intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chữa trị ung thư bằng hạt nano composite

Chia sẻ: Nguyen Phuonganh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

129
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năm 1971, Judah Folkman giả định rằng quá trình tăng sinh của ung thư có thể ngưng lại bằng cách không cho chúng tiếp xúc với những mạch máu mới sinh (một quá trình gọi là sự hình thành mạch máu), những mạch máu này theo chức năng cung cấp oxygen và dinh dưỡng bất kể tế bào đó là tế bào lành hay tế bào ung thư. Năm ngóai, lý thuyết này được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa kỳ ủng hộ mạnh mẽ bằng cách thông qua một lọai thuốc chữa trị chứng ung thu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chữa trị ung thư bằng hạt nano composite

  1. Chữa trị ung thư bằng hạt nano composite Năm 1971, Judah Folkman giả định rằng quá trình tăng sinh của ung thư có thể ngưng lại bằng cách không cho chúng tiếp xúc với những mạch máu mới sinh (một quá trình gọi là sự hình
  2. thành mạch máu), những mạch máu này theo chức năng cung cấp oxygen và dinh dưỡng bất kể tế bào đó là tế bào lành hay tế bào ung thư. Năm ngóai, lý thuyết này được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa kỳ ủng hộ mạnh mẽ bằng cách thông qua một lọai thuốc chữa trị chứng ung thu bằng cách kháng sự tạo mạch máu, thuốc có tên là Avastin (còn gọi là bevacizumab). Sengupta và cộng sự trên trang 568 trên tờ Nature ra ngày hôm nay (436, 28 July 2005) đã phát triển khái niệm này bằng cách thiết kế một phương tiện phóng thích thuốc bằng composite
  3. kích thước nano, cho phép phóng thích thuốc trước sau vào một khối u định sẵn với hai lọai thuốc là thuốc kháng sự tạo thành mạch máu và thuốc hóa trị liệu ở nồng độ cao. Các tác giả cho thấy chiến thuật của họ tỏ ra rất hữu hiệu cụ thể là khối u ở chuột tăng trưởng chậm hơn hẳn khi xử lý thuốc riêng rẽ hay khi hai thứ thuốc được phóng thích cùng một lúc. Các lọai thuốc hóa trị liệu cổ điển có thể giết rất nhanh chóng các tế bào đang tăng sinh trong cơ thể - cả tế bào ung thư lẫn tế bào lành đang phân chia mạnh mẽ như tế bào tóc,
  4. máu và tế bào ruột. Điều này đưa đến những con đau dữ dội ở bệnh nhân như là một phản ứng phụ bất lợi của hóa trị liệu, do đó mà nó giới hạn tính năng của thuốc ở cả mức độ liều dùng và tần xuất cần sử dụng thuốc. Các nhà nghiên cứu đã thử sử dụng nhiều mưu mẹo để tránh hiệu ứng phụ của thuốc bằng cách đánh dấu vị trí khối u đặc hiệu để thuốc tìm đến đúng vị trí tương tác. Các thử nghiệm chủ yếu tích hợp thuốc vào trong những vật liệu hay một phức hợp nào đó rồi điều khiển các phức hợp này xâm nhập khối u đúng vị trí.
  5. Tuy nhiên, một vấn đề thứ 2 thường gặp là các khối u có thể kháng lại một dòng thuốc nào đó, do vậy nỗ lực của các nhà khoa học là làm sao không cho quá trình kháng thuốc có thể phát triển thêm. Các tế bào nội bì, vốn giới hạn thành mạch máu, có thể gợi ý là một đích ngắm hấp dẫn vì chúng khá bền về mặt di truyền so với tế bào ung thư và cũng không có khuynh hướng hình thành các đột biến có thể thúc đẩy sự kháng thuốc. Nhiều lọai thuốc giết tế bào nội bì hoặc ngăn cản không cho chúng tăng trưởng cho thấy tỏ ra rất hữu hiệu khi chữa trị các ca ung thu
  6. lâm sàng giai đọan III, như ung thư thận, phồi, ruột kết và dạ dày. Những lọai thuốc này có thể sử dụng riêng rẽ, nhưng thường thì chúng được kết hợp với hóa trị truyền thống để ngăn chận sự tăng trưởng mạch máu trong khi vẫn tiếp tục giết tế bào ung thư. Sự phóng thích đồng thời các thuốc kháng sự tạo mạch và các thuốc hóa trị rõ ràng là có lợi. Tuy nhiên, do các thuốc hóa trị vốn lưu chuyển theo dòng máu nên việc ngừng cung cấp máu cho khối u bằng thuốc kháng sự tạo mạch có thể lại làm giảm hiệu xuất phóng thích thuốc hóa trị vốn được thiết kế tiêu
  7. diệt tế bào khối u. Sengupta và cộng sự đề nghị một chiến thuật hữu hiệu hơn, trong đó các phương tiện vận chuyển thuốc sẽ tập trung tại khối u trước khi việc cung cấp máu ngừng lại, kế đến cho phép việc phóng thích trước sau cả hai lọai thuốc diễn ra. Đặc hiệu hơn, việc phóng thích các yếu tố kháng sự hình thành mạch có thể đưa đến việc co hệ thống mạch máu khiến cho chính phương tiện phóng thích thuốc bị cầm tù trong chính khối u. Và do phương tiện phóng thích thuốc lúc này vẫn còn mang thuốc hóa trị khi đó việc phóng thích thuốc hóa trị
  8. diễn ra trong khối u sẽ tiêu diệt các tế bào ung thư. Các tác giả đã lợi dụng một điểm yếu của thành mạch bao quanh khối u đó là chúng có nhiều lỗ hở, vì thế mà khối u thường hấp thu các hạt có kích thước lớn dễ dàng hơn so với mô bình thường, thuận tiện cho quá trình chọn lọc đích ngắm. Bằng cách đó, các tác giả đã chế ta các hạt nhựa kích thước 80 – 120 nm, chứa một polymer rắn có thể phân rã dưới tác động sinh học và hạt nhựa này được bao phủ bởimột màng lipid. Kế đến thuốc kháng sự tạo mạch máu – combretastatin – được hòa trong
  9. lớp lipid để khi vào cơ thể nó có thể thấm ra ngòai một cách nhanh chóng. Thuốc này tấn công vào bộ xương nội tại bên trong tế bào và nhanh chóng làm sụp đổ thành mạch máu. Thuốc hóa trị – doxorubicin – được gắn trong lõi của hạt nhựa bằng các liên kết hóa học, sau đó sẽ phóng thích chậm rãi khi khung polymer phân rã từ từ. Doxorubicin là một thuốc hóa trị thông thường, cấu trúc của nó có chứa các nhóm chức hóa học cho phép nó gắn lên hạt polymer khá dễ dàng. Sengupta và cộng sự đã thí nghiệm tác động của thuốc lên hai dạng
  10. khối u ở chuột và cho thấy rằng kết quả thu được không nằm ngòai dự đóan. Hệ thống phóng thích thuốc mới này đã gia tăng đáng kể thời gian ngậm thuốc – cụ thể là thời gian ngậm thuốc tăng từ xấp xỉ 30 ngày khi chúng phóng thích đồng thời trong phương pháp cũ lên đến trên 60 ngày khi chúng được phóng thích trước sau theo phương pháp mới. Hệ thống hạt mang thuốc cho thấy chúng có khuynh hướng tích tụ trong khối u hơn là các mô cơ thể khác, và thuốc mà chúng vận chuyển đã tiêu diệt cả tế bào nội bì lẫn tế bào ung thư. Ảnh hưởng của phương pháp
  11. phóng thích thuốc trước sau của hai lọai thuốc lên sự tăng trường khối u được ghi nhận là rất mạnh. Tuy nhiên các nhà khoa học vẫn không đảm bảo là liệu có thể áp dụng phương pháp này vào người hay chưa. Do hệ thống sinh học của người và chuột có nhiều điểm không giống nhau vì thế không thể so sánh trực tiếp. do vậy điều cần thiết là phải mở rộng nghiên cứu này ra thêm một thời gian nữa. Mặc dù thế phương pháp mới này cho phép chúng ta hy vọng việc chữa trị ung thự dần dần đi đến cái đích cuối cùng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2