thức

nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, còn phải có năng lực quản lý nhà nước,

điều hành quá trình xây dựng một cách khoa học, năng động, sáng tạo. Để nâng cao

hiệu quả trong công tác ĐTXD thì công tác quản lý dự án phải được coi là một nghề

chuyên nghiệp. Vì vậy, cán bộ quản lý dự án, ngoài việc đã tốt nghiệp một đại học

chuyên ngành nào đó về lĩnh vực chuyên môn, còn phải hiểu biết tương đối rộng và

nắm chắc một số lĩnh vực như xã hội học, pháp luật, kinh tế cũng như một số lĩnh vực

khác có liên quan và nhất thiết phải qua thi tuyển mới được xắp xếp bố trí công tác.

Đối với cán bộ tư vấn, ngoài bằng cấp kỹ sư, muốn trở thành tư vấn phải học

một số chứng chỉ để được cấp phép hành nghề, có thâm niên thời gian thực tế theo quy

định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP và phải học thêm một số môn học như giám sát thi

công, giám định, kiểm định chất lượng công trình, nghiệp vụ đấu thầu, quản lý dự án,

định giá xây dựng...có như vậy mới từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ

tư vấn theo đúng nghĩa của nó.

Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ chuyên môn,

kỹ thuật tham gia vào các khâu của dự án, làm cho đội ngũ này thành thạo các kỹ năng

và đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chuyên môn trong đầu tư xây dựng, có phương pháp

quản lý, điều hành việc thực hiện dự án, xây lắp công trình một cách khoa học, có hiệu

quả. Những người biên chế vào chức danh của Ban quản lý dự án phải đảm bảo trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ tối thiểu theo quy định, không bố trí người không có hoặc

không đủ trình độ chuyên môn theo yêu cầu vào tổ chức bộ máy này. Tuy nhiên, trong

điều kiện cán bộ của tỉnh, huyện còn thiếu và yếu, trước mắt phải chấp nhận việc vận

dụng linh hoạt một số tiêu chuẩn nhằm bố trí cán bộ vào Ban quản lý dự án phù hợp

với trình độ ở mức độ chấp nhận được theo giải pháp tình thế để thực hiện nhiệm vụ,

nhưng sau đó phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng bước để đảm bảo các điều kiện

theo yêu cầu đặt ra, và về lâu dài phải kiên quyết kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên môn

theo đúng tiêu chuẩn quy định.

3.2.3. Nhóm giải pháp về kỹ thuật, chuyên môn

3.2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư

Đ ể nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư phải quy định rõ, cụ thể và có chế tài

nghiêm khắc đối với chủ đầu tư trên phương diện thực hiện đúng và đủ theo chức trách

của mình và phải nâng cao trình độ, năng lực của chủ đầu tư để họ đáp ứng công việc

theo yêu cầu.

Trong tình trạng của nước ta là, Luật Xây dựng quy định trách nhiệm chung của

chủ đầu tư rất lớn, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong công tác ĐTXD công

trình do mình làm chủ đầu tư, nhưng quy định trách nhiệm cụ thể lại chưa rõ ràng,

nhất là quy trách nhiệm cá nhân khi dự án đầu tư không hiệu quả, gây TTLP trong

ĐTXD. Tỉnh Thanh Hoá cần xây dựng cho mình các văn bản dưới luật quy định cụ thể

về trách nhiệm của chủ đầu tư sử dụng vốn NSNN. Những quy định đó phải khắc phục

được hiện tượng do muốn có được công trình, chủ đầu tư nhiều khi chỉ đạo tư vấn lập

dự án đầu tư và thuyết phục người quyết định đầu tư bằng mọi cách sao cho dự án

được duyệt, hoặc do tâm lý đi xin mà một số chủ đầu tư cố tình lập thấp tổng mức đầu

tư nhằm hạ nhóm dự án từ nhóm A xuống nhóm B hay C, hoặc chỉ ở dạng lập báo cáo

kinh tế kỹ thuật mà đáng ra nếu tính đầy đủ phải lập dự án đầu tư để giảm nhẹ hàng

rào pháp lý thực hiện mục tiêu trước mắt là được chấp thuận đầu tư. Ngược lại, cũng

ngăn chặn trường hợp, chủ đầu tư lập tổng mức đầu tư cao để tranh thủ vốn hỗ trợ, khi

triển khai thì không đảm bảo vốn đối ứng gây TTLP lớn. Ngoài ra, phải trừ liệu các

quy định phòng ngừa chủ đầu tư, do mối quan hệ cá nhân, lựa chọn tư vấn quen nhưng

không đảm bảo năng lực theo yêu cầu của dự án.

Một giải pháp căn bản nữa là cần nâng cao năng lực của chủ đầu tư nhằm

phòng ngừa trước các TTLP trong trường hợp, do trình độ năng lực hạn chế, do chủ

đầu tư không biết điều hành tư vấn, nên đưa ra những đòi hỏi, mệnh lệnh không hợp

lý, dẫn tới ức chế tâm lý, giảm hưng phấn và ý tưởng sáng tạo của tư vấn hoặc trường

hợp cũng vì lý do hạn chế năng lực mà chủ đầu tư trở nên dễ dãi, thậm chí lệ thuộc vào

nhà tư vấn khi nghiệm thu các công việc này. Tỉnh chỉ nên giao dự án cho các chủ đầu

tư đủ năng lực giám sát và phản biện lại nhà thầu tư vấn.

Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, cùng với sự tăng cường phân

cấp quản lý đầu tư, tỉnh cần có sự phân công, quy trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư,

để nếu dự án xảy ra TTLP trong ĐTXD thì chủ đầu tư phải có phần trách nhiệm tương

xứng. Cũng nên quy định rõ yêu cầu về trình độ, năng lực của chủ đầu tư đối với từng

dự án cụ thể và cần nghiên cứu để ban hành chế độ bắt buộc các chủ đầu tư không đảm

bảo năng lực chuyên môn phải thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án.

3.2.3.2. Nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế

Để nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế thì trước mắt tỉnh

nên giao cho thanh tra Sở Xây dựng tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và đề

xuất UBND tỉnh xử lý, uốn nắn kịp thời các sai phạm của tổ chức tư vấn xây dựng

như hoạt động quá năng lực, không có chứng chỉ hành nghề, cho thuê, mượn danh

nghĩa trong hoạt động tư vấn, thiết kế không phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn,

không đảm bảo chất lượng, lập dự toán không đúng thực tế, khối lượng thiết kế. Sở

Xây dựng nên phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra chặt chẽ việc cấp giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng cho các tổ

chức hoạt động tư vấn xây dựng. Tỉnh cũng cần tiến hành rà soát, đánh giá năng lực

chuyên môn các tổ chức hoạt động tư vấn xây dựng, công bố công khai năng lực, quy

mô và phạm vi hành nghề của các tổ chức tư vấn quy hoạch, khảo sát, lập dự án, thiết

kế, giám sát thi công, thí nghiệm vật liệu...trên các phương tiện thông tin đại chúng và

đến từng UBND các huyện, thành phố, thị xã, thậm chí đến tận UBND xã, phường, thị

trấn để cho các chủ đầu tư lựa chọn và để nhân dân trên địa bàn có công trình xây

dựng biết, tham gia kiểm tra, giám sát. Kiên quyết rút giấy phép đăng ký kinh doanh,

chứng chỉ hành nghề tư vấn nếu các tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện, năng lực

hoạt động, không thực hiện các quy định trong đăng ký kinh doanh, vi phạm pháp luật.

Đình chỉ, cấm hoạt động có thời hạn đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề tư vấn có

nhiều sai sót trong hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế, lập dự toán. Tất cả các việc rút giấy

phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động tư vấn của các tổ chức, cá nhân

nên đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng, đến các chủ đầu tư để họ không ký

hợp đồng với các tổ chức, cá nhân này. Các đơn vị chức năng quản lý nhà nước chỉ

thẩm định, trình hồ sơ dự án đầu tư khi tổ chức tư vấn đủ điều kiện, năng lực theo quy

định của pháp luật. Tóm lại, Thanh Hoá phải làm mọi cách để các tổ chức tư vấn phải

chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm tư vấn và phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý

hành chính, trường hợp nghiêm trọng, chịu xử lý hình sự, khi có quyết định sai thuộc

phạm vi trách nhiệm của mình.

Ngoài ra, các ngành chức năng cần ban hành hướng dẫn hệ thống quản lý và quy

trình kiểm soát chất lượng sản phẩm công tác tư vấn (khảo sát, lập dự án, quy hoạch,

thiết kế, thẩm tra, giám sát thi công, thí nghiệm, kiểm định chất lượng...) để các đơn vị

tư vấn thực hiện. Tỉnh nên có cơ chế khuyến khích các đơn vị tư vấn ứng dụng hệ thống

kiểm tra chất lượng ISO, có chính sách khuyến khích các tố chức tư vấn trong tỉnh xắp

xếp lại theo hướng cổ phần hoá, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập như tổng công ty

tư vấn, tập đoàn tư vấn, liên danh, liên kết với các tổ chức tư vấn lớn trong và ngoài

nước để có đủ điều kiện và năng lực thực hiện các dự án có quy mô lớn, kỹ thuật phức

tạp.

Mặt khác, các tổ chức tư vấn phải tập trung nâng cao chất lượng công tác

chuyên môn, coi chất lượng là yếu tố hàng đầu quyết định sự sống còn của đơn vị.

Muốn vậy các đơn vị tư vấn phải nâng cao trình độ, năng lực của người thực hiện, tăng

cường kiểm tra ở các tổ, nhóm, bộ phận và chú trọng khâu kiểm tra chất lượng của sản

phẩm tư vấn trước khi giao cho khách hàng. Tổ chức tư vấn cũng phải quan tâm đến

con người như tuyển chọn, đào tạo và sử dụng đội ngũ tư vấn có trình độ cao.

3.2.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư xây

dựng từ vốn ngân sách nhà nước

Công tác thẩm tra, thẩm định hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế cần được nâng cao

chất lượng nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời TTLP trong ĐTXD, cụ thể là:

- Nâng cao năng lực thẩm định của Sở Kế hoạch và Đầu tư (thẩm định dự án,

báo cáo kinh tế kỹ thuật), của các sở xây dựng chuyên ngành (thẩm định thiết kế cơ

sở) đối với các dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách tỉnh. Nâng cao năng lực của các

phòng chức năng của huyện đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách

huyện.

- Quy định rõ các đơn vị tham mưu thẩm định phải đủ năng lực giúp chủ quản

đầu tư, chủ đầu tư xem xét lại tất cả các nội dung mà dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật

đã đề cập nhằm xác định lại lần cuối cùng tính chính xác, khoa học, tính hiệu quả của

dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hơn nữa,

công tác thẩm định phải được thực hiện một các nghiêm túc, chặt chẽ, chính xác từ các

quy trình, quy định về thủ tục, từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ đến việc tính toán

kiểm tra lại, phản biện khoa học, đến việc tiếp cận thực tế gắn với tình hình kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán của địa phương.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Đơn vị, cá nhân cán bộ

thẩm định phải chịu trách nhiệm xem xét các quy trình, thủ tục, các quy định, tiêu chuẩn,

định mức, đơn giá, các số liệu cần và đủ, xem xét các yếu tố để xem xét dự án, thiết kế có

khả thi, có hiệu quả hay không, tính kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng công trình có đảm bảo

hay không, khi có vấn đề nào chưa rõ phải yêu cầu nhà tư vấn báo cáo, giải thích làm rõ,

nếu cần phải tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn sâu, các chuyên gia, các nhà khoa

học.

Để nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, các đơn vị tư vấn phải bố trí đủ các

cán bộ thẩm tra có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu, có trách nhiệm, nhiệt tình và

phải độc lập với đơn vị tư vấn thiết kế, lập dự toán, đặc biệt tránh tình trạng thẩm tra

chỉ là hình thức. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, các đơn vị tư vấn thẩm tra mới là một bộ

phận phòng ban trong các đơn vị tư vấn thiết kế, hầu hết đều mới được thành lập, do

vậy có hiện tượng hụt hẫng cán bộ đầu đàn, thiếu kinh nghiệm, phương pháp làm việc

còn thiếu chuyên nghiệp, có hiện tượng khoán cho các nhóm nhỏ thực hiện, do đó kết

quả thẩm tra thiếu độ tin cậy và nhiều khi thẩm tra chỉ là hình thức, ít phát hiện ra

những sai sót trong thiết kế cũng như trong dự toán. Trong khi đó chất lượng của công

trình tốt hay xấu, tính chính xác của dự toán cao hay thấp, một phần rất quan trọng phụ

thuộc vào tính đầy đủ, nghiêm túc của việc thẩm tra thiết kế, dự toán. Vì vậy, trước

mắt tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm tra trong các đơn vị tư

vấn thẩm tra, cụ thể là yêu cầu các đơn vị có chức năng thẩm tra, ngoài các quy định

về giấy phép hành nghề, quy định về năng lực như quy định của Luật Xây dựng về các

đơn vị, cá nhân tư vấn thông thường, thì cần yêu cầu thêm một số quy định ràng buộc

như phải có thời gian, kinh nghiệm công tác và phải có chứng chỉ tham gia các lớp học

bồi dưỡng như định giá công trình xây dựng, thẩm tra phản biện...từng bước hình

thành các tổ chức tư vấn thẩm tra độc lập, chuyên nghiệp. Ngoài ra tỉnh nên có quy

định ràng buộc trách nhiệm của các đơn vị tư vấn thẩm tra trong việc không phát hiện

được những sai sót trong các hồ sơ thiết kế, dự toán.

3.2.3.4. Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu dự án đầu tư xây dựng từ

vốn ngân sách nhà nước

Để nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, tỉnh cần phải có văn bản quy định cụ

thể để xử lý các trường hợp nhà thầu bỏ giá thấp để thắng thầu, các nhà thầu không đủ

năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu, hạn chế tình trạng kéo dài tiến độ công

trình, chất lượng công trình không đảm bảo. Tỉnh nên tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra công tác đấu thầu nhằm hướng dẫn, uốn nắn, phát hiện sai phạm trong công

tác đấu thầu. Nên kiên quyết xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu như thông

thầu, dàn xếp thầu hoặc bán thầu, ngoài xử lý theo quy định của pháp luật thì có thể áp

dụng thêm hình thức cấm dự thầu các dự án có nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh có

thời hạn, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải tăng cường

bồi dưỡng chuyên môn nghiệm vụ về công tác đấu thầu cho cán bộ làm công tác quản

lý dự án, nhất là ở cấp huyện và xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định, thanh tra công tác

đấu thầu có nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có tinh thần phục vụ và trách

nhiệm cao.

3.2.3.6. Nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công công trình xây dựng

từ vốn ngân sách nhà nước

Để nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công, thì đầu tiên cũng như các

đơn vị tư vấn khác, các đơn vị tư vấn giám sát thi công cần phải có tính chuyên nghiệp

cao, có tinh thần tự hoàn thiện, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và

đặc biệt nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức. Chất lượng của công trình tuỳ thuộc vào

người giám sát thi công xây dựng công trình. Người giám sát giỏi, có đạo đức thì công

trình có chất lượng và ngược lại. Nếu không có đạo đức, người giám sát thi công dễ

dàng cho qua những lỗi nhỏ và lớn tuỳ thuộc vào sự đối đãi của đối tác, đặc biệt cần

ngăn ngừa nhà thầu cùng với tư vấn giám sát thông đồng với nhau đánh tráo, thay đổi

chủng loại vật tư, thiết bị, bớt xén vật liệu. Các ban ngành của tỉnh (phòng quản lý chất

lượng Sở Xây dựng, Thanh tra Xây dựng..), các đơn vị tham mưu cho cấp huyện

(phòng Công thương), bản thân chủ đầu tư phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các

đơn vị tư vấn giám sát thi công. Cũng như các đơn vị tư vấn khác, nếu các đơn vị tư

vấn giám sát có sai sót, có tiêu cực thì kiên quyết loại bỏ, thu hồi giấy phép, thông báo

công khai cho các chủ đầu tư biết. Nếu phạm tội thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự

theo quy định của pháp luật.

3.2.3.7. Nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, thanh quyết toán công

trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước

Để nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, quyết toán nhằm ngăn ngừa các

hiện tượng tiêu cực trên, Thanh Hoá nên tăng cường chỉ đạo sao cho khâu nghiệm thu

phải đúng quy trình, quy phạm, nhất là khâu nghiệm thu thực tế tại hiện trường,

nghiệm thu theo nhật ký công trình và các biên bản kiểm tra lấy mẫu, thí nghiệm vật

liệu công trình, các hoá đơn chứng từ mua vật tư, vật liệu...; khâu thẩm định quyết toán

phải được thực hiện một cách chặt chẽ, phải rà soát các quy định, tiêu chuẩn, định

mức, đơn giá, chế độ chính sách, đảm bảo chi phí thực của công trình. Trước mắt đối

với các dự án lớn, trước khi phê duyệt quyết toán dự án đầu tư nhất thiết cần được tiến

hành kiểm toán, tiến tới tất cả các dự án đầu tư trước khi phê duyệt quyết toán phải

được kiểm toán nhằm thực hiện kiểm tra, kiểm soát, loại bỏ các chi phí không hợp lý,

các chi phí khống ra khỏi quyết toán công trình. Chất lượng của một công trình tốt hay

xấu, hiệu quả đầu tư cao hay thấp, có TTLP hay không một phần rất quan trọng phụ

thuộc vào chất lượng công tác nghiệm thu khối lượng, thẩm tra, thẩm định phê duyệt

quyết toán dự án hoàn thành. Do đó, đòi hỏi các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện

nhiệm vụ thẩm tra, thẩm định không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà phải trung

thực, khách quan trong công việc, không vì lợi ích cá nhân mà làm phương hại đến lợi ích

chung, gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của nhà nước. Muốn vậy, các cơ quan chức

năng cần phải quan tâm đến việc bố trí cán bộ tham gia thẩm định đảm bảo công tác thẩm

định đạt chất lượng theo yêu cầu. Do hiện nay tỉnh đã phân cấp mạnh xuống địa phương,

vì vậy công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ cấp huyện cần phải quan

tâm hơn bao giờ hết, Sở Tài chính phải tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác quyết toán

dự án hoàn thành ở cấp huyện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót để có biện pháp nhắc

nhở, chấn chỉnh hợp lý.

3.2.4. Nhóm giải pháp đối với các nhà thầu

Tỉnh cần quy định chặt chẽ điều kiện năng lực và có chế tài xử lý đối với các

nhà thầu (nhà thầu tư vấn, nhà thầu xây lắp...) khi tham gia đấu thầu, nhận thầu

công trình, quy định các loại hình và quy mô công trình đối với các nhà thầu được

phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của các nhà thầu. Chấm dứt tình

trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không đủ

điều kiện, năng lực thi công, xây dựng công trình. Trường hợp phát hiện có hiện

tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với các nhà thầu tư vấn hoặc nhà

thầu xây dựng thì tuỳ theo mức độ sai phạm cần áp dụng các hình thức phạt như

phạt tiền theo quy định, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt

động có thời hạn ít nhất một năm, thu hồi giấy phép, xử lý hình sự và thông báo

trên các phương tiện thông tin đại chúng… Cần có cơ chế quản lý chặt chẽ và quy

định về điều kiện, năng lực hành nghề của nhà thầu, kiểm tra thường xuyên các loại

hình và quy mô công trình các nhà thầu được tham gia có phù hợp với trình độ,

năng lực của nhà thầu theo quy định của pháp luật không. Khi phát hiện nhà thầu

không đủ năng lực thực hiện làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công trình

đang thi công thì cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, thậm chí cần chấm dứt hợp

đồng. Tỉnh cũng nên có quy định cụ thể về xử lý các nhà thầu khi tiến độ thi công,

chất lượng công trình không đảm bảo như phải hoàn toàn chịu trách nhiệm theo hợp

đồng, bồi thường thiệt hại, tuỳ theo mức độ phải bị xử lý hình sự…

Tỉnh cần có quy định về đạo đức của các nhà thầu, nếu phát hiện thấy họ thiếu

trung thực khi tham gia đấu thầu thì cần có biện phảp xử lý nghiêm minh. Bản thân các

nhà thầu phải tự nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ nhân lực từ cán bộ

quản lý đến công nhân, có cơ chế tuyển chọn và trả lương cho những người có chuyên

môn giỏi, tay nghề cao để hút người tài vào doanh nghiệp. Nhà thầu phải thường

xuyên giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật

và lương tâm nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực trong doanh nghiệp và chú trọng đầu

tư máy móc, thiết bị thi công phù hợp với ngành nghề kinh doanh.

3.2.5. Nhóm giải pháp liên quan đến việc phát huy dân chủ và phát huy vai

trò của thông tin đại chúng trong giám sát dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà

nước

Trong những năm vừa qua phần lớn các vụ án phát hiện có tiêu cực, TTLP

trong ĐTXD do quần chúng, cán bộ công nhân viên chức phát hiện dưới hình thức đơn

thư tố giác và qua thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát

thanh, truyền hình...). Tuy nhiên phong trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm

tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP chưa đi vào chiều sâu, còn tự phát, còn e dè, sợ

liên luỵ, sợ bị trả thù, sợ mất việc...Các nguồn tin về tham nhũng, tiêu cực, TTLP được

đăng tải trên các phương tiện đại chúng dưới dạng phóng sự điều tra, đơn tố cáo, các

sự cố bất ngờ, những kiến nghị hoặc ý kiến người dân...đôi khi chưa chính xác, thiếu

khách quan, phản ảnh chung chung, và có cả những thông tin phản ánh sai sự thật.

Chính vì vậy, tỉnh cần có quy định hướng dẫn, quy định công khai nội dung trong dự

án cả về quy mô, vốn, đơn vị thiết kế, đơn vị thi công, đơn vị giám sát, thời gian thi

công xây lắp....để quần chúng biết, giám sát. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh tuyên

truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP

trong ĐTXD. Nên chú trọng tuyên truyền cho đối tượng là cán bộ, công nhân viên

thuộc đơn vị chủ đầu tư, đơn vị thi công xây lắp, những người tham gia giám sát thi

công, giám sát chất lượng công trình, những người làm công tác tư vấn và quần chúng

nhân dân sống ở khu vực có công trình xây dựng. Tỉnh cần kịp thời động viên, biểu

dương, khen thưởng những cá nhân tiêu biểu trong công cuộc đấu tranh chống tiêu

cực, TTLP trong ĐTXD.

Nâng cao vai trò của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc

tuyên truyền, vận động phòng chống và điều tra về TTLP trong ĐTXD. Một khi báo chí

và phương tiện thông tin đại chúng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng của TTLP và vai

trò của nó bị hạ thấp do có những hàng rào ngăn cản hoặc những vùng cấm địa thì nhiều

vụ việc sẽ bị chìm xuống, trôi vào lãng quên. Nhưng báo chí chỉ nêu những vụ TTLP mà

không nêu biện pháp và kết quả xử lý thì chẳng khác nào tuyên truyền từ đó tạo ra các

luồng dư luận khác nhau trong xã hội để kẻ xấu lợi dụng bôi nhọ. Chính vì vậy, ngoài

việc nâng cao vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng nhằm chống

TTLP trong ĐTXD thì cũng phải định hướng ràng buộc các cơ quan báo chí, các

phương tiện thông tin đại chúng thực hiện theo đúng quy định của Luật Báo chí, cụ thể

là khi báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện, phản ánh các công trình,

dự án TTLP thì các cơ quan chức năng phải vào cuộc ngay, có kết luận xử lý kịp thời và

báo chí thông tin ngay kết quả đó để quần chúng nhân dân biết và tin tưởng vào đường

lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

3.2.6. Nhóm giải pháp quy trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan

đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước

Thời gian gần đây, công cuộc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn

vốn NSNN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đã có nhiều chủ trương, biện pháp

đối phó, song phải thấy rằng cuộc đấu tranh này chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ

đề ra, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, tình hình vi phạm có chiều hướng ngày

càng gia tăng, phức tạp và ngày càng tinh vi hơn, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển

kinh tế đất nước. Thực tế do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khá quan

trọng là chưa có chế tài đủ mạnh để xem xét xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu

cơ quan, đơn vị để xảy ra TTLP. Đặc biệt là hành vi gây TTLP nguy hiểm, gây hiệu

quả nghiêm trọng thì trong Bộ luật hình sự chưa có điều luật hoặc có điều luật nhưng

chưa quy định rõ, cụ thể. Quá trình ĐTXD liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên

trong quá trình điều tra các vụ án thường có những quan điểm khác nhau giữa các cơ

quan điều tra, truy tố, xét xử trong việc đánh giá chứng cứ, định tội danh vụ án, bị can

dẫn đến hiệu quả đấu tranh đối với tội danh này chưa cao, nhiều vụ án kéo dài, hồ sơ

chuyển đi, chuyển lại nhiều lần. Thậm chí nhiều hành vi phạm tội còn không được coi

là tội phạm hoặc nhầm lẫn giữa các tội danh.

Chính vì vậy, để thực hiện tốt công tác phòng chống TTLP trong ĐTXD từ

nguồn vốn NSNN, cần thực hiện một số công việc sau:

- Trong điều kiện Bộ luật Hình sự chưa có quy định rõ ràng tội phạm trong lĩnh

vực ĐTXD, tỉnh cần quy định chế tài đủ mạnh, minh bạch trong khuôn khổ quyền hạn

của UBND tỉnh đối với trách nhiệm của các bên liên quan đến quản lý ĐTXD từ vốn

NSNN trên địa bàn tỉnh. Đi đôi với những quy định đó, tỉnh cần duy trì tinh thần thực

hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật nhằm hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn

NSNN.

- Nghiên cứu để từng bước thực hiện xã hội hoá trong ĐTXD theo hướng

NSNN chỉ đầu tư những công trình mà các thành phần kinh tế khác không thực hiện

được. Tiến tới xã hội hoá các chủ thể tham gia hoạt động ĐTXD như tư nhân xây dựng

trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc cho nhà nước thuê. Có chính sách khuyến khích

các thành phần xã hội tham gia hoạt động ĐTXD, phát triển hình thức cổ phần hoá,

góp vốn ĐTXD dưới hình thức nhiều thành phần tham gia góp vốn ĐTXD công trình,

từ đó giảm dần danh mục các công trình sử dụng 100% vốn nhà nước nhằm góp phần

hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.

Kết luận

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X nhận định, nước ta đã chuyển sang

thời kỳ phát triển mới, thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH”. Để thực hiện thành công sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước, tất yếu phải đẩy mạnh và sử dụng hiệu quả đầu tư phát

triển của Nhà nước, trong đó phòng chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là một

trong những giải pháp quan trọng. Trong khi đất nước ta còn nghèo, đang rất cần vốn

để đầu tư phát triển thì TTLP đã làm giảm đi những khoản tài chính phục vụ cho đầu

tư phát triển, điều đó đồng nghĩa với việc làm khó khăn thêm và kéo dài tiến trình

CNH, HĐH đất nước, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tới quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế, làm mất uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Mặt khác, TTLP trong ĐTXD từ

vốn NSNN đã gây nên hậu quả rất lớn về mặt xã hội là tạo ra một số người giàu bất

chính dẫn tới sự bất công bằng trong xã hội, làm tha hoá, biến chất một bộ phận cán

bộ, đảng viên ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta, dẫn

đến làm mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ

rằng việc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là nhiệm vụ quan trọng

để xây dựng thành công một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh”.

Trên cơ sở phân tích thực tiễn công tác chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN

ở tỉnh Thanh Hoá trong những năm qua, luận văn đã giải quyết được một số vấn đề cụ

thể, đó là:

- Phân tích những đặc trưng cơ bản của ĐTXD từ vốn NSNN;

- Nhận diện TTLP trong ĐTXD và phân tích các nguyên nhân dẫn đến TTLP

trong ĐTXD từ vốn NSNN;

- Phân tích nội dung cơ bản của chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN ;

- Phân tích thực trạng tình hình TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn

tỉnh Thanh Hoá từ năm 2003 (từ khi có Luật Xây dựng) đến nay, qua đó rút ra một số

nguyên nhân cơ bản;

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công

tác phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong

thời gian tới.

Là một cán bộ làm công tác tham mưu giúp Thường trực UBND tỉnh trong

công tác quản lý ĐTXD bằng vốn ngân sách tỉnh, với những kiến thức quản lý kinh tế

đã thu được từ khoá học, với kinh nghiệm công tác cùng với những tài liệu tham khảo

và sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của quý cô giáo hướng dẫn cũng như các thầy, cô

giáo của Viện Quản lý kinh tế và Học viện, các cơ quan liên quan ở địa phương, các

bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành luận văn này với mong muốn góp một phần

nhỏ bé của mình cùng với các đơn vị liên quan ở địa phương, trước hết là hoàn thành

nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn

NSNN.

danh mục tài liệu tham khảo

1. Hưng Bình (2006), “Thất thoát do đâu? Quản lý nguồn vốn Nhà nước: Trách nhiệm

và quyền hạn chưa tương xứng”, Báo Đầu tư, ngày 19-5-2006.

2. Chính phủ (2004), Báo cáo số 1679/CP-KTTH ngày 10/11/2004 trình bày về việc

thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả

nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình hình nợ đọng vốn

đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát trong đầu tư xây

dựng cơ bản, Hà Nội.

3. Chính phủ (2006), Nghị quyết số 25/2006/NQ-CP ngày 9/7/2006 chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và

Nghị quyết của Quốc hội khoá XI về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5

năm 2006-2010, Hà Nội.

4. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ

XVI, Nxb Thanh Hoá.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Trần Công Hùng (2005), “Tham nhũng, tiêu cực trong XDCB: tiền thất thoát đủ

để trả lương cho bộ máy hành chính, sự nghiệp cả nước”, Báo Tiền phong,

ngày 11-11-2005.

8. Lưu Hương (2005), “Chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng: Thất thoát, lãng phí khôn

lường”, Báo VnExpress, ngày 21-7-2005.

9. Đức Kế (2005), “Nhà luyện tập và thi đấu Thanh Hoá: Rờ đâu sai đó”, Báo Tiền

phong, ngày 14-11-2005.

10. Đức Kế (2006), “Một công trình mười năm vẫn dang dở”, Báo Tuổi trẻ, ngày 20-

7-2006.

11. Nhật Linh (2006), “Đầu tư từ nguồn vốn nhà nước: Hiệu quả thấp dẫn đến lãng

phí”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 05-12-2006.

12. Nông Đức Mạnh (2006), “Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là quyết tâm

chính trị của toàn Đảng, toàn dân ta”, Tạp chí Cộng sản (16).

13. Thế Mai (2007), “Chọn nhầm nhà thầu, tuyến đường Nghi Sơn – Bãi Trành bao

giờ mới xong?”, Báo Nhân Dân, ngày 03-8-2007.

14. Lê Xuân Mậu (2005), “Lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng – Chủ yếu là

nguyên nhân con người”, Báo VietNamNet, ngày 28-2-2005.

15. Đình Nam (2006), “Tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hoàn thiện cơ chế

giám sát”, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 2-5-2006.

16. Quốc hội (2004), Luật Xây dựng, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Quốc hội (2006), Luật Đầu tư, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

18. Quốc hội (2006), Luật Ngân sách nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Quốc hội (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

20. Quốc hội (2006), Luật Đấu thầu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

21. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2003, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 19-01-2003.

22. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2004, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 08-12-2003.

23. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2004), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2005, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 14-12-2004.

24. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2006, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 01-12-2005.

25. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 08/KHĐT-BC ngày

09/01/2005 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2004.

26. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2007, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 15-12-2006.

27. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 13/KHĐT-BC ngày

13/01/2006 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2005.

28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm

2008, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 10-12-2007.

29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 160/KHĐT-BC ngày

05/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2006.

30. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 153/KHĐT-BC ngày

14/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2007.

31. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 549/KHĐT-BC ngày

02/5/2008 về tình hình áp dụng và thực thi Luật đấu thầu qua hai năm thực

hiện.

32. Sở Tài chính Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 296/TC-ĐT ngày 21/02/2005 về báo

cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2004.

33. Sở Tài chính Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 328/TC-ĐT ngày 24/02/2006 về báo

cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2005.

34. Sở Tài chính Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 57/TC-ĐT ngày 11/01/2007 về báo

cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2006.

35. Sở Tài chính Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 70/TC-ĐT ngày 10/01/2008 về báo

cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2007.

36. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 478/SXD-TĐ ngày 30/3/2006 về tình

hình triển khai thực hiện chỉ thị 21/2005/CT-TTg trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

37. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 2126/SXD-TTr ngày 29/12/2006 về tổng

hợp kết quả thanh tra thực hiện ĐTXD Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã

tại các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.

38. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2007), Thông báo số 3043/SXD-QLCL ngày

31/12/2007 về năng lực hoạt động của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng

trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

39. Phương Thanh (2004), “Quản lý đầu tư – Vẫn bài ca thất thoát”, Báo

VietNamNet, ngày 18-02-2004.

40. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2003), Báo cáo số 339/BC-TTTH ngày 24/11/2003 về

tổng kết hai năm thực hiện Quyết định 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

41. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2004), Báo cáo số 310/KL-TTTH ngày 24/9/2004 về kết

quả thanh tra các dự án tái định cư công trình Hồ Cửa Đạt.

42. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Kết luận số 82/KL-TTTH ngày 17/02/2005 về

thanh tra thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố

Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.

43. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 121/BC-TTTH ngày 21/3/2005 về

kết quả thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm

2002-2004.

44. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 537/BC-TTTH ngày 10/1102005 về

tổng kết công tác thanh tra năm 2005, phương hướng nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2006.

45. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 517/BC-TTTH ngày 15/12/2006 về

tổng kết công tác thanh tra năm 2006, phương hướng nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2007.

46. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Kết luận số 430/KL-TTTH ngày 03/11/2006 về

thanh tra thực hiện các dự án xây dựng công trình thuỷ lợi: Hệ thống tiêu

Đa Bút – Hà Lĩnh huyện Hà Trung và huyện Vĩnh Lộc; Sửa chữa, nâng cấp

cụm công trình thuỷ lợi tưới mía thuộc Nông trường Sao Vàng, tỉnh Thanh

Hoá.

47. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 1007/BC-TTTH ngày 18/12/2007

về tổng kết công tác thanh tra năm 2007, phương hướng nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2008.

48. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Kết luận số 469/KL-TTTH ngày 01/6/2007 về

thanh tra đầu tư xây dựng tại trường Đại học Hồng Đức.

49. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 về việc triển

khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử

dụng vốn Nhà nước và chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng.

50. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 29/2005/CT-TTg ngày 23/12/2005 về

chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước.

51. Trần Văn Tiến (2004), “Đơn thuốc nào cho “bệnh” thất thoát đầu tư xây dựng?”,

Báo VietNamNet, ngày 10-10-2004.

52. Đà Trang (2004), “Đầu tư sai do...cục bộ, thành tích”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 11-

11-2004.

53. Anh Tuấn (2007), “Thanh Hoá: Sẽ rút giấy phép nhiều công ty tư vấn thiết kế”,

Báo Lao Động, ngày 13-8-2007.

54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 18/BC-UBND ngày

17/4/2006 về tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg tai

địa phương tỉnh Thanh Hoá.

55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 61/BC-UBND ngày

18/12/2006 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2006,

mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2007.

56. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày

12/4/2007 về việc nâng cao hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí trong đầu

tư XDCB.

57. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 13/9/2007 về việc

tăng cường quản lý công tác hoạt động Tư vấn xây dựng.

58. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 71/BC-UBND ngày

10/12/2007 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2007,

mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2008.

59. Website Chính phủ (2007), “Thanh Hoá thu hồi 217 ha đất thuộc các quy hoạch

treo, dự án treo”, ngày 07-02-2006.