intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chức năng của người kể chuyện trong tám triều vua Lý

Chia sẻ: Lâm Đức Duy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

80
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Chức năng của người kể chuyện trong tám triều vua Lý trình bày: Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự là sản phẩm sáng tạo của nhà văn để kể lại câu chuyện và là một nhân vật mang tính chức năng. Người kể chuyện dị sự – toàn năng, ngôi thứ ba trong Tám triều vua Lý đã thực hiện thành công những chức năng cơ bản của mình trong việc tái hiện sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chức năng của người kể chuyện trong tám triều vua Lý

CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ<br /> LÊ THỊ THU TRANG<br /> Trường Đại học Đồng Tháp<br /> NGUYỄN THÀNH THI<br /> Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh<br /> <br /> Tóm tắt: Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự là sản phẩm sáng tạo<br /> của nhà văn để kể lại câu chuyện và là một nhân vật mang tính chức<br /> năng. Người kể chuyện dị sự – toàn năng, ngôi thứ ba trong Tám triều<br /> vua Lý đã thực hiện thành công những chức năng cơ bản của mình<br /> trong việc tái hiện sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Việc xây dựng<br /> thành công hình tượng người kể chuyện dị sự, ngôi thứ ba trong Bộ<br /> tiểu thuyết, Hoàng Quốc Hải đã có những đóng góp đáng kể vào sự<br /> cách tân về phương diện trần thuật nhìn từ sự vận động của người kể<br /> chuyện trong thể loại tiểu thuyết lịch sử.<br /> 1. MỞ ĐẦU<br /> Theo Hayden White thì giữa lịch sử và tự sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xuất<br /> phát từ quan niệm đó, chúng tôi đã mạnh dạn tìm hiểu thể loại tiểu thuyết lịch sử nói<br /> chung và Tám triều vua Lý nói riêng dưới góc nhìn Tự sự học. Từ góc nhìn này, người<br /> nghiên cứu đã tìm hiểu một số phương diện trần thuật đặc biệt của Bộ tiểu thuyết, trong<br /> đó, vấn đề người kể chuyện là một trong những phương diện cơ bản của nghệ thuật trần<br /> thuật trong tác phẩm. Việc sáng tạo thành công nhân vật người kể chuyện dị sự, ngôi<br /> thứ ba với việc thực hiện thành công ba chức năng trần thuật đã góp phần làm nên sức<br /> sống cho Bộ tiểu thuyết vĩ đại này.<br /> 2. CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ – MỘT<br /> VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA HOÀNG QUỐC HẢI<br /> Theo Pospelov, người kể chuyện là người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và<br /> người đọc, là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra. R. Barthes cho rằng<br /> người kể chuyện là một nhân vật giấy, mang chức năng môi giới giữa thế giới nghệ<br /> thuật được miêu tả với độc giả tiếp nhận. T. Todorov lại cho rằng: “Người kể chuyện<br /> không chỉ mang chức năng kể, mà còn định giá và đánh giá” [4, tr. 262]. Dù hiểu theo<br /> cách nào đi chăng nữa, chung quy, người kể chuyện trong tác phẩm tự sự chính là một<br /> nhân vật mang tính chức năng. Đó là một nhân tố mà tác giả ủy thác trong tác phẩm để<br /> thực hiện chức năng kể lại câu chuyện. Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện luôn bị<br /> trừu tượng hóa thành một nhân vật, hoặc là ẩn tàng, hoặc là hiện diện. Việc tác giả lựa<br /> chọn kiểu người kể chuyện nào để thuật lại câu chuyện không phải hoàn toàn ngẫu<br /> nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một<br /> cách hiệu quả nhất. Trong Tám triều vua Lý, Hoàng Quốc Hải đã sáng tạo nên một kiểu<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 85-93<br /> <br /> 86 <br />  <br /> <br /> LÊ THỊ THU TRANG – NGUYỄN THÀNH THI<br /> <br /> nhân vật để kể lại câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của tám vị vua triều Lý, đó<br /> chính là kiểu người kể chuyện dị sự – toàn năng, ngôi thứ ba. Người kể chuyện dị sự với<br /> cách kể chuyện điềm đạm, dửng dưng và sử dụng ngôn ngữ ở dạng trung tính rất phù<br /> hợp với thể loại tiểu thuyết lịch sử. Theo đó, câu chuyện được kể và hiện thực được mô<br /> tả có tính khách quan cao, làm cho độc giả có cảm giác câu chuyện mà người kể chuyện<br /> kể lại rất đầy đủ, chân thật và đáng tin cậy.<br /> Theo G. Genette, mỗi dạng kể chuyện thường gắn với những chức năng trần thuật cụ<br /> thể. Từ đó, ông đã đưa ra năm chức năng cơ bản của người kể chuyện, bao gồm: chức<br /> năng trần thuật; chức năng quản lý, bao quát câu chuyện được kể; chức năng truyền đạt<br /> thông tin; chức năng chứng thực câu chuyện được kể và chức năng biểu lộ tư tưởng,<br /> quan điểm, ý kiến. Trong Tám triều vua Lý, đồng thời với việc sáng tạo ra kiểu người kể<br /> chuyện dị sự – toàn năng, giấu mặt, không đứng cùng bình diện với các nhân vật lịch sử<br /> là người kể chính, Hoàng Quốc Hải đã trao quyền cho nhân vật người kể chuyện thực<br /> hiện nhiều chức năng. Giữ vai trò quan trọng trong một bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ,<br /> người kể chuyện ở đây không chỉ thuật lại câu chuyện lịch sử, mà còn thực hiện nhiều<br /> chức năng khác như: tổ chức, bao quát hệ sự kiện lịch sử về triều đại nhà Lý; bộc lộ<br /> quan điểm lịch sử…<br /> 3. MẤY CHỨC NĂNG CHỦ YẾU CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁM TRIỀU<br /> VUA LÝ<br /> 3.1. Chức năng thuật lại câu chuyện lịch sử<br /> Do đặc trưng về mặt thể loại nên người kể chuyện dị sự trong tiểu thuyết lịch sử đóng<br /> vai trò là người thuật lại câu chuyện lịch sử, phục dựng một giai đoạn, một thời đại lịch<br /> sử cụ thể với tất cả những biến cố và sự kiện cơ bản. Có thể nói, đây là một trong những<br /> chức năng cơ bản của người kể chuyện trong tiểu thuyết lịch sử. Bởi lẽ, nhà văn ngay từ<br /> những ý định ban đầu đã chọn những sự kiện, biến cố hay nhân vật lịch sử làm đề tài<br /> trong sáng tác của mình. Khi tiếp xúc với tác phẩm, điều đầu tiên mà độc giả mong chờ<br /> là sự kiện, nhân vật nào, câu chuyện gì được tác giả lựa chọn để tái hiện, phản ánh,<br /> trước khi tìm hiểu ý đồ, tư tưởng, lớp ngữ nghĩa ẩn sâu sau mỗi con chữ mà tác giả hàm<br /> ẩn, thông qua người kể chuyện do mình sáng tạo ra muốn gửi gắm.<br /> Trong Tám triều vua Lý, người kể chuyện dị sự đứng bên ngoài bao quát gần như toàn<br /> bộ những sự kiện, biến cố của câu chuyện. Thông qua bộ tiểu thuyết, người kể chuyện<br /> đã phục dựng lại toàn bộ bức tranh hiện thực đời sống xã hội dưới triều Lý trải qua 216<br /> năm với bao vinh quang, thăng trầm và giông bão. Thiền sư dựng nước, là câu chuyện<br /> về quá trình lên ngôi của Lý Công Uẩn diễn ra trong sự ủng hộ của quần thần và nguyện<br /> vọng của quần chúng nhân dân. Đây còn là bức tranh nhiều màu sắc về công cuộc chấn<br /> hưng và xây dựng đất nước của vua tôi nhà Lý. Việc dời đô từ kinh đô Hoa Lư về Đại<br /> La là một sự kiện trọng đại mang ý nghĩa lịch sử to lớn, cho thấy tầm nhìn xuyên thiên<br /> niên kỷ của vị vua khởi nghiệp nhà Lý. Con ngựa nhà Phật là bức tranh về công cuộc<br /> xây dựng và phát triển nền văn hiến Đại Việt, là hiện thực chiến trận thảm khốc trong<br /> cuộc chinh phạt Chiêm Thành của vua Lý Thái tông năm Quý Mão (1044). Bình Bắc<br /> <br /> CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ<br /> <br /> 87<br /> <br /> dẹp Nam, kể lại quá trình vua tôi nhà Lý tìm đối sách bang giao với nhà Tống để rảnh<br /> tay đối phó với mặt nam. Con đường định mệnh, cuốn tiểu thuyết có độ dồn nén sự kiện<br /> chặt chẽ. Với 983 trang sách, người kể chuyện đã dồn nén thời gian lịch sử kéo dài đến<br /> 153 năm với vô vàn hệ sự kiện và biến cố lịch sử. Việc lên ngôi của ấu chúa Lý Nhân<br /> tông đã khoét sâu thêm những mâu thuẫn trong lòng triều đình phong kiến, dẫn đến<br /> cuộc chính biến năm Quý Sửu (1073), tạo nên một vết nhơ trong lịch sử và nó đã “gióng<br /> lên hồi chuông báo tử” cho triều đại nhà Lý. Từ đó, các triều vua tiếp theo như Lý Thần<br /> tông, Lý Anh tông, Lý Cao tông tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái không gì<br /> cứu vãn dẫn đến diệt vong dưới triều Lý Huệ tông.<br /> 3.2. Chức năng tổ chức, bao quát hệ sự kiện lịch sử về triều đại nhà Lý<br /> Bên cạnh việc kể lại câu chuyện với đầy đủ những sự kiện, biến cố và nhân vật lịch sử,<br /> người kể chuyện trong Tám triều vua Lý còn mang chức năng bao quát, tổ chức, lựa<br /> chọn, trình bày các cứ liệu lịch sử bằng cách xây dựng, dẫn dắt các tình huống, chi tiết,<br /> xử lý cốt truyện, hư cấu, sáng tạo các sự kiện, biến cố và nhân vật lịch sử. Với chức<br /> năng này người kể chuyện đã giúp Hoàng Quốc Hải hiện thực hóa câu chuyện lịch sử và<br /> truyền tải những ý đồ, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.<br /> Với khả năng bao quát cao, người kể chuyện trong Tám triều vua Lý đã rất khéo léo,<br /> tinh tế khi không kể lại toàn bộ bức tranh xã hội thời Lý. Không lần theo từng vết chân<br /> của tám vị vua nhà Lý, người kể chuyện chỉ lựa chọn những sự kiện, biến cố quan trọng<br /> nhất có ảnh hưởng to lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của họ. Đó cũng là các sự kiện và<br /> biến cố có tính chất quyết định đến sự hưng thịnh, suy thoái hay tiêu vong của một triều<br /> đại. Tuy nhiên, người kể chuyện cũng không đi sâu vào câu chuyện về cuộc đời và sự<br /> nghiệp của tất cả tám vị vua mà chỉ tập trung câu chuyện vào bốn vị vua đầu tiên của<br /> nhà Lý, đó là Lý Thái tổ, Lý Thái tông, Lý Thánh tông, Lý Nhân tông với nhiều sự kiện<br /> và biến cố đặc biệt.<br /> Với Thiền sư dựng nước, người kể chuyện đã lựa chọn, sắp xếp các sự kiện tiêu biểu<br /> mang tính khái quát cao theo một trật tự tuyến tính về quá trình lên ngôi và chấn hưng<br /> đất nước của vua Lý Thái tổ: cái chết được dự báo trước của hôn quân Lê Long Đĩnh,<br /> sự lên ngôi trong hào quang chói sáng của Lý Công Uẩn được quần thần và các vị thiền<br /> sư hết lòng ủng hộ, Lý Công Uẩn dời đô về Đại La, nhà vua bước vào công cuộc chấn<br /> hưng đất nước với những việc làm cụ thể như phá bỏ các hình phạt hà khắc, khuyến<br /> khích phát triển nông nghiệp, công thương nhằm chăm lo đời sống nhân dân… đặc biệt,<br /> biến cố được người kể chú ý nhấn mạnh đó là việc Lý Đức Chính dẹp loạn tam vương<br /> để lên ngôi hoàng đế năm Mậu Thìn (1028). Tất cả được tác giả kể lại một cách tự nhiên<br /> làm cho độc giả có cảm giác như các sự kiện đó không rời rạc mà liên kết với nhau<br /> thành một hệ thống chặt chẽ, logic và sống động.<br /> Con ngựa nhà Phật bao gồm nhiều hệ sự kiện kể về công cuộc xây dựng và phát triển<br /> đất nước của vua Lý Thái tông như khuyến khích phát triển nông nghiệp đặc biệt là phát<br /> triển nghề chăn tằm, dệt lụa; ban hành bộ Hình thư năm Nhâm Ngọ (1042); dẹp loạn<br /> <br /> 88 <br />  <br /> <br /> LÊ THỊ THU TRANG – NGUYỄN THÀNH THI<br /> <br /> Nùng Trí Cao; đối phó với giặc phương Bắc và thảo phạt giặc phương Nam, tiêu biểu là<br /> việc Lý Thái tông thân chinh thảo phạt Chiêm Thành năm Quý Mão (1044).<br /> Với Bình Bắc dẹp Nam, người kể chuyện đã phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về công<br /> cuộc trị bình, phát triển đất nước của vua tôi Lý Thánh tông. Ý thức rõ tầm quan trọng<br /> của việc đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí chống ngoại xâm, nhà Lý đã xác định: “Cái họa<br /> phương Bắc là họa muôn đời, không bao giờ được quên mà lơi là. Lơi là với phương<br /> Bắc là mất nước” [2, tr. 105]. Do đó, muốn giữ gìn được toàn vẹn cương thổ, vua tôi<br /> nhà Lý phải có đối sách phù hợp “cương, nhu uyển chuyển và công thủ tùy thời” và sách<br /> lược bang giao là “cận giao viễn công” [2, tr. 573]. Trong thời điểm hiện tại, Lý Thánh<br /> tông đã lựa chọn con đường “Đánh Chiêm Thành để rảnh tay đối phó với mặt Bắc”, cụ<br /> thể là cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm Ất Dậu (1069).<br /> Với 983 trang sách, Con đường định mệnh đã mang đến cho độc giả những sự kiện và<br /> biến cố về cuộc đời, sự nghiệp của năm vị vua cuối cùng và quá trình suy vong của triều<br /> Lý. Người kể chuyện, với 762 trang đầu, đã dựng lên bức tranh về công cuộc kháng<br /> Tống của quân dân Đại Việt và quá trình chấp chính của vua Lý Nhân tông. Trong khi<br /> đó, chỉ với 221 trang còn lại, kể một cách tỉnh lược tất cả các sự kiện đặc biệt về cuộc<br /> đời và sự nghiệp của bốn vị vua cuối cùng của triều Lý như Lý Thần tông, Lý Anh tông,<br /> Lý Cao tông và Lý Huệ tông.<br /> Trong Tám triều vua Lý, rất nhiều sự kiện và nhân vật tiêu biểu được tác giả lựa chọn để<br /> bao quát toàn bộ bức tranh về một triều đại vàng son trong lịch sử. Tất cả các sự kiện<br /> được chọn lọc đều rất tiêu biểu và trung thành với chính sử. Tuy nhiên, trong từng sự<br /> kiện, tác giả đã sáng tạo rất nhiều chi tiết và nhân vật nhằm làm cho những sự kiện ấy<br /> hiện lên sinh động hơn, gần với hiện thực hơn. Tác giả không chú ý đến những mốc thời<br /> gian cụ thể như trong chính sử mà chú ý đến những giá trị và ý nghĩa của những sự kiện<br /> đó có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời, sự nghiệp của nhân vật cũng như sự tồn<br /> vong của một triều đại. Từ đó, người đọc có thể nhận thức rõ hơn về cuộc đời, số phận,<br /> nhân cách, đời sống nội tâm của những nhân vật trong tác phẩm, đặc biệt là cuộc đời và<br /> sự nghiệp của những vị vua anh minh, tài giỏi như Lý Thái tổ, Lý Thái tông, Lý Thánh<br /> tông và Lý Nhân tông.<br /> 3.3. Chức năng bộc lộ quan điểm lịch sử<br /> Khi sáng tạo nên một tác phẩm bất cứ nhà văn nào cũng mong muốn thể hiện một quan<br /> niệm, một tư tưởng về cuộc sống, về con người hay bộc lộ quan điểm về chính trị, lịch<br /> sử, xã hội. Trong tiểu thuyết lịch sử, ngoài hai chức năng cơ bản là chức năng kể chuyện<br /> và chức năng sắp xếp các chi tiết, xử lý tình huống, người kể chuyện còn mang chức<br /> năng lý giải, chiêm nghiệm và dự báo lịch sử. Lúc này, người kể chuyện cũng chính là<br /> tác giả hàm ẩn bộc lộ những nhận định, đánh giá của mình về các vấn đề trong câu<br /> chuyện.<br /> Thông qua những lời nói trực tiếp hoặc những lời nói gián tiếp từ nhân vật, những đoạn<br /> dẫn dắt và đặc biệt nhất, thông qua số phận của con người trước những biến cố lớn lao<br /> của lịch sử, nhà văn đã thể hiện quan điểm của mình trên tất cả các mặt của đời sống.<br /> <br /> CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ<br /> <br /> 89<br /> <br /> Bên cạnh đó, việc miêu tả những biến động to lớn của lịch sử, những hệ lụy đối với con<br /> người, ông đã bộc lộ lập trường về các vấn đề chính trị – xã hội mang tính chất nhân<br /> loại và thời đại.<br /> 3.3.1. Quan điểm về nguồn gốc thành bại của triều đại nhà Lý, về tư tưởng chống<br /> giặc ngoại xâm và xây dựng vương triều<br /> Sự chuyển giao quyền lực một cách êm thấm từ tay nhà Lê sang nhà Lý, đã đưa dân tộc<br /> thoát khỏi “đêm trường” đau khổ. Nhà Lý bắt tay vào công cuộc chấn hưng đất nước và<br /> phục hồi sức dân. Lý Thái Tổ vốn xuất thân từ cửa Phật nên sớm thấm nhuần tư tưởng<br /> của Phật giáo, vì thế, Phật giáo sớm có ảnh hưởng đến đường lối, tinh thần nhân trị của<br /> không chỉ Lý Công Uẩn mà còn các vị vua triều Lý khác thông qua đội ngũ tăng quan<br /> trực tiếp tham gia đào tạo, tham mưu các công việc triều chính. Sau khi lên ngôi, Lý<br /> Công Uẩn đã tích cực chăm lo cái ăn, cái mặc và học hành cho nhân dân với những<br /> chính sách vô cùng nhân đạo như: tha tô thuế trong ba năm liền (vua Thái tổ tha tô thuế<br /> tới ba lần trong mười tám năm trị vì), khuyến nông, phát triển công thương, tu bổ và xây<br /> dựng chùa chiền làm nơi dạy học…; trọng dụng người tài và cắt cử họ vào những vị trí<br /> then chốt của bộ máy nhà nước; hướng xã hội đi vào con đường công bằng, hiếu thiện;<br /> đặc biệt, hợp quần là lẽ sống còn của quốc gia Đại Việt… Chính sự dìu dắt sáng suốt và<br /> lòng tận tụy vì dân vì nước của một bậc minh quân, tài giỏi – Lý Công Uẩn, cùng với<br /> những trợ giúp lớn lao của Thiền Sư Vạn Hạnh – đất nước đã dần dần phục hồi và đi<br /> vào ổn định. Đời sống nhân dân no ấm, đất nước thái bình, xã hội được xác lập theo<br /> quan điểm tam giáo đồng nguyên: Xã hội Nho – Tâm linh Phật – Thiên nhiên Đạo,<br /> trong đó, đạo Phật trở thành quốc đạo.<br /> Với các nước lân bang, nhà Lý đề ra chính sách phù hợp, đúng đắn “cương, nhu uyển<br /> chuyển và công thủ tùy thời” và sách lược bang giao là “cận giao viễn công” đã giữ<br /> vững nền độc lập, thái bình, thịnh trị lâu dài cho dân tộc trong suốt hơn hai trăm năm.<br /> Trong những cuộc kháng chiến chống giặc phương Bắc hay những cuộc chinh phạt<br /> Chiêm Thành, với sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, vua tôi đồng lòng, nhà Lý đã giành<br /> những chiến công hiển hách, vang dội. Những chiến công ấy không những là kết quả<br /> của tài thao lược, sự sáng suốt dùng người của những người ở ngôi cửu ngũ như Lý<br /> Thái tổ, Lý Thái tông, Lý Thánh tông mà còn là tấc lòng trung quân ái quốc của những<br /> anh hùng, hào kiệt như Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh, Lý Nhật Trung,<br /> Lý Kế Nguyên…<br /> Từ triều Lý Thần tông, Lý Anh tông, nhà Lý bắt đầu suy thoái nghiêm trọng và sự suy<br /> thoái cùng cực là do thói ăn chơi sa đọa, trác táng của Lý Cao tông. Đến đời Lý Huệ<br /> tông, dân tình loạn lạc, giặc cướp khắp nơi, vua là người nhu nhược, ngu hiền nên<br /> không có cách nào chấn hưng đất nước. Nhà Lý buộc phải suy vong và sụp đổ sau cuộc<br /> đảo chính năm Ất Dậu (1225) dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Nhà<br /> Trần lên ngôi, nhà Lý kết thúc sứ mệnh lịch sử. Nguyên nhân sụp đổ của nhà Lý được<br /> Lý Quang Bật và Lý Long Tường đúc kết qua những dòng suy ngẫm: “nhà Lý có dấu<br /> hiệu suy vong từ thời Lý Thần tông và các triều đại sau đó càng trượt dài vào con<br /> đường u tối. Nhân tài ngày một cạn kiệt, các vua lên ngôi trong tuổi ấu thơ, quyền bính<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2