LUẬN VĂN:
Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư
xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, cùng với môi trường chính trị ổn định, nền kinh tế nước ta
phát triển khá mạnh, GDP hàng năm tăng từ 7,5-8%. Một trong những yếu tố góp phần
đạt được những thành tựu đó là tăng đầu tư xây dựng (ĐTXD). Tuy nhiên, cùng với
những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế thì ĐTXD ở nước ta, nhất là ĐTXD từ vốn ngân
sách Nhà nước (NSNN), đang gặp phải nhiều vấn đề nan giải, trong đó có tình trạng thất
thoát, lãng phí (TTLP).
Thực tế những năm vừa qua đã cho thấy, nhiều nơi, nhiều lúc tình trạng thất
thoát, đặc biệt tình trạng lãng phí trong ĐTXD đã xảy ra rất trầm trọng. Các cơ quan
pháp luật, Chính phủ cũng đã tiến hành nhiều biện pháp ngăn chặn, xử lý, nhiều vụ án
đã được đưa ra xét xử nghiêm minh, nhưng vẫn còn nhiều vụ việc, nhiều công trình
lãng phí tiền bạc của NSNN nhiều tỷ đồng chưa được giải quyết một cách kịp thời,
đúng pháp luật. Vẫn còn một số công trình thiết kế không đảm bảo, thi công chưa
xong thì phải sửa đổi thiết kế, đến khi hoàn thành thì cũng chẳng có thể sử dụng như
dự kiến. Có công trình xây dựng (CTXD) chỉ vài năm sau đã không đáp ứng được nhu
cầu phải cải tạo, nâng cấp rất tốn kém...
Giáo sư David Dapice của Đại học Harvard cho rằng, với tốc độ đầu tư cao như
báo cáo của Việt Nam, tỷ lệ tăng trưởng lẽ ra phải đạt mức 9-10%. Như vậy, với tốc
độ tăng trưởng thực tế đạt được, số vốn TTLP trong đầu tư hàng năm lên đến 1 tỷ USD
[11].
Là một địa phương đang trong quá trình phát triển, vốn ĐTXD từ NSNN
hàng năm lên đến hàng nghìn tỷ đồng, Thanh Hoá cũng nằm trong tình trạng TTLP
như thế. Với mong muốn tìm ra các giải pháp giảm thiểu hơn nữa TTLP trong
ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh, đề tài “Chống thất thoát, lãng phí trong
đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” được
chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ năm 2003 đến nay, trên phạm vi cả nước, đã có nhiều bài nói, bài viết
đăng tải trên các Báo và Tạp chí, đồng thời có cả những cuộc hội thảo khoa học,
công trình nghiên cứu về tình hình và giải pháp chống TTLP trong ĐTXD. Có thể
nêu ra một số công trình nghiên cứu, bài báo và bài viết trên tạp chí như: Đề án
chống TTLP trong ĐTXD của Bộ Xây dựng thực hiện tháng 9/2004; Hội thảo
khoa học về “Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong XDCB – Thực
trạng và giải pháp” do Bộ Công an tổ chức ngày 10/11/2005 tại Hà Nội; luận văn
thạc sỹ kinh doanh và quản lý “Một số giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong
đầu tư xây dựng từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Đak Lak” của tác giả Phan
Xuân Lĩnh, năm 2006; luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý “Phòng, chống thất
thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ nguồn ngân sách Nhà nước ở nước ta
hiện nay” của tác giả Ngô Văn Quý; bài “Thất thoát vốn đầu tư XDCB và giải
pháp ngăn chặn” của tác giả Trần Lưu Dung, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 8/2004; bài “Tham nhũng, tiêu cực trong đầu tư XDCB, tiền thất thoát đủ
trả lương cho bộ máy hành chính, sự nghiệp cả nước” của tác giả Trần Công
Hùng, đăng trên Báo Tiền phong số 225 ngày 11/11/2005; bài “Tập trung chỉ đạo
tạo sự chuyển biến rõ rệt trong lĩnh vực đầu tư XDCB” của tác giả Võ Hồng
Phúc, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, đăng trên Tạp chí Thời báo Kinh tế số 1/2005; bài
“Phát triển kinh tế – xã hội và cuộc đấu tranh chống TTLP” của tác giả Trương
Giang Long, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 11/2005; bài “Những
nguyên nhân chủ yếu và biện pháp nhằm giảm thiểu TTLP trong đầu tư và xây
dựng” của tác giả Hoàng Xuân Hoà, Ban Kinh tế Trung ương, đăng trên Tạp chí
Khu công nghiệp Việt Nam số 9/2005; ....
Ngoài ra còn còn có một số công trình khác đã công bố cũng liên quan đến
TTLP, quản lý kiểm tra, kiểm soát hoạt động ĐTXD. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu đề tài này dưới dạng luận văn, luận án khoa học trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá nhằm giúp cho địa phương chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN có
hiệu quả hơn. Thực hiện đề tài, luận văn sẽ tham khảo, lựa chọn, kế thừa những ý
tưởng của các công trình đã nghiên cứu và công bố, đồng thời đi sâu nghiên cứu lý
luận để đề ra những giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nhận dạng và phân tích thực trạng TTLP trong ĐTXD
từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và đề xuất các giải pháp chống TTLP hiệu
quả hơn
Phù hợp với mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.
- Phân tích thực trạng TTLP và thực trạng chống thất thoát, lãng phí trong đầu
tư xây dựng từ vốn NSNN ở Thanh Hoá.
Đề xuất các phương hướng và giải pháp tăng cường chống TTLP trong ĐTXD
từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu trong luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình trạng TTLP và giải pháp chống
TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn bao gồm khảo sát thực trạng các dạng TTLP
và các giải pháp chống TTLP ở các công trình xây dựng từ vốn NSNN do Uỷ ban nhân
dân (UBND) tỉnh Thanh Hoá quản lý, không nghiên cứu các dự án ĐTXD bằng nguồn
vốn khác.
Thời gian khảo sát đánh giá từ năm 2003 đến nay và đề xuất giải pháp cho thời
gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, các
thành tựu khoa học kinh tế, kỹ thuật hiện đại.
Trong khi giải quyết các vấn đề cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp duy vận
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp dựa trên nghiên cứu các tài liệu, các văn bản, báo cáo, kết luận của các
ngành liên quan ở cấp tỉnh, các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương, địa
phương về TTLP và chống TTLP trong ĐTXD trong thời gian qua gắn với thực tiễn ở
Thanh Hoá. Trong phạm vi hẹp có sử dụng ý kiến của các chuyên gia.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về TTLP và phương thức chống TTLP trong
ĐTXD từ vốn NSNN.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ
nguồn vốn NSNN ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến nay.
- Đề xuất giải pháp chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn vốn NSNN ở Thanh
Hoá trong thời gian tới để có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
của tỉnh trong việc xây dựng chương trình công tác trong lĩnh vực phòng, chống tham
nhũng, TTLP trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba (khoá X) của
Đảng
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề chung về thất thoát, lãng phí
và chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư
xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
1.1. một số vấn đề chung về đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
1.1.1. Đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư xây dựng
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm thu được kết
quả lớn hơn trong tương lai.
Nếu xét về tính mục đích, thì đầu tư là hoạt động không chỉ nhằm bảo toàn giá
trị đầu tư, mà còn phải sinh lời. Mức độ sinh lời càng cao thì càng khuyến khích nhà
đầu tư bỏ vốn đầu tư. Tuy nhiên, với nhà đầu tư là các cơ quan nhà nước thì, ngoài các
dự án đầu tư buộc phải sinh lời, nhiều dự án đầu tư hướng tới phúc lợi xã hội hơn là lợi
nhuận cá biệt của dự án.
Nếu xét về phương diện hoạt động thực tiễn, đầu tư là một quá trình lâu dài từ
khâu chuẩn bị đầu tư, khâu thực hiện đầu tư đến khâu khai thác kết quả đầu tư. Nhưng
trong thực tiễn kinh tế, nhiều khi người ta chỉ chú trọng quá trình chuẩn bị và thực
hiện đầu tư, tách rời khâu khai thác kết quả đầu tư ra khỏi quá trình đầu tư.
Có rất nhiều loại đầu tư. Tuỳ theo các góc độ xem xét khác nhau, người ta có
thể phân ra đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch; đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp; ĐTXD và đầu tư không xây dựng; đầu tư mới và đầu tư mở rộng, đầu tư hiện đại
hoá…
Đầu tư xây dựng (ĐTXD) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các tài sản cố định
cho các tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị và hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng KT-XH, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, quốc phòng, an
ninh (QPAN) và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Đây là dạng đầu tư rất quan
trọng vì nó góp phần nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia. Bản thân quá trình
ĐTXD luôn là một phức hợp hoạt động trong đó nổi lên vai trò của chủ bỏ vốn đầu tư,
chủ sử dụng kết quả đầu tư, tổ chức đấu thầu xây dựng, nhóm dân cư thụ hưởng kết
quả đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTXD. Trong ĐTXD hoạt
động xây dựng giữ vị trí quan trọng, quyết định kết quả đầu tư.
- Hoạt động xây dựng là là quá trình bao gồm: lập quy hoạch xây dựng, lập dự
án đầu tư xây dựng công trình, thiết kế xây dựng công trình, thi công xây dựng công
trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án ĐTXD công trình, lựa chọn
nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng
công trình... Hoạt động xây dựng kết tinh thành công trình xây dựng [16, tr.16].
- Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con
người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất,
có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên
mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây
dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, năng lượng và
các công trình khác... [16, tr.16].
1.1.1.2. Đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
a. Phân loại vốn đầu tư xây dựng
Có nhiều cách phân loại vốn ĐTXD
* Nếu căn cứ vào quan hệ của chủ đầu tư và nguồn vốn đầu tư thì người ta phân
thành vốn chủ sở hữu (vốn góp thêm, vốn huy động từ phát hành cổ phiếu, vốn hình
thành từ lợi nhuận không chia, từ các quỹ của doanh nghiệp…) và vốn vay (vay các tổ
chức tín dụng, vay nước ngoài, vay chính phủ, vay thông qua phát hành trái phiếu …)
* Nếu căn cứ vào tiêu chí ai tài trợ vốn cho đầu tư thì người ta chia vốn đầu tư
thành:
+ Vốn ĐTXD do khu vực tư nhân trong nước tài trợ. Đây là nguồn vốn đầu tư
hình thành từ vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay của các tổ chức tài chính trong
nước, vốn huy động trong dân cư…
+ Vốn ĐTXD do tư nhân nước ngoài tài trợ gồm vốn của tư nhân, của doanh
nghiệp và của các tổ chức tài chính nước ngoài.
+ Vốn ĐTXD do Chính phủ và các tổ chức tài chính nước ngoài tài trợ trực tiếp
không qua NSNN bao gồm các khoản vốn hỗ trợ trực tiếp các tổ chức và cá nhân trong
nước đầu tư.
+ Vốn ĐTXD do Nhà nước tài trợ gồm vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước và vốn ĐTXD được cấp trực tiếp từ NSNN (từ đây gọi là vốn ĐTXD từ NSNN).
ở nước ta, vốn ĐTXD từ NSNN có tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng, thường
chiếm tỷ trọng từ 40-50% tổng đầu tư xã hội. Xét trên tổng thể nền kinh tế, vốn ĐTXD
từ NSNN được hình thành từ 2 kênh (i) từ khoản tích luỹ của NSNN: là phần còn lại
của tổng thu NSNN sau khi trừ chi phí thường xuyên, chi trả nợ, chi lập quỹ dự trữ tài
chính và một số khoản chi đầu tư phát triển khác; (ii) là khoản vay trong nước (tín phiếu,
công trái, trái phiếu Chính phủ) và vay nước ngoài thông qua các dự án ODA được đưa
vào cân đối NSNN.
Theo phân cấp quản lý của Luật Ngân sách nhà nước, vốn ĐTXD từ NSNN bao
gồm (i) vốn ĐTXD do trung ương quản lý và (ii) vốn ĐTXD do địa phương quản lý.
- Vốn ĐTXD do trung ương quản lý là số vốn đầu tư từ ngân sách trung ương
được cân đối cho các chương trình, dự án đầu tư của các Bộ, ngành trung ương theo kế
hoạch đầu tư xây dựng hàng năm, nằm trong quy hoạch và kế hoạch 5 năm do Quốc
hội thông qua.
- Vốn ĐTXD do địa phương quản lý bao gồm vốn đầu tư được cân đối từ tổng
chi ngân sách địa phương dành cho đầu tư phát triển, vốn được hỗ trợ, bổ sung từ
nguồn vốn ĐTXD tập trung của ngân sách trung ương và vốn ĐTXD từ nguồn để lại
theo Nghị quyết của Quốc hội.
b. Đặc điểm của vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước
Vốn ĐTXD từ NSNN thường tập trung cho các dự án xây dựng có vốn lớn, các
dự án thuộc lĩnh vực công cộng, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, vào các lĩnh vực có
thời gian xây dựng kéo dài, thời gian thu hồi vốn lâu hoặc không thu hồi vốn mà chỉ
tính lợi ích và hiệu quả xã hội như các công trình giao thông, điện nước, trường học,
trạm y tế, bệnh viện công, công sở, các công trình văn hoá, công trình phục vụ quốc
phòng và an ninh. Vì không thể phân tích được hiệu quả kinh tế tài chính cá biệt của
các dự án đầu tư này, nên khi xây dựng dự án dễ có xu hướng xuê xoa trong xem xét
các yêu cầu và chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư, hệ quả là có thể tạo cơ hội TTLP vốn
đầu tư của Nhà nước.
ở nước ta, vốn ĐTXD từ NSNN, về nguyên tắc, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện quản lý nên khó tìm ra cá nhận chịu trách nhiệm đích thực về hiệu quả
sử dụng nguồn vốn đó. Để thực hiện ĐTXD, Nhà nước uỷ thác vốn đó cho nhiều cơ
quan nhà nước với cơ chế quản lý nhiều khâu, nhiều cấp phức tạp và một chế độ trách
nhiệm chung. Chính vì thế, khó tìm thấy trách nhiệm và động lực cá nhân trong bảo
toàn và sử dụng hiệu quả vốn ĐTXD từ NSNN. Hơn nữa, chế dộ, cơ cấu phân quyên
quản lý và cơ chế vận hành của các cơ quan nhà nước thường lạc hậu so với yêu cầu
của thực tế nên dễ dẫn đến hiện tượng quan liêu trong quản lý quá trình sử dụng vốn
ĐTXD từ NSNN. Những đặc điểm này làm cho vốn ĐTXD từ NSNN được coi như
"của chùa", tiềm ẩn nhiêu cơ hội để các phần tử tiêu cực trong bộ máy quản lý nhà
nước và các chủ thể liên quan lợi dụng tham nhũng, làm thất thoát tiền vốn của Nhà
nước.
Ngoài ra, không loại trừ những đề án, kế hoạch, chương trình được đầu tư theo
phong trào, theo mục tiêu chính trị, xã hội thuần tuý, khó hoặc không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư… Bên cạnh đó, quá trình đầu tư các công trình hình
thành bằng vốn ĐTXD từ NSNN, từ khâu kế hoạch, thiết kế, thi công, giám sát thi
công, đấu thầu, mua sắm thiết bị đến nghiệm thu công trình, thường được thực hiện
theo một dây chuyền kép kín trong nội bộ các cơ quan nhà nước, do đó thường xảy ra
tình trạng các chủ đầu tư và các nhà thầu chia chác nhau tiền của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của vốn ĐTXD từ NSNN là quy mô vốn lớn nên vừa đòi hỏi
quá trình chuẩn bị đầu tư phức tạp, kéo dài (thậm chí còn bị thói quan liêu của cán bộ
nhà nước làm cho dài hơn), đòi hỏi sự phê chuẩn của nhiều cơ quan nhà nước nên càng
tạo cơ hội cho nạn tham ô, tham nhũng. Ngoài ra, quy chế và kỷ luật đấu thầu các công
trình xây dựng bằng tiền NSNN thường chịu sức ép của các cơ quan, tổ chức có thế
lực trong lĩnh vực quyết định đầu tư của Nhà nước.
c. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước
ĐTXD từ vốn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác
động đến các quá trình kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ
vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bằng việc cung cấp những dịch vụ công
cộng như hạ tầng kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng... mà các thành phần kinh tế
khác không muốn, không thể hoặc không được đầu tư, các dự án đầu tư từ NSNN
được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã
hội phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
ĐTXD từ vốn NSNN được coi là một công cụ để Nhà nước chủ động điều tiết,
điều chỉnh hàng loạt các quan hệ và những cân đối lớn của nền kinh tế như điều chỉnh
cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ thông qua các chương trình, dự án đầu tư lớn như
chương trình 135, dự án xây dựng các tuyến đường ô tô vào trung tâm các xã, dự án
xây dựng các hồ đập thuỷ lợi lớn như Hồ Cửa Đạt, chương trình kiên cố hoá kênh
mương, chương trình kiên cố hoá lớp học... Nhà nước đã bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng để
đầu tư phát triển kinh tế ở những vùng sâu, vùng xa nhằm thực hiện chủ trương xoá
đói giảm nghèo, đảm bảo sự công bằng trong việc thụ hưởng các thành quả của tăng
trưởng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc.
ĐTXD từ vốn NSNN là “vốn mồi” để thu hút, tạo điều kiện thu hút các nguồn
lực trong nước và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Có đủ vốn đầu tư trong nước mới
góp phần giải ngân, hấp thụ được các nguồn vốn ODA, có hạ tầng kinh tế – xã hội tốt
mới thu hút được vốn FDI; có vốn đầu tư "mồi" của Nhà nước mới khuyến khích phát
triển các hình thức BT, BOT...
ĐTXD từ vốn NSNN có vai trò mở đường cho sự phát triển nguồn nhân lực,
phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Các dự án đầu tư
vào các lĩnh vực trên rất tốn kém, độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp nên thường
được Nhà nước đầu tư bằng nguồn NSNN, như dự án đầu tư các phòng thí nghiệm, các
bệnh viện, các trung tâm y tế dự phòng, các trạm trại nghiên cứu giống mới, các
trường đại học... sẽ cung cấp các dịch vụ công, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư
của nền kinh tế – xã hội.
1.1.2. Trình tự trong hoạt động đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà
nước
Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng và đặc điểm của sản xuất xây dựng chi
phối, nên hoạt động ĐTXD (đặc biệt là hoạt động ĐTXD từ vốn NSNN) đòi hỏi phải
tuân thủ trình tự các bước theo quy định. Vi phạm trình tự ĐTXD sẽ gây ra TTLP và
tạo sơ hở cho tham nhũng trong hoạt động ĐTXD.
Theo Luật Xây dựng, trình tự thực hiện dự án đầu tư bao gồm các bước sau:
Bước 1: Lập quy hoạch chi tiết
Bước 2: Lập hồ sơ xin chủ trương đầu tư
Bước 3: Lập dự án đầu tư hoặc Báo cáo kinh tế – kỹ thuật
Bước 4: Thẩm định và phê duyệt dự án
Bước 5: Chuẩn bị mặt bằng
Bước 6: Khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công và tổng dự toán công trình
Bước 7: Thẩm định và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và tổng dự toán
Bước 8: Tổ chức đấu thầu
Bước 9: Ký kết hợp đồng, tổ chức thi công xây dựng
Bước 10: Nghiệm thu, quyết toán và bàn giao đưa vào khai thác sử dụng
Theo tuần tự, bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau. Tuy nhiên, do tính chất
và quy mô của dự án mà một vài bước có thể gộp vào nhau như: Đối với dự án vừa và
nhỏ thì có thể không cần phải có bước lập quy hoạch chi tiết, lập hồ sơ xin chủ trương
đầu tư mà lập luôn báo cáo kinh tế – kỹ thuật xây dựng công trình. Khi bước trước đã
thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện các bước tiếp theo phải kiểm tra để đánh
giá đầy đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của bước đó, nếu đạt yêu cầu về
các tiêu chuẩn, quy phạm đã quy định (nếu có) cho bước đó được cấp có thẩm quyền
chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo. Đáng lưu ý nhất là thực hiện trình tự theo
các bước phải được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt nghiêm túc.
Thực hiện đầy đủ các yêu cầu về trình tự nêu trên là cơ sở để khắc phục những
khó khăn, tồn tại do đặc điểm của sản phẩm và đặc điểm của sản xuất xây dựng gây ra.
Vì vậy, những quy định về trình tự ĐTXD có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến chất
lượng công trình, chi phí xây dựng công trình trong quá trình thi công xây dựng, tác
động của công trình sau khi hoàn thành xây dựng đưa vào sử dụng đối với nền kinh tế
của vùng, của khu vực cũng như đối với cả nước. Do đó, việc chấp hành trình tự đầu tư
và xây dựng có ảnh hưởng rất lớn, có tính chất quyết định không những đối với chất
lượng công trình, dự án đầu tư mà còn ảnh hưởng rất lớn đến TTLP, có hay không tạo
sơ hở cho tham nhũng về vốn và tài sản trong hoạt động ĐTXD...
Như vậy, việc thực hiện nghiêm túc trình tự ĐTXD là một đặc trưng cơ bản trong
hoạt động đầu tư, có tác động trực tiếp và gián tiếp đến tình trạng TTLP, tham nhũng
trong hoạt động ĐTXD. Vì vậy, quá trình ĐTXD phải có giải pháp quản lý thích hợp để
ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực làm cho TTLP, tham nhũng có thể xảy ra.
1.2. thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
1.2.1. Nhận diện thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
Hiện nay chưa có tài liệu, văn bản quy phạm nào đưa ra một định nghĩa hay
một khái niệm cụ thể nào về thất thoát, nhưng qua thực tế hoạt động kinh tế – xã hội
nói chung và trong ĐTXD nói riêng thì có thể hiểu thất thoát là tổn thất, mất vốn đầu
tư do các hành động chủ quan của những người liên quan nhằm chuyển nguồn vốn đó
thành tài sản của những người và tổ chức có liên quan mà không phải chủ đầu tư.
Như vậy khái niệm thất thoát hàm ý là gian lận, trộm cắp, tức là những người
liên quan đến quá trình thực hiện ĐTXD đã tự ý lấy ra từ tổng vốn đầu tư một khoản
giá trị nào đó và biến chúng thành sở hữu của mình. Thất thoát là hành vi mang tính
đạo đức, cố ý làm sai, trái các quy định của pháp luật, là hành động đáng bị xã hội lên
án và nhà đầu tư phải tìm mọi cách loại trừ chúng ra khỏi dự án đầu tư của mình.
ở một khía cạnh khác thì thất thoát là phần giá trị vốn bị mất đi, không sử dụng
vào công trình do bị rút bớt như một số công trình đáng ra phải dùng thép fi.20 nhưng
chỉ dùng thép fi.18; do bị thay đổi chủng loại, chất lượng vật tư để lấy chênh lệch giá,
như thay gạch thủ công cho gạch tuy nen; thay gỗ nhóm 2 bằng gỗ nhóm 3, hoặc do
khai man, khai khống để trục lợi như thực tế không phải vét bùn nhưng khai khống
khối lượng vét bùn. Điểm đặc trưng của thất thoát là nguồn giá trị to lớn lấy ra từ tổng
vốn đầu tư, được hạch toán vào chi phí xây dựng công trình, nhưng thực tế không
được đưa vào công trình. Đó là hành vi của những kẻ xấu lợi dụng công trình xây
dựng để rút tiền của Nhà nước biến thành tài sản riêng. Hành vi này không những để
lại hậu quả chất lượng công trình không đảm bảo, làm giảm hiệu quả ĐTXD công
trình, mà còn gây bất bình trong xã hội.
Khác với thất thoát, lãng phí trong ĐTXD cơ bản là việc chi phí tiền vốn, tài
sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên cho công trình nhiều hơn
mức cần thiết hoặc công trình xây dựng không được sử dụng hiệu quả cho phép do quy
hoạch, chất lượng, thời gian xây dựng công trình không hợp lý. Đối với lĩnh vực đã có
định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng
phí là việc quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà nước, thời gian lao động trong
khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc
không đạt mục đích đã định [19, tr.62].
Lãng phí biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau: lãng phí sức lao động, thời
gian, tiền của. Song việc đo lường mức độ lãng phí lại rất khó khăn, khó định lượng
chính xác. Cùng một sự vật, một hiện tượng ở góc độ này là lãng phí, nhưng ở góc độ
khác lại không lãng phí. Việc sử dụng nguồn lực đúng định mức, đúng tiêu chuẩn, chế
độ và đạt được mục tiêu trước mắt nhưng không đạt được mục tiêu lâu dài, không phù
hợp với tổng thể, không sử dụng được phải phá đi, hoặc phải cải tạo, sửa đổi bổ sung
mới sử dụng được, thực chất là lãng phí rất lớn, nhưng trong chỉ đạo thực tiễn có khi
lại quan niệm rằng không lãng phí. Hơn nữa, mức độ lãng phí nhiều khi chỉ thể hiện rõ
sau khi công trình đã được xây dựng, thậm chí sau khi đã được sử dụng. Chính vì thế
xác định xem ai là người có trách nhiệm trong việc để xảy ra lãng phí khi xây dựng
công trình thường là công việc rất khó khăn.
ở nước ta hiện nay các ngành chức năng chưa quan tâm đúng mức đến xây
dựng phương pháp xác định, đánh giá lãng phí, trong khi có lúc, có sự việc lãng phí
còn lớn hơn, tác hại nghiêm trọng hơn cả thất thoát.
Nguyên nhân dẫn đến lãng phí trong lĩnh vực ĐTXD, một phần, có thể do yếu
kém năng lực nên thiết kế và luận chứng kém, ví dụ như yếu kém về trình độ chuyên
môn, trình độ quản lý dẫn đến việc sử dụng vốn ĐTXD không đạt được mục đích, dẫn
đến công trình hoàn thành không sử dụng được hoặc phải cải tạo mới sử dụng được,
công trình không mang lại hiệu quả, hoặc hiệu quả thấp do chi phí xây dựng cao hơn
chi phí đầu tư cần thiết cho dự án. Phần khác, lãng phí còn do cơ chế chính sách quản
lý ĐTXD chưa hợp lý, chưa hiệu quả…Nếu thất thoát có động cơ cá nhân trục lợi, thì
lãng phí ít khi xuất phát từ sự trục lợi cá nhân.
Từ khái niệm trên cho ta thấy TTLP đều cùng phản ánh một hiện tượng giống
nhau, đó là sự mất mát nguồn lực, mất đi cơ hội tăng thêm năng lực cơ sở vật chất cho
xã hội. Thất thoát, lãng phí có quan hệ gần gũi, gắn bó với nhau. Nhiều dự án đầu tư
lãng phí là do động cơ thất thoát thúc đẩy. Cũng có khi khó phân biệt đâu là là thất
thoát, đâu là lãng phí, ví dụ như định mức xây dựng quá cao tạo điều kiện cho tổ chức
thi công rút ruột công trình… Do vậy trong thời gian qua, trên các phương tiện thông
tin đại chúng, kể cả trong diễn đàn Quốc hội, diễn đàn hội thảo khoa học và trong các
văn bản của Chính phủ, của các bộ, UBND tỉnh Thanh Hoá cụm từ thất thoát luôn đi
liền với cụm từ lãng phí. Trong luận văn này chúng tôi cũng sử dụng cách xem xét
chung đó mà không tách bạch rõ ràng đâu là thất thoát, đâu là lãng phí.
1.2.1.2. Các dạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước
Từ thực tiễn phát hiện các sai phạm trong quản lý ĐTXD từ vốn NSNN được
khái quát thành các dạng TTLP trong đầu tư xây dựng cơ bản. Dưới đây chúng tôi
trình bày một số dạng điển hình.
- TTLP vốn đầu tư do công trình xây dựng không theo quy hoạch hoặc hiệu quả
sử dụng công trình thấp do tuân thủ quy hoạch có chất klượng không cao, chủ trương
đầu tư không theo chiến lược lâu dài. ở nước ta, rất phổ biến hiện trạng nhiều dự án
phải bỏ dở như Nhà máy lọc dầu Tuy Hạ, hoặc sau khi hoàn thành, do nhiều lý do,
không thể đưa vào vận hành sản xuất như ở Công ty Dệt Nam Định, nhà sàng than
Nam Cầu Trắng – Hòn Gai hoặc sản xuất không có hiệu quả như hàng loạt nhà máy xi
măng lò đứng mua của Trung Quốc...Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng đó là do quy
hoạch phát triển chưa được lập đầy đủ, không đồng bộ, tính dự báo còn hạn chế, chưa
quy định được sự tuân thủ lẫn nhau giữa các loại quy hoạch phát triển.. .
- TTLP do khâu khảo sát, lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, tổng dự toán và
tổng mức đầu tư của dự án không chính xác. Nếu việc khảo sát, lập dự án đầu tư thiếu
chính xác, lập và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công, tổng dự toán, dự toán không chính
xác, sẽ dẫn tới hậu quả là các dự án khi thực hiện đều phát sinh khối lượng làm tăng vốn
đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án.
Đối với công trình xây dựng thì vai trò của tư vấn thiết kế hết sức quan trọng.
Họ không chỉ đóng vai trò làm cho công trình trở nên đẹp, tiện lợi mà còn ảnh hưởng
đến giá thành của công trình. Đây là những công việc sáng tạo thuần tuý khoa học,
nhưng trong lĩnh vực này không hiếm những nhà thiết kế, do năng lực yếu, đã làm
loang lổ bộ mặt kiến trúc đương đại của nước nhà. Hiện còn tồn tại nhiều công trình
xấu, kém do lỗi của các nhà thiết kế về các phương diện thiết kế không chính xác,
không chi tiết, dẫn đến tình trạng thi công đến đâu, hoàn chỉnh thiết kế và nghiệm thu
quyết toán đến đó. Thiết kế kém là nguyên nhân quan trọng gây TTLP lớn trong
xây dựng cơ bản. Thậm chí không ít nhà thiết kế đã thông đồng với chủ đầu tư và
đơn vị thi công quyết toán khống khối lượng, xác nhận các phần việc phát sinh để
lấy thêm tiền. Thủ đoạn cổ điển nhưng phổ thông hiện nay là nhà thiết kế thường
thiết kế dư ra (về kết cấu, vật liệu, khối lượng). Khi thi công, các nhà thi công biết ý
cứ rút định mức, thay đổi kết cấu vật liệu, nhưng khi quyết toán lại theo thiết kế.
- TTLP trong việc thực hiện công tác đấu thầu. Dạng TTLP này xuất hiện do
lập và duyệt giá gói thầu (giá trần xét thầu) vượt chế độ; xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
hồ sơ mời thầu không đầy đủ, không rõ ràng; tiêu chí chấm thầu không cụ thể; thực
hiện ký kết hợp đồng giao thầu chậm so với kế hoạch đấu thầu; áp dụng sai hình thức
đấu thầu, chỉ định thầu cho các công trình phải đấu thầu; chọn thầu đơn vị không đủ
năng lực dẫn đến thi công chất lượng công trình không đảm bảo, phải phá đi làm lại
gây thiệt hại tiền của của Nhà nước. Ngoài ra còn phải kể đến dạng TTLP do tham
nhũng trong quá trình tổ chức đấu thầu như chủ đầu tư thông đồng với một hoặc nhiều
nhà thầu tham gia đấu thầu để gửi giá, nâng giá công trình, sau đó chia nhau. Cụ thể là
họ tiết lộ những thông tin quan trọng trong hồ sơ đấu thầu của các đối thủ cạnh tranh,
thậm chí còn hướng dẫn cách lập hồ sơ đấu thầu có những lợi thế cần thiết cho việc
chọn đơn vị trúng thầu. Hoặc khi lập hồ sơ đấu thầu và tổ chức đấu thầu, chủ đầu tư
đã cố ý đưa ra những điều kiện để loại bỏ những đối thủ cạnh tranh khác có giá thấp
hơn; hoặc thống nhất giá bỏ thầu thấp để trúng thầu, khi thi công sẽ cho phép phát
sinh và quyết toán cao hơn giá trúng thầu... Cũng còn phải kể đến các nhà thầu tham
gia đấu thầu thống nhất trước với nhau làm quân xanh, quân đỏ để một đơn vị trúng
thầu với điều kiện ưu đãi.
- TTLP do các dự án chậm tiến độ phải kéo dài thời gian. ở nước ta khâu chuẩn
bị đầu tư và đền bù, giải phóng mặt bằng còn rất yếu kém, không kịp thời, thi công
không đảm bảo tiến độ, làm tăng lãi vay trong quá trình đầu tư, tăng tiền thuê tư vấn,
kéo dài thời gian đưa công trình vào khai thác sử dụng... Tất cả các yếu kém đó gây
lãng phí rất lớn vốn đầu tư.
- TTLP trong khâu nghiệm thu, thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn
thành thể hiện dưới dạng nghiệm thu sai về khối lượng thực hiện, thực tế thi công ít
nhưng nghiệm thu nhiều, quyết toán tăng khống nhiều lần, áp dụng không đúng đơn
giá, định mức, chấp nhận cho đơn vị xây dựng thay đổi chủng loại vật tư, dùng các
loại vật tư rẻ tiền, chất lượng kém vào công trình, ăn bớt vật tư, rút ruột công trình, cố
tình nghiệm thu thanh quyết toán những hệ số ưu đãi ngoài chế độ quy định...
- TTLP trong khâu thanh, quyết toán vốn đầu tư dự án. Dạng TTLP này chủ
yếu là thanh toán vốn đầu tư chậm làm chậm tiến độ công trình; tạm ứng vốn vượt
định mức quy định, khó thu hồi; ứng khối lượng, thanh toán chưa đủ thủ tục; khi thi
công phải thay đổi, bổ sung chi phí phát sinh do thiết kế, dự toán không chính xác nên
khi thanh toán chỉ căn cứ vào báo cáo quyết toán của đơn vị thi công, không có giám
sát, kiểm tra cụ thể “thực thanh, thực chi” nên dễ thanh toán khống.
- TTLP do chi tiêu bừa bãi vượt định mức, lập khống chứng từ để rút tiền nhà
nước chia nhau dưới các hình thức phổ biến như chi vượt mức nhưng không báo cáo
hoặc không được cấp có thẩm quyền cho phép; lập khống chứng từ bằng cách lập
khống các bảng lương, bảng khoán, mua hoá đơn đỏ (liên 2) để khai khống các chi
phí; gửi giá đơn vị bán vật tư, cung cấp dịch vụ không được thể hiện qua hợp đồng và
hoá đơn bán hàng, đơn vị bán hàng trích chi trả lại cho bên mua dưới các hình thức
chiết khấu bán hàng và hoa hồng không đúng với nội dung và quy định của chính sách
tài chính kế toán. Trúng thầu hoặc được giao thầu công trình, sau đó không thực hiện
mà bán thầu hoặc giao cho một số người núp bóng đơn vị để thực hiện, hợp thức hoá
chứng từ rút tiền chênh lệch chia nhau…
1.2.2. Nguyên nhân thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước
1.2.2.1. Nguyên nhân từ cơ chế, chính sách pháp luật quản lý đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước
Nhà nước có hai tư cách trong quản lý các dự án ĐTXD từ vốn NSNN, đó là tư
cách của cơ quan công quyền và tư cách của chủ đầu tư.
Với tư cách cơ quan công quyền, những quy định của nhà nước về điều kiện để
ĐTXD cũng có thể gây TTLP cho các dự án đầu tư. Chẳng hạn, nếu các quy định về
quản lý đầu tư và quản lý xây dựng không minh bạch, khó thực hiện, khó tiếp cận cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thủ tục hành chính liên quan đến cấp phép,
giải phóng mặt bằng, quản lý môi trường, lao động...quá phức tạp, không công
khai...thì buộc các chủ đầu tư và người tham gia xây dựng, thi công dự án phải gian
dối hoặc “quan hệ ngầm” với công chức nhà nước nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án,
thậm chí để có được dự án theo ý tưởng của họ. Tất cả các chi phí không cần thiết cho
dự án như chi phí quan hệ, chi phí tạo đối thủ cạnh tranh giả, chi phí móc ngoặc với
bên thiết kế... là tiền thân của TTLP. Trong thực tế, nguyên nhân này rất quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn trong các nguyên nhân dẫn đến sự tham ô, tham nhũng, anh em của
TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN. Chính vì thế, để giảm thiểu TTLP trong hoạt động
nhà nước nói chung, trong đầu tư nhà nước nói riêng, các nhà nước hiện đại đang có
xu hướng tiến tới một nhà nước công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình cao.
Với tư cách chủ đầu tư, Nhà nước phải quản lý dự án của mình như các chủ đầu
tư khác. Nhưng do Nhà nước là một bộ máy quyền lực thực thi trách nhiệm do xã
hội giao nên các quyết định của nó phải được quy dịnh thành luật, công chức và các
cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý dự án đầu tư của nhà nước theo cơ chế
đại diện. Cách thức quản lý này tiềm ẩn các cơ hội để công chức và cơ quan nhà
nước lợi dụng quyền hạn trục lợi từ vốn đầu tư nhà nước. Ví dụ, nếu như là vốn đầu
tư cá nhân thì chủ đầu tư có động cơ thuê tư vấn thiết kế và thẩm định đúng yêu cầu
nhằm tiết kiệm tiền của của chính họ. Vì rằng họ đầu tư để kiếm lời, do đó giảm
thiểu chi chi phí đầu tư là mục tiêu của họ. Nhưng đối với công chức nhà nước thì
sự việc khác hẳn. Nếu tiết kiệm chi phí đầu tư thì NSNN được lợi, cá nhân họ
không được gì cả. Còn nếu rút ruột công trình thì NSNN chịu thiệt, còn cá nhân họ
lại có tiền để chia nhau. Trong điều kiện còn thiếu thốn thì sự cám dỗ này là rất lớn.
Vì thế, công chức thiết kế, công chức thẩm định, công chức phê duyệt, công chức
quản lý đấu thầu... có thể móc ngoặc với nhau để tư lợi riêng. Hơn nữa, các cơ quan
thanh tra của Nhà nước, hoặc có thể tham gia vào đường dây móc ngoặc đó, hoặc
thiếu thông tin, thiếu năng lực nên khó kiểm soát được quá trình từ chuẩn bị đến
thực hiện đầu tư. Đặc biệt là ở các nước mà số dự án đầu tư từ vốn NSNN lớn như
nước ta thì Nhà nước càng khó kiểm soát quá trình đầu tư.
Hơn nữa, nền kinh tế nước ta vẫn chưa hoàn thành bước chuyển từ cơ chế quản
lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ
thống thể chế của Nhà nước mới đang từng bước hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế
mới. Trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các Luật, Nghị định
quy định về quản lý liên quan đến đầu tư nói chung, ĐTXD nói riêng, nhưng các vấn
đề vướng mắc trong các văn bản đó cũng không ít. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung
một số cơ chế, chính sách pháp luật trở nên thiếu đồng bộ với các cơ chế, luật khác.
Ngoài ra, tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu chặt chẽ, không đầy đủ,
đặc biệt là các văn bản hướng dẫn cho những trường hợp cụ thể; tính không đồng bộ
giữa văn bản luật và văn bản của Chính phủ, giữa văn bản của Chính phủ và văn bản
của các bộ đã tạo nhiều kẽ hở, tạo cơ chế chạy chọt, xin cho làm lãng phí vốn nhà
nước. Tình trạng trách nhiệm không rõ ràng của các cá nhân và tổ chức liên quan đến
quản lý ĐTXD từ vốn NSNN cũng tạo cơ hội cho TTLP. Cơ chế điều hành của quản
lý nhà nước còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kiểm tra giám sát hình thức...đã dẫn
đến các chi phí tiêu cực phát sinh dưới nhiều hình thức như “chi hoa hồng” cho việc
“làm ngơ, bỏ qua”, công chức “vòi vĩnh” khi có cơ hội làm ăn...
1.2.2.2. Nguyên nhân từ chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư
từ vốn ngân sách nhà nước
Bản thân công việc hoạch định chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch ở tầm
quốc gia, vùng, địa phương là một công việc khó khăn, không khi nào đảm bảo độ
chính xác 100%. Tuy nhiên, để có thể sử dụng nguồn lực NSNN và tài nguyên quốc
gia một cách hiệu quả cần phải có chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đúng dắn và
được điều chỉnh, bổ xung kịp thời, có cơ sở và luận cứ khoa học. Nếu chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch có chất lượng thấp, thông tin không đầy đủ, không dựa trên các quy
luật khách quan thì toàn bộ các dự án đầu tư của Nhà nước theo các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch đó có nguy cơ gây lãng phí rất lớn.
Đáng tiếc là từ khi chuyển sang quản lý theo cơ chế mới, thừa nhận kinh tế thị
trường và giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, chất lượng chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch cả cấp quốc gia lẫn địa phương đều chưa đáp ứng yêu cầu. Chiến lược đầu
tư của Nhà nước còn tham quá nhiều mục tiêu, dàn trải theo địa bàn, theo lĩnh vực và
kém hiệu quả. Điển hình là chiến lược đầu tư cho ngành giấy, ngành đánh cá xa bờ,
ngành đường, ngành xi măng…Các địa phương còn theo đuổi chiến lược kéo vốn nhà
nước về địa phương càng nhiều càng tốt mà chưa chú trọng đến điều kiện vận hành kết
quả đầu tư. Thực trạng lâu nay thường xảy ra ở các cấp, các ngành là kế hoạch vốn từ
ngân sách Nhà nước thường bị động, kéo dài vì phải qua nhiều cấp, nhiều ngành rà
soát, tổng hợp, chờ Trung ương phê duyệt, sau đó phải thông qua hội đồng nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã mới thông báo vốn về cho các địa phương triển khai đầu tư
xây dựng, lúc này thường vào cuối quý một trong năm. Cách làm này làm chậm triển
khai xây dựng công trình. Trong quá trình xây dựng, vì các lý do khác nhau như thủ
tục thiết kế, thẩm tra, thẩm định thiết kế, thủ tục đấu thầu, thủ tục nghiệm thu, quyết
toán công trình đều cần có thời gian nhất định và phải thực hiện đầy đủ theo quy trình,
kết quả là thời gian thực hiện đầu tư kéo dài, giải ngân chậm, cuối năm kế hoạch giải
ngân không kịp, đơn vị thi công phải biến báo để giữ lại vốn đầu tư. Trên thực tế, co
quan nhà nước cứ ghi kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho nhiều dự án mà thực tế chưa
đủ điều kiện vẫn bố trí kế hoạch. Theo quy chế thì việc ghi kế hoạch vốn phải cân đối
với khả năng, khối lượng thực hiện, trong khi đó điều kiện thực tế chưa có làm cho
việc triển khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn, việc giải ngân chậm, kéo dài thời gian
thi công, chậm nghiệm thu, chậm thanh quyết toán công trình, gây ra hiện tượng đầu
tư dàn trải, khi thì “công trình chờ vốn”, khi lại “vốn chờ công trình”. Một vấn đề khác
là kế hoạch chưa kiểm soát được rủi ro, nhất là rủi ro do thời tiết gây ra, nên nhiều khi
cấp vốn cho công trình rồi, nhưng công trình không thực hiện thi công được, dẫn đến
hiện tượng thừa, thiếu vốn giả tạo ở các dự án.
Ngoài ra, chất lượng thấp của quy hoạch ngành, vùng và địa phương là nguyên
nhân lớn nhất dẫn đến lãng phí trong ĐTXD nói chung, ĐTXD từ vốn NSNN nói
riêng. Trong nhiều năm nay quy hoạch ngành, vùng của nước ta vẫn ở trong tình trạng
chưa hoàn chỉnh. Công tác quy hoạch chưa được Nhà nước chú trọng đầu tư đi trước
một bước, tầm nhìn quy hoạch ngắn, thiếu tính chiến lược, chưa đánh giá hết các yếu
tố khách quan và chưa phù hợp với quy luật thị trường nên tính định hướng của quy
hoạch còn yếu, thiếu tính kế thừa nên quy hoạch phải điều chỉnh thường xuyên, tính
thực tế không cao, quy hoạch không mang tính tổng thể, thiếu lộ trình thực hiện….Chất
lượng thấp của quy hoạch đã dẫn đến hậu quả nhiều công trình đầu tư từ vốn NSNN
không vận hành được sau khi hoàn thành buộc phải tháo dỡ hoặc có sử dụng cũng không
hiệu quả. Đây là khoản lãng phí lớn của nước ta trong những năm qua.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ yếu kém trong công tác chuẩn bị dự án đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách Nhà nước
Công tác điều tra, khảo sát quá sơ sài, không bao quát được tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội, không tính được ảnh hưởng của công trình xây dựng đến môi trường,
chưa chú ý đến điều tra thị trường tiêu thụ và các yếu tố sản xuất…sẽ dẫn đến sự lãng
phí do phải sửa chữa, thậm chí dỡ bỏ công trình xây dựng, gây tác động bất lợi cho các
công trình xung quanh. Hiện tượng làm cầu, xây nhà cao tầng gây nứt, lún, sập nhà
dân xung quanh không phải hiếm gặp ở các dự án đầu tư của Nhà nước.
Đôi khi chủ trương đầu tư xuất phát từ ý muốn áp đặt chủ quan, động cơ cá
nhân thành tích của lãnh đạo, thấy nơi khác làm mình cũng làm cũng rất đến sự lãng
phí rất lớn. Chẳng hạn, nhiều chủ đầu tư là cơ quan nhà nước đã không cân nhắc, tính
toán đầy đủ các yếu tố kinh tế, kỹ thuật khi lập dự án xây dựng nên khi triển khai thực
hiện phát sinh những yếu tố bất lợi làm chậm tiến độ thi công, làm phát sinh kinh phí
khắc phục mới đưa vào sử dụng được, hoặc phải điều chỉnh dự án đầu tư, có khi công
trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng không phát huy được hiệu quả, đến lúc đó thì
chủ đầu tư mới nhận thấy đựơc những hạn chế, thiếu sót trong việc xây dựng dự án
của mình, nhưng mọi việc đều đã muộn, không thể khắc phục được. Điển hình ở nước
ta là việc bố trí địa điểm xây dựng nhà máy đường, nhà máy giấy không gắn với vùng
nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, thị trường lao động ... làm cho chi phí sản xuất tăng
cao, khi nhà máy đi vào hoạt động, càng sản xuất càng lỗ. Để khắc phục chủ đầu tư
phải di chuyển nhà máy hoặc phải dỡ bỏ nhà máy ... dẫn đến TTLP càng nghiêm trọng
hơn. Hoặc khi xây dựng một công trình thuỷ lợi, thuỷ điện ở một địa điểm nào đó, do
không khảo sát kỹ địa chất, thủy văn nên dẫn đến phát sinh thêm chi phí gia cố xử lý
nền móng, mà nếu khảo sát kỹ thì nên xây dựng ở vị trí khác có thể tiết kiệm rất nhiều
tiền chi phí sử lý nền móng này… Cũng có khi đầu tư xây dựng một nhà máy không
chú ý đến xử lý nước thải như nhà máy hoá chất, nhà máy sản xuất giấy, nhà máy sản
xuất phân bón..., xử lý khói bụi như nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện ... dẫn đến ô
nhiểm môi trường của một vùng, một khu vực, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội,
sức khoẻ của dân cư trong vùng. Để khắc phục Nhà nước phải đầu tư hệ thống xử lý
rất tốn kém, có khi phải di chuyển nhà máy hoặc dỡ bỏ gây nên sự TTLP vốn đầu
tư….
Như vậy, công việc chuẩn bị dự án đầu tư không tôt không chỉ ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả đầu tư trước mắt mà còn ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, đời sống
kinh tế xã hội của vùng, của khu vực và cả nước. Thông thường, những sai lầm trong
chuẩn bị đầu tư gây ra 60%-70% tổng số TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.
1.2.2.4. Nguyên nhân từ buông lỏng kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện
dự án đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
Quản lý trong ĐTXD, trách nhiệm lớn nhất thuộc về chủ đầu tư, Ban quản lý dự
án, công trình. Nếu không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên của chủ đầu
tư, đại diện chủ đầu tư (Ban quản lý dự án hoặc đơn vị được thuê tư vấn giám sát) và
giám sát của đơn vị thiết kế thì bên thi công dễ vì lợi nhuận mà tìm mọi cách để “rút
ruột” công trình như bớt xén vật tư, tráo đổi chủng loại vật tư, thi công không đúng kỹ
thuật, khai khống khối lượng hoàn thành...
ở nước ta, hoạt động giám sát của cộng đồng, của công dân chưa được coi trọng
tương xứng với yêu cầu đặt ra cho công tác ĐTXD, chưa phát huy được tính tích cực
tự giác của quần chúng nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực
trong ĐTXD cũng là một nguyên nhân làm cho tổ chức thi công gian dối, tìm cách lấy
tiền của Nhà nước trong ĐTXD từ vốn NSNN. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 09/5/2005 về quy chế giám sát đầu tư cộng
đồng, tuy nhiên hệ thống luật định, chế tài còn thiếu, chưa đồng bộ, không cho phép mỗi
công dân và các tổ chức công dân tham gia giám sát xã hội có hiệu quả. Đặc biệt không
có những chế tài, điều kiện đảm bảo thực thi việc giám sát một cách thuận lợi, có hiệu
quả, bảo vệ danh dự, lợi ích và nhiều khi cả tính mạng của người phát hiện, tố cáo
những hành vi tham nhũng, lãng phí. Chính vì thế, thất thoát trong ĐTXD từ vốn NSNN
ở nước ta mới ở tình trạng nghiêm trọng.
Thanh tra là biện pháp cần thiết để chống TTLP trong ĐTXD. Tuy vậy, nếu không
dành đủ thời gian, không bố trí người tài giỏi và không trao cho họ đủ quyền và phương
tiện thì số vụ tham nhũng, tiêu cực được các cơ quan thanh tra phát hiện chưa phản ảnh
đầy đủ thực trạng tình hình tiêu cực, tham nhũng hiện nay, do đó kẻ tham nhũng còn chưa
sợ. Năng lực ngành thanh tra, nhất là thanh tra xây dựng nếu còn hạn chế, cả về mặt thể
chế cũng như chất lượng cán bộ, phương tiện, điều kiện làm việc, thì khó phát hiện ra các
hành vi làm thất thoát vốn Nhà nước. Mặc dù Quốc hội nước đã ban hành Luật Thanh tra
năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 46/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra xây dựng, nhưng nếu thiếu cán bộ đáp ứng yêu cầu thì
chất lượng thanh tra không đảm bảo. Mặt khác, khi thanh tra phát hiện cán bộ có sai
phạm, tiêu cực thì việc đề xuất cách xử lý đối với những cá nhân vi phạm mà kết quả
thanh tra đã khẳng định nếu chưa thực sự nghiêm khắc và thích đáng, còn tình trạng né
tránh đối với cá nhân, tập thể vi phạm thì vô hình chung càng khuyến khích những kẻ liều
lĩnh vi phạm hơn nữa. Điều này thể hiện rõ ở nước ta thời gian qua, do công tác thanh tra
chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều bất cập trong việc thanh tra các vụ việc tiêu cực, thất
thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng, công tác thanh tra chưa làm đầy đủ, chu đáo chức
năng, nhiệm vụ của mình, thiếu tích cực, kiên quyết trong việc phát hiện và xử lý các vi
phạm, cơ quan thanh tra thiếu một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực ngang
tầm với nhiệm vụ được giao, không ít trường hợp những cán bộ được giao nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra các công trình xây dựng thiếu bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc, dẫn
đến phạm tội, vi phạm pháp luật...nên hầu như các hiện tượng làm thất thoát vốn Nhà
nước chưa được xử lý thích đáng.
1.3. chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà
nước
1.3.1. Sự cần thiết đẩy mạnh chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở nước ta
1.3.1.1. Tác hại của thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước
TTLP nói chung và trong ĐTXD từ vốn NSNN nói riêng gây hậu quả không
tốt, thậm chí là nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đây
là một trong những nguyên nhân làm nghèo đất nước, kìm hãm sự phát triển và làm
giảm uy tín quốc gia. Sự nguy hại của TTLP đã được nhiều nước và tổ chức quan tâm
nghiên cứu và tìm cách ngăn chặn.
Trước hết, TTLP làm tăng chi phí phát triển. Như nguyên Thủ tướng Phan Văn
Khải đã nói tại hội nghị triển khai các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch và ngân
sách năm 2005 diễn ra ngày 30/12/2004: “Lẽ ra tăng trưởng năm 2004 tăng không chỉ
là 7,7% và năm 2005 tăng trưởng hoàn toàn có thể đạt 8,5% nếu bộ máy hành chính
không yếu kém, trì trệ và tiêu cực”. ở nước ta, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
tại kỳ họp Quốc hội tháng 11/2004, để tăng thêm 1 đồng GDP cần đầu tư 4,7 đồng. Trong
khi đó, nước láng giềng Trung Quốc chỉ cần bỏ ra 3,5 đồng thì tăng thêm được 1 đồng
GDP.
Thứ hai, TTLP trong đầu tư xây dựng từ vốn NSNN lớn làm ảnh hưởng đến uy
tín của Chính phủ trong huy động ODA nói riêng, vay nước ngoài nói chung. Trong
khi đó, vốn vay đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội của nước ta chủ yếu dựa vào
nguồn vay ưu đãi ODA. Trong 5 năm 2001-2005, nước ta đã thu hút khoảng 11,2 tỷ
USD ODA. TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN làm giảm uy tín của Chính phủ khi vay
nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường tài chính thế giới
do các tổ chức định mức tín nhiệm đánh giá thấp hiệu quả đầu tư của Nhà nước, từ đó
lo ngại khả năng trả nợ đúng hạn của Chính phủ. Hơn nữa, mức tín nhiệm thấp do ảnh
hưởng của TTLP trong đầu tư còn buộc chính phủ phải chấp nhận vay với lãi suất cao
làm cho chi phí đầu tư càng tăng cao, dẫn đến mức lãng phí lớn hơn.
Thứ ba, TTLP trong dầu tư xây dựng từ vốn NSNN gây bức xúc và bất bình lớn
trong xã hội. Vì xét cho cùng, tiền của NSNN là do dân cư đóng góp. Việc đầu tư dẫn
đến lãng phí làm thu hẹp nguồn lực có thể được sử dụng hiệu quả hơn trong các lĩnh
vực có lợi cho dân cư. Hơn nữa, thất thoát làm cho một bộ phận dân cư có thu nhập
không chính đáng, giúp họ giàu lên nhanh chóng, cho phép họ ăn chơi phè phỡn gây
phản cảm rất lớn đối với đa số dân cư còn lao động nhọc nhằn kiếm miếng ăn. Nếu
tình trạng thất thoát vốn nhà nước từ các công trình ĐTXD có tính phổ biến và kéo dài
quá lâu có thể gây nên các bất ổn trong xã hội và trong lòng tin của dân cư vào Nhà
nước.
Thứ tư, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN, nếu không được ngăn chặn hiệu quả,
sẽ làm thoái hoá, biến chất đội ngũ công chức nhà nước liên quan đến vốn NSNN và
quản lý ĐTXD từ vốn NSNN. Trên thực tế, công chức nước ta có thu nhập thấp so với
mức trung bình của khu vực và thế giới. Ngay cả trong điều kiện nước ta, thu nhập của
công chức cũng ở mức trung bình, không đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt cơ bản của gia
đình. Vì thế, động cơ và mức độ thúc bách tìm kiếm thu nhập của họ rất lớn. Nếu tình
trạng TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN không bị kiểm soát chặt chẽ, nếu cơ hội có thể
tăng thu nhập từ TTLP đó khá nhiều, thì số cán bộ sa ngã tất yếu sẽ tăng lên. Như vậy
TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN đã góp phần làm tha hoá đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế của nước ta, đặc biệt là công chức quản lý kinh tế.
Thứ năm, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN để lại hậu quả không dễ khắc phục
cho đất nước và cho các thế hệ tương lai. Các công trình xây dựng kém chất lượng,
không sử dụng được hoặc có sử dụng được cũng không hiệu quả không chỉ làm tiêu
tan nguồn của cải mà đất nước rất khó nhọc mới kiếm được, mà còn đòi hỏi chi phí lớn
để sửa chữa, hoàn thiện, thậm chí tháo dỡ chúng. Trong khi đó chúng ta đang phải thắt
lưng buộc bụng dồn tiền để CNH, HĐH đất nước, tiến kịp các nước tiên tiến trong khu
vực và trên thế giới. Sự lãng phí nguồn của cải do TTLP đem lại không chỉ làm chúng
ta khó khăn trong hiện tại, mà còn chồng chất thêm khó khăn cho con cháu trong
tương lai, nhất là khi nguồn tài nguyên quý giá đã bị chính các công trình xây dựng
kém chất lượng và không hợp lý đó bào mòn.
1.3.1.2. Tình hình thất thoát, lãng phí nghiêm trọng trong đầu tư xây dựng từ
vốn ngân sách nhà nước ở nước ta
Dư luận xã hội nước ta cho rằng vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng bị TTLP rất
lớn, có thể lên tới 20-30% tổng mức đầu tư. Những năm qua, trung bình mỗi năm nước
ta chi khoảng 150.000 tỷ đồng để đầu tư nâng cấp, xây dựng hệ thống hạ tầng. Nếu 20-
30% tổng vốn bị TTLP, thì có nghĩa hàng năm chúng ta mất khoảng 30.000-45.000 tỷ
đồng. Đây là khoản mất mát quá lớn trong khi năng lực tài chính của Nhà nước còn
mỏng, nhu cầu vốn cho tăng trưởng còn vượt quá khả năng tài trợ của đất nước. TTLP
vốn nhà nước làm cho đại biểu quốc hội bức xúc, làm nản lòng các cử tri và gây nên
sự hoài nghi về năng lực điều hành của Nhà nước.
Kết quả thanh tra một số DAĐT của Nhà nước cho thấy số tiền bị TTLP chiếm
tỷ lệ không nhỏ. Ví dụ ở dự án khách sạn Bàn Cờ thành phố Hà Nội, ở dự án hầm chui
cầu Văn Thánh 2 thành phố Hồ Chí Minh tổng giá trị bị TTLP lớn hơn 30% giá trị
công trình. ở nhiều dự án khác đã và đang bị thanh tra cũng cho thấy số vốn nhà nước
đầu tư cho xây dựng bị TTLP là rất lớn. Đây là tình trạng gây bức xúc nhiều năm qua
mà Nhà nước ta chưa có giải pháp giải quyết thoả đáng.
Tình hình TTLP vốn trong đầu tư xây dựng ở nước ta không chỉ biểu hiện ở
những con số thống kê số tiền thất thoát mà còn ở rất nhiều công trình xây dựng từ vốn
NSNN bị bỏ dở, không sử dụng được hoặc có sử dụng cũng không hiệu quả. Không có
số liệu thống kê chính thức về các công trình loại này, nhưng đâu đó ở các địa phương
đều hiện diện các công trình như vậy. Ví dụ Nhà máy đường ở Đồng Nai, một số chợ ở
các tỉnh…
Tình trạng TTLP diễn ra ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư dự án Nhà nước.
Theo đánh giá của Thanh tra nhà nước tại Hội nghị thanh tra toàn quốc tháng 2/2003,
trong lĩnh vực xây dựng các hiện tượng vi phạm chế độ của Nhà nước diễn ra ở tất cả
các khâu, cụ thể là 35% số dự án công trình vi phạm về trình tự, thủ tục và pháp luật
về đầu tư xây dựng; 19% vi phạm về quy chế đấu thầu; 25,7% vi phạm về thiết kế;
45,75% vi phạm về nghiệm thu; 39,65% vi phạm về thanh quyết toán công trình...
Những TTLP kể trên đã đến lúc phải được ngăn chặn hiệu quả. Để có thể làm
được điều đó, cần phải biết rõ chống TTLP như thế nào.
1.3.2. Nguyên tắc, nội dung chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước
1.3.2.1. Nguyên tắc chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước
Xác định đúng các nguyên tắc hành động là điều kiện cần thiết để đấu tranh
chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN một cách thành công. Do ĐTXD là một hoạt
động thực tiễn nên thay đổi theo thời gian, theo công trình, hành vi trục lợi gây TTLP
cũng biến đổi theo thời cuộc nên khó có thể tìm ra những chỉ dẫn cụ thể cho việc chống
TTLP. Dựa vào tổng kết thực tiễn, căn cứ vào thực chất và nguyên nhân của TTLP trong
ĐTXD từ NSNN, có thể thấy, các nhà quản lý, để chống TTLP thành công, thường tuân
thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phải có quyết tâm chống TTLP đến cùng và phải tập hợp được những
người ủng hộ tham gia. Bởi vì chống TTLP là công việc nội bộ trong bộ máy nhà nước
là chính. Rất nhiều khi người ta lầm tưởng rằng, đấu tranh chống TTLP trong sử dụng
vốn nhà nước là công việc thanh trừng nội bộ. Bản thân người chống thất thoát và
người làm thất thoát hoặc gián tiếp góp phần gây thất thoát đều có thể làm trong cùng
một cơ quan, một hệ thống bộ máy quản lý nhà nước. Do đó, khi đấu tranh chống
TTLP thường gặp tình huống vì nể, che đỡ cho nhau, vừa khó phát hiện sai phạm, vừa
khó thi hành các biện pháp kỷ luật. Hơn nữa, để có thể rút tiền nhà nước chuyển thành
tiền cá nhân các cán bộ gây thất thoát, chúng thường phải tổ chức thành “dây”, thành
“cầu”, thành ê kíp che đỡ, bảo vệ lẫn nhau. Nếu những người chống TTLP không
quyết tâm, không có lực lượng ủng hộ thì khó phát hiện được sai phạm của họ, đôi khi
còn bị phản công, bị kỷ luật oan. Do đó, nguyên tắc hàng đầu của chống TTLP là Nhà
nước phải thể hiện rõ quyết tâm chính trị của mình và có đủ lực lượng để thực hiện.
Nguyên tắc thứ hai là phải chống TTLP một cách liên tục, chống có hệ thống,
bài bản. Bởi vì, mỗi cá nhân, tổ chức bị kỷ luật vì làm TTLP vốn đầu tư của Nhà nước
thì lại có những cá nhân, tổ chức mới bổ sung. Khi nguồn vốn nhà nước còn rất lớn,
khi cơ hội trục lợi vẫn còn, khi còn có thể dùng quyền hạn để mưu lợi cá nhân thì còn
có người sa ngã, tham lam sử dụng tổ chức để bòn rút vốn nhà nước. Muốn chống
TTLP một cách liên tục và hệ thống thì Nhà nước phải thiết lập được cơ chế quản lý
vốn đầu tư từ NSNN một cách hiệu quả, nhất là chú trọng thanh tra, kiểm soát và đào
tạo cán bộ, công chức.
Nguyên tắc thứ ba là phát huy vai trò giám sát của xã hội, nhất là các cơ quan
báo chí, cộng đồng dân cư liên quan đến công trình đầu tư, đối với các dự án đầu tư
sử dụng NSNN. Bởi lẽ, không thể hy vọng cơ chế kiểm soát của Nhà nước có thể làm
chủ hết mọi thông tin về dự án đầu tư sử dụng NSNN. Thậm chí, cả các dự án được
xây dựng một cách công tâm nhất cũng không tránh khỏi sai sót. Do đó cần phát huy
vai trò cung cấp thông tin và giám sát trực tiếp của xã hội nhằm giảm thiểu cơ hội gây
TTLP.
Nguyên tắc thứ tư nhằm quán triệt mục tiêu của chống TTLP trong đầu tư xây
dựng từ vốn NSNN là tiết kiệm và hướng tới sử dụng hiệu quả vốn đầu tư của Nhà
nước. Hiệu quả vốn đầu tư nhà nước phải được xem xét trên bình diện quốc gia, có
tính dài hạn. Tránh biến chống TTLP thành công cụ phục vụ lợi ích bản vị, địa
phương, tổ chức. Hơn nữa, cần phân định các TTLP do cố ý và do yếu kém năng lực
để có hướng xử lý phù hợp nhằm vừa đạt được mục tiêu chống TTLP, vừa bảo toàn
sức mạnh của bộ máy nhà nước.
1.3.2.2. Nội dung chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước
* Xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng công
trình
Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng công trình bao gồm hai bộ
phận: Quản lý chi NSNN và quản lý ĐTXD từ vốn NSNN. Trên thực tế, cả hai bộ
phận này đều rất phức tạp và chịu sức ép từ nhiều phía khác nhau. Tuy nhiên, để
chống TTLP vốn nhà nước, cần thiết lập cơ chế phân bổ vốn đầu tư hiệu quả. Tính
hiệu quả của cơ chế này phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Quản lý chặt chẽ các khoản chi đầu tư theo hệ thống định mức tiên tiến;
- Đảm bảo thứ tự ưu tiên trong sử dụng vốn nhà nước đã được chiến lược đầu tư
chung xác định;
- Cho phép việc giải ngân nhanh chóng, giảm phiền hà, nâng cao trách nhiệm
của các cá nhân và tổ chức đối với việc sử dụng hiệu quả vốn nhà nước.
Cơ chế quản lý ĐTXD từ vốn NSNN phải đảm bảo tính hiệu lực, khách quan,
giảm chi phí liên quan đến thủ tục đầu tư. Đồng thời cơ chế này phải đáp ứng yêu cầu
chung đối với ĐTXD như bảo vệ môi trường, cảnh quan, an toàn, quy hoạch không
gian…, cũng như yêu cầu giám sát của tổ chức hưởng thụ kết quả đầu tư. Do chủ đầu
tư vốn nhà nước thường là một cơ quan nhà nước nên luật pháp phải quy định rõ
quyền hạn của cơ quan này với tư cách chủ đầu tư để họ có khả năng giám sát chặt chẽ
quá trình đầu tư. Nếu không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư vốn
nhà nước sẽ có xu hướng buông lỏng quá trình giám sát đầu tư. Ngoài ra, các dự án
đầu tư bằng vốn NSNN phải tuân thủ một quy trình quản lý đầu tư chặt chẽ, trong đó
trách nhiệm, quyền hạn của các bên tư vấn lập dự án, chủ đầu tư, thẩm định phải được
quy định rõ theo một quy trình khoa học. Nếu quy trình và chế độ quản lý các dự án
đầu tư từ NSNN được xây dựng tốt, các tổ chức và cá nhân liên quan có năng lực,
công tâm và chấp hành kỷ luật quản lý tốt thì cơ hội cho TTLP sẽ giảm thiểu rất nhiều.
* Nâng cao chất lượng chiến lược, kế hoạch và quy hoạch đầu tư của Nhà
nước.
Việc xác định đúng đắn chiến lược, kế hoạch và quy hoạch đầu tư của Nhà
nước có ý nghĩa rất quan trọng nhằm chống TTLP. Xác định chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch đầu tư sai không những dẫn đến đầu tư kém hiệu quả, hoặc không có hiệu quả
mà còn dẫn đến hậu quả kìm hảm, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng,
một khu vực hay một địa phương. Chiến lược , kế hoạch, quy hoạch đầu tư đúng
không chỉ giảm lãng phí do nâng cao hiệu quả đầu tư trước mắt mà còn tạo điều kiện
phát triển hiệu quả lâu dài, mang lại nhiều lợi ích cho dân cư của vùng, của khu vực
và cả nước trên cơ sở nguồn lực như nhau. Vì vậy, xác định chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch đầu tư đúng sẽ hạn chế lãng phí trước khi đầu tư.
Chiến lược, kế hoạch quy hoạch đầu tư đúng thể hiện ở việc luận chứng đầu tư
có đầy đủ cơ sở khoa học, phương thức xây dựng được chấp nhận rộng rãi, hạn chế các
chỉ tiêu mơ hồ, không phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, tài
nguyên thiên nhiên, dân số và lao động. Kế hoạch đầu tư đúng phải thể hiện ở sự lựa
chọn đúng địa điểm đầu tư, đúng quy mô dự án, dự tính trước vùng nguyên liệu, lựa
chọn thiết bị công nghệ phù hợp, dự báo được khả năng bao tiêu sản phẩm, lực lượng
xây dựng, nguồn vốn cho ĐTXD, phân tích thị trường, hiệu quả kinh tế… Kế hoạch
đầu tư đúng phải bao hàm các phương án đầu tư xây dựng tối ưu, chú trọng các giải
pháp bảo vệ môi trường, các giải pháp an toàn trong quá trình thi công và quá trình
khai thác sản xuất để khi dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng không dẫn
đến những sự cố kỹ thuật gây hậu quả làm TTLP về vốn, tài sản và nhân lực.
Chiến lược, kế hoạch, quy hoạch đầu tư đúng còn phải bao hàm được các dự
báo về triển vọng phát triển kinh tế xã hội, vị thế của địa phương, quốc gia trong môi
trường chung và đánh giá được các biến đổi có thể xảy ra để có biện pháp đối phó dự
phòng…
*Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khảo sát,
thiết kế, dự toán, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn NSNN
Trên thực tế, TTLP do chất lượng hồ sơ khảo sát, thiết kế, dự toán không đảm
bảo theo đúng yêu cầu về quy phạm, quy chuẩn của Nhà nước là rất lớn. Chính vì vậy,
nếu chúng ta phòng ngừa tốt từ khâu này thì kết quả chống TTLP sẽ rất tốt.
Để nâng cao chất lượng và trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khảo sát,
thiết kế, dự toán, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn NSNN
thường người ta áp dụng các phương cách sau:
- Quy định chặt chẽ về chất lượng hồ sơ dự án đầu tư xây dựng từ vốn
NSNN như trong hồ sơ phải cung cấp các số liệu khảo sát đúng với tình hình thực
tế về địa chất, địa hình, khí hậu và đặc điểm tự nhiên, về đặc điểm về tài nguyên,
nguồn nhân lực, về đặc điểm về nguyên liệu... tránh tối đa những sai sót gây hậu
quả, dẫn đến TTLP trong quá trình thi công xây dựng công trình. Hơn nữa, hồ sơ
thiết kế không những phải tuân thủ tiêu chuẩn định mức, quy phạm, quy chuẩn nhà
nước, phải đánh giá được tính hợp lý giữa quy mô thiết kế so với yêu cầu kỹ thuật,
công nghệ, thống kê trung thực khối lượng thiết kế .... mà còn phải đưa ra dự toán
tính toán đúng đơn giá, chế độ chính sách của Nhà nước, áp dụng đúng giá cả theo
từng loại vật tư, thiết bị có tính đến thời điểm tính toán, thời điểm nghiệm thu thanh
toán, tính toán khối lượng chính xác so với bản vẽ thiết kế, áp dụng quản trị rủi ro
để tính toán trước sự biến động của giá cả, tiền lương… nhằm đối phó với tình
trạng nống giá của bên thi công vượt quá giá trị thực của công trình, với sức ép của
tổ chức thi công khi buộc phải phải điều chỉnh, sửa đổi thiết kế, tránh hiện tượng
phải phá bỏ khối lượng đã làm để làm lại theo thiết kế điều chỉnh, bổ sung.
- Nâng cao trách nhiệm của đơn vị thẩm định dự án đầu tư xây dựng từ vốn
NSNN, buộc họ phải chịu kỷ luật hành chính và đền bù vật chất nếu không phát hiện
ra những sai sót trong hồ sơ khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng
dự toán công trình, kể cả do năng lực yếu kém trong chuyên môn. Hình phạt sẽ tăng
cấp nếu tổ chức thẩm định thông đồng cùng nhà thầu để thẩm định sai lệch.
- Đề cao trách nhiệm của cơ quan phê duyệt dự án đầu tư xây dựng từ vốn
NSNN. Nếu xảy ra sai sót hoặc phát hiện có TTLP trong thực thi dự án đầu tư xây
dựng từ vốn NSNN thì cơ quan và cá nhân phê duyệt không chỉ chịu trách nhiệm về
mặt hành chính mà còn phải bồi thường vật chất nhằm nâng cao tránh nhiệm giám sát
của họ. Muốn vậy, phải phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong cơ
quan phê duyệt để có cơ sở truy cứu trách nhiệm. Không nên để một dự án sai mà
không có cá nhân và cơ quan phê duyệt chịu trách nhiệm. Ngoài ra, cần yêu cầu các cá
nhân và cơ quan phê duyệt phải có đủ trình độ và thông tin cần thiết để phê duyệt dự
án. Làm được như vậy sẽ giảm thiểu nguy cơ phê duyệt dễ dãi, hạn chế nguy cơ TTLP
khi chưa sử dụng vốn đầu tư.
* Chống TTLP trong đầu tư xây dựng từ nguồn NSNN trong khâu đấu thầu
Đấu thầu là hoạt động cần thiết nhằm giao công trình xây dựng cho nhà thầu có
năng lực, uy tín và chi phí thấp nhất. Để chống TTLP trong đấu thầu công trình xây
dựng từ vốn NSNN, cần hoàn thiện quy chế đấu thầu, nhất là các quy định về sự trung
thực của hồ sơ, bí mật thông tin, tiêu chí lựa chọn, hình thức đầu thầu…
Ngoài ra, cần thiết lập kỷ luật thực thi đấu thầu nghiêm minh bằng cách đưa ra
các chế tài đủ mạnh nhằm trừng phạt các cá nhân, tổ chức thông thầu, làm lộ thông tin
hoặc cố tình tổ chức đấu thầu giả…
* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu thanh tra, giám sát thi
công
Để chống TTLP, cần lựa chọn và đào tạo thanh tra viên trong lĩnh vực ĐTXD
một cách chuẩn mực sao cho họ thành thạo các kỹ năng kiểm tra, giám sát cả việc thi
công lẫn việc sử dụng vốn và đánh giá chất lượng công trình. Ngoài ra, cần phải trang
bị cho họ các phương tiện đo, đếm, thẩm định chất lượng cần thiết nhằm đưa công việc
thanh tra, giám sát đi vào chuẩn tắc. Đồng thời, cần đặt ra yêu cầu cao về đạo đức, kỷ
luật hành nghề cho các thanh tra viên đi đôi với việc bảo vệ họ một cách hiệu quả
trước sự tấn công của các cá nhân tha hoá. Một vấn đề quan trọng nữa là phải có chế
độ lương bổng thoả đáng để ràng buộc trách nhiệm của thanh tra viên vào quá trình
ĐTXD cũng như thu hút được người tài bổ xung vào đội ngũ của họ. Tránh bố trí cán
bộ yếu kém, do không làm được ở bộ phận khác vào thanh tra.
* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu nghiệm thu công trình
Để chống TTLP trong khâu nghiệm thu công trình, người ta thường áp
dụng các phương thức giám định chất lượng công trình tiên tiến, trong đó công
nghệ giám định và phương tiện kỹ thuật phải bảo đảm yêu cầu. Tuy nhiên, biện
pháp nghiệm thu hiệu quả là sử dụng các phương pháp quản lý chất lượng theo
quá trình, ví dụ tiêu chuẩn ISO, và sự trung thực của cán bộ nghiệm thu. Để chống
hiện tượng thông đồng, móc ngoặc trong nghiệm thu công trình, cần đặt yêu cầu
bảo hành chất lượng nghiệm thu theo thời gian và chế độ gắn trách nhiệm của bên
thi công với quá trình sử dụng sau này của công trình. Nên đưa các yêu cầu này
vào hợp đồng thuê thi công xây dựng.
Ngoài ra, chủ đầu tư cần chú trọng tìm cơ quan tư vấn hoặc cá nhân cán bộ kỹ
thuật có uy tín, có trình độ trong lĩnh vực nghiệm thu công trình xây dựng.
* Chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn NSNN trong khâu thanh quyết toán vốn
đầu tư
Vốn ĐTXD chỉ được thanh toán cho cho giá trị khối lượng thực hiện hoàn
thành, đủ thủ tục pháp lý theo quy định như có quyết định phê duyệt dự án, phê duyệt
thiết kế, dự toán thi công, phê duyệt đơn vị trúng thầu, phê duyệt kế hoạch vốn...có đủ
điều kiện thanh toán như hợp đồng giữa chủ đầu tư (Bên A) và nhà thầu (Bên B), có
nghiệm thu khối lượng thực hiện, bên A chấp nhận và đề nghị thanh toán...
Khi dự án đầu tư đã hoàn thành sẽ được nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư xây
dựng dự án hoàn thành để bàn giao lại cho đơn vị sử dụng quản lý và khai thác. Toàn
bộ vốn ĐTXD dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khi hoàn thành dự án đều được
nghiệm thu đầy đủ và báo cáo quyết toán sẽ được thẩm tra để phê duyệt. Khâu thẩm
tra quyết toán chính xác giúp ngăn chặn tình trạng quyết toán khống bằng thủ đoạn
thay đổi chủng loại vật liệu, tự ý thay đổi thiết kế, ăn bớt khối lượng...góp phần ngăn
chặn TTLP vốn đầu tư. Ngoài ra, cần đề ra các chế tài có khả năng xử lý kỷ luật các
sai phạm trong khi thanh quyết toán nếu được phát hiện về sau này.
Chương 2
thực trạng thất thoát, lãng phí và chống
thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh thanh hoá
2.1. Thực trạng đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá
2.1.1. Khái quát về tình hình đầu tư và kết quả đầu tư xây dựng từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.1.1.1. Khái quát về đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Do có điểm xuất phát về kinh tế thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nhìn chung
là yếu kém, nhất là miền núi, lại là nơi thường chịu nhiều tác động của thiên tai, nên
tỉnh Thanh Hoá rất ưu tiên khuyến khích đầu tư phát triển, coi đó là một trong những
yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần ổn
định chính trị – xã hội.
Số liệu thống kê cho thấy, đầu tư trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá thời gian qua
đã có sự tiến bộ. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong 5 năm (2000-2005) đạt
21,3 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 11% và tăng 45% so với thời kỳ
1996-2000, trong đó vốn NSNN 25%, vốn tín dụng 15%, vốn doanh nghiệp nhà
nước 5%, vốn đầu tư nước ngoài 8%, vốn khu vực dân cư và các thành phần kinh
tế khác 47,0% [4, tr.21]. Nếu xét riêng năm 2006 thì tổng vốn đầu tư trên địa bàn
tỉnh là 7,7 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN 3,69 ngàn tỷ đồng. Năm 2007 tổng
vốn đầu tư tăng lên 10,8 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN là 5,09 ngàn tỷ đồng.
Năm 2008 tổng vốn đầu tư ước đạt 14,5 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn NSNN là
6,757 ngàn tỷ đồng (bảng 2.1).
Bảng 2.1: Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2003-2008
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)
Tổng số 4.200 4.645 5.810 7.700 10.800 14.500
Vốn nhà nước 1.930 2.245 2.655 3.690 5.090 6.757
Tỷ trọng 46% 49% 46% 48% 47% 47%
Tăng trưởng 16% 18% 39% 38% 33%
Vốn dân cư và các 2.270 2.400 3.155 4.010 5.710 7.743
thành phần KT khác
Tỷ trọng 54% 51% 54% 52% 53% 53%
Tăng trưởng 31% 27% 42% 36% 6%
Nguồn: UBND tỉnh Thanh Hoá
Ngoài sự tăng trưởng về tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn, thì phương thức
đầu tư cũng có sự chuyển hoá rất cơ bản. Trước đây, đầu tư chủ yếu được tài trợ từ cấp
phát NSNN, nay đã xuất hiện nhiều hình thức đầu tư đa dạng như chính sách góp vốn
hoặc cổ phần nhà nước, đầu tư của tư nhân trong nước vào thành lập doanh nghiệp
mới, tham gia xây dựng các công trình cùng Nhà nước. Cho đến nay đã hình thành
và phát triển cơ cấu nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh theo hai loại chính đó là: vốn
nhà nước, vốn của dân cư và các thành phần kinh tế khác (trong đó có vốn đầu tư
trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài).
Tuy nhiên, trong tổng đầu tư trên địa bàn tỉnh, nguồn vốn nhà nước (vốn
NSNN, vốn tín dụng nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước) vẫn giữ vai trò quyết định
và là động lực thúc đẩy các nguồn vốn khác phát triển, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
đầu tư của tỉnh (bình quân 46-50%). Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cũng giữ mức
tăng trưởng cao, bình quân hàng năm tăng 29%. Nếu như năm 2003 vốn đầu tư nhà
nước ở mức 4.200 tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên mức 10.800 tỷ đồng (gấp 2,6 lần),
Có được kết quả đầu tư tăng trưởng và tiến bộ đó là do Thanh Hoá đã vận dụng
và ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư, huy động các
nguồn lực, đặc biệt từ khu vực kinh tế tư nhân và dân doanh.
2.1.1.2. Tình hình thực hiện đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh
Hoá
Như phần trên đã phân tích, trong tổng số vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá thì vốn đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Đến lượt mình, trong nguồn vốn
đầu tư nhà nước (bao gồm vốn đầu tư từ NSNN, vốn đầu tư từ tín dụng nhà nước, vốn
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước) vốn đầu tư từ NSNN (bao gồm vốn do địa phương
quản lý, vốn do trung ương quản lý) cũng chiếm tỷ trọng lớn và tăng mạnh, trong đó vốn
đầu tư từ NSNN do tỉnh quản lý có tốc độ tăng rõ rệt. Nếu năm 2003 nguồn vốn đầu tư từ
NSNN do tỉnh quản lý mới đạt 546,6 tỷ đồng, thì đến năm 2007 đã tăng lên đến 1.897,7 tỷ
đồng (bảng 2.2).
Bảng 2.2: Vốn đầu tư từ ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)
Vốn nhà nước 1.930,0 2.245,0 2.655,0 3.690,0 5.090,0 6.757,0
Vốn địa phương 546,6 907,1 842,4 1.062,2 1.897,7 2.045,6 quản lý
Tỷ trọng 28% 40% 32% 29% 37% 30%
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá
Nguồn vốn do địa phương quản lý bao gồm: vốn cân đối ngân sách của tỉnh,
vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu, vốn nước ngoài (vốn viện trợ, vay ưu đãi của
nước ngoài), vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng ưu đãi (vốn kích cầu) (bảng 2.3).
Vốn ngân sách tỉnh (bao gồm vốn cân đối ngân sách tập trung và vốn khai thác
từ quỹ đất) đã được tập trung đầu tư ưu tiên cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như
giao thông, giáo dục - đào tạo, phát triển các khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh, xây
dựng các trụ sở cơ quan hành chính... và giải quyết những yêu cầu bức xúc của địa
bàn.
Tỉnh đã sử dụng sự hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách tập trung để thực hiện một số
chương trình, dự án kích cầu và để đạt được mục tiêu huy động được lượng vốn đáng kể từ
khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác cho đầu tư phát triển. Một số nguồn vốn
Trung ương được sử dụng hỗ trợ theo mục tiêu như chương trình 134, 135, dự án trung tâm
cụm xã , hạ tầng làng nghề, hạ tầng kinh tế cửa khẩu, đầu tư âu trú bão, khu di tích lịch sử
Lam Kinh, hạ tầng thương mại – du lịch, các dự án trọng điểm như trường Đại học Hồng
Đức, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Nhi, các dự án hạ tầng thuộc khu kinh tế Nghi
Sơn, khu công nghiệp Bỉm Sơn, hệ thống đê kè biển, và các dự án hạ tầng giao thông, thuỷ
lợi, đường vành đai biên giới....Nguồn vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đã góp phần
phát triển kinh tế – xã hội toàn tỉnh, đặc biệt là góp phần đẩy nhanh quá trình thực hiện mục
tiêu xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân
tộc miền núi, biên giới, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.
Vốn nước ngoài được đầu tư cho các dự án xây dựng hạ tầng nông thôn dựa vào
cộng đồng, cải thiện môi trường đô thị, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn, trang thiết bị cho các bệnh viện, khắc phục hậu quả bảo lụt, xoá đói, giảm
nghèo...
Vốn trái phiếu Chính phủ được sử dụng đầu tư các dự án đường liên xã, đường
nối các huyện phía Tây, đường đến trung tâm xã chưa có đường ô tô, các công trình
thuỷ lợi miền núi, kiên cố hoá trường học....
Vốn vay kích cầu được bố trí cho các dự án hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, kiên cố
hoá kênh mương, giao thông nông thôn
Bảng 2.3: Phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)
Cân đối ngân sách tỉnh 75,05 256,26 256,82 389,34 702,59 526,72
Hỗ trợ của Trung ương 413,31 527,31 451,80 531,37 666,70 795,70
Vốn nước ngoài 40,76 45,98 44,75 121,50 108,00 110,00
Trái phiếu Chính phủ 50,00 20,00 420,41 613,20
Tín dụng ưu đãi 17,50 60,00 30,00
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá
Tổng nguồn vốn đầu tư do tỉnh quản lý được phân bổ cho các ngành nông, lâm,
ngư nghiệp; giao thông; thương mại – du lịch; quản lý nhà nước; giáo dục - đào tạo;
khoa học – công nghệ; y tế; xã hội – môi trường; văn hoá - thể dục thể thao; hạ tầng đô
thị; hạ tầng khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp; an ninh quốc phòng; và các
ngành khác... Trong các lĩnh vực đó tỉnh chú trọng tập trung đầu tư vào lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp (chú trọng nhất là vào các công trình thuỷ lợi, thường chiếm 3/4 số
vốn trong lĩnh vực này), và lĩnh vực phát triển giao thông. Từ năm 2006 Thủ tướng
Chính phủ có Quyết định thành lập Khu kinh tế Nghi Sơn, để tạo điều kiện thu hút các
nhà đầu tư vào Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã dành tỷ lệ vốn lớn (khoảng
gần 10%) đầu tư phát triển hạ tầng, kích cầu cho các nguồn vốn khác phát triển. Trong
lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tỉnh cũng đã tạo điều kiện nâng cấp cơ sở vật chất, kiên cố
hoá trường lớp học đảm bảo để các trường đạt chuẩn quốc gia... (bảng 2.4),
Bảng 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư từ nguồn ngân sách do tỉnh Thanh Hoá quản lý
Đơn vị tính: Tỷ lệ %
2008 2003 2004 2005 2006 2007 (dự kiến)
14,6 25,1 18,3 25,7 24,0 17,5 Nông, lâm, ngư nghiệp
37,5 17,9 42,2 28,8 13,5 27,4 Giao thông
1,4 2,0 2,9 2,8 2,8 1,8 Thương mại - Du lịch
5,0 4,6 4,4 4,6 5,6 4,4 Quản lý nhà nước
12,7 13,8 10,1 17,9 8,9 8,4 Giáo dục - Đào tạo
2,6 1,3 1,3 Khoa học – Công nghệ
9,7 7,3 5,5 Y tế 5,9 6,5 12,5
4,4 5,4 7,4 Xã hội – Môi trường
6,9 7,3 4,8 6,2 3,6 1,5 Văn hoá - TDTT
15,1 5,5 2,7 3,7 2,6 3,6 Hạ tầng đô thị
9,9 11,8 9,9 Hạ tầng khu KT Nghi
sơn và các KCN
An ninh quốc phòng 1,7 1,7 1,3 2,3 2,2 1,9
Khác 3.1 3,0 3,2 2,3 2,5 2,2
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá
2.1.1.3. Tình hình thực hiện công tác đấu thầu dự án đầu tư từ nguồn vốn
ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá
Trong thời gian qua, công tác đấu thầu trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có nhiều
chuyển chuyển biến tích cực trên các mặt, từ khâu quản lý nhà nước về đấu thầu đến
khâu tổ chức đấu thầu và thực hiện gói thầu của các chủ đầu tư, đơn vị tư vấn và các
nhà thầu. Từ sau khi có Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ
ban hành quy chế đấu thầu, Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/502000, Nghị định
số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy chế đấu thầu; Thông tư số 01/2004/TT-BKH ngày 02/02/2004 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính
phủ, đặc biệt từ sau ngày 29/11/2005, ngày Quốc hội thông qua Luật Đấu thầu, Chính
phủ ban hành Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/6/2006, Nghị định 58/2008/NĐ-CP
ngày 15/5/2008 về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng
theo Luật Xây dựng, trách nhiệm của các chủ đầu tư được nâng cao cả trong khâu
tuyển chọn các nhà thầu lẫn trong khâu chọn tư vấn đánh giá hồ sơ dự thầu. Công tác
tổ chức đấu thầu, công tác quản lý thực hiện gói thầu được thực hiện một cách nghiêm
túc và đạt kết quả tốt hơn, đáp ứng yêu cầu đặt ra. Hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ
định thầu được hạn chế tối đa (những gói thầu áp dụng hình thức này đều nằm trong
phạm vi cho phép của pháp luật về đấu thầu), hình thức đấu thầu rộng rãi được áp
dụng nhiều hơn, đấu thầu đã thể hiện được tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và
đem lại hiệu quả kinh tế. Tình trạng thông thầu, dàn xếp thầu hoặc bán thầu đã cơ bản
được khắc phục. Các nhà thầu được lựa chọn thực sự có kinh nghiệm và năng lực để
thực hiện các gói thầu, vì vậy chất lượng và tiến độ các công trình xây dựng cơ bản
đáp ứng với yêu cầu đặt ra.
Từ năm 2004 -2005 thực hiện quy định của Nhà nước về đấu thầu trong ĐTXD,
tỉnh Thanh Hoá đã đưa vào đấu thầu 1.277 gói thầu, trong đó số gói thầu đấu thầu rộng
rãi là 553 gói, số gói thầu đấu thầu hạn chế là 280 gói, số gói thầu chỉ định thầu và tự
thực hiện là 431 gói, số gói thầu chào hàng cạnh tranh là 13 gói. Với tổng giá gói thầu
được duyệt là 4.045,8 tỷ đồng, tổng giá trị trúng thầu là 3.827,7 tỷ đồng, giảm thầu so
với giá gói thầu được duyệt là 218,2 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ bình quân 3,37%. (bảng 2.5)
Bảng 2.5: Kết quả đấu thầu giai đoạn 2004-2007 từ nguồn ngân sách
do tỉnh Thanh Hoá quản lý
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2004 2005 2006 2007 Cộng
Số gói thầu 239 325 369 344 1.277
Tổng dự toán các gói thầu 627,1 549,7 733,5
Tổng giá gói thầu được duyệt 606,2 538,2 730,8 2.170,6 4.045,8
Tổng giá trị trúng thầu 604,9 534,9 700,0 1.987,9 3.827,7
Giảm thầu so với dự toán 33,2 14,8 33,5
Tỷ lệ giảm thầu so với dự 3,54 2,7 4,57 toán (%)
Giảm thầu so với giá gói thầu 1,4 3,3 30,8 182,7 218,2
Tỷ lệ giảm thầu so với giá gói 0,23 0,62 4,22 8,42 BQ: 3,37 thầu (%)
Số gói thầu đấu rộng rãi 73 89 83 308 553
Số gói thầu đấu hạn chế 74 43 147 16 280
Số gói thầu chỉ định 91 191 135 14 431
Số gói thầu chào hàng cạnh tranh 01 02 04 06 13
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá
2.1.1.4. Tình hình quyết toán vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước ở
tỉnh Thanh Hoá
Thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao tại Thông tư 45/2003/TT-BTC
ngày 15/3/2003, Sở Tài chính đã thẩm tra và UBND tỉnh phê duyệt quyết toán vốn đầu
tư các dự án hoàn thành từ năm 2004-2007 với tổng giá trị đề nghị quyết toán của chủ đầu
tư là 2.179,6 tỷ đồng, thẩm tra, trình UBND tỉnh phê duyệt là 2.120,5 tỷ đồng, tiết kiệm
cho ngân sách là 59,1 tỷ đồng (bảng 2.6).
Bảng 2.6: Tình hình thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng từ NSNN do địa
phương tỉnh Thanh Hóa quản lý
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2004 2005 2006 2007 Cộng
Số công trình được quyết toán 225 138 178 234 775
Giá trị đề nghị quyết toán của 585,2 459,2 401,5 733,7 2.179,6
chủ đầu tư
Giá trị quyết toán qua thẩm tra 570,6 444,9 387,2 717,8 2.120,5
Giá trị giảm qua thẩm tra 14,6 14,3 14,3 15,9 59,1
Tỷ lệ giảm (%) 2,5 3,1 3,6 2,2 3,0
Nguồn: Sở Tài chính tỉnh Thanh Hoá
2.1.2. Thực trạng quản lý vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.1.2.1. Thành công trong quản lý đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách
nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý ĐTXD đã được UBND tỉnh quan
tâm chỉ đạo, HĐND tỉnh và các đoàn thể chính trị xã hội tăng cường kiểm tra giám sát,
các ngành, các huyện, thị xã, thành phố và các chủ đầu tư đã có nhiều cố gắng cải tiến
chất lượng nên đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư đã được quan tâm và giao kế hoạch
ngay từ đầu năm nên các chủ đầu tư đã chủ động trong việc chuẩn bị hồ sơ, thủ tục đầu
tư. Sở Xây dựng đã thông báo rộng rãi năng lực của các đơn vị tư vấn đến các chủ đầu
tư và trên các phương tiên thông tin đại chúng để các chủ đầu tư có cơ sở xem xét việc
lựa chọn nhà thầu tư vấn nên tiến độ và chất lượng chuẩn bị hồ sơ dự án đầu tư, hồ sơ
thiết kế và dự toán từng bước được nâng lên.
Cải cách thủ tục hành chính trong ĐTXD bước đầu đã có hiệu quả, các cơ quan
đơn vị đã thực hiện khá tốt việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, thời gian xử lý hồ sơ rút
ngắn so với quy định của nhà nước, sự phối kết hợp giữa các ngành trong lĩnh vực
ĐTXD có những chuyển biến tích cực hơn, tránh được những hiện tượng phiền hà
trong giải quyết thủ tục đầu tư. Chất lượng và thời gian thực hiện công tác thẩm định
dự án đầu tư, thiết kế và dự toán đã được các ngành quan tâm chỉ đạo nên từng bước
có tiến bộ. UBND tỉnh đã ban hành các quyết định về cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư
cho các công trình cấp huyện, quyết định về phân cấp và uỷ quyền cho cấp huyện
quyết định đầu tư, vì vậy các huyện được chủ động hơn và chịu trách nhiệm cao hơn
nên các công trình được đẩy nhanh tiến độ, chất lượng công trình được nâng cao.
Công tác phân bổ kế hoạch vốn cho công trình, dự án được thực hiện sớm và
tương đối tập trung, hạn chế việc phân bổ vốn cho các dự án khởi công mới vào cuối
năm. Trong quá trình thực hiện tỉnh đã chủ động điều chỉnh kế hoạch một cách hợp lý,
linh hoạt. Ưu tiên bố trí thanh toán cho các dự án hoàn thành đã có quyết toán được
phê duyệt, vì vậy đến nay cơ bản không còn nợ khối lượng xây dựng cơ bản của các
dự án đã được phê duyệt quyết toán. Các dự án được giao kế hoạch đều phù hợp với
quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và đảm bảo đầy đủ hồ sơ
thủ tục theo quy định.
Công tác tổ chức đấu thầu có nhiều đổi mới, chú trọng nhiều hơn hình thức đấu
thầu rộng rãi. Tiến độ và chất lượng thực hiện các dự án có chuyển biến khá hơn.
Công tác giám sát đánh giá đầu tư, kiểm tra các dự án sau đấu thầu đã được các ngành,
các cấp quan tâm. Công tác quyết toán dự án hoàn thành đã được đẩy nhanh tiến độ.
Chính vì vậy mà trong những năm vừa qua kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của
tỉnh được ĐTXD với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây
dựng mới như: Cảng Nghi Sơn, đường ra cảng, đường Mục Sơn – Cửa Đạt, đường Hồ
Chí Minh, đường nối cảng Nghi Sơn với đường Hồ Chí Minh, đường Lang Chánh –
Yên Khương, đường Hồi Xuân – Tén Tần, công trình thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt, khách
sạn Sao Mai, Khu công nghiệp Tây Bắc Ga thành phố Thanh Hoá, trường Đại học Hồng
Đức, Bệnh viện Đa khoa, Bệnh viện Phụ sản, Bệnh viện Nhi, Trung tâm truyền hình kỹ
thuật số, hạ tầng các khu du lịch, khu di tích, nhà tưởng niệm, tượng đài...Các trục giao
thông chính được nâng cấp, hầu hết các cầu qua sông lớn được xây dựng nối liền các
vùng miền. Nhiều tuyến đường giao thông liên huyện được làm mới. Đường giao thông
nông thôn ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng, ven biển được bê tông hoá hoặc cấp phối.
Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới. Các công trình thuỷ lợi đầu
mối, hệ thống kênh mương nội đồng được đầu tư kiên cố, bảo đảm tưới chủ động cho
hầu hết diện tích lúa nước và một phần diện tích mầu ở các huyện đồng bằng. Cơ sở vật
chất trường học, y tế được tăng cường; đã có hơn 56,5% số phòng học được kiên cố hoá
[4, tr.21-22].
2.1.2.2. Một số hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng
từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Công tác kế hoạch vốn đầu tư đã được tỉnh quan tâm chỉ đạo, tuy nhiên hàng
năm kế hoạch vốn đầu tư vẫn còn phải giao thành nhiều đợt do không đáp ứng yêu cầu
về hồ sơ, thủ tục. Nguyên nhân của việc này một phần do quy định về thủ tục trong
quản lý ĐTXD còn phức tạp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ĐTXD
được ban hành và sửa đổi, thay đổi liên tục, có một số nội dung cần phải xử lý trong
giai đoạn chuyển tiếp nên các ngành, các chủ đầu tư còn lúng túng trong quá trình thực
hiện. Ngoài ra, giá vật liệu, nguyên, nhiên liệu, giá nhân công liên tục thay đổi nên
phải điều chỉnh, bổ sung tổng mức đầu tư, tổng dự toán, dự toán nhiều lần cũng gây
khó khăn trong quá trình thực hiện. Nguyên nhân một phần nữa là do năng lực và trách
nhiệm của nhiều chủ đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, năng lực của các ban quản lý dự án
nhìn chung còn yếu nên còn lúng túng trong quá trình làm việc và chưa thực sự giúp
được các chủ đầu tư quản lý dự án.
Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế –
xã hội, quy hoạch chung xây dựng và quy hoạch chi tiết chưa được quan tâm đúng
mức. Một số ngành đề xuất những dự án quy hoạch chưa thực sự mang tính chiến lược
và chưa thực sự cần thiết, dẫn đến việc sử dụng vốn đầu tư của nhà nước chưa thực sự
hiệu quả. Chất lượng công tác quy hoạch chưa có những chuyển biến đáng kể.
Công tác chuẩn bị đầu tư đã có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm, nhiều dự án
được giao kế hoạch chuẩn bị từ đầu năm hoặc từ những năm trước vẫn chưa phê duyệt
được. Thời gian, chất lượng lập và thẩm định hồ sơ dự án, thiết kế, dự toán vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiều dự án phải điều chỉnh, bổ sung, thiết kế vẫn còn sai sót
nhiều, nên gây chậm trễ trong quá trình triển khai thi công. Nguyên nhân là do một bộ
phận cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực đất
đai và ĐTXD năng lực còn hạn chế, trách nhiệm chưa cao, nên việc xử lý hồ sơ còn
cứng nhắc, thiếu linh hoạt, dẫn đến chậm trễ, gây khó khăn cho các chủ đầu tư. Tuy Sở
Xây dựng đã có thông báo rộng rãi về năng lực của các đơn vị tư vấn, nhưng thực tế,
một số chủ đầu tư vẫn hợp đồng với những đơn vị tư vấn thiếu năng lực, thời gian lập
hồ sơ còn kéo dài và chất lượng chưa cao. Năng lực của lực lượng làm công tác thẩm
định ở các ngành, các huyện còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công
việc
Công tác đấu thầu tuy có nhiều chuyển biến nhưng đối với một số dự án việc
đấu thầu chưa thực sự cạnh tranh, không lựa chọn được những nhà thầu có đủ năng lực
về tài chính và kỹ thuật để đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ. Tiến độ thực hiện và
giải ngân của một số dự án vẫn chậm so với yêu cầu, một số dự án không có đủ hồ sơ
để giao kế hoạch phải điều chuyển vốn cho các dự án khác. Nguyên nhân một phần do
việc chỉ đạo thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng chưa thực sự quyết liệt. Cấp uỷ,
chính quyền và các đoàn thể chính trị các huyện, xã có dự án đầu tư trên địa bàn chưa
xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối hợp với các chủ đầu tư thực hiện đền
bù giải phóng mặt bằng, dẫn đến có nhiều vướng mắc trong lĩnh vực này.
2.2. Thực trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.2.1. Thực trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước trong thời gian qua ở tỉnh Thanh Hoá
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, đặc biệt là Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg ngày
15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội
về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước và chống TTLP trong ĐTXD,
trong những năm qua UBND tỉnh Thanh Hoá đã chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra, rà
soát các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, kết quả cho thấy tình hình TTLP trên địa bàn tỉnh
diễn ra còn nhiều, thể hiện ở một số dạng TTLP do sai phạm của tư vấn thiết kế và thẩm
định; nhà thầu và tư vấn giám sát thi công không đúng khối lượng, chủng loại vật liệu gây
ra và một số TTLP do các sai phạm khác. Cụ thể, theo báo cáo thanh tra ĐTXD trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá, tình hình TTLP như sau:
- Năm 2002: Thanh tra 4 dự án gồm 14 công trình thuộc các ngành Giao thông
vận tải, Nông nghiệp & PTNT, đã phát hiện sai phạm trong các giai đoạn đầu tư ở 14
công trình với số tiền là 8.579.542.488 đồng/153.245.755.808 đồng, chiếm 5,6%. Trong
đó, số sai phạm do tư vấn thiết kế dự toán và thẩm định gây nên là 5.892.967.744 đồng,
chiếm 68,69% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là
1.493.691.795 đồng, chiếm 17,41% tổng sai phạm; sai phạm khác: 1.193.082.816 đồng,
chiếm 13,91% tổng sai phạm. Trong số các vụ trên, điển hình là 3 dự án (8 công trình)
tại ngành giao thông, do Công ty tư vấn xây dựng giao thông thiết kế lập dự toán, Sở
Giao thông Vận tải thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi công là: Công ty xây dựng
công trình giao thông I, II; Công ty Tân Thành (TNHH); Công ty xây dựng giao thông
thuỷ lợi Thanh Hoá (TNHH); Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá;
Công ty cầu Thanh Hoá; Công ty 492 Bộ Quốc phòng; Xí nghiệp xây dựng đường sắt
Thanh Hoá; Công ty cầu I Thăng Long. Đã phát hiện sai phạm là 6.575.995.355
đồng/122.998.151.808 đồng, chiếm 5,35% (riêng công trình đường Hồi Xuân – Tén
Tần, do tư vấn thiết kế tự ý thay đổi vị trí khai thác đá, làm cho giá trị dự toán sai tăng
4.717.043.907 đồng trên tổng số sai phạm 4.947.585.427 đồng, chiếm 95,34%), trong đó
tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên 5.820.671.744 đồng, chiếm 88,51%; sai do nhà
thầu và tư vấn giám sát gây nên: 705.521.816 đồng, chiếm 10,73%; sai phạm khác
49.761.816 đồng, chiếm 0,76% [40, tr.2-3].
- Năm 2003: Thanh tra 8 dự án gồm 34 công trình thuộc các ngành Y tế, Giáo
dục đào tạo và tại 2 huyện Thạch Thành, Quảng Xương. Qua thanh tra đã phát hiện sai
phạm ở 34 công trình với số tiền là 2.722.995.984 đồng/32.418.948.236 đồng, chiếm
8,4%, trong đó số sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 1.076.810.685
đồng, chiếm 39,55% tổng sai phạm; Sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên
là 1.090.659.561 đồng, chiếm 40,05% tổng sai phạm; sai phạm khác: 555.525.738
đồng, chiếm 20,4% tổng sai phạm. Một trong các TTLP điển hình là tại ngành Y tế,
thanh tra 4 dự án (11 công trình), do Công ty HAAI Trường đại học Kiến trúc Hà Nội,
Công ty Kiến trúc Thanh Hoá (TNHH) thiết kế, Sở Xây dựng thẩm định. Các đơn vị
trúng thầu và thi công là Công ty Xây dựng I, II, III Thanh Hoá, Công ty Sơn Trang
(TNHH), Công ty Đường sắt I Thanh Hoá, Công ty đầu tư XD phát triển đô thị số 4
thuộc Tổng công ty Đầu tư PT nhà và Đô thị, Công ty XD công trình kỹ thuật đô thị
Thanh Hoá. Thanh tra đã phát hiện sai phạm là 607.060.565 đồng/15.268.129.368
đồng, chiếm 3,98%, trong đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên
174.599.217 đồng, chiếm 28,76% tổng sai phạm; sai do nhà thầu và tư vấn giám sát
gây nên 388.228.110 đồng, chiếm 63,95% tổng sai phạm; sai phạm khác: 44.233.238
đồng, chiếm 7,29% tổng sai phạm. Thanh tra tại ngành Giáo dục đào tạo 2 dự án (11
công trình), do Viện Thiết kế trường học Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế, lập dự toán;
Công ty Tư vấn và Đầu tư Bộ Xây dựng thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi công
là Công ty Xây dựng số I, II Thanh Hoá, Công ty Xây dựng K2, Công ty Xây dựng
công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá, đã phát hiện sai phạm là 1.583.654.215
đồng/13.441.323.000 đồng, chiếm 11,78%, trong đó sai do tư vấn thiết kế và thẩm
định gây nên 865.815.715 đồng, chiếm 54,67% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu
và tư vấn giám sát gây nên 206.546.000 đồng, chiếm 13,04% tổng sai phạm; sai phạm
khác: 511.242.500 đồng, chiếm 32,29% tổng sai phạm [40, tr.3].
- Năm 2004: Thanh tra 18 dự án gồm 140 công trình thuộc các đơn vị: Chi cục
định canh định cư kinh tế mới Thanh Hoá, Sở Giao thông vận tải, Công ty thuỷ nông
Bắc Sông Mã, Sở Thuỷ sản, thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn và các huyện Ngọc
Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Thiệu Hoá. Qua thanh tra đã phát hiện sai
phạm với số tiền là 31.000.776.555 đồng/290.556.305.901 đồng, chiếm 10,67%, trong
đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 11.844.031.911 đồng, chiếm
38,21% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là
15.104.449.715 đồng, chiếm 48,72% tổng sai phạm; sai phạm khác:
4.050.438.329đồng, chiếm 13,07% tổng sai phạm. Trong các sai phạm trên, điển hình
thanh tra tại thành phố Thanh Hoá 6 dự án (gồm 7 công trình) do Công ty Tư vấn xây
dựng giao thông Thanh Hoá, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Công ty Kiến trúc
Việt Nam thiết kế, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm định. Các đơn vị trúng thầu và thi
công là: Công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng Thanh Hoá, Công ty Sông Đà 25,
Công ty xây dựng Hưng Thịnh (TNHH), Công ty Đầu tư và phát triển hạ tầng Hoàng
Long (TNHH), đã phát hiện phạm 7.427.420.538 đồng/69.253.320.691 đồng, chiếm
10,73%, trong đó sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là 5.118.649.170
đồng, chiếm 68,92% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên
là 2.308.771.624 đồng, chiếm 31,08%. Tại Ban quản lý các công trình giáo dục huyện
Ngọc Lặc, thanh tra 3 công trình trường học do Viện thiết kế trường học Bộ Giáo dục
đào tạo thiết kế, lập dự toán, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm định. Các đơn vị trúng
thầu và thi công là: Công ty Xây dựng số I, III Thanh Hoá, Công ty Xây dựng K2, đã
phát hiện sai phạm 196.078.711 đồng/1.487.444.000 đồng, chiếm 13,18%, trong đó sai
do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên 97.630.270 đồng, chiếm 49,79% tổng sai
phạm; sai do nhà thầu và tư vấn giám sát gây nên là 56.826.923 đồng, chiếm 28,98%
tổng sai phạm; sai phạm khác: 41.622.292 đồng, chiếm 21,23% tổng sai phạm. Tại
ngành Thuỷ sản, thanh tra dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt hải sản xa bờ (108 vỏ
tàu) do Công tyTư vấn thiết kế Bộ Thuỷ sản thiết kế, lập dự toán, Sở Thuỷ sản Thanh
Hoá thẩm định. Các đơn vị đóng tàu là: Xí nghiệp tàu thuyền Tân Châu Thanh Hoá, Xí
nghiệp cơ khí tàu thuyền Đà Nẵng, HTX Châu Hưng và Tổ hợp Hải Châu TP Vinh –
Nghệ An, đã phát hiện sai phạm 16.710.882.000 đồng /111.461.000.000 đồng, chiếm
14,99%, trong đó sai phạm do tư vấn và thẩm định gây nên là 4.203.306.000 đồng,
chiếm 25,15% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu thi công và chủ đầu tư quyết toán
khống là 10.255.273.000 đồng, chiếm 61,37% tổng sai phạm; sai phạm khác:
2.252.303.000 đồng, chiếm 13,48% tổng sai phạm. Sai phạm nghiêm trọng ở đây là cả
4 cơ sở đóng tàu nêu trên đều thiết lập 2 bản hợp đồng có giá trị khác nhau: 1 bản theo
giá dự toán được duyệt, nộp cho Cục đầu tư để làm cơ sở vay vốn, 1 bản có giá trị thấp
hơn để A-B thanh toán với nhau; Các cơ sở đóng tàu và Chủ dự án đã thoả thuận trên
hợp đồng rút bớt kích thước tàu (cả chiều dài lẫn chiều cao). Từ việc làm trên, các đơn
vị đóng tàu đã chi lại cho Chủ dự án 6.866.578.000 đồng, chiếm 14,82% giá trị vỏ tàu.
Tại thị xã Sầm Sơn, thanh tra 8 công trình do Công ty Tư vấn giao thông Thanh Hoá
và Viện Quy hoạch Thanh Hoá thiết kế, lập dự toán, Sở Xây dựng Thanh Hoá thẩm
định. Các đơn vị trúng thầu và thi công là: HTX xây dựng Tân Hưng Sầm Sơn, Công
ty Xây dựng Sơn Trang (TNHH), Công ty Xây dựng Hợp Lực (TNHH), Công ty Xây
dựng Khánh Hưng (TNHH), Công ty Xây dựng Thành Công (TNHH), Công ty Xây
dựng Vũ Phong (TNHH), đã phát hiện sai phạm 1.912.860.000 đồng /22.301.392.000
đồng, chiếm 8,58%, trong đó số sai phạm do tư vấn thiết kế và thẩm định gây nên là:
488.405.000 đồng, chiếm 25,53% tổng sai phạm; sai phạm do nhà thầu và tư vấn giám
sát gây nên là: 1.146.977.000 đồng, chiếm 59,96% tổng sai phạm; sai phạm khác:
277.478.000 đồng, chiếm 14,51% tổng sai phạm. Sai phạm có tính điển hình ở đây là
các nhà thầu đã xuất hiện ngay trong giai đoạn lập dự án thiết kế kỹ thuật và dự toán
công trình; nhà thầu trực tiếp nộp tiền thiết kế phí cho đơn vị tư vấn. Thực chất việc ra
quyết định chỉ định thầu, đấu thầu chỉ là hình thức [41, tr.3-5].
- Năm 2005: Thanh tra 19 dự án, công trình thuộc các lĩnh vực: Xây dựng,
giao thông tại một số đơn vị, địa phương. Qua thanh tra phát hiện 18 dự án, công
trình có khuyết điểm, sai phạm ở mức độ khác nhau trong hầu hết các giai đoạn
ĐTXD làm thiệt hại ngân sách nhà nước 11.874,2 triệu đồng, trong đó điển hình
một số dự án có sai phạm như: Việc ĐTXD tại thành phố Thanh Hoá, thanh tra 6
dự án với 7 hạng mục công trình, đã phát hiện các khuyết điểm, sai phạm trong các
khâu đầu tư, xây dựng với số tiền sai phạm là 7.427,4 triệu đồng, chiếm 10,73% giá
trị xây lắp được duyệt, trong đó sai phạm về đơn giá, biện pháp thi công do lỗi của
tư vấn và cơ quan thẩm định chiếm 69% bằng 5.118,6 triệu đồng, sai về khối lượng,
thuế: 2.308,8 triệu đồng. Thanh tra ĐTXD tại thị xã Bỉm Sơn 6 dự án ĐTXD, đã
phát hiện sai phạm trong các khâu thiết kế, lập dự toán, thẩm định trình duyệt, thi
công, nghiệm thu, thanh quyết toán với số tiền 390,03 triệu đồng, chiếm 5,15% giá
trị xây lắp, trong đó sai phạm do nhà thầu thi công 260,25 triệu đồng, chiếm 66,7%
sai phạm; sai phạm do đơn vị tư vấn thiết kế, lập dự toán, cơ quan thẩm định, cơ
quan quyết toán gây nên là 129,78 triệu đồng, chiếm 33,3% sai phạm [44, tr.3-4].
- Năm 2006, thanh tra 56 dự án, công trình thuộc các lĩnh vực: xây dựng, giao
thông, thuỷ lợi tại một số địa phương, qua thanh tra phát hiện 56/56 dự án, công trình
có khuyết điểm, sai phạm ở mức độ khác nhau trong hầu hết các khâu của quy trình
ĐTXD, với tổng số tiền sai phạm là 5.090.150.963 đồng, kiến nghị thu hồi và giảm trừ
quyết toán 923.599.895 đồng, số tiền đề nghị thu 265.067.000 đồng, đã thu
154.698.352 đồng. Trong đó điển hình một số dự án sai phạm như công trình gói thầu
CT02 thuộc dự án đường Hồ Chí Minh đã phát hiện sai phạm ở tất cả các khâu trong
quy trình đầu tư xây dựng, với số tiền 1.621.073.748 đồng/27.265.699.255 đồng,
chiếm 5,95%, trong đó sai do đại diện chủ đầu tư gây nên: 1.498.295.733
đồng/1.621.073.748 đồng, chiếm 92,43% số sai phạm; sai do nhà thầu thi công gây
nên: 122.778.015 đồng/1.621.073.748 đồng, chiếm 7,57% số sai phạm. Thanh tra dự
án xây dựng hệ thống kênh tiêu Đa Bút và dự án sửa chữa, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi
tưới nước vùng nguyên liệu mía Sao Vàng do Ban quản lý dự án Thuỷ lợi Thanh Hoá
làm chủ đầu tư đã phát hiện các sai phạm, khuyết điểm, với tổng số tiền 572.101.000
đồng, gồm thi công thiếu khối lượng, nhưng vẫn nghiệm thu thanh toán:
366.820.000đồng, sai sót trong khảo sát, thiết kế và thi công gây lãng phí: 264.446.500
đồng, sai do thẩm định dự toán: 29.091.000 đồng, sai do thiết kế và thẩm định:
176.190.000 đồng. Thanh tra tại huyện Ngọc Lặc, đoàn thanh tra đã phát hiện các sai
phạm trong công tác giám sát thi công chưa chặt chẽ, không phát hiện, ngăn chặn kịp
thời việc các nhà thầu thi công không đúng thiết kế, không đúng chủng loại vật liệu,
làm giảm chất lượng công trình; phê duyệt sai dự toán 2 công trình trường mầm non.
Thanh tra tỉnh đã kiến nghị các chủ đầu tư không quyết toán với tổng số tiền:
1.188.728.401đồng [45, tr.4-5].
- Năm 2007, thanh tra dự án sửa chữa, nâng cấp đoạn K9+949 - K22+204
Trạm bơm xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hoá phát hiện lập dự toán thiết kế có
nhiều sai sót trong việc áp dụng định mức, làm tăng giá trị dự toán 1.726.576.000
đồng, nghiệm thu thanh toán sai 200.140.000 đồng. Thanh tra một số công trình xây
dựng trường học thuộc trương trình kiên cố hoá trường lớp học (chương trình
159/CP) tại huyện Bá Thước, phát hiện sai phạm 782.990.000 đồng; đã kiến nghị
giảm trừ quyết toán 67.347.000 đồng, ra quyết định thu hồi về tài khoản chờ xử lý
105.802.000 đồng, đã thu 49.000.000 đồng. Thanh tra dự án nước sạch, vệ sinh môi
trường nông thôn Thanh Hoá (xây dựng hệ thống nước sạch cho miền núi) do Trung
tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Thanh Hoá làm chủ đầu tư, phát hiện
thanh toán sai khối lượng với giá trị 334.345.000 đồng; đã kiến nghị giảm trừ quyết
toán 67.347.000 đồng, ra quyết định thu hồi 203.679.000 đồng, đã thu 203.000.000
đồng. Thanh tra dự án đầu tư điều chỉnh, bổ sung nâng cấp Bệnh viện đa khoa tỉnh
Thanh Hoá (do Ban quản lý XDCB tỉnh Thanh Hoá làm chủ đầu tư) phát hiện
nghiệm thu, thanh toán sai khối lượng, áp giá vật tư chưa đúng với tổng giá trị
269.158.000đồng, đã kiến nghị giảm trừ quyết toán 238.330.000 đồng. Thanh tra dự
án cải tạo, nâng cấp đường Cầu Hổ – Cảng Nghi Sơn (dự án do Ban quản lý dự án
giao thông I làm chủ đầu tư), phát hiện dự toán sai khối lượng và nghiệm thu thanh
toán sai khối lượng với giá trị 114.402.000 đồng; số phải xử lý thu hồi 79.414.985
đồng, đã thu 17.400.000 đồng. Thanh tra dự án đầu tư xây dựng tại trường đại học
Hồng Đức (cơ sở 3), qua thanh tra 5 hạng mục công trình, phát hiện 4 hạng mục có
sai sót ở các khâu thiết kế, lập dự toán, thẩm định trình duyệt, tổ chức thi công, với
số tiền 771.521.025 đồng, trong đó đề nghị giảm trừ quyết toán 218.621.025 đồng.
Thanh tra dự án đường giao thông ngã ba Thành Trực đi cầu Thạch Định (Thạch
Thành) phát hiện nghiệm thu sai so với thực tế thi công và đã ra quyết định thu hồi
20.012.000 đồng, đã thu vào tài khoản chờ xử lý của Thanh Tra tỉnh tại Kho bạc Nhà
nước tỉnh. Thanh tra dự án đầu tư xây dựng nhà khám bệnh, điều trị vô sinh và quản
lý hành chính Bệnh viện Phụ sản Thanh Hoá, phát hiện dự toán sai tăng 98.900.000
đồng, nghiệm thu thanh toán sai 53.530.000 đồng; đã thu hồi 51.175.000 đồng vào
tài khoản chờ xử lý của Thanh tra tỉnh. Thanh tra việc thực hiện các dự án ĐTXD
trên địa bàn huyện Hậu Lộc, phát hiện dự toán sai, thi công không đúng khối lượng,
chủng loại vật liệu với giá trị 417.290.799 đồng, kiến nghị thu hồi 245.472.135 đồng
[47, tr.1-2].
Ngoài ra, như Báo Gia đình và Xã hội ngày 26/2/2005 có đăng “Dự án Hồ chứa
nước Cửa đạt – Thanh Hoá, tổng vốn đầu tư 4.500 tỷ đồng, do Sở Nông nghiệp và
PTNT làm chủ đầu tư, mới triển khai đợt I, đã phát hiện 21 công trình xây dựng bị rút
ruột, công tác giải phóng mặt bằng đều có sai phạm tham nhũng; công trình đầu tư từ 2-
3 tỷ đồng thì bị thất thoát 2-3 trăm triệu đồng”. Qua báo cáo kết quả thanh tra các dự án
tái định cư công trình Hồ Cửa Đạt, số 310/KL-TTTH ngày 24/902004 nêu rõ: Qua thanh
tra 21 công trình XDCB của 3 dự án, phát hiện sai phạm với số tiền: 1.506.521.002 đồng
gồm sai phạm do nhà thầu thi công thiếu khối lượng: 1.013.468.643 đồng; sai phạm do
tư vấn áp dụng biện pháp thi công không đúng gây thiệt hại tính ra là 311.412.698 đồng;
sai phạm do tư vấn tính bù giá chênh lệch vật liệu đến hiện trường xây lắp sai, làm thiệt
hại số tiền 181.693.661 đồng [41, tr.7].
Đối với dự án đầu tư xây dựng theo Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã tại
11 huyện miền núi Thanh Hoá, Thanh tra Xây dựng đã phát hiện và không thanh toán
số tiền sai phạm là: 1.657.985.000 đồng ; xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định
126/CP số tiền là 45.900.000 đồng; đồng thời buộc sửa chữa khắc phục về chất lượng
xây dựng các công trình có sai phạm [37, tr 2]. Công trình Đập Bản Hao – xã Sơn
Điện, huyện Quan Sơn do Đoàn quy hoạch thuỷ lợi khảo sát địa hình không kỹ, dẫn
đến vị trí đặt mương không đảm bảo an toàn, công trình mới xây dựng xong đã trôi
một đoạn mương bê tông, do đó việc dẫn nước trong kênh mương không còn tác dụng
[37, tr 2]. Công trình chợ trung tâm cụm xã Sơn Điện sau khi bàn giao hầu như không
sử dụng, vô chủ [37, tr.3]. Công trình trường tiểu học Bản Sum, trường trung học cơ
sở Bản Hạ xã Sơn Hà - huyện Quan Sơn do công ty đầu tư xây dựng HUD 4 thi công
vi phạm về chất lượng, thi công không đúng thiết kế làm sai giảm tiết diện thép dầm,
sàn bê tông sai giảm kích thước gây rạn nứt bê tông, võng trần. Công trình Đập Bai
San, xã Tân Lập – huyện Bá Thước nhà thầu là công ty NN&PTNT thi công sai thiết
kế, sai quy trình phần bê tông vỏ đập làm giảm chất lượng và tuổi thọ đập [37, tr.3].
Thực hiện chỉ thị 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ từ
tháng 6/2005 đến tháng 10/2005, Sở Xây dựng tiến hành kiểm tra 41 công trình có kết
quả như sau: Năng lực của chủ đầu tư: 29/41 chủ đầu tư thực hiện đầy đủ thủ tục cơ sở
pháp lý về quản lý ĐTXD theo Nghị định 52, NĐ12, NĐ 07. 12/41 chủ đầu tư chưa
thực hiện đầy đủ thủ tục. Về công tác tư vấn: có 3/41 đơn vị không đảm bảo tư cách
pháp nhân (chủ yếu là khảo sát địa chất và thí nghiệm); 4/41 dự án thiết kế sai sót phải
xử lý (Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Nga Sơn, trường trung học phổ thông
Lương Đắc Bằng Hoằng Hoá, trụ sở UBND xã Tiến Lộc, nhà đa năng trường trung
học phổ thông Hà Trung). Chỉ có 4/41 công trình thực hiện giám sát tác giả. Tư vấn
giám sát, do năng lực còn yếu, nên đến 18/41 công trình sai phạm kỹ thuật và hồ sơ
quản lý. 19/41 công trình tư vấn giám sát chưa đảm bảo tư cách pháp nhân theo NĐ16
CP. Đối với nhà thầu thi công: 9/41 nhà thầu chưa đảm bảo về hồ sơ quản lý theo Nghị
định 209 và Quyết định 18/BXD, 32/41 nhà thầu chưa đảm bảo yêu cầu cơ bản. Về
chất lượng xây lắp có 27/41 công trình thi công sai hoặc thiếu so với thiết kế. Có 10/41
nhà thầu đưa thép không rõ xuất xứ, chất lượng kém vào công trình [36, tr.2-3].
2.2.2. Nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá
Nguyên nhân đưa đến tình trạng TTLP, tiêu cực, sai phạm trong hoạt động
ĐTXD có nhiều, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:
2.2.2.1. Nguyên nhân từ góc độ cơ chế, chính sách pháp luật
Trong quá trình chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống thể chế của Nhà nước đang từng
bước hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế mới. Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách
pháp luật vẫn còn chậm được nghiên cứu ban hành hoặc đã ban hành nhưng chưa phù
hợp với tình hình thực tế, chậm được sửa đổi và bổ sung; các quy định còn nhiều bất
cập, thiếu đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều sơ hở cho phép các đối tượng thoái
hoá, biến chất lợi dụng. Trong các quy định hiện hành còn thiếu các chế tài cụ thể,
hoặc chế tài chưa đủ mạnh để xử lý các trường hợp phạm tội như quy định chọn nhà
thầu có giá thấp nhất mà chưa quan tâm đến điều kiện năng lực thực hiện dự án; cơ
chế, chính sách giá cả, chế độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư còn nhiều bất
cập nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án; thủ tục hành chính còn rườm rà, bất
cập, trong quá trình thực hiện còn lúng túng; người có quyền quyết định về đầu tư lại
không có quyền quyết định về tài chính, tình trạng “xin – cho” (xin vốn, xin chỉ tiêu,
chạy vốn, chạy chỉ tiêu) gây nên tiêu cực tham nhũng trong ĐTXD rất nghiêm trọng;
hệ thống tiêu chuẩn, chỉ tiêu, định mức kinh tế – kỹ thuật phục vụ quản lý ĐTXD, bao
gồm cả quản lý quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư mặc dù đã thường xuyên
được nghiên cứu, sửa đổi nhưng vẫn còn thiếu, có khi không đáp ứng kịp với sự thay
đổi của cơ chế thị trường, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Về công tác quy hoạch, kế hoạch: Thiếu các văn bản pháp lý để quản lý nhà
nước về quy hoạch. Công tác quy hoạch chưa đi trước một bước, tầm nhìn ngắn, thiếu
tính chiến lược, chưa đánh giá hết các yếu tố khách quan và quy luật thị trường nên
tính định hướng của quy hoạch còn yếu, thiếu tính thừa kế nên chất lượng quy hoạch
thấp, tính thực tế không cao, quy hoạch không mang tính tổng thể, thiếu lộ trình thực
hiện, quy hoạch không gắn với kế hoạch bố trí vốn. Đa số các công trình giải quyết
mang tính tình thế, cần đến đâu phát triển đến đó, trong khi nguồn vốn đầu tư có hạn,
bố trí đầu tư dàn trải dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công ở hầu hết các công
trình, thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển ngành với tổng thể phát triển
kinh tế – xã hội. Tình trạng quy hoạch sai, quá sơ sài, “quy hoạch treo”, chồng chéo,
mang tính cục bộ, khép kín đã gây nên nhiều lãng phí. Nhiều dự án đầu tư không có
quy hoạch, không đúng quy hoạch phải phá đi làm lại, phải di chuyển, gây lãng phí
lớn. Công tác điều tra cơ bản sơ sài, chưa đủ thông tin phục vụ công tác quy hoạch.
Công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch còn hạn chế. Chủ trương
đầu tư thường từ ý muốn áp đặt chủ quan, động cơ cá nhân thành tích của lãnh đạo,
thấy nơi khác làm mình cũng làm. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức,
vốn bố trí cho công tác quy hoạch còn quá nhỏ bé. Việc chủ trương đầu tư được quyết
định quá chậm khiến cho việc triển khai lập dự án sau này thiếu thời gian. Quyết định
chủ trương là khâu quan trọng bậc nhất nhưng chưa quy tụ được những người có hiểu
biết, có kinh nghiệm tham gia.
2.2.2.2. Nguyên nhân từ góc độ nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công
- Nguyên nhân từ phía nhà thầu tư vấn lập dự án đầu tư, thiết kế, thẩm tra thiết
kế, dự toán, tư vấn đấu thầu, giám sát thi công, tư vấn kiểm toán:
+Một số một số nhà tư vấn thiếu trách nhiệm, không làm đúng, làm đủ chức
năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, thường khảo sát sơ sài, tư liệu, số liệu thiếu
chính xác, gây sai sót trong thiết kế, xác định biện pháp thi công không phù hợp với
thực tế, trong dự toán thì việc bóc tách khối lượng, áp đơn giá, chế độ chính sách không
chính xác, dẫn đến phải làm đi làm lại, làm chậm tiến độ công trình. Đây là lỗi rất phổ
biến mà ít khi được lượng hoá thành tiền. Đơn cử như dự án Nhà luyện tập và thi đấu tỉnh
Thanh Hoá, đơn vị tư vấn lập dự án, thiết kế kỹ thuật và thi công, tư vấn là Trung tâm tư
vấn và chuyển giao công nghệ xây dựng (trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) đã lập dự án
không chính xác, thiết kế không thực tế, không đúng tiêu chuẩn quy phạm làm tổng mức
đầu tư tăng lên so với thiết kế ban đầu (gần 31,2 tỷ đồng) là 11,5 tỷ (làm tròn), mức đầu tư
công trình “đội” lên gần 1/3 giá trị được phê duyệt ban đầu [10]. Nhiều nhà thầu tư vấn
lập dự án đầu tư không đúng trách nhiệm của mình và có xu hướng đưa ra phương án
chiều theo ý chí người lãnh đạo cơ quan chủ đầu tư để có việc làm và thu nhập. Một số
nhà thầu tư vấn giám sát thiếu trách nhiệm, không làm đúng nhiệm vụ được giao, tạo sơ
hở để các nhà thầu lợi dụng tăng khống khối lượng, rút bớt vật liệu, thay đổi chủng loại
vật liệu, quyết toán gian dối, gây thất thoát ngân sách, ảnh hưởng đến chất lượng công
trình.
Mặt khác, năng lực thực tế của các đơn vị tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Toàn
tỉnh có gần 100 công ty hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thiết kế, song chỉ có 14 công
ty đủ năng lực ở từng mảng cụ thể. Thực tế chỉ có 3 công ty đảm bảo làm tốt chức
năng của mình ở mọi mặt, có 7 doanh nghiệp có phòng thí nghiệm kiểm định chất
lượng đủ điều kiện và được công nhận hợp chuẩn. Nhiều đơn vị tư vấn thiết kế chưa
quan tâm lưu trữ hồ sơ thí nghiệm, thiếu biên bản lấy mẫu thí nghiệm hoặc lập biên
bản chưa đảm bảo cơ sở pháp lý [53]. Năm 2006 và 2007 Sở Xây dựng tổ chức kiểm
tra hoạt động tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Trong tổng số 81 doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh hoạt động tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh thì có 59
doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tư vấn xây dựng, số còn lại có đăng ký kinh
doanh trong từng lĩnh vực tư vấn nhưng chưa hoạt động hoặc ít hoạt động. Hiện tại, số
doanh nghiệp hành nghề tư vấn xây dựng đủ điều kiện năng lực hoạt động xếp hạng
(H1, H2) trong từng lĩnh vực tư vấn chỉ có 19 doanh nghiệp, số còn lại chưa đủ điều
kiện xếp hạng, cụ thể: lập dự án đầu tư xây dựng công trình kiến trúc: 11 đơn vị đủ
điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng
1 và 10 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); lập dự án ĐTXD công trình giao thông: 6 đơn
vị đủ điều kiện năng lực hoạt động (trong đó có 1 đơn vị đủ điều kiện được xếp hạng
1 và 5 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); lập dự án ĐTXD công trình thuỷ lợi: 2 đơn vị
đủ điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp
hạng 1 và 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 2); thiết kế công trình kiến trúc: 10 đơn vị đủ
điều kiện năng lực được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 1 và 9 đơn
vị đủ điều kiện được xếp hạng 2); thiết kế công trình giao thông: 6 đơn vị đủ điều kiện
năng lực hoạt động được xếp hạng (trong đó 1 đơn vị đủ điều kiện xếp hạng 1 và 5 đơn
vị đủ điều kiện xếp hạng 2); thiết kế công trình thuỷ lợi: 2 đơn vị đủ điều kiện năng lực
xếp hạng 2; lập dự án, thiết kế công trình điện: hầu hết các đơn vị chưa đủ điều kiện
năng lực xếp hạng; khảo sát xây dựng: 1 đơn vị đủ điều kiện năng lực hoạt động xếp
hạng 2 lĩnh vực khảo sát địa hình; giám sát thi công: 5 đơn vị đủ điều kiện năng lực
hoạt động xếp hạng 2 gồm: 2 giao thông, 2 thuỷ lợi, 3 kiến trúc (trong đó có 2 đơn vị
đủ điều kiện xếp hạng 2 về hai lĩnh vực [38, tr.1-2].
- Nhà thầu thi công:
Hiện nay nhiều doanh nghiệp hành nghề thi công xây dựng không đủ năng lực
về tài chính, máy móc, trang thiết bị, thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình nhận thầu nên khi triển khai thi công không đảm
bảo chất lượng, tiến độ công trình. Mặt khác do phẩm chất, đạo đức, do chạy theo lợi
nhuận, một số nhà thầu đã tìm cách ăn cắp, đánh tráo vật tư, vật liệu, bớt xén quy
trình, quy chuẩn kỹ thuật,...làm cho công trình không đảm bảo chất lượng, gây TTLP.
Chẳng hạn như dự án tuyến đường Nghi Sơn – Bãi Trành chậm tiến độ do năng lực tài
chính, thiết bị, kỹ thuật của nhà thầu (công ty Vĩnh Nguyên) thiếu và yếu. Một số công
cụ như khoan cọc nhồi, ván khuôn, khung thép nhà thầu phải đi thuê. Thêm vào đó,
đây là lần đầu tiên nhà thầu thi công cầu vượt đường bộ và đường sắt nên “vừa học,
vừa làm”. Ban điều hành dự án đã nhiều lần có công văn gửi Bộ chủ quản nêu rõ khả
năng Công ty Vĩnh Nguyên không thể hoàn thành nhiệm vụ, sớm điều chuyển việc thi
công cầu vượt đường sắt và đường bộ cho đơn vị khác có năng lực hơn nhưng chưa
được cấp có thẩm quyền giải quyết [13].
2.2.2.3. Nguyên nhân từ góc độ chủ đầu tư
Các chủ đầu tư là người quản lý, sử dụng công trình, sở hữu vốn đầu tư hoặc là
người được giao quản lý và sử dụng vốn để ĐTXD, đồng thời trực tiếp quản lý điều
hành các dự án ĐTXD, từ khi xin chủ trương đến việc lập dự án đầu tư, thiết kế bản vẽ
thi công, dự toán, tổ chức thực hiện xây lắp công trình và việc quyết toán hoàn thành
công trình đưa vào khai thác sử dụng. Do đó, chủ đầu tư phải là người chịu trách
nhiệm toàn diện đối với dự án đầu tư do mình đề xuất và quản lý. Trên thực tế trình độ
năng lực quản lý dự án của các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án (là người đại diện
chủ đầu tư, giúp chủ đầu tư thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm quản lý của chủ
đầu tư; thay mặt chủ đầu tư giám sát thực hiện các nội dung công việc, thuê tư vấn,
đơn vị thi công và giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ĐTXD) chưa đáp
ứng được công việc được giao, chưa làm tròn chức năng, nhiệm vụ ở một số khâu như
chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng... Một số
chủ đầu tư cung cấp các số liệu, lập đề bài, giao nhiệm vụ để tư vấn thiết kế thực hiện
còn thiếu chính xác hoặc thả nổi, mặc đơn vị tư vấn lo liệu. Việc nghiệm thu đầu vào
của các loại vật liệu đưa vào công trình chưa thực hiện đúng quy định [37, tr.4]. Đặc
biệt do năng lực và trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý còn yếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu nên đã hầu như khoán trắng mọi việc thuộc trách nhiệm của mình cho
các đơn vị tư vấn hoặc đơn vị thầu xây dựng, chủ đầu tư chỉ việc ký vào dự án và các
văn bản trình duyệt là xong, dẫn đến tình trạng chủ đầu tư không quản lý một cách
chặt chẽ, sâu sát, kỹ lưỡng các giai đoạn của dự án, làm giảm hiệu quả đầu tư hoặc gây
TTLP vốn đầu tư.
Nhìn chung phần lớn các công trình xây dựng, đặc biệt là công trình có quy mô
nhỏ, đều do chủ đầu tư trực tiếp quản lý thông qua ban quản lý dự án. Bộ phận quản lý
dự án thường là cán bộ kiêm nhiệm trong thời kỳ ĐTXD, trực tiếp điều hành quá trình
thực hiện dự án theo tình hình thực tiễn của mình, sử dụng bộ máy sẵn có phục vụ yêu
cầu của dự án, sau đó bố trí sử dụng hầu hết chuyên viên điều hành dự án vào khai
thác sử dụng khi kết thúc đầu tư. Hình thức này chứa đựng những nhược điểm do cán
bộ quản lý không chuyên nghiệp, không nắm vững trình tự, thủ tục, kỹ thuật xây dựng,
nên thường không làm đầy đủ chức năng của Ban quản lý dự án, dễ bỏ sót trình tự
trong quản lý, giám sát xây dựng hoặc gây ách tắc làm chậm tiến độ xây dựng, đặc biệt
là không giám sát chặt chẽ chất lượng công trình, nên nhiều công trình thi công không
đúng thiết kế hoặc chất lượng kém vẫn được nghiệm thu thanh toán. Năm 2005, qua
kiểm tra 109 công trình xây dựng cho thấy, có tới 41% Ban quản lý dự án của chủ đầu
tư không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ điều hành dự án; 62,65%
công trình còn có khuyết điểm về chất lượng thi công cần phải xử lý, khắc phục. Riêng
giá trị thu hồi do vi phạm chính sách, chế độ tại các công trình xây dựng ở Thanh Hoá
được thanh tra năm 2005 là 569 triệu đồng. Năm 2007 tỉnh Thanh Hoá yêu cầu xử lý
07 công trình không đảm bảo chất lượng.
2.3. Thực trạng chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá
2.3.1. Mặt mạnh của công tác chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá
Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo chung của Chính phủ, tỉnh Thanh Hoá
đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm hạn chế TTLP trong ĐTXD từ nguồn vốn
NSNN như triển khai quán triệt các quy định về ĐTXD cơ bản, phân cấp quản lý đầu
tư, tập huấn triển khai quán triệt các quy định pháp luật về quản lý ĐTXD...Đồng thời,
tỉnh đã chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực xây dựng nhằm phát hiện,
chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, ngăn ngừa các hành vi chống TTLP trong ĐTXD.
Có thể kể ra một số văn bản sau:
- Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 12/4/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về nâng
cao hiệu quả, chống TTLP trong ĐTXD.
- Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 13/9/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
tăng cường quản lý công tác hoạt động tư vấn xây dựng.
- Chỉ thị số 28/CT-UBND ngày 09/10/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về đẩy
mạnh công tác lập quy hoạch và quản lý đô thị.
- Quyết định số 4090/2007/QĐ-UBND ngày 21/12/2007 của UBND tỉnh Thanh
Hoá về việc ban hành quy định về phân cấp và uỷ quyền trong ĐTXD từ vốn NSNN
của tỉnh Thanh Hoá.
- Văn bản số 2797/UBND-CN ngày 15/7/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công một số công trình.
- Văn bản số 3631/UBND-CN ngày 07/9/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
quản lý chất lượng công trình xây dựng và sử dụng thép kém chất lượng.
- Văn bản số 5172/UBND-CN ngày 12/12/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về
việc mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về kỹ thuật và quản lý ĐTXD cho cán bộ địa chính
xây dựng xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh.
- Thông báo số 3198/TB-UBND ngày 11/8/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về
việc kiểm tra chất lượng thi công các công trình XDCB: Bệnh viện Đa khoa, Bệnh
viện Nhi, trường Đại học Hồng Đức cơ sở 3, trụ sở Huyện uỷ và Trung tâm bồi dưỡng
Chính trị huyện Thường Xuân, Bệnh viện đa khoa khu vực và trường Kỹ thuật Ngọc
Lặc.
- Thông báo số 3812/TB-UBND ngày 16/9/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh về
việc kiểm tra chất lượng thi công xây dựng Nhà giảng đường lớn – Trường Chính trị
tỉnh.
- Văn bản số 1409/UBND-CN ngày 13/4/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
nghiên cứu hình thức quản lý dự án ĐTXD công trình.
- Văn bản số 2423/UBND-CN ngày 15/6/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
cấm sử dụng vật liệu làm cốt pha bằng mành tre, luồng trong công trình xây dựng.
- Văn bản số 428/UBND-CN ngày 31/01/2007 về việc xử lý kết quả kiểm tra,
thanh tra các công trình xây dựng có TTLP.
- Văn bản số 1732/UBND-CN ngày 09/5/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc
ban hành quy định hồ sơ, thủ tục ĐTXD cơ bản trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
- Ban hành các mẫu thiết kế công sở phường xã, nhà lớp học, nhà ở giáo viên,
nhà bệnh xá cấp xã phường, nhà văn hoá thôn, mẫu Trung tâm y tế dự phòng cho 11
huyện miền núi, mẫu xử lý chất thải lỏng cho các bệnh viện...
- Ban hành 18 bộ đơn giá phục vụ công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chi
phí ĐTXD theo Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Thông qua chỉ đạo của UBND tỉnh, các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị hữu
quan trong tỉnh đã có nhiều cố gắng trong việc chống TTLP trong ĐTXD từ vốn
NSNN trên địa bàn tỉnh. Cụ thể là:
+ Các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, các đơn vị tư vấn, đơn vị thi công xây lắp
đã cơ bản chấp hành và thực hiện đúng các quy định về ĐTXD theo Luật Xây dựng và
các nghi định của Chính phủ.
+ Đa số các công trình xây dựng hàng năm trên địa bàn tỉnh đảm bảo được chất
lượng, hiệu quả, phát huy tác dụng.
+ Các cơ quan thanh tra chuyên ngành của Sở Xây dựng, Sở Giao thông Vận
tải, Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Sở Tài chính được thành lập và đi vào hoạt động theo quy định của Chính phủ; các
đoàn kiểm tra liên ngành về chất lượng công trình xây dựng hàng năm đều tiến hành
theo quy định của tỉnh. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, đã góp phần giảm
TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác chống TTLP trong ĐTXD, tỉnh
Thanh Hoá đã chỉ đạo các ngành các cấp phải xác định trách nhiệm trong việc phải
tăng cường hơn nữa các biện pháp quản ĐTXD. UBND tỉnh đã đốc thúc rà soát và
điều chỉnh các quy hoạch xây dựng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
UBND tỉnh cũng chỉ đạo bố trí vốn đầu tư phải theo hướng tập trung, có trọng điểm,
phù hợp với khả năng cân đối vốn năm kế hoạch, đáp ứng tiến độ và kế hoạch thực
hiện. Mặc dù tỉnh đã chỉ đạo ráo riết như vậy, đầu tư các công trình y tế vẫn bị dàn trải
(trong 18 dự án nhóm C có 11 dự án kéo dài từ 3-7 năm). Trong lĩnh vực Giao thông
từ 2002-2005, tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện được nhiều dự án với tổng mức đầu
tư khoảng 600 tỷ đồng, nhưng vẫn còn tình trạng nợ đọng vốn ở các dự án này. Ví dụ
ở công trình đường Hồi Xuân – Tén Tần, mặc dù đã hoàn thành từ năm 2002, nhưng
đến hết năm 2006 vẫn còn nợ đọng 66 tỷ đồng [54, tr.1]. Công tác chỉ đạo thực hiện
quy định của pháp luật về xây dựng đã được tổ chức triển khai đến tận cán bộ xã,
phường, thị trấn. Trên địa bàn toàn tỉnh đã mở được 26 lớp tập huấn cho 2250 cán bộ
làm công tác ĐTXD của 633 xã, phường, thị trấn và các phòng nghiệp vụ của huyện
thị xã, thành phố. Nhìn chung công tác quản lý ĐTXD đã có tiến bộ, đang dần dần đi
vào nề nếp. Đi đối với việc phân cấp quản lý ĐTXD, việc chấn chỉnh nâng cao năng
lực của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng cũng được các ngành, các cấp quan
tâm hơn [54, tr.2].
Về xử lý cán bộ, qua thanh tra ĐTXD trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, thanh tra đã
kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật, khiển trách 52 cán bộ có liên quan đến sai
phạm, trong đó giai đoạn 2002-2004 là 17 người, cụ thể là cách chức 1 giám đốc công
ty, cảnh cáo 2 trưởng phòng cấp sở, khiển trách 1 phó phòng cấp sở, khiển trách, cảnh
cáo và chuyển công tác khác 13 cán bộ tư vấn, thẩm định, giám sát [40, tr.6-7]. Năm
2005 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật hành chính 2 người [44,
phụ lục 1]. Năm 2006 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị xử lý kỷ luật hành
chính 16 người [45, phụ lục 1]. Năm 2007 Thanh tra đã kiến nghị các cơ quan đơn vị
xử lý kỷ luật hành chính 17 người [47, phụ lục 1]
2.3.2. Mặt yếu của công tác chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở tỉnh Thanh Hoá
Đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, công tác chống TTLP trong ĐTXD
từ NSNN trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục, đó là:
- Mặc dù tỉnh đã coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra ĐTXD, nhưng chất
lượng một số cuộc thanh tra, kiểm tra ĐTXD còn thấp, biện pháp xử lý một số trường
hợp chưa dứt điểm, đơn vị chủ quản còn xử lý chưa kiên quyết và nghiêm minh. Ví
như năm 2006, thanh tra kiến nghị xử lý hành chính 6 vụ 14 người, nhưng các đơn vị
chủ quản chỉ thực hiện xử lý được 2 vụ 8 người; năm 2007 Thanh tra kiến nghị xử lý
hành chính 17 người, nhưng các đơn vị chủ quản mới xử lý được 14 người. Trên thực
tế, dù đã có Nghị định số 126/2004/NĐ-CP ngày 26/5/2004 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và
quản lý sử dụng nhà, nhưng do mức độ xử phạt theo quy định còn thấp nên tính răn đe
chưa cao. Ví như qua thanh tra thực hiện ĐTXD chương trình 135 và Trung tâm cụm
xã tại các huyện miền núi Thanh Hoá, số tiền xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị
định 126/2004/NĐ-CP là 45.900.000đồng, quá ít so với mức vi phạm. Ngoài ra, tỉnh
chưa xử lý trách nhiệm đối với thủ trưởng cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng,
TTLP mà không tự mình phát hiện để xử lý. Nội bộ từng đơn vị chưa có biện pháp tích
cực để phát hiện, đấu tranh chống các hành vi tham nhũng, lãng phí.
- Thời gian qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành nhưng
chưa đồng bộ, còn nhiều nội dung chưa rõ và bất cập nên rất khó khăn trong quá
trình thực hiện. Tỉnh chưa chủ động ban hành văn bản quy định tạm thời nhằm tháo
gỡ vướng mắc, nên gây gián đoạn, làm chậm tiến độ triển khai; chưa có văn bản
quy định về sự phối hợp hành động giữa các cơ quan chức năng trong kiểm tra,
thanh tra, điều tra, xét xử, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp trong xử lý các
vi phạm trong ĐTXD; các ngành chức năng như Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Sở Tài chính... chưa có đủ các văn bản hướng dẫn chuyên ngành, liên ngành
nhằm thực hiện, chấn chỉnh các sai phạm dẫn đến các phần tử cơ hội, tiêu cực,
tham nhũng lợi dụng những sơ hở đó để cố ý làm trái gây TTLP trong ĐTXD trên
địa bàn tỉnh.
- Năng lực và trách nhiệm của nhiều chủ đầu tư chưa cao, như chủ đầu tư chưa
quan tâm đến công tác cập nhật các văn bản của nhà nước quy định về quản lý đầu tư
và xây dựng, cán bộ của các ban quản lý dự án vừa yếu lại vừa thiếu. Một số chủ đầu
tư còn phó thác cho tư vấn việc chuẩn bị hồ sơ dự án, đặc biệt có trường hợp còn phó
thác cho nhà thầu. Công tác kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu hồ sơ thiết kế sơ sài nên
không phát hiện được những sai phạm của các nhà thầu tư vấn. Nhiều khi chủ đầu tư
bỏ qua công tác kiểm tra, đánh giá sự phù hợp về năng lực của các nhà thầu tư vấn xây
dựng dẫn đến hồ sơ dự án kém chất lượng, hoặc có sự thông đồng giữa nhà thầu tư vấn
và nhà thầu xây lắp công trình gây TTLP trong ĐTXD.
Ngoài ra, khi triển khai thi công xây lắp, công tác giám sát các loại vật tư, vật
liệu đưa vào công trình thường chưa làm tốt, thường khoán trắng cho các nhà thầu
mà không kiểm tra, kiểm soát. Ban quản lý dự án tư vấn quản lý dự án, giúp chủ
đầu tư thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư, thế nhưng điều
kiện năng lực hoạt động của các ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh thời gian qua
còn nhiều bất cập, việc cử cán bộ kỹ thuật trực tiếp giám sát thi công thường không
đảm bảo trình độ nghiệp vụ chuyên môn, thường là kiêm nhiệm công tác quản lý
nhà nước, cán bộ giám sát năng lực yếu, có khi không đúng chuyên ngành, không
nắm vững các tiêu chuẩn, quy định của nhà nước có liên quan đến phần việc giám
sát, chưa tham mưu đề xuất cho chủ đầu tư đưa ra các quy trình giám sát chất lượng
thi công của nhà thầu nhằm đảm bảo chất lượng công trình, chưa nắm rõ các tiêu
chuẩn xây dựng của Việt Nam có liên quan đến công việc thực hiện trên hiện
trường, dẫn đến giám sát chất lượng không đúng các bước quy định trong quản lý
đầu tư xây dựng. Cán bộ giám sát thi công xây dựng hầu như không thường xuyên
có mặt tại hiện trường để xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thi công, kiểm
tra, giám sát xây lắp theo quy định dẫn đến chất lượng quản lý của chủ đầu tư ở
nhiều công trình còn thấp, có nhiều sai sót.
- Năng lực của các đơn vị tư vấn lập dự án, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát năng
lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Qua kết quả kiểm tra của Sở Xây dựng chỉ có 19/81
doanh nghiệp tư vấn đủ điều kiện năng lực hoạt động được xếp hạng trong từng lĩnh
vực tư vấn [38, tr.1], dẫn đến chất lượng hồ sơ nhiều khi không đảm bảo, số liệu thiếu
chính xác gây nên TTLP.
- Về phương diện các nhà thầu xây lắp, hiện nay trên địa bàn tỉnh, các doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh hành nghề xây dựng phát triển nhanh về số lượng, nhưng
năng lực không đồng đều, nhiều doanh nghiệp không có đủ phương tiện kỹ thuật, xe
máy thiết bị thi công, thiếu cán bộ, thiếu vốn, nhưng vẫn tham gia vào công tác thi
công xây lắp. Mặt khác do chạy theo lợi nhuận, một số nhà thầu đã tìm mọi cách ăn
bớt hoặc đánh tráo vật tư vật liệu, khai khống khối lượng, không thực hiện theo đúng
quy trình, quy phạm về kỹ thuật xây lắp làm cho công trình bị rút ruột, có chất lượng
thấp gây TTLP. Tất cả những yếu kém đó chưa được tỉnh Thanh Hoá chú trọng khắc
phục nên hiện tượng TTLP khó thuyên giảm.
Chương 3
phương hướng và giải pháp tăng cường chống
thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá
3.1. Phương hướng tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá trong thời gian tới
3.1.1. Dự báo xu hướng đầu tư xây dựng và tình hình thất thoát, lãng phí từ
vốn ngân sách nhà nước trong những năm tới ở tỉnh Thanh Hoá
Trong những năm gần đây vốn đầu tư cho xây dựng nói chung đều tăng, vốn
ngân sách nhà nước do tỉnh quản lý cũng liên tục tăng, đặc biệt Chính phủ ngày càng
phân cấp mạnh cho địa phương, tăng quyền hạn, trách nhiệm cho các địa phương. Ví
dụ như năm 2003 vốn ngân sách do địa phương quản lý chỉ có 546,4 tỷ đồng thì đến
năm 2006 đã tăng lên là 1.062,2 tỷ đồng, năm 2007 tăng lên đến 1.897,7 triệu đồng và
dự kiến năm 2008 là 2.045,6 tỷ đồng (Bảng 2.2). Dự kiến bình quân các năm tiếp theo
nguồn vốn này tăng khoảng 20% năm. Cụ thể là, trong những năm tới đây ngân sách
tỉnh sẽ tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và phân cấp mạnh cho thành phố Thanh
Hoá, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để ra đời khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn, xây dựng khu đô
thị Ngọc Lặc với chức năng là trung tâm kinh tế, văn hoá của các huyện miền núi, quy
hoạch và phát triển hệ thống thị trấn, thị tứ trên các tuyến giao thông, các tụ điểm kinh tế,
phấn đấu tỷ lệ đô thị hoá đạt 20% trở lên vào năm 2020 [4, tr.55].
Thời gian tới tỉnh cũng tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện Quyết định 253 của
Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc
phòng – an ninh miền Tây Thanh Hoá [4, tr.56]. Cụ thể, về xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội là: Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi khu vực
miền núi; hệ thống kênh mương để khai thác dự án thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt; hệ
thống tiêu Đông – Thiệu – Thị, tiêu úng sông Hoàng, sống Yên, sông Nhơm...; quan
tâm đầu tư các công trình thuỷ lợi nhỏ miền núi, bảo đảm nước sinh hoạt, từng bước
giải quyết tưới cho cây công nghiệp tập trung; nâng cấp hệ thống đê điều, đặc biệt là
đê biển để bảo vệ sản xuất và đảm bảo an toàn cho nhân dân, đẩy nhanh xây dựng
cảng tổng hợp Nghi Sơn; đến năm 2010 hoàn chỉnh 3 bến thuộc cụm cảng địa
phương ; xây mới cảng sông Lèn ; đầu tư và nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh
lộ, chú trọng kiên cố hoá mặt đường, công trình thoát nước, hệ thống đường giao
thông nông thôn ; xây dựng các tuyến đường vùng nguyên liệu, các xã chưa có đường
ô tô, đường phía Tây Thanh Hoá, phấn đấu đưa hệ thống đường bộ của cả tỉnh đạt
35% mặt đường được kiên cố hoá ; đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá
như xây âu trú bão Lạch Hới, Hoà Lộc, hoàn thiện và nâng cấp, mở rộng các cảng cá
Lạch Bạng, Lạch Hới, đầu tư các cảng cá Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Sung... ; đầu
tư phát triển lưới điện trung, hạ thế; mở rộng các trạm biến áp 220KV Ba Chè, Nghi
Sơn, đầu tư mới các trạm biến áp 110KV; hoàn thành dự án đầu tư xây dựng và cải
tạo, nâng cấp, chống quá tải mạng lưới điện nông thôn. Từ năm 2007 trở đi có 100%
số xã được dùng điện. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất các trường đại học, cao đẳng,
một số trường chuyên nghiệp, đẩy nhanh chương trình kiên cố hoá trường lớp học các
cấp; nâng cấp, hiện đại hoá Bệnh viện đa khoa tỉnh và các bệnh viện tuyến huyện; xây
dựng xong Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc giai đoạn I; đầu tư
xử lý chất thải, nước thải các bệnh viện; từng bước đầu tư xây dựng trung tâm y tế dự
phòng từ tỉnh đến huyện. Hoàn thiện Trung tâm truyền hình kỹ thuật số; xây dựng
Trung tâm phát lại truyền hình, phát thanh tại Bá Thước. Quy hoạch Khu liên hợp thể
thao và xây dựng Trung tâm đào tạo vận động viên Bắc Trung Bộ. Cải tạo, nâng cấp
các trung tâm văn hoá, nhà bảo tàng, nhà hát... Đầu tư nâng cấp xây dựng hạ tầng kỹ
thuật thành phố Thanh Hoá và các đô thị theo hướng hiện đại và đồng bộ [4, tr.58-60].
Vốn đầu tư cho xây dựng từ nguồn ngân sách tỉnh trong những năm sắp tới sẽ
góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho công nghiệp
hoá tỉnh nhà. Tuy nhiên cùng với sự phân cấp mạnh vốn ngân sách xuống huyện, xã
theo Quyết định số 4090/2007/QĐ-UBND ngày 21/12/2007 của UBND tỉnh thì tình
hình tham nhũng, TTLP sẽ ngày càng khó lường. Tình trạng “chạy dự án” để xin được
cấp vốn cho các công trình của địa phương, tình trạng các dự án đầu tư không hiệu
quả, lãng phí do chạy theo phong trào, các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu, thi
công, giám sát, đền bù vẫn sẽ diễn ra. TTLP trong lĩnh vực ĐTXD bằng vốn NSNN
vẫn sẽ lớn và nghiêm trọng. Đối tượng tham nhũng gây TTLP trong lĩnh vực ĐTXD
vẫn là người có quyền hạn trong việc quản lý và sử dụng tài sản nhà nước do thoái
hoá, biến chất tìm cách chiếm đoạt tài sản đó, đặc biệt chúng sẽ tìm cách móc nối với
những cán bộ có quyền ra quyết định, chủ trương đầu tư, duyệt dự toán, thiết kế kỹ
thuật, đấu thầu...và tập trung vào các dự án có vốn NSNN. Đây là nguồn vốn dễ bị
“gặm nhấm” nhất vì các đối tượng có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để chiếm đoạt tài sản luôn cho rằng tiền của Nhà nước là “tiền chùa” và thực tế
vấn đề quản lý vốn ĐTXD từ NSNN của chúng ta còn nhiều sơ hở.
Tình trạng quan liêu, thiếu trách nhiệm gây lãng phí, tình trạng thông đồng giữa
bên A và bên B để trích tỷ lệ vốn công trình chia nhau và thông đồng quyết toán khống
các hạng mục công trình vẫn sẽ diễn ra ở nhiều dự án xây dựng, trong đó thủ đoạn
tham nhũng phổ biến vẫn là khai khống khối lượng xây lắp, đền bù giải phóng mặt
bằng, nâng khống giá vật tư nguyên liệu, thay đổi chủng loại vật tư nhằm tạo chênh
lệch rút tiền chêng lệch và các thủ đoạn có tính phổ biến khác.
Trong Luật Xây dựng, mọi hoạt động xây dựng sẽ được quy định một cách chặt
chẽ và cụ thể. Do đó, các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực ĐTXD sẽ hoạt động với
những thủ đoạn tinh vi hơn, sự thông đồng giữa bên A và bên B sẽ kín đáo hơn.
Xuất phát từ những tình hình nêu trên, đặc biệt là trong tình trạng đã có sự phân
cấp mạnh quyết định đầu tư, quản lý đầu tư xuống cho huyện, xã thì đòi hỏi phải có
những phương hướng, giải pháp cụ thể, đồng bộ và hữu hiệu nhằm năng cao hiệu quả
công tác chống TTLP trong lĩnh vực ĐTXD, bảo vệ an toàn tài sản nhà nước, vì sự bền
vững của các công trình, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từng
bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
3.1.2. Phương hướng tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư
xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá
3.1.2.1. Chống thất thoát, lãng phí phải làm triệt để, có hiệu quả và làm
thường xuyên, đồng bộ
Thời gian qua, TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN diễn biến rất phức tạp, mức độ
thiệt hại nghiêm trọng. Hầu hết các công trình ít, nhiều đều xảy ra TTLP, và xảy ra ở
tất cả các giai đoạn của quá trình thực hiện dự án từ công tác quy hoạch, kế hoạch,
công tác điều tra, khảo sát, công tác chuẩn bị đầu tư, công tác quyết định đầu tư , công
tác giải phóng mặt bằng đến công tác triển khai đầu tư xây dựng và quyết toán hoàn
thành công trình. Tình trạng TTLP có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Do đó
vấn đề đặt ra là phải thực hiện việc phòng ngừa, chống TTLP một cách toàn diện, có
hiệu quả và phải làm thường xuyên, từ việc xây dựng chủ trương, chính sách, cơ chế
trong thực hiện quản lý ĐTXD đến việc tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước
trong quản lý ĐTXD; từ việc nâng cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn, phẩm chất
đạo đức của các cá nhân có liên quan đến việc tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn,
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình thực hiện dự
án. Khi có sai phạm thì phải kiên quyết xử lý dứt điểm, nghiêm minh. Mặt khác, phải
luôn nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp khả thi trong việc phòng chống TTLP vốn
NSNN trong ĐTXD; kịp thời bổ sung, sửa đổi những quy định chưa phù hợp, chưa sát
tình hình thực tiễn.
Cần chỉ đạo sát sao quá trình triển khai chủ trương, chính sách nhằm chống
TTLP trong ĐTXD bằng nguồn vốn NSNN. Tránh hiện tượng chỉ đạo ban đầu thì rầm
rộ, kiểm tra, giám sát thường xuyên, các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo, nhưng sau
một thời gian thường ít được nhắc đến, thậm chí bị quên lãng. Nếu không chống TTLP
thường xuyên, liên tục thì TTLP sẽ tái diễn, thậm chí với mức độ nghiêm trọng hơn,
nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, do áp lực cám dỗ của tiền bạc quá lớn, số cán
bộ thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham ô, tham nhũng lợi dụng đục
khoét tiền của của Nhà nước trong các công trình xây dựng bằng vốn NSNN có xu
hướng tăng lên. Chính vì thế hiệu quả chống TTLP vốn NSNN phụ thuộc vào sự bền
bỉ, kiên tâm của những người có trách nhiệm đấu tranh chống TTLP. Nói cách khác,
để duy trì kết quả chống TTLP vốn NSNN trong ĐTXD cần thiết phải tiến hành các
biện pháp thường xuyên, liên tục, không để khoảng cách, khoảng trống, kẽ hở cho tiêu
cực tái hiện, hoành hoành, không cho phép các hành vi tiêu cực tìm cách ẩn giữa các
đợt đấu tranh chống TTLP.
Chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, trước hết là trách nhiệm của các ngành, các cấp hữu quan và các cơ quan chức
năng như cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương, quyết định ĐTXD, cơ quan quản
lý nhà nước cấp vốn, các ngành quản lý nhà nước về xây dựng, các đơn vị chủ đầu tư,
các doanh nghiệp làm công tác tư vấn, doanh nghiệp thi công xây dựng... Ngoài ra
phải kể đến các cơ quan hành pháp, tư pháp như thanh tra, điều tra, kiểm sát, kiểm
tra..., cơ quan giám sát như HĐND, Uỷ ban mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị và
các cơ quan báo chí ở các cấp, các ngành, các địa phương có đầu tư xây dựng. Vì vậy,
muốn chống TTLP có chất lượng, hiệu quả phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ
quan này ngay từ đầu và trong cả quá trình ĐTXD. Tránh tình trạng ở cấp này, khâu
này, cơ quan này thì làm tốt mà nơi khác, cấp khác, cơ quan khác không làm hoặc làm
nửa vời, thậm chí đứng ngoài cuộc dẫn đến kết cục không những chống TTLP không
có hiệu quả mà còn gây khó khăn, phức tạp thêm cho công tác này. ở địa phương, các
cơ quan chức năng cần có sự phối hợp đồng bộ để chống TTLP trong ĐTXD từ vốn
NSNN, bao gồm tất cả các cơ quan, từ cơ quan quyết định chủ trương đầu tư như
UBND tỉnh, UBND huyện, các chủ đầu tư như sở, ban, ngành hoặc UBND huyện, xã,
đến các đơn vị tư vấn, các sở chuyên ngành tham mưu thẩm định xây dựng, các cơ
quan bảo vệ pháp luật như Thanh tra tỉnh, Công an tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh,
Toà án tỉnh, các cơ quan giám sát như HĐND, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị,
các cơ quan báo chí... và kể cả Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ. Nếu các cơ quan, đơn vị này
mà có sự phối hợp, gắn kết đồng bộ trong phát hiện, xử lý thì chắc chắn sẽ hạn chế đến
mức thấp nhất TTLP trong ĐTXD trên địa bàn tỉnh
3.1.2.2. Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách
nhà nước phải bắt đầu từ việc tuyên truyền, động viên và nâng cao trách nhiệm của
người có liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng
Nói về nguyên nhân chủ yếu của TTLP trong ĐTXD bằng vốn NSNN, nhiều
nhà quản lý thường đổ lỗi là do “cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng
chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; do sự bất cập giữa thể chế nhà nước với quy luật thị
trường và xã hội; do thể chế tổ chức và quản lý doanh nghiệp chưa theo kịp các cải
cách về luật lệ và chính sách kinh tế...” Điều đó cần phải được nhìn nhận lại. Có đúng
là tình trạng TTLP trong ĐTXD bằng vốn NSNN trong thời gian qua do nguyên nhân
chủ yếu là cơ chế, chính sách hay không? Chúng ta quay lại thời kỳ bao cấp cách đây
hơn hai chục năm, lúc ấy làm gì có đầy đủ các văn bản pháp luật như bây giờ. Các
công trình xây dựng từ NSNN, nếu để xảy ra lãng phí vài khối bê tông, vài tấc gỗ,
công nhân lấy vài “cặp lồng” xi măng, vài thanh sắt, đã bị lên án, bị kỹ luật rất nặng
chứ đâu có chuyện thất thoát, lãng phí lớn và nghiêm trọng như hiện nay. Phải chăng
nếu những người có liên quan trong quản lý ĐTXD có tâm trong sáng, làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, không tiêu cực, tham nhũng thì chắc chắn sẽ không xảy ra
TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN nghiêm trọng như những năm vừa qua. Có thể nói
rằng nguyên nhân thiếu, chưa đồng bộ về văn bản pháp luật về cơ chế chỉ là nguyên
nhân khách quan, dễ bị lợi dụng nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu
dẫn đến TTLP trong ĐTXD từ NSNN. Nguyên nhân về con người có liên quan trong
quá trình quản lý ĐTXD là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu của sự TTLP trong ĐTXD
từ NSNN. Điều đó thể hiện ở chỗ tinh thần trách nhiệm yếu kém của người lãnh đạo,
của công chức, của các chủ thể thị trường. Đối với người lãnh đạo đó là bệnh chạy
theo hình thức, bệnh cục bộ địa phương, bệnh quan liêu mệnh lệnh, coi thường pháp
luật. Đối với công chức đó là bệnh xu nịnh cấp trên, là thói quen xin – cho, hạch sách,
thiếu ý thức trách nhiệm. Đối với chủ thể thị trường, đó là bệnh coi thường trách
nhiệm đối với hợp đồng kinh tế, lẩn, lách pháp luật, chạy theo lợi nhuận không chính
đáng. Những căn bệnh đó dẫn tới chỗ con người bị sa sút đạo đức thể hiện dưới dạng
đòi hối lộ, đưa đút lót, thông đồng, móc ngoặc, gian lận..Ngoài ra còn phải kể đến
năng lực yếu kém của con người trong các khâu của quá trình đầu tư.
Với những nhận định như vậy, chúng ta cần tập trung vào việc tuyên truyền,
giáo dục ý thức, trách nhiệm, vận động quần chúng bảo vệ tài sản nhà nước. Do vậy,
trong công tác phòng chống TTLP trong ĐTXD từ NSNN phải biết phát huy vai trò
tích cực của quần chúng, cụ thể là đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong các cơ
quan, doanh nghiệp có hoạt động ĐTXD để họ tự giác tham gia bảo vệ tài sản và tích
cực tố giác mọi hành vi tham nhũng gây TTLP. Để đạt được yêu cầu này, trước hết,
phải dựa vào cấp uỷ Đảng và các tổ chức quần chúng của đơn vị chủ quản để chủ động
phối hợp, phổ biến và tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ NSNN. Nội dung tuyên truyền
có thể được lồng ghép với chương trình khác của các ngành, các cấp và cần tập trung
vào các địa bàn trọng điểm, các công trình xây dựng lớn, trong đó chú ý vào các khâu,
các giai đoạn quan trọng trong quá trình đầu tư, thi công xây lắp mà thường có TTLP.
Tuyên truyền những nội dung cơ bản của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, Quy
chế đấu thầu và các văn bản có liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng, công khai các
dự án ĐTXD cả về quy mô, vốn, đơn vị tư vấn, đơn vị thi công xây lắp...trên các
phương tiện thông tin đại chúng để quần chúng cùng tham gia giám sát.
3.2. Giải pháp tăng cường chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
từ vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hoá trong thời gian tới
3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng
3.2.1.1. Hoàn thiện quy chế phân cấp quản lý đầu tư xây dựng từ vốn ngân
sách nhà nước
Phân cấp trong quản ĐTXD từ vốn NSNN phải nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư này, tăng cường tính chủ động, tự chủ trong việc quyết định đầu tư
và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, các địa phương trong việc lập, thẩm định và phê
duyệt dự án đầu tư (quyết định đầu tư).
Sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, có trọng tâm, trọng điểm nhằm không
ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư, mà còn đáp ứng được các yêu cầu, chủ trương phát
triển kinh tế xã hội của các ngành, các địa phương, tạo điều kiện cho chủ đầu tư thực
hiện tốt các trương trình, dự án đề ra. Có hình thức chế tài đủ mức đối với các cá nhân,
tổ chức không sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, đúng trọng tâm, trọng điểm làm ảnh
hưởng đến hiệu quả đầu tư. Tăng cường kiểm tra, xác minh trước khi ra quyết định đầu
tư để tránh hiện tượng một số địa phương, do chưa được phân cấp, nên khi UBND tỉnh
có chủ trương hỗ trợ đầu tư hoặc cho phép đầu tư một số công trình, thì dù nhu cầu
thực tế của địa phương chưa cần thiết nhưng vẫn xin chủ trương đầu tư để tranh thủ
nguồn vốn hỗ trợ, nhiều khi còn tính toán đầu tư vượt quy mô, công xuất để tranh thủ
xin được nhiều kinh phí ở cấp trên, trong khi cân đối vốn ngân sách địa phương không
đảm bảo. Chế tài nghiêm khắc đối với cá nhân và tổ chức sử dụng vốn tuỳ tiện, cần
đâu làm đó, không có kế hoạch, không cân đối vốn đầu tư dẫn đến hậu quả công trình
cần thiết thì không được đầu tư, ngược lại công trình chưa cần thiết, không nằm trong
kế hoạch thì lại được đầu tư, công trình bị kéo dài thời gian thi công… Nói cách khác,
để quản lý tốt nguồn vốn đầu tư, ngoài việc thực hiện nghiêm túc các quy định của
Nhà nước về sử dụng vốn ĐTXD thì tỉnh nên phân cấp rõ, giao quyền tự chủ minh
bạch cho cấp dưới, buộc họ tự chịu trách nhiệm về kết quả ĐTXD bằng nguồn vốn
NSNN.
Cụ thể, tỉnh Thanh Hoá cần thực hiện các nội dung sau trong phân cấp quản lý
đầu tư:
- Căn cứ vào nhu cầu cần thiết đầu tư của địa phương, thông qua kế hoạch
ĐTXD, căn cứ vào quy mô dân số, diện tích tự nhiên và tốc độ phát triển của địa phương,
trên cơ sở kế hoạch cân đối vốn của ngân sách tỉnh, ngay từ quý IV của năm trước năm kế
hoạch, UBND tỉnh thẩm định trình HĐND tỉnh phê duyệt cấp ngân sách ĐTXD về cho
huyện ngay trong đầu năm kế hoạch.
- Trên cơ sở danh mục công trình được đầu tư thì UBND huyện được chủ động
triển khai lập dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, và triển khai các công việc
tiếp theo, kể cả quyết toán hoàn thành xây dựng công trình.
Để làm được như vậy các địa phương phải chịu trách nhiệm về cân đối vốn đối
ứng để cung cấp kịp thời, đầy đủ vốn đảm bảo thời gian thi công xây dựng công trình,
phải chịu trách nhiệm về hiệu quả ĐTXD công trình, và chịu trách nhiệm toàn diện về
tiến độ, chất lượng của công trình. Nói cách khác, cần phân cấp đầu tư để gắn trách
nhiệm của các đơn vị, địa phương được phân cấp với kết quả thực hiện đầu tư các dự
án công trình xây dựng từ khâu đầu đến khâu cuối, từ đó xác định rõ cơ sở để xử lý
nghiêm các đơn vị, địa phương làm sai dẫn đến TTLP trong ĐTXD bằng nguồn vốn
NSNN.
3.2.1.2. Đổi mới công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
Để quy hoạch của Thanh Hoá thực sự là sự sắp xếp, bố trí hợp lý các yếu tố của
lực lượng sản xuất, các nguồn lực và tiềm năng của tỉnh phù hợp với tiềm năng của đất
nước, của một vùng từ đó có thể tổ chức tốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội, phân
công và phân công lại lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, nhờ đó mà chống TTLP
một cách bền vững, quy hoạch tỉnh Thanh Hoá cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, thành phố.
Quy hoạch tổng thể cần quy định rõ chức năng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh,
thành phố. Nội dung quy hoạch tổng thể cần thể hiện rõ sự sắp xếp, phân bổ các ngành
kinh tế, xã hội, các điểm dân cư, khu hành chính, thương mại, y tế, giáo dục... trên địa
bàn. Quy hoạch tổng thể phải bao quát được quy hoạch tổng hợp phát triển tất cả các
ngành trên địa bàn tỉnh phù hợp với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, dân số và lao
động, phong tục, tập quán, ngành nghề truyền thống địa phương. Khi triển khai làm dự
án quy hoạch tổng thể phải có sự phối hợp giữa các ngành kinh tế xã hội liên quan với cấp
quản lý đơn vị, lãnh thổ để đảm bảo tính thống nhất, cân đối lợi ích trước mắt và lâu dài.
- Quy hoạch phát triển ngành phải là sự sắp xếp, bố trí các yếu tố theo ngành
hợp lý nhằm tổ chức, quản lý được sự phát triển ngành phù hợp với các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên, thiên nhiên, đặc điểm dân số và lao động...của tỉnh thể hiện trên các
vùng để tổ chức và xây dựng phương án phát triển ngành. Khi xây dựng quy hoạch
phát triển ngành, cơ quan chủ quản ngành phải khảo sát, điều tra, thăm dò các điều
kiện tài nguyên thiên nhiên, phong tục tập quán của dân cư...trên các vùng của tỉnh,
thành phố để phân tích, đánh giá khả năng phát triển của ngành, đồng thời bàn bạc và
phối hợp với UBND tỉnh, thành phố để đảm bảo điều kiện cần thiết cho sự phát triển
của ngành đó. Như vậy, quy hoạch phát triển ngành phải đảm bảo tính đồng bộ và
thống nhất giữa ngành và các đơn vị lãnh thổ có liên quan, phải tạo điều kiện để sắp
xếp, bố trí các yếu tố của lực lượng sản xuất phù hợp với phát triển lãnh thổ.
- Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn phải là sự sắp xếp bố trí các cụm dân
cư tập trung trên từng khu vực lãnh thổ, phù hợp với chức năng hoạt động kinh tế – xã
hội – chính trị của vùng, của khu vực lãnh thổ đó. Quy hoạch đô thị phải gắn với quy
hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành để xác định quy mô các đặc điểm
dân cư, khu vực hành chính, trung tâm thương mại, chính trị...qua đó khẳng định vị trí,
chức năng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của một vùng, một tỉnh, một
khu vực. Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn phải gắn với đặc thù của từng vùng
lãnh thổ trên địa bàn tỉnh, tránh tình trạng quy hoạch đô thị là xây dựng các trung tâm
dân cư, thương mại chung chung.
- Quy hoạch xây dựng phải đảm bảo bố trí mặt bằng cụ thể để thi công xây
dựng một công trình cụ thể, một dự án cụ thể khi dự án đó được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, đã được cấp đất xây dựng. Quy hoạch xây dựng phải tuân thủ các nội dung
của quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn. Quy hoạch xây
dựng càng cụ thể, càng chi tiết, mặt bằng xây dựng càng bảo đảm chặt chẽ thì việc triển
khai thực hiện dự án càng thuận lợi.
Hơn nữa, để giảm thiểu TTLP trong ĐTXD, tỉnh cần ưu tiên cho công tác quy
hoạch, làm cho quy hoạch thực sự đi trước một bước. Trước mắt tỉnh cần phải khẩn
trương xây dựng dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm
2020 và có tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với tiềm năng, thế mạnh, mục tiêu chiến
lược, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, nên tiến hành lập, rà soát, điều chỉnh các quy
hoạch theo hướng đảm bảo sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch
xây dựng với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, xóa bỏ tình trạng khép kín,
cục bộ. Thực hiện công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch. Nghiên cứu đổi
mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng đối
với việc triển khai thực hiện đầu tư theo quy hoạch được phê duyệt. Tăng cường và
nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, công tác dự báo và cung cấp thông tin phục
vụ công tác quy hoạch.
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng khâu phê duyệt, quản lý dự án đầu tư từ vốn
ngân sách nhà nước
Cơ quan phê duyệt dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ dự án đầu tư, khi cần thiết
phải tranh thủ ý kiến của các chuyên gia kinh tế, các nhà chuyên môn, nhà khoa học có
uy tín trong lĩnh vực đầu tư để xem xét tính hiệu quả, tính kinh tế, tác dụng của dự án
trên tất cả các mặt, sau đó mới quyết định, nhất là đối với những dự án lớn có ảnh
hưởng tới kinh tế – xã hội của địa phương. Xác định rõ trách nhiệm của người quyết
định đầu tư trong mối liên quan đến chất lượng, hiệu quả của từng dự án công trình.
Kiên quyết thực hiện yêu cầu người quyết định đầu tư phải sử dụng tốt các cơ quan,
đơn vị tham mưu, cơ quan tư vấn để giúp mình xét duyệt các phương án đầu tư, thẩm
định đánh giá dự án đầu tư. Ngoài ra, tất cả các dự án đầu tư phải được công bố công
khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư, tên dự án, quy mô xây
dựng, phạm vi chiếm đất, vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện, đơn vị
tư vấn...tại địa điểm thực hiện dự án đầu tư và trụ sở HĐND xã, phường, thị trấn nơi
có dự án để nhân dân biết và tham gia giám sát, kiểm tra
Thực hiện quy định của Luật Xây dựng, Nghị định 16/2005/NĐ-CP, Nghị định
112/2006/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 02/2007/TT-BXD của Bộ Xây dựng về
nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, theo đó chủ đầu tư phải chịu trách
nhiệm toàn diện về mọi mặt từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc
hoàn thành dự án, chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng, tiến độ xây dựng và hiệu
quả của dự án, về lựa chọn giám đốc điều hành dự án hoặc ban quản lý dự án. Chấm
dứt tình trạng giao cho người không có đủ điều kiện, năng lực và chuyên môn, nghiệp
vụ quản lý dự án. Chủ đầu tư phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý hành chính hoặc xử
lý hình sự khi có quyết định sai thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Tỉnh cũng nên
kiện toàn, sắp xếp lại các ban quản lý dự án, xoá bỏ các ban quản lý không đủ điều
kiện năng lực, thành lập các ban quản lý chuyên nghiệp hoạt động theo mô hình tư vấn
quản lý dự án.
Trước mắt, các chủ đầu tư phải làm đúng trách nhiệm và trực tiếp thực hiện đầy
đủ các phần việc thuộc trách nhiệm của mình, không khoán trắng cho tư vấn và đặc
biệt là các nhà thầu xây lắp, nhất là khâu xin chủ trương đầu tư, ghi vốn kế hoạch cho
công trình..., chấn chỉnh công tác tổ chức quản lý chất lượng công trình. Trong quá
trình triển khai công tác khảo sát, thiết kế, chủ đầu tư phải cử cán bộ có nghiệp vụ
kiểm tra, giám sát và nghiệm thu quá trình thực hiện về quy trình, khối lượng, chất
lượng nhằm đảm bảo chất lượng hồ sơ khảo sát và thiết kế công trình xây dựng.
3.2.1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát công tác đầu tư
xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước
Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong đầu tư xây
dựng ở tỉnh được tiến hành theo kế hoạch, thanh tra, kiểm tra, giám sát đột xuất và
thanh tra, kiểm tra theo đơn thư tố giác, thanh tra, kiểm tra do các cơ quan thông tin
đại chúng và nhân dân phản ánh. Cách làm đó dẫn đến hệ quả là số dự án được thanh
tra, kiểm tra, giám sát chưa bao quát hết các công việc cần thanh tra, các sai phạm bị
phát hiện phần lớn còn dừng lại ở mức cảnh cáo xử lý nội bộ và mức độ vị phạm còn
dừng lại ở mức xử lý hành chính vì vậy tính răn đe còn hạn chế. Trong những năm
tới, với xu hướng phân cấp mạnh về quản lý đầu tư cho các ngành, các cấp, trong khi
các cấp huyện, thành phố, thị xã, xã, phường, thị trấn chưa đủ điều kiện năng lực
thực hiện tốt ở tất cả các khâu của quá trình ĐTXD, cần tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên các dự án đầu tư từ vốn NSNN theo hướng sau:
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định được quyết định đầu tư có phù hợp
với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư hay không để xử lý ngay từ đầu, tránh gây
ra hậu quả rồi mới đi thanh tra.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định rõ các sai phạm dẫn đến TTLP vốn
ĐTXD, có kết luận và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với cá nhân,
tập thể sai phạm.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải chỉ cho các chủ đầu tư, các cấp quản lý và
các đơn vị có liên quan những thiếu sót, tồn tại để khắc phục.
- Ngoài ra qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cơ quan thanh tra phải giúp
các đơn vị chức năng phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý đầu tư của các
cấp để uốn nắn, hướng dẫn kịp thời.
Để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần nâng cao tinh thần trách
nhiệm, đạo đức, phẩm chất của cán bộ thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần kiện toàn và
tăng cường cán bộ, điều kiện vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cho cơ quan
thanh tra các cấp, cần thường xuyên giữ vững và nâng cao uy tín của đội ngũ cán bộ
làm công tác thanh tra… Hơn nữa, để duy trì kỷ luật thanh tra, cần có chế độ thù lao
xứng đáng cho cán bộ thanh tra các cấp nhằm đảm bảo cho đội ngũ này an tâm công
tác, toàn tâm, toàn ý vào công việc, đồng thời kiên quyết nghiêm trị những cán bộ
thanh tra lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để tham ô, vụ lợi, thông đồng, tiếp
tay cho kẻ xấu làm TTLP vốn nhà nước. Ngoài ra, phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với việc bảo vệ tài sản nhà nước, vận động
quần chúng tham gia giám sát, phản ảnh, tố giác những người có biểu hiện tiêu cực
dưới mọi hình thức như: tổ chức đường dây nóng, bố trí hòm thư tố giác tội phạm
tham nhũng...Kịp thời động viên, khen thưởng những quần chúng có thành tích trong
phong trào bảo vệ tài sản nhà nước, phát hiện, đấu tranh chống TTLP vốn nhà nước.
Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các cơ quan báo chí tích cực tham gia giám sát, đi
đầu trong việc chống tham nhũng, TTLP, đưa các vụ việc tiêu cực, TTLP công khai ra
công luận nhằm tạo áp lực xã hội răn đe, ngăn chặn những hành vi tiêu cực làm TTLP
tiền của, tài sản của nhà nước, của nhân dân.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ
3.2.2.1. Kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án tiến tới chuyển đổi thành
công ty tư vấn quản lý dự án
Để tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng,
tiến độ xây dựng công trình kể từ giai đoạn chẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi
nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính
khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật cần cải tổ mô hình ban quản
lý dự án đầu tư vốn nhà nước, cụ thể là:
- Đối với trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án, Ban quản lý dự
án phải là người đại diện cho chủ đầu tư thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý
đầu tư xây dựng của công trình. Ban quản lý dự án phải chịu trách nhiệm trước chủ
đầu tư và pháp luật theo nhiệm vụ được giao và quyền hạn được uỷ quyền. Chất lượng
của công trình, dự án có đảm bảo theo yêu cầu thiết kế hay không, dự án có xảy ra
TTLP hay không cần quy về trách nhiệm của ban quản lý dự án và năng lực quản lý,
chuyên môn của cán bộ. Trước mắt cần khẩn trương bổ xung các điều kiện và năng lực
còn thiếu cho các ban quản lý dự án nhóm B, C của các ngành, địa phương mà hiện tại
chưa đủ điều kiện hoạt động theo quy định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày
07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Cố gắng tránh
tình trạng giám đốc các ban quản lý là cán bộ kiêm nhiệm (thường là chánh, phó thủ
trưởng đơn vị) không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về xây dựng. Về lâu dài, cần
kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án không những đảm bảo đủ tiêu chuẩn, điều
kiện hoạt động theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP, mà còn phù hợp với từng dự án và
phải hoạt động có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu đó, cần tuyển chọn, bổ sung cán bộ
cho các ban quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án, loại cấp
công trình và công việc. Cán bộ quản lý dự án phải có văn bằng chứng chỉ đào tạo phù
hợp với công việc được giao và chứng chỉ đó phải do các cơ sở đào tạo hợp pháp cấp.
Giám đốc quản lý dự án phải có trình độ đại học thuộc chuyên ngành xây dựng phù
hợp với yêu cầu của dự án và đáp ứng các điều kiện tương ứng. Do Thanh Hoá hàng
năm phải quản lý gần 200 đầu mục công trình ĐTXD, trong đó chủ yếu là các dự án
nhóm C, mà chủ yếu là đầu tư xây dựng các lớp học, các trung tâm y tế huyện, trụ sở
các xã, phường, thị trấn, các đường giao thông liên xã, các trạm bơm, kênh mương nội
đồng...nên việc kiện toàn bộ máy ban quản lý dự án theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP
cho thấy trước là rất khó khăn, đòi hỏi quyết tâm cao và cách làm thích hợp của
UBND tỉnh.
Theo chúng tôi, Thanh Hoá nên triển khai nhanh việc thực hiện Luật Xây dựng,
Nghị định 16/2005/NĐ-CP bằng việc thành lập các đơn vị tư vấn quản lý dự án để làm
công tác quản lý dự án chuyên nghiệp, vì làm như vậy sẽ giải quyết được các bất cập
đã nêu về quản lý ĐTXD gây TTLP ở Thanh Hoá. Hơn nữa, với mô hình đơn vị tư
vấn, chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức tư vấn quản lý
dự án có đủ điều kiện, năng lực tổ chức quản lý để giúp chủ đầu tư quản lý dự án một
cách hiệu quả, đồng thời giảm nhẹ công việc nghiệp vụ cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư chỉ
nên giữ lại trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý
dự án. Tư vấn quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo thoả thuận trong hợp
đồng ký kết giữa chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án. Tư vấn quản lý dự án chịu trách
nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng.
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có 05 Ban quản lý dự án của các sở Xây
dựng, Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đủ điều kiện xếp hạng
1 và một số Ban quản lý dự án thuộc thành phố, thị xã và một số sở như Giáo dục và
Đào tạo, Y tế đủ điều kiện xếp hạng 2. Các Ban quản lý dự án này hoạt động theo mô
hình sự nghiệp tự trang trải từ nguồn phí quản lý dự án. Trước mắt tỉnh cần có chính
sách hoàn thiện các ban quản lý này để chuyển đổi thành các công ty tư vấn quản lý dự
án, ngoài ra bổ sung chức năng cho một số đơn vị tư vấn đủ điều kiện hoạt động tư vấn
quản lý dự án và tỉnh cần ban hành văn bản quy định các chủ đầu tư không đáp ứng
yêu cầu trình độ chuyên môn, bắt buộc phải hợp đồng với các đơn vị tư vấn quản lý dự
án để quản lý dự án. Đối với các dự án lớn thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn tư vấn
quản lý dự án.
3.2.2.2. Nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của cán bộ tham
gia quản lý đầu tư xây dựng
Từ thực trạng công tác quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh trong thời gian
qua cho thấy: công trình đạt chất lượng tốt hay không tốt, xét cho cùng, một phần quan
trọng phụ thuộc vào năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người
cán bộ làm công tác quản lý ĐTXD trong bộ máy nhà nước. Trong đó, tình trạng thiếu
trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, vì thành
tích, không coi trọng tính độc lập, tính khách quan là nguyên nhân quan trọng gây
TTLP.
Để công tác quản lý đầu tư xây dựng có hiệu quả phải thực hiện tốt việc đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia công tác quản lý ĐTXD cả về lĩnh vực chuyên
môn, lĩnh vực quản lý. Đồng thời phải giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp để đảm bảo đủ cán bộ quản lý có năng lực, vừa hồng vừa chuyên. Vấn đề đặt ra
là đào tạo cái gì, đào tạo như thế nào để đội ngũ cán bộ này vừa nâng cao được trình
độ chuyên môn, vừa nâng cao được phẩm chất đạo đức. Muốn vậy, cần xác định cho
được nội dung và chương trình đào tạo phù hợp với công việc mà họ đang đảm nhiệm.
Ví dụ, đào tạo cán bộ làm quản lý quy hoạch đô thị phải có chương trình đào tạo khác
với công chức quản lý thi công; chương trình đào tạo cán bộ quản lý vật liệu xây dựng
khác với chương trình đào tạo cán bộ quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị...Thời
gian đào tạo phải phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng lĩnh vực, trong đó chú trọng
thời gian tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu; chương trình đào tạo, ngoài phần lý thuyết,
cần thiết phải giải đáp, lý giải được các vướng mắc trong thực tế phát sinh của từng
lĩnh vực...
Đối với lĩnh vực cán bộ quản lý ĐTXD, ngoài việc phải có những kiến thức
nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, còn phải có năng lực quản lý nhà nước,
điều hành quá trình xây dựng một cách khoa học, năng động, sáng tạo. Để nâng cao
hiệu quả trong công tác ĐTXD thì công tác quản lý dự án phải được coi là một nghề
chuyên nghiệp. Vì vậy, cán bộ quản lý dự án, ngoài việc đã tốt nghiệp một đại học
chuyên ngành nào đó về lĩnh vực chuyên môn, còn phải hiểu biết tương đối rộng và
nắm chắc một số lĩnh vực như xã hội học, pháp luật, kinh tế cũng như một số lĩnh vực
khác có liên quan và nhất thiết phải qua thi tuyển mới được xắp xếp bố trí công tác.
Đối với cán bộ tư vấn, ngoài bằng cấp kỹ sư, muốn trở thành tư vấn phải học
một số chứng chỉ để được cấp phép hành nghề, có thâm niên thời gian thực tế theo quy
định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP và phải học thêm một số môn học như giám sát thi
công, giám định, kiểm định chất lượng công trình, nghiệp vụ đấu thầu, quản lý dự án,
định giá xây dựng...có như vậy mới từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ
tư vấn theo đúng nghĩa của nó.
Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ chuyên môn,
kỹ thuật tham gia vào các khâu của dự án, làm cho đội ngũ này thành thạo các kỹ năng
và đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chuyên môn trong đầu tư xây dựng, có phương pháp
quản lý, điều hành việc thực hiện dự án, xây lắp công trình một cách khoa học, có hiệu
quả. Những người biên chế vào chức danh của Ban quản lý dự án phải đảm bảo trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ tối thiểu theo quy định, không bố trí người không có hoặc
không đủ trình độ chuyên môn theo yêu cầu vào tổ chức bộ máy này. Tuy nhiên, trong
điều kiện cán bộ của tỉnh, huyện còn thiếu và yếu, trước mắt phải chấp nhận việc vận
dụng linh hoạt một số tiêu chuẩn nhằm bố trí cán bộ vào Ban quản lý dự án phù hợp
với trình độ ở mức độ chấp nhận được theo giải pháp tình thế để thực hiện nhiệm vụ,
nhưng sau đó phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng bước để đảm bảo các điều kiện
theo yêu cầu đặt ra, và về lâu dài phải kiên quyết kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên môn
theo đúng tiêu chuẩn quy định.
3.2.3. Nhóm giải pháp về kỹ thuật, chuyên môn
3.2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư
Đ ể nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư phải quy định rõ, cụ thể và có chế tài
nghiêm khắc đối với chủ đầu tư trên phương diện thực hiện đúng và đủ theo chức trách
của mình và phải nâng cao trình độ, năng lực của chủ đầu tư để họ đáp ứng công việc
theo yêu cầu.
Trong tình trạng của nước ta là, Luật Xây dựng quy định trách nhiệm chung của
chủ đầu tư rất lớn, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong công tác ĐTXD công
trình do mình làm chủ đầu tư, nhưng quy định trách nhiệm cụ thể lại chưa rõ ràng,
nhất là quy trách nhiệm cá nhân khi dự án đầu tư không hiệu quả, gây TTLP trong
ĐTXD. Tỉnh Thanh Hoá cần xây dựng cho mình các văn bản dưới luật quy định cụ thể
về trách nhiệm của chủ đầu tư sử dụng vốn NSNN. Những quy định đó phải khắc phục
được hiện tượng do muốn có được công trình, chủ đầu tư nhiều khi chỉ đạo tư vấn lập
dự án đầu tư và thuyết phục người quyết định đầu tư bằng mọi cách sao cho dự án
được duyệt, hoặc do tâm lý đi xin mà một số chủ đầu tư cố tình lập thấp tổng mức đầu
tư nhằm hạ nhóm dự án từ nhóm A xuống nhóm B hay C, hoặc chỉ ở dạng lập báo cáo
kinh tế kỹ thuật mà đáng ra nếu tính đầy đủ phải lập dự án đầu tư để giảm nhẹ hàng
rào pháp lý thực hiện mục tiêu trước mắt là được chấp thuận đầu tư. Ngược lại, cũng
ngăn chặn trường hợp, chủ đầu tư lập tổng mức đầu tư cao để tranh thủ vốn hỗ trợ, khi
triển khai thì không đảm bảo vốn đối ứng gây TTLP lớn. Ngoài ra, phải trừ liệu các
quy định phòng ngừa chủ đầu tư, do mối quan hệ cá nhân, lựa chọn tư vấn quen nhưng
không đảm bảo năng lực theo yêu cầu của dự án.
Một giải pháp căn bản nữa là cần nâng cao năng lực của chủ đầu tư nhằm
phòng ngừa trước các TTLP trong trường hợp, do trình độ năng lực hạn chế, do chủ
đầu tư không biết điều hành tư vấn, nên đưa ra những đòi hỏi, mệnh lệnh không hợp
lý, dẫn tới ức chế tâm lý, giảm hưng phấn và ý tưởng sáng tạo của tư vấn hoặc trường
hợp cũng vì lý do hạn chế năng lực mà chủ đầu tư trở nên dễ dãi, thậm chí lệ thuộc vào
nhà tư vấn khi nghiệm thu các công việc này. Tỉnh chỉ nên giao dự án cho các chủ đầu
tư đủ năng lực giám sát và phản biện lại nhà thầu tư vấn.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, cùng với sự tăng cường phân
cấp quản lý đầu tư, tỉnh cần có sự phân công, quy trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư,
để nếu dự án xảy ra TTLP trong ĐTXD thì chủ đầu tư phải có phần trách nhiệm tương
xứng. Cũng nên quy định rõ yêu cầu về trình độ, năng lực của chủ đầu tư đối với từng
dự án cụ thể và cần nghiên cứu để ban hành chế độ bắt buộc các chủ đầu tư không đảm
bảo năng lực chuyên môn phải thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án.
3.2.3.2. Nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế
Để nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế thì trước mắt tỉnh
nên giao cho thanh tra Sở Xây dựng tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và đề
xuất UBND tỉnh xử lý, uốn nắn kịp thời các sai phạm của tổ chức tư vấn xây dựng
như hoạt động quá năng lực, không có chứng chỉ hành nghề, cho thuê, mượn danh
nghĩa trong hoạt động tư vấn, thiết kế không phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn,
không đảm bảo chất lượng, lập dự toán không đúng thực tế, khối lượng thiết kế. Sở
Xây dựng nên phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra chặt chẽ việc cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng cho các tổ
chức hoạt động tư vấn xây dựng. Tỉnh cũng cần tiến hành rà soát, đánh giá năng lực
chuyên môn các tổ chức hoạt động tư vấn xây dựng, công bố công khai năng lực, quy
mô và phạm vi hành nghề của các tổ chức tư vấn quy hoạch, khảo sát, lập dự án, thiết
kế, giám sát thi công, thí nghiệm vật liệu...trên các phương tiện thông tin đại chúng và
đến từng UBND các huyện, thành phố, thị xã, thậm chí đến tận UBND xã, phường, thị
trấn để cho các chủ đầu tư lựa chọn và để nhân dân trên địa bàn có công trình xây
dựng biết, tham gia kiểm tra, giám sát. Kiên quyết rút giấy phép đăng ký kinh doanh,
chứng chỉ hành nghề tư vấn nếu các tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện, năng lực
hoạt động, không thực hiện các quy định trong đăng ký kinh doanh, vi phạm pháp luật.
Đình chỉ, cấm hoạt động có thời hạn đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề tư vấn có
nhiều sai sót trong hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế, lập dự toán. Tất cả các việc rút giấy
phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động tư vấn của các tổ chức, cá nhân
nên đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng, đến các chủ đầu tư để họ không ký
hợp đồng với các tổ chức, cá nhân này. Các đơn vị chức năng quản lý nhà nước chỉ
thẩm định, trình hồ sơ dự án đầu tư khi tổ chức tư vấn đủ điều kiện, năng lực theo quy
định của pháp luật. Tóm lại, Thanh Hoá phải làm mọi cách để các tổ chức tư vấn phải
chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm tư vấn và phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý
hành chính, trường hợp nghiêm trọng, chịu xử lý hình sự, khi có quyết định sai thuộc
phạm vi trách nhiệm của mình.
Ngoài ra, các ngành chức năng cần ban hành hướng dẫn hệ thống quản lý và quy
trình kiểm soát chất lượng sản phẩm công tác tư vấn (khảo sát, lập dự án, quy hoạch,
thiết kế, thẩm tra, giám sát thi công, thí nghiệm, kiểm định chất lượng...) để các đơn vị
tư vấn thực hiện. Tỉnh nên có cơ chế khuyến khích các đơn vị tư vấn ứng dụng hệ thống
kiểm tra chất lượng ISO, có chính sách khuyến khích các tố chức tư vấn trong tỉnh xắp
xếp lại theo hướng cổ phần hoá, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập như tổng công ty
tư vấn, tập đoàn tư vấn, liên danh, liên kết với các tổ chức tư vấn lớn trong và ngoài
nước để có đủ điều kiện và năng lực thực hiện các dự án có quy mô lớn, kỹ thuật phức
tạp.
Mặt khác, các tổ chức tư vấn phải tập trung nâng cao chất lượng công tác
chuyên môn, coi chất lượng là yếu tố hàng đầu quyết định sự sống còn của đơn vị.
Muốn vậy các đơn vị tư vấn phải nâng cao trình độ, năng lực của người thực hiện, tăng
cường kiểm tra ở các tổ, nhóm, bộ phận và chú trọng khâu kiểm tra chất lượng của sản
phẩm tư vấn trước khi giao cho khách hàng. Tổ chức tư vấn cũng phải quan tâm đến
con người như tuyển chọn, đào tạo và sử dụng đội ngũ tư vấn có trình độ cao.
3.2.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư xây
dựng từ vốn ngân sách nhà nước
Công tác thẩm tra, thẩm định hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế cần được nâng cao
chất lượng nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời TTLP trong ĐTXD, cụ thể là:
- Nâng cao năng lực thẩm định của Sở Kế hoạch và Đầu tư (thẩm định dự án,
báo cáo kinh tế kỹ thuật), của các sở xây dựng chuyên ngành (thẩm định thiết kế cơ
sở) đối với các dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách tỉnh. Nâng cao năng lực của các
phòng chức năng của huyện đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách
huyện.
- Quy định rõ các đơn vị tham mưu thẩm định phải đủ năng lực giúp chủ quản
đầu tư, chủ đầu tư xem xét lại tất cả các nội dung mà dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật
đã đề cập nhằm xác định lại lần cuối cùng tính chính xác, khoa học, tính hiệu quả của
dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hơn nữa,
công tác thẩm định phải được thực hiện một các nghiêm túc, chặt chẽ, chính xác từ các
quy trình, quy định về thủ tục, từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ đến việc tính toán
kiểm tra lại, phản biện khoa học, đến việc tiếp cận thực tế gắn với tình hình kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán của địa phương.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Đơn vị, cá nhân cán bộ
thẩm định phải chịu trách nhiệm xem xét các quy trình, thủ tục, các quy định, tiêu chuẩn,
định mức, đơn giá, các số liệu cần và đủ, xem xét các yếu tố để xem xét dự án, thiết kế có
khả thi, có hiệu quả hay không, tính kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng công trình có đảm bảo
hay không, khi có vấn đề nào chưa rõ phải yêu cầu nhà tư vấn báo cáo, giải thích làm rõ,
nếu cần phải tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn sâu, các chuyên gia, các nhà khoa
học.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, các đơn vị tư vấn phải bố trí đủ các
cán bộ thẩm tra có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu, có trách nhiệm, nhiệt tình và
phải độc lập với đơn vị tư vấn thiết kế, lập dự toán, đặc biệt tránh tình trạng thẩm tra
chỉ là hình thức. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, các đơn vị tư vấn thẩm tra mới là một bộ
phận phòng ban trong các đơn vị tư vấn thiết kế, hầu hết đều mới được thành lập, do
vậy có hiện tượng hụt hẫng cán bộ đầu đàn, thiếu kinh nghiệm, phương pháp làm việc
còn thiếu chuyên nghiệp, có hiện tượng khoán cho các nhóm nhỏ thực hiện, do đó kết
quả thẩm tra thiếu độ tin cậy và nhiều khi thẩm tra chỉ là hình thức, ít phát hiện ra
những sai sót trong thiết kế cũng như trong dự toán. Trong khi đó chất lượng của công
trình tốt hay xấu, tính chính xác của dự toán cao hay thấp, một phần rất quan trọng phụ
thuộc vào tính đầy đủ, nghiêm túc của việc thẩm tra thiết kế, dự toán. Vì vậy, trước
mắt tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm tra trong các đơn vị tư
vấn thẩm tra, cụ thể là yêu cầu các đơn vị có chức năng thẩm tra, ngoài các quy định
về giấy phép hành nghề, quy định về năng lực như quy định của Luật Xây dựng về các
đơn vị, cá nhân tư vấn thông thường, thì cần yêu cầu thêm một số quy định ràng buộc
như phải có thời gian, kinh nghiệm công tác và phải có chứng chỉ tham gia các lớp học
bồi dưỡng như định giá công trình xây dựng, thẩm tra phản biện...từng bước hình
thành các tổ chức tư vấn thẩm tra độc lập, chuyên nghiệp. Ngoài ra tỉnh nên có quy
định ràng buộc trách nhiệm của các đơn vị tư vấn thẩm tra trong việc không phát hiện
được những sai sót trong các hồ sơ thiết kế, dự toán.
3.2.3.4. Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu dự án đầu tư xây dựng từ
vốn ngân sách nhà nước
Để nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, tỉnh cần phải có văn bản quy định cụ
thể để xử lý các trường hợp nhà thầu bỏ giá thấp để thắng thầu, các nhà thầu không đủ
năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu, hạn chế tình trạng kéo dài tiến độ công
trình, chất lượng công trình không đảm bảo. Tỉnh nên tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra công tác đấu thầu nhằm hướng dẫn, uốn nắn, phát hiện sai phạm trong công
tác đấu thầu. Nên kiên quyết xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu như thông
thầu, dàn xếp thầu hoặc bán thầu, ngoài xử lý theo quy định của pháp luật thì có thể áp
dụng thêm hình thức cấm dự thầu các dự án có nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh có
thời hạn, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải tăng cường
bồi dưỡng chuyên môn nghiệm vụ về công tác đấu thầu cho cán bộ làm công tác quản
lý dự án, nhất là ở cấp huyện và xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định, thanh tra công tác
đấu thầu có nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có tinh thần phục vụ và trách
nhiệm cao.
3.2.3.6. Nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công công trình xây dựng
từ vốn ngân sách nhà nước
Để nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công, thì đầu tiên cũng như các
đơn vị tư vấn khác, các đơn vị tư vấn giám sát thi công cần phải có tính chuyên nghiệp
cao, có tinh thần tự hoàn thiện, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và
đặc biệt nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức. Chất lượng của công trình tuỳ thuộc vào
người giám sát thi công xây dựng công trình. Người giám sát giỏi, có đạo đức thì công
trình có chất lượng và ngược lại. Nếu không có đạo đức, người giám sát thi công dễ
dàng cho qua những lỗi nhỏ và lớn tuỳ thuộc vào sự đối đãi của đối tác, đặc biệt cần
ngăn ngừa nhà thầu cùng với tư vấn giám sát thông đồng với nhau đánh tráo, thay đổi
chủng loại vật tư, thiết bị, bớt xén vật liệu. Các ban ngành của tỉnh (phòng quản lý chất
lượng Sở Xây dựng, Thanh tra Xây dựng..), các đơn vị tham mưu cho cấp huyện
(phòng Công thương), bản thân chủ đầu tư phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các
đơn vị tư vấn giám sát thi công. Cũng như các đơn vị tư vấn khác, nếu các đơn vị tư
vấn giám sát có sai sót, có tiêu cực thì kiên quyết loại bỏ, thu hồi giấy phép, thông báo
công khai cho các chủ đầu tư biết. Nếu phạm tội thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật.
3.2.3.7. Nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, thanh quyết toán công
trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước
Để nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, quyết toán nhằm ngăn ngừa các
hiện tượng tiêu cực trên, Thanh Hoá nên tăng cường chỉ đạo sao cho khâu nghiệm thu
phải đúng quy trình, quy phạm, nhất là khâu nghiệm thu thực tế tại hiện trường,
nghiệm thu theo nhật ký công trình và các biên bản kiểm tra lấy mẫu, thí nghiệm vật
liệu công trình, các hoá đơn chứng từ mua vật tư, vật liệu...; khâu thẩm định quyết toán
phải được thực hiện một cách chặt chẽ, phải rà soát các quy định, tiêu chuẩn, định
mức, đơn giá, chế độ chính sách, đảm bảo chi phí thực của công trình. Trước mắt đối
với các dự án lớn, trước khi phê duyệt quyết toán dự án đầu tư nhất thiết cần được tiến
hành kiểm toán, tiến tới tất cả các dự án đầu tư trước khi phê duyệt quyết toán phải
được kiểm toán nhằm thực hiện kiểm tra, kiểm soát, loại bỏ các chi phí không hợp lý,
các chi phí khống ra khỏi quyết toán công trình. Chất lượng của một công trình tốt hay
xấu, hiệu quả đầu tư cao hay thấp, có TTLP hay không một phần rất quan trọng phụ
thuộc vào chất lượng công tác nghiệm thu khối lượng, thẩm tra, thẩm định phê duyệt
quyết toán dự án hoàn thành. Do đó, đòi hỏi các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện
nhiệm vụ thẩm tra, thẩm định không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà phải trung
thực, khách quan trong công việc, không vì lợi ích cá nhân mà làm phương hại đến lợi ích
chung, gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của nhà nước. Muốn vậy, các cơ quan chức
năng cần phải quan tâm đến việc bố trí cán bộ tham gia thẩm định đảm bảo công tác thẩm
định đạt chất lượng theo yêu cầu. Do hiện nay tỉnh đã phân cấp mạnh xuống địa phương,
vì vậy công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ cấp huyện cần phải quan
tâm hơn bao giờ hết, Sở Tài chính phải tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác quyết toán
dự án hoàn thành ở cấp huyện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót để có biện pháp nhắc
nhở, chấn chỉnh hợp lý.
3.2.4. Nhóm giải pháp đối với các nhà thầu
Tỉnh cần quy định chặt chẽ điều kiện năng lực và có chế tài xử lý đối với các
nhà thầu (nhà thầu tư vấn, nhà thầu xây lắp...) khi tham gia đấu thầu, nhận thầu
công trình, quy định các loại hình và quy mô công trình đối với các nhà thầu được
phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của các nhà thầu. Chấm dứt tình
trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không đủ
điều kiện, năng lực thi công, xây dựng công trình. Trường hợp phát hiện có hiện
tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với các nhà thầu tư vấn hoặc nhà
thầu xây dựng thì tuỳ theo mức độ sai phạm cần áp dụng các hình thức phạt như
phạt tiền theo quy định, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt
động có thời hạn ít nhất một năm, thu hồi giấy phép, xử lý hình sự và thông báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng… Cần có cơ chế quản lý chặt chẽ và quy
định về điều kiện, năng lực hành nghề của nhà thầu, kiểm tra thường xuyên các loại
hình và quy mô công trình các nhà thầu được tham gia có phù hợp với trình độ,
năng lực của nhà thầu theo quy định của pháp luật không. Khi phát hiện nhà thầu
không đủ năng lực thực hiện làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công trình
đang thi công thì cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, thậm chí cần chấm dứt hợp
đồng. Tỉnh cũng nên có quy định cụ thể về xử lý các nhà thầu khi tiến độ thi công,
chất lượng công trình không đảm bảo như phải hoàn toàn chịu trách nhiệm theo hợp
đồng, bồi thường thiệt hại, tuỳ theo mức độ phải bị xử lý hình sự…
Tỉnh cần có quy định về đạo đức của các nhà thầu, nếu phát hiện thấy họ thiếu
trung thực khi tham gia đấu thầu thì cần có biện phảp xử lý nghiêm minh. Bản thân các
nhà thầu phải tự nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ nhân lực từ cán bộ
quản lý đến công nhân, có cơ chế tuyển chọn và trả lương cho những người có chuyên
môn giỏi, tay nghề cao để hút người tài vào doanh nghiệp. Nhà thầu phải thường
xuyên giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật
và lương tâm nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực trong doanh nghiệp và chú trọng đầu
tư máy móc, thiết bị thi công phù hợp với ngành nghề kinh doanh.
3.2.5. Nhóm giải pháp liên quan đến việc phát huy dân chủ và phát huy vai
trò của thông tin đại chúng trong giám sát dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà
nước
Trong những năm vừa qua phần lớn các vụ án phát hiện có tiêu cực, TTLP
trong ĐTXD do quần chúng, cán bộ công nhân viên chức phát hiện dưới hình thức đơn
thư tố giác và qua thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát
thanh, truyền hình...). Tuy nhiên phong trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm
tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP chưa đi vào chiều sâu, còn tự phát, còn e dè, sợ
liên luỵ, sợ bị trả thù, sợ mất việc...Các nguồn tin về tham nhũng, tiêu cực, TTLP được
đăng tải trên các phương tiện đại chúng dưới dạng phóng sự điều tra, đơn tố cáo, các
sự cố bất ngờ, những kiến nghị hoặc ý kiến người dân...đôi khi chưa chính xác, thiếu
khách quan, phản ảnh chung chung, và có cả những thông tin phản ánh sai sự thật.
Chính vì vậy, tỉnh cần có quy định hướng dẫn, quy định công khai nội dung trong dự
án cả về quy mô, vốn, đơn vị thiết kế, đơn vị thi công, đơn vị giám sát, thời gian thi
công xây lắp....để quần chúng biết, giám sát. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh tuyên
truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP
trong ĐTXD. Nên chú trọng tuyên truyền cho đối tượng là cán bộ, công nhân viên
thuộc đơn vị chủ đầu tư, đơn vị thi công xây lắp, những người tham gia giám sát thi
công, giám sát chất lượng công trình, những người làm công tác tư vấn và quần chúng
nhân dân sống ở khu vực có công trình xây dựng. Tỉnh cần kịp thời động viên, biểu
dương, khen thưởng những cá nhân tiêu biểu trong công cuộc đấu tranh chống tiêu
cực, TTLP trong ĐTXD.
Nâng cao vai trò của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền, vận động phòng chống và điều tra về TTLP trong ĐTXD. Một khi báo chí
và phương tiện thông tin đại chúng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng của TTLP và vai
trò của nó bị hạ thấp do có những hàng rào ngăn cản hoặc những vùng cấm địa thì nhiều
vụ việc sẽ bị chìm xuống, trôi vào lãng quên. Nhưng báo chí chỉ nêu những vụ TTLP mà
không nêu biện pháp và kết quả xử lý thì chẳng khác nào tuyên truyền từ đó tạo ra các
luồng dư luận khác nhau trong xã hội để kẻ xấu lợi dụng bôi nhọ. Chính vì vậy, ngoài
việc nâng cao vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng nhằm chống
TTLP trong ĐTXD thì cũng phải định hướng ràng buộc các cơ quan báo chí, các
phương tiện thông tin đại chúng thực hiện theo đúng quy định của Luật Báo chí, cụ thể
là khi báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện, phản ánh các công trình,
dự án TTLP thì các cơ quan chức năng phải vào cuộc ngay, có kết luận xử lý kịp thời và
báo chí thông tin ngay kết quả đó để quần chúng nhân dân biết và tin tưởng vào đường
lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
3.2.6. Nhóm giải pháp quy trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan
đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước
Thời gian gần đây, công cuộc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn
vốn NSNN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đã có nhiều chủ trương, biện pháp
đối phó, song phải thấy rằng cuộc đấu tranh này chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
đề ra, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, tình hình vi phạm có chiều hướng ngày
càng gia tăng, phức tạp và ngày càng tinh vi hơn, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển
kinh tế đất nước. Thực tế do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khá quan
trọng là chưa có chế tài đủ mạnh để xem xét xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu
cơ quan, đơn vị để xảy ra TTLP. Đặc biệt là hành vi gây TTLP nguy hiểm, gây hiệu
quả nghiêm trọng thì trong Bộ luật hình sự chưa có điều luật hoặc có điều luật nhưng
chưa quy định rõ, cụ thể. Quá trình ĐTXD liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên
trong quá trình điều tra các vụ án thường có những quan điểm khác nhau giữa các cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử trong việc đánh giá chứng cứ, định tội danh vụ án, bị can
dẫn đến hiệu quả đấu tranh đối với tội danh này chưa cao, nhiều vụ án kéo dài, hồ sơ
chuyển đi, chuyển lại nhiều lần. Thậm chí nhiều hành vi phạm tội còn không được coi
là tội phạm hoặc nhầm lẫn giữa các tội danh.
Chính vì vậy, để thực hiện tốt công tác phòng chống TTLP trong ĐTXD từ
nguồn vốn NSNN, cần thực hiện một số công việc sau:
- Trong điều kiện Bộ luật Hình sự chưa có quy định rõ ràng tội phạm trong lĩnh
vực ĐTXD, tỉnh cần quy định chế tài đủ mạnh, minh bạch trong khuôn khổ quyền hạn
của UBND tỉnh đối với trách nhiệm của các bên liên quan đến quản lý ĐTXD từ vốn
NSNN trên địa bàn tỉnh. Đi đôi với những quy định đó, tỉnh cần duy trì tinh thần thực
hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật nhằm hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn
NSNN.
- Nghiên cứu để từng bước thực hiện xã hội hoá trong ĐTXD theo hướng
NSNN chỉ đầu tư những công trình mà các thành phần kinh tế khác không thực hiện
được. Tiến tới xã hội hoá các chủ thể tham gia hoạt động ĐTXD như tư nhân xây dựng
trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc cho nhà nước thuê. Có chính sách khuyến khích
các thành phần xã hội tham gia hoạt động ĐTXD, phát triển hình thức cổ phần hoá,
góp vốn ĐTXD dưới hình thức nhiều thành phần tham gia góp vốn ĐTXD công trình,
từ đó giảm dần danh mục các công trình sử dụng 100% vốn nhà nước nhằm góp phần
hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN.
Kết luận
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X nhận định, nước ta đã chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH”. Để thực hiện thành công sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, tất yếu phải đẩy mạnh và sử dụng hiệu quả đầu tư phát
triển của Nhà nước, trong đó phòng chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là một
trong những giải pháp quan trọng. Trong khi đất nước ta còn nghèo, đang rất cần vốn
để đầu tư phát triển thì TTLP đã làm giảm đi những khoản tài chính phục vụ cho đầu
tư phát triển, điều đó đồng nghĩa với việc làm khó khăn thêm và kéo dài tiến trình
CNH, HĐH đất nước, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tới quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, làm mất uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Mặt khác, TTLP trong ĐTXD từ
vốn NSNN đã gây nên hậu quả rất lớn về mặt xã hội là tạo ra một số người giàu bất
chính dẫn tới sự bất công bằng trong xã hội, làm tha hoá, biến chất một bộ phận cán
bộ, đảng viên ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta, dẫn
đến làm mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ
rằng việc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là nhiệm vụ quan trọng
để xây dựng thành công một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn công tác chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN
ở tỉnh Thanh Hoá trong những năm qua, luận văn đã giải quyết được một số vấn đề cụ
thể, đó là:
- Phân tích những đặc trưng cơ bản của ĐTXD từ vốn NSNN;
- Nhận diện TTLP trong ĐTXD và phân tích các nguyên nhân dẫn đến TTLP
trong ĐTXD từ vốn NSNN;
- Phân tích nội dung cơ bản của chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN ;
- Phân tích thực trạng tình hình TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá từ năm 2003 (từ khi có Luật Xây dựng) đến nay, qua đó rút ra một số
nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công
tác phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong
thời gian tới.
Là một cán bộ làm công tác tham mưu giúp Thường trực UBND tỉnh trong
công tác quản lý ĐTXD bằng vốn ngân sách tỉnh, với những kiến thức quản lý kinh tế
đã thu được từ khoá học, với kinh nghiệm công tác cùng với những tài liệu tham khảo
và sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của quý cô giáo hướng dẫn cũng như các thầy, cô
giáo của Viện Quản lý kinh tế và Học viện, các cơ quan liên quan ở địa phương, các
bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành luận văn này với mong muốn góp một phần
nhỏ bé của mình cùng với các đơn vị liên quan ở địa phương, trước hết là hoàn thành
nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn
NSNN.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Hưng Bình (2006), “Thất thoát do đâu? Quản lý nguồn vốn Nhà nước: Trách nhiệm
và quyền hạn chưa tương xứng”, Báo Đầu tư, ngày 19-5-2006.
2. Chính phủ (2004), Báo cáo số 1679/CP-KTTH ngày 10/11/2004 trình bày về việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả
nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình hình nợ đọng vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát trong đầu tư xây
dựng cơ bản, Hà Nội.
3. Chính phủ (2006), Nghị quyết số 25/2006/NQ-CP ngày 9/7/2006 chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và
Nghị quyết của Quốc hội khoá XI về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2006-2010, Hà Nội.
4. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVI, Nxb Thanh Hoá.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Trần Công Hùng (2005), “Tham nhũng, tiêu cực trong XDCB: tiền thất thoát đủ
để trả lương cho bộ máy hành chính, sự nghiệp cả nước”, Báo Tiền phong,
ngày 11-11-2005.
8. Lưu Hương (2005), “Chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng: Thất thoát, lãng phí khôn
lường”, Báo VnExpress, ngày 21-7-2005.
9. Đức Kế (2005), “Nhà luyện tập và thi đấu Thanh Hoá: Rờ đâu sai đó”, Báo Tiền
phong, ngày 14-11-2005.
10. Đức Kế (2006), “Một công trình mười năm vẫn dang dở”, Báo Tuổi trẻ, ngày 20-
7-2006.
11. Nhật Linh (2006), “Đầu tư từ nguồn vốn nhà nước: Hiệu quả thấp dẫn đến lãng
phí”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 05-12-2006.
12. Nông Đức Mạnh (2006), “Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là quyết tâm
chính trị của toàn Đảng, toàn dân ta”, Tạp chí Cộng sản (16).
13. Thế Mai (2007), “Chọn nhầm nhà thầu, tuyến đường Nghi Sơn – Bãi Trành bao
giờ mới xong?”, Báo Nhân Dân, ngày 03-8-2007.
14. Lê Xuân Mậu (2005), “Lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng – Chủ yếu là
nguyên nhân con người”, Báo VietNamNet, ngày 28-2-2005.
15. Đình Nam (2006), “Tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hoàn thiện cơ chế
giám sát”, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 2-5-2006.
16. Quốc hội (2004), Luật Xây dựng, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Quốc hội (2006), Luật Đầu tư, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
18. Quốc hội (2006), Luật Ngân sách nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
20. Quốc hội (2006), Luật Đấu thầu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
21. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2003, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 19-01-2003.
22. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2004, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 08-12-2003.
23. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2004), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2005, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 14-12-2004.
24. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2006, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 01-12-2005.
25. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 08/KHĐT-BC ngày
09/01/2005 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2004.
26. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2007, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 15-12-2006.
27. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 13/KHĐT-BC ngày
13/01/2006 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2005.
28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm
2008, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 10-12-2007.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 160/KHĐT-BC ngày
05/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2006.
30. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 153/KHĐT-BC ngày
14/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2007.
31. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 549/KHĐT-BC ngày
02/5/2008 về tình hình áp dụng và thực thi Luật đấu thầu qua hai năm thực
hiện.
32. Sở Tài chính Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 296/TC-ĐT ngày 21/02/2005 về báo
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2004.
33. Sở Tài chính Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 328/TC-ĐT ngày 24/02/2006 về báo
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2005.
34. Sở Tài chính Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 57/TC-ĐT ngày 11/01/2007 về báo
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2006.
35. Sở Tài chính Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 70/TC-ĐT ngày 10/01/2008 về báo
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2007.
36. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 478/SXD-TĐ ngày 30/3/2006 về tình
hình triển khai thực hiện chỉ thị 21/2005/CT-TTg trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
37. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 2126/SXD-TTr ngày 29/12/2006 về tổng
hợp kết quả thanh tra thực hiện ĐTXD Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã
tại các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
38. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2007), Thông báo số 3043/SXD-QLCL ngày
31/12/2007 về năng lực hoạt động của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
39. Phương Thanh (2004), “Quản lý đầu tư – Vẫn bài ca thất thoát”, Báo
VietNamNet, ngày 18-02-2004.
40. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2003), Báo cáo số 339/BC-TTTH ngày 24/11/2003 về
tổng kết hai năm thực hiện Quyết định 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
41. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2004), Báo cáo số 310/KL-TTTH ngày 24/9/2004 về kết
quả thanh tra các dự án tái định cư công trình Hồ Cửa Đạt.
42. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Kết luận số 82/KL-TTTH ngày 17/02/2005 về
thanh tra thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố
Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
43. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 121/BC-TTTH ngày 21/3/2005 về
kết quả thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm
2002-2004.
44. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 537/BC-TTTH ngày 10/1102005 về
tổng kết công tác thanh tra năm 2005, phương hướng nhiệm vụ công tác
thanh tra năm 2006.
45. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 517/BC-TTTH ngày 15/12/2006 về
tổng kết công tác thanh tra năm 2006, phương hướng nhiệm vụ công tác
thanh tra năm 2007.
46. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Kết luận số 430/KL-TTTH ngày 03/11/2006 về
thanh tra thực hiện các dự án xây dựng công trình thuỷ lợi: Hệ thống tiêu
Đa Bút – Hà Lĩnh huyện Hà Trung và huyện Vĩnh Lộc; Sửa chữa, nâng cấp
cụm công trình thuỷ lợi tưới mía thuộc Nông trường Sao Vàng, tỉnh Thanh
Hoá.
47. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 1007/BC-TTTH ngày 18/12/2007
về tổng kết công tác thanh tra năm 2007, phương hướng nhiệm vụ công tác
thanh tra năm 2008.
48. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Kết luận số 469/KL-TTTH ngày 01/6/2007 về
thanh tra đầu tư xây dựng tại trường Đại học Hồng Đức.
49. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 về việc triển
khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử
dụng vốn Nhà nước và chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng.
50. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 29/2005/CT-TTg ngày 23/12/2005 về
chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước.
51. Trần Văn Tiến (2004), “Đơn thuốc nào cho “bệnh” thất thoát đầu tư xây dựng?”,
Báo VietNamNet, ngày 10-10-2004.
52. Đà Trang (2004), “Đầu tư sai do...cục bộ, thành tích”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 11-
11-2004.
53. Anh Tuấn (2007), “Thanh Hoá: Sẽ rút giấy phép nhiều công ty tư vấn thiết kế”,
Báo Lao Động, ngày 13-8-2007.
54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 18/BC-UBND ngày
17/4/2006 về tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg tai
địa phương tỉnh Thanh Hoá.
55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 61/BC-UBND ngày
18/12/2006 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2006,
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2007.
56. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày
12/4/2007 về việc nâng cao hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí trong đầu
tư XDCB.
57. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 13/9/2007 về việc
tăng cường quản lý công tác hoạt động Tư vấn xây dựng.
58. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 71/BC-UBND ngày
10/12/2007 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2007,
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2008.
59. Website Chính phủ (2007), “Thanh Hoá thu hồi 217 ha đất thuộc các quy hoạch
treo, dự án treo”, ngày 07-02-2006.