intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chương 10: Khủng hoảng tài chính ở thị trường các nước mới nổi

Chia sẻ: In The End | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

88
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương 10 "Khủng hoảng tài chính ở thị trường các nước mới nổi" giới thiệu đến các bạn những nội dung về xu hướng vận động của cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước mới nổi, khủng hoảng tài chính Hàn Quốc, khủng hoảng tài chính ở Argentina 2001-2002,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chương 10: Khủng hoảng tài chính ở thị trường các nước mới nổi

  1. CHƯƠNG 10. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở THỊ TRƯỜNG CÁC  NƯỚC MỚI NỔI GIỚI THIỆU Trước năm 2007, hầu hết các ví dụ nổi bật về khủng hoảng tài chính đến từ các   quốc gia bên ngoài nước Mỹ. Đặc biệt ở những nền kinh tế mới nổi, đã mở cửa   thị  trường với hy vọng tăng trưởng kinh tế  và giảm nghèo. Tuy nhiên, nhiều   nước trong số đó đã phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như  cuộc đại suy thoái của Mỹ. Ấn tượng nhất là cuộc khủng hoảng Mexico 1994, khủng hoảng Đông Á 1997,  khủng hoảng Argentina 2001. Điều này đặt ra một câu đố  đối với các nhà kinh   tế: làm thế  nào một quốc gia đang có xu hướng tăng trưởng tích cực lại suy   giảm mạnh trong hoạt động kinh tế. Trong chương  này, chúng tôi   áp dụng lý thuyết thông tin bất cân  xứng  của  khủng hoảng tài chính đã phát triển  ở  chương 9 để  tìm hiểu nguyên nhân của   cuộc khủng hoảng ở các nền kinh tế mới nổi. Đầu tiên là xem xét xu hướng vận   động của cuộc khủng hoảng, sau đó áp dụng phân tích hai cuộc khủng hoảng tài  chính xảy ra gần đây  ở  các nước mới nổi để  khám phá nguyên nhân tại sao  những cuộc khủng hoảng này lại làm cho hoạt động kinh tế bị thu hẹp lại. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở  CÁC NƯỚC MỚI NỔI 
  2. Bước 1: Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng Khủng hoảng tài chính  ở  các nền kinh tế  phát triển có thể  được kích hoạt bởi   nhiều nhân tố khác nhau, nhưng ở các nước mới nổi, khủng hoảng tài chính phát   triển theo hai con đường cơ  bản: (1) sự  yếu kém trong quản lý nền tự  do hóa/   toàn cầu hóa tài chính; (2) mất cân bằng tài chính nghiêm trọng. 1. Quản lý yếu kém tự do hóa/toàn cầu hóa tài chính
  3. Hạt giống của khủng hoảng tài chính  ở  các nước mới nổi được gieo khi các   quốc gia thực hiện tự  do hóa hệ  thống tài chính bằng cách xóa bỏ  những hạn   chế, rào cản đối với tổ chức tài chính và thị trường nội địa – gọi là tự do hóa tài  chính. Đồng thời mở cửa nền kinh tế để thu hút vốn từ nước ngoài – gọi là toàn   cầu hóa tài chính. Các nước này thường đạt được một chính sách tài khóa vững   chắc trước khủng hoảng, ví dụ: thâm hụt ngân sách của Mexico chỉ  có 0.7%   GDP – một con số mà các nước phát triển sẽ khao khát. Thậm chí các nước khu  vực Đông Á còn thặng dư ngân sách. Người ta thường nói rằng, “văn hóa tín dụng”  ở  các thị  trường mới nổi là hết   sức yếu kém với sự lỏng lẻo trong giám sát hệ thống ngân hàng, thiếu hiệu quả  trong việc sàng lọc và giám sát người đi vay. Bùng nổ  cho vay do tự do hóa tài  chính được đánh dấu bằng các hoạt động cho vay vô cùng rủi ro, gieo rắc những   khoản lỗ khổng lồ. Quá trình toàn cầu hóa tài chính như thêm dầu vô lửa vì nó  cho phép các ngân hàng trong nước đi vay nước ngoài. Ngân hàng trả lãi suất cao  nhằm thu hút nguồn vốn quốc tế  để  nhanh chóng gia tăng các khoản cho vay.   Các dòng vốn tiếp tục được kích thích bởi các chính sách của chính phủ  như là  neo (fix) giá trị của đồng nội tệ  với đồng đôla, tạo cảm giác thoải mái cho nhà   đầu tư nước ngoài. Giống như trường hợp của Hoa Kỳ, sự bùng nổ cho vay sẽ kết thúc sau khi xảy   ra một cuộc khủng hoảng. Tổn thất đáng kể trong một thời gian dài làm suy yếu   bảng cân đối của ngân hàng và khiến các ngân hàng phải cắt giảm cho vay.  Ở  thị  trường các nước mới nổi, Bảng cân đối ngân hàng suy yếu gây  ảnh hưởng  nghiêm trọng đến hoạt động kinh tế  và hoạt động cho vay hơn là  ở  các nước  phát triển – nơi có thị  trường chứng khoán tinh vi, khu vực tài chính phi ngân  hàng lớn mạnh có khả  năng đón lấy cơ  hội khi ngân hàng hoảng loạn. Vì vậy, 
  4. khi ngân hàng ngừng cho vay, không có 1 “người chơi” nào khác xuất hiện để  giải quyết vấn đề  lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức (thể hiện bởi các mũi  tên chỉ từ yếu tố đầu tiên trong dòng đầu tiên của hình 1 ) Câu chuyện từ  bùng nổ  cho vay đến khủng hoảng cho vay khi thực hiện tự  do   hóa/ toàn cầu hóa tài chính  ở  các nước mới nổi là điều không thê tránh khỏi.   Nhưng nó chỉ xảy ra với một hệ thống quản lý yếu kém. Cụ  thể  hơn nếu một   quốc gia thực hiện những quy tắc thận trọng, giám sát chặt chẽ  để  hạn chế  những hoạt động quá rủi ro, thì sự  bùng nổ và sụp đổ  cho vay sẽ  không xảy ra  (boom and bust). Tại sao các nước mới nổi lại tồn tại những yếu kém đặc  trưng, điều này được thảo luận  ở chương 8, theo đó lợi ích kinh doanh đã đánh   đổ quá trình tự do hóa tài chính. Mục đích của các chính trị gia và nhà giám sát là   bảo vệ  lợi ích của những người nộp thuế  (những tập đoàn nộp thuế  cao), vì  những người nộp thuế  này hầu như  đều phải chịu chi phí giải cứu ngân hàng  nếu thiệt hại xảy ra. Một khi thực hiện tự  do hóa tài chính, các ngân hàng sẽ  muốn ngăn chặn sự  giám sát đối với hoạt động của họ, và khi đó những nhà giám sát sẽ không hành   động vì lợi ích cộng đồng. Lợi ích kinh doanh của ngân hàng thường đóng góp  nhiều cho các cuộc vận động của chính trị  gia, do đó ngân hàng có thể  thuyết   phục các chính trị gia nới lỏng các quy định ngăn chặn họ tham gia vào các chiến   dịch có rủi ro cao. Sau tất cả, nếu chủ  sở  hữu ngân hàng đạt được sự  tăng   trường và mở  rộng cho vay, họ  sẽ  trở  nên giàu có, ngược lại nếu gặp rắc rối,   chính phủ  sẽ  đứng ra bảo lãnh. Ngoài ra, những lợi ích kinh doanh này có thể  đảm bảo rằng các cơ quan giám sát thậm chí với các quy định cứng rắn thì cũng  thiếu nguồn lực để thực hiện. 2. Mất cân bằng tài chính nghiêm trọng
  5. Chi tiêu chính phủ  cũng có thể  đặt nền kinh tế   ở  các nước mới nổi vào con   đường dẫn đến khủng hoảng tài chính. Ví dụ như khủng hoảng Argentina 2001  – 2002, khủng hoảng Nga 1998, Ecuador 1999, Thổ Nhĩ Kỳ 2001. Willie Sutton – một tên cướp nhà băng nổi tiếng được hỏi: “Tại sao lại cướp   ngân hàng”, ông ta trả lời “vì ở đó có tiền”. Chính phủ  ở  các nước mới nổi đôi  khi có cùng suy nghĩ như vậy. Khi đối mặt với tình trạng mất cân bằng tài chính   và không có khả năng trang trải nợ, họ thường dổ ngọt hoặc bắt buộc các ngân  hàng mua nợ của chính phủ. Các nhà đầu tư  mất niềm tin vào khả  năng trả  nợ  của chính phủ, dẫn đến bán tháo trái phiếu khiến giá trái phiếu giảm mạnh. Các  ngân hàng mà giữ các khoản nợ này phải đối mặt với một khoản lỗ lớn bên phía  tài sản của bảng cân đối do giá trị tài sản giảm, các tổ chức này có ít tài nguyên   để cho vay, dẫn đến cho vay cũng giảm. Tình hình này có thể nghiêm trọng hơn,   nếu sự  thiếu hụt nguồn vốn dẫn đến hoảng loạn ngân hàng, trong đó nhiều  ngân hàng phá sản cùng một lúc. Kết quả của sự mất cân bằng tài chính nghiêm  trọng là làm suy yếu hệ thống ngân hàng dẫn đến vấn đề  lựa chọn đối nghịch  và rủi ro đạo đức (thể hiện bởi mũi tên từ yếu tố đầu tiên trong dòng thứ 3 của   hình 1) 3. Các yếu tố khác Các yếu tố  khác góp phần trong giai đoạn đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Ví   dụ: nhân tố  precipitating “thiếu thận trọng” (xuất hiện trong cuộc khủng hoảng   Mexico) làm tăng lãi suất đối với huy động nước ngoài, hoặc như  chính sách   thắt chặt tiền tệ của Mỹ. Khi lãi suất tăng, các tổ  chức có rủi ro cao sẵn sàng  trả  lãi suất cao, dẫn đến vấn đề  lựa chọn đối nghịch càng nghiêm trọng hơn.   Ngoài ra, lãi suất cao làm giảm dòng tiền của doanh nghiệp, buộc họ  phải tìm  kiếm nguồn vốn trên thị trường quốc tế, nơi mà vấn đề  bất cân xứng thông tin  
  6. xảy ra nhiều hơn. Tăng lãi suất huy động nước ngoài kích thích lãi suất trong  nước tăng có thể làm tăng nguy cơ  lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức (thể  hiện bởi mũi tên từ nhân tố thứ 2 trong dòng đầu tiên của hình 1). Thị trường tài sản ở các nước mới nổi không lớn như ở các nước phát triển, nên   nó đóng vai trò ít nổi bật hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính. Giá tài sản trên  thị  trường chứng khoán giảm làm giá trị  tài sản ròng giảm và làm tăng vấn đề  lựa chọn đối nghịch. Có ít tài sản thế  chấp để  người cho vay có thể  nắm giữ,   làm gia tăng vấn đề rủi ro đạo đức . Giá trị tài sản ròng giảm, chủ sở hữu doanh   nghiệp có ít tài sản để mất nên họ tham gia vào các hoạt động rủi ro hơn là họ  đã từng làm trước khủng hoảng. Giá tài sản giảm trực tiếp hoặc gián tiếp làm   trầm trọng thêm vấn đề  lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức bằng cách làm   suy yếu bảng cân đối của ngân hàng (thể hiện bởi mũi tên từ nhân tố thứ 3 trong  dòng đầu tiên của hình 1) Giống như  các nước phát triển, khi nền kinh tế  đang trong tình trạng suy thoái  hoặc một công ty lớn phá sản, người ta trở  nên thiếu chắc chắn về  lợi nhuận   của các dự án đầu tư. Ở các nước mới nổi, hệ  thống chính trị  nổi tiếng không  ổn định cũng là nguồn gốc của sự bất ổn. Khi những bất  ổn gia tăng, sẽ trở nên  khó khăn trong việc sàng lọc những rủi ro tính dụng tốt trong số những cái xấu   và khó khăn trong việc giám sát những người đi vay, một lần nữa lại làm cho  vấn đề  rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghich nghiêm trọng hơn (thể hiện bởi   mũi tên từ nhân tố thứ 4 trong dòng đầu tiên của hình 1). Bước 2: Khủng hoảng tiền tệ Những người tham gia trên thị  trường ngoại hối nhận thấy một cơ  hội  đó là  đánh cuộc vào sự mất giá của tiền tệ có thể thu về một khoản lợi nhuận khổng  
  7. lồ. Điều này được trình bày trong chương 18, một đồng tiền được cố  định so   với đồng đôla Mỹ, trở thành đối tượng của một cuộc tấn công đầu cơ. Khi tiền   tệ tràn ngập thị trường, cung vượt xa cầu, đồng tiền mất giá trầm trọng, khủng   hoảng tiền tệ xảy ra (bước 2 hình 1). Lãi suất huy động cao, bất ổn gia tăng làm   giá tài sản giảm. Sự  mất cân bằng tài chính nghiêm trọng và sự  suy yếu của   bảng cân đối ngân hàng là hai yếu tố chủ chốt dẫn đến tấn công đầu cơ và đẩy   nền kinh tế  lao vào vòng lẩn quẩn của khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng tài  chính, suy thoái. 1. Suy giảm trong bảng cân đối ngân hàng châm ngòi cho khủng hoảng   tiền tệ Khi ngân hàng và các tổ chức tài chính khác gặp khó khăn, chính phủ có một số  lựa chọn hạn chế: bảo vệ đồng tiền bằng cách tăng lãi suất để thu hút dòng vốn  vào, nhưng nếu chính phủ  tăng lãi suất ngân hàng phải trả  thêm tiền để  duy trì  ngân sách. Điều này làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận dẫn đến rũi ro vỡ  nợ. Vì   vậy, khi hệ  thống ngân hàng đang gặp khó khăn, chính phủ  và NHTW đứng  trước 1 lựa chọn khó khăn (between a rock and a hard place): nếu tăng lãi suất  nhiều, nó sẽ  phá hủy những ngân hàng vốn đã suy yếu và tiếp tục làm suy yếu   thêm nền kinh tế. Nếu không tăng lãi suất thì không thể duy trì giá trị đồng tiền. Các nhà đầu cơ trên thị trường ngoại hối nhận ra những khó khăn ở khu vực tài  chính trong nước và việc chính phủ  tăng lãi suất để  bảo vệ  đồng nội tệ  là quá  tốn kém nên cuối cùng chính phủ  chấp nhận từ bỏ  và phá giá đồng nội tệ. Họ  đặt cược một điều chắc chắn rằng đồng nội tệ nhất định giảm giá, các nhà đầu  cơ  bắt đầu tham gia vào trò chơi “ feeding frenzy  – cá lớn nuốt cá bé” và bán  đồng nội tệ  nhằm tìm kiếm những khoản lợi nhuận khổng lồ. Những vụ mua   bán này làm giảm dần dự  trữ  ngoại hối của quốc gia vì chính phủ  phải dùng 
  8. nguồn ngoại tệ dự trữ để mua nội tệ. Một khi dự trữ ngoại hối của NHTW cạn   kiệt, chu kỳ  kết thúc. Không còn nguồn lực để  can thiệp vào thị  trường ngoại  hối và chấp nhận để cho đồng nội tệ mất giá. 2. Mất cân bằng tài chính châm ngòi cho khủng hoảng tài chính Chúng ta có thể  thấy rằng, mất cân bằng tài chính dẫn đến suy yếu bảng cân  đối ngân hàng và tạo ra cuộc khủng hoảng tiền tệ. Tuy nhiên, mất cân bằng tài   chính cũng có thể  trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng. Khi ngân sách chính phủ  thâm hụt một cách mất kiểm soát , nhà đầu tư trong nước và nước ngoài bắt  đầu nghi ngờ về  khả năng trả  nợ  của chính phủ, khi đó họ  sẽ  bán đồng nội tệ  và kéo tiền ra khỏi quốc gia. Tình hình tài chính mất kiểm soát là kết quả  của  cuộc tấn công đầu cơ trên tiền tệ, mà cuối cùng dẫn đến sự phá giá đồng tiền. Bước 3: Khủng hoảng tài chính Ngược lại với các nước phát triển, các nước mới nổi có nhiều hợp đồng nợ  ngoại   tệ   (thường   là   USD)   dẫn   đến   tình   trạng   gọi   là   bất   cân   xứng   tiền   tệ  (currency mismatch). Đồng nội tệ  đột ngột giảm giá hoặc mất giá sẽ  làm gia  tăng gánh nặng nợ  bằng nội tệ  của các công ty trong nước. Ví dụ  như  trường   hợp mất giá của đồng peso, sẽ mất nhiều peso hơn để  trả cho các khoản nợ  bị  đôla hóa. Hầu hết công ty đều định giá hàng hóa và dịch vụ  của họ  bằng đồng  nội tệ, nên khi peso mất giá làm gia tăng giá trị nợ liên quan đến tài sản và làm  giảm giá trị tài sản ròng. Điều này làm trầm trọng thêm vấn đề  rủi ro đạo đức  và lựa chọn đối nghịch đã trình bày trước đó (giai đoạn 3 hình 1). Bây giờ, chúng ta đã thấy được cấu trúc thị trường nợ ở các nước mới nổi  ảnh  hưởng thế nào đến việc phá giá tiền tệ và sau đó đẩy nền kinh tế rơi vào khủng   hoảng. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ, mà kết quả  của nó là đồng nội tệ  mất  
  9. giá, bảng cân đối ngân hàng suy yếu làm gia tăng rủi ro đạo đức và lựa chọn đối  nghịch. Các nhà kinh tế thường gọi cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng  tài chính là cuộc “khủng hoảng kép”. Đồng tiền bị phá giá dẫn đến lạm phát cao, dẫn đến áp lực tăng giá nhập khẩu.   Một sự gia tăng đáng kể trong cả lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng làm lãi  suất trong nước tăng lên, kết quả  làm tăng các khoản thanh toán lãi suất. Điều  này đồng nghĩa với lưu lượng tiền mặt của công ty giảm, dẫn đến vấn đề  bất  cân xứng thông tin vì các công ty phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài để  tài trợ cho việc đầu tư. Phân tích thông tin bất cân xứng để thấy rằng rủi ro đạo  đức và lựa chọn đối nghịch gây ra sự suy giảm trong hoạt động kinh tế và hoạt   động đầu tư. Như  đã chỉ  ra trong hình 1, điều này có nghĩa là có nhiều con nợ  không có khả  năng trả  nợ, gây thiệt hại đáng kể  cho ngân hàng. Lãi suất tăng   mạnh  ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và bảng cân đối ngân hàng, trong khi  giá trị các khoản nợ bằng ngoại tệ lại tăng do đồng tiền mất giá. Như  vậy, có   thể  thấy, bảng cân đối ngân hàng bị  siết chặt cả  hai phía: giá trị  tài sản giảm   trong khi giá trị nợ lại tăng. Trong hoàn cảnh này, hệ thống ngân hàng thường phải đối mặt với cuộc khủng  hoảng ngân hàng, trong đó nhiều ngân hàng gần như  phá sản (như  Mỹ  trong   cuộc Đại suy thoái). Khủng hoảng ngân hàng và các nhân tố  góp phần vào thị  trường tín dụng giải thích cho vấn đề  rủi ro đạo đức là lựa chọn đối nghịch,  đồng thời cũng giải thích cho sự sụp đổ của hoạt động kinh tế và hoạt động cho   vay do hậu quả của cuộc khủng hoảng. Áp dụng những phân tích trên để  nghiên cứu hai trong số  nhiều cuộc khủng  hoảng tài chính đáng chú ý  ở  thị trường các nước mới nổi. Đầu tiên là xem xét  cuộc khủng hoảng của Hàn Quốc (1997 – 1998) vì nó minh họa cho trường hợp  
  10. khủng hoảng tài chính xuất phát từ: “Hệ  thống quản lý yếu kém nền tự  do  hóa/toàn cầu hóa tài chính”. Hai là xem xét cuộc khủng hoảng của Argentina   (2001 – 2002), theo đó cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ  “Sự  mất cân bằng tài  chính (fiscal imbalance)” nghiêm trọng. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HÀN QUỐC (1997 – 1998) Trước năm 1997, HQ là một trong những nền kinh tế thành công trong lịch sử,   từng được gọi là “Asian Miracle” – thuật ngữ dùng để chỉ một quốc gia từng rất   nghèo nàn, sau đó lại có nền kinh tế  tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1960, bảy  năm sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, thu nhập hàng năm trên đầu người   ở HQ dưới 2.000$ ­ ngang bằng với Somalia. Suốt giai đoạn sau chiến tranh, HQ  theo đuổi chiến lược định hướng xuất khẩu, điều này đã giúp HQ trở thành một   trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm gần   8% từ  năm 1960 – 1997. Đến năm 1997, thu nhập bình quân trên đầu người  ở  HQ đã tăng gấp 10 lần. Nhìn vào biểu đồ  có thể  thấy trước năm 1997 HQ đã đạt được những nguyên   tắc cơ bản của kinh tế học vĩ mô với tỷ lệ lạm phát dưới 5%, tăng trưởng GDP  thực gần 7% và tỷ lệ thất nghiệp thấp, ngân sách chính phủ thặng dư nhẹ ­ điều  mà hầu hết các nước phát triển đều không thể đạt được. 1. Quản lý yếu kém nền tự do hóa/ toàn cầu hóa tài chính Đầu những năm 90, HQ tiến hành tự do hóa thị trường tài chính bằng cách gỡ bỏ  những hạn chế đối với các tổ chức tài chính, đồng thời toàn cầu hóa thị trường   tài chính thông qua việc mở  cửa thị trường vốn để  thu hút nguồn vốn từ  nước   ngoài. Điều này dẫn đến một sự bùng nổ cho vay, trong đó tín dụng ngân hàng ở  khu vực phi tài chính tư  nhân gia tăng nhanh chóng với tỷ  lệ  đi vay vốn nước  
  11. ngoài gần 20%/năm. Vì các chính sách điều tiết yếu kém và thiếu chuyên môn  trong việc sàn lọc, giám sát người đi vay, nên tổn thất của các khoản cho vay  bắt đầu tăng lên ăn mòn giá trị ròng của ngân hàng (vốn). Biểu đồ tỷ lệ lạm phát ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999 Biểu đồ tỷ lệ tăng trưởng GDP thực ở HQ năm 1995 – 1999
  12. 2. Sai lầm của quá trình tự do hóa/toàn cầu hóa tài chính: Khủng hoảng  Hàn Quốc và khủng hoảng mô hình tập đoàn kinh tế Chaebols Lợi ích kinh doanh (powerful business interests) là một trong những nguyên nhân  dẫn đến quản lý yếu kém nền tự  do hóa tài chính. Không quốc gia nào có thể  minh chứng cho điều này rõ ràng hơn trường hợp của HQ cuối những năm 90,   tức là trước khi khủng hoảng tài chính xảy ra, khi đó Chaebols thống trị  nền   kinh tế HQ với doanh thu gần 50% GDP của cả nước. Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999 Các Chaebol đóng vai trò quan trọng trong chính trị HQ và được cho rằng quá lớn  để có thể sụp đổ “too big to fail”. Được sự bảo hộ của chính phủ, các Chaebol   biết rằng họ  sẽ  nhận được sự  hỗ  trợ  hoặc tín dụng trực tiếp từ  chính phủ  khi   họ  gặp rắc rối, và có thể  giữ  lại toàn bộ  lợi nhuận nếu họ  sau đó trả  hết các   khoản hỗ trợ tín dụng đó. Điều này khiến cho các Chaebol đi vay một cách điên  rồ và trở thành những tập đoàn kinh tế có đòn bẩy cao.
  13. Những năm 90, các Chaebol không còn kiếm ra tiền. Từ  năm 1993 – 1996, tỷ  suất sinh lợi trên tài sản ROA (một tỷ số  tài chính dùng để  đo lường khả  năng  sinh lợi  trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp) của 30 Chaebol hàng đầu  không quá 3% (trong khi ROA của tập đoàn Mỹ  lúc bấy giờ là 15 – 20%). Năm  1996, ngay trước cuộc khủng hoảng, ROA giảm xuống mức 0.2%. H ơn n ữa ch ỉ  có 5 Chaebol là có lợi nhuận, các chaebol còn lại ROA không bao giờ  vượt quá  1%, thậm chí ROA còn âm trong nhiều năm liền. Trước tình trạng lợi nhuận quá   thấp trong khi đòn bẩy tài chính quá cao, bất kỳ ngân hàng nào cũng sẽ muốn thu   hồi (pull­back) các khoản vay đối với các tập đoàn này nếu không có mạng lưới   đảm bảo của chính phủ. Ngân hàng biết rằng chính phủ  sẽ  chi trả  cho các  khoản vay nếu Chaebol không có khả năng trả nợ, do đó các nhân hàng tiếp tục  cho vay. Tuy nhiên nguồn tài chính của các NHTM trong nước cũng không đủ  thỏa mãn lòng tham của các chaebol. Các chaebol cho rằng cách giúp họ  thoát  khỏi khó khăn đó là tiếp tục tăng trưởng, và họ cần một lượng lớn ngân sách để  thực hiện điều đó. Thậm chí khi HQ khoe khoang rằng tỷ lệ tiết kiệm trên 30%   thì   cũng   không   đủ   tài   trợ   cho   kế   hoạch   mở   rộng   của   các   chaebol.   Vì   vậy  chaebols đã tìm đến thị trường vốn quốc tế. Các chaebol khuyến khích chính phủ HQ đẩy nhanh quá trình mở cửa thị trường   tài chính để  thu hút vốn nước ngoài. Năm 1993, chính phủ  cho phép các ngân   hàng nội địa thực hiện cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời cho phép các tổ  chức   tài chính vay không giới hạn các khoản vay nước ngoài ngắn hạn nhưng lại hạn   chế  các khoản vay dài hạn như là một phương tiện để  quản lý dòng vốn chảy  vào quốc gia. Nhưng điều này thực ra không có ý nghĩa kinh tế. Dòng vốn ngắn   hạn khiến nền nền kinh tế  ở các nước mới nổi trở nên mong manh về tài chính  vì nó sẽ  dể  dàng chảy khỏi quốc gia khi xuất hiện bất kỳ  dấu hiệu nào của  
  14. khủng hoảng. Tuy nhiên điều này lại hoàn toàn có ý nghĩa về mặt chính trị. Các   chaebol cần tiền, và sẽ  dể  dàng hơn để  vay vốn ngắn hạn với lãi suất thấp vì  các khoản vay dài hạn sẽ đem lại nhiều rủi ro cho các chủ nợ nước ngoài. Kết   quả là các ngân hàng HQ đã mở thêm 28 chi nhánh ở nước ngoài để dể dàng tiếp   cận nguồn vốn. Mặc dù các tổ  chức tài chính HQ đã tiếp cận được nguồn vốn quốc tế, nhưng  các chaebol vẫn còn 1 vấn đề. Đó là họ  không được phép sở  hữu ngân hàng  thương mại, do đó họ không thể nhận được tất cả các khoản vay ngân hàng cần  thiết. Tuy nhiên, có một loại hình tổ  chức tài chính đặc biệt có khả  năng cung  cấp được các khoản vay họ  cần, đó là loại hình ngân hàng bán buôn (merchant  bank). Ngân hàng bán buôn là tổ  chức tài chính thực hiện bảo lãnh phát hành  chứng khoán (underwriting securities), cho thuê (leasing) và cho vay ngắn hạn.   Thông qua việc phát hành trái phiếu, thương phiếu và vay từ thị trường liên ngân  hàng trong nước hoặc thị  trường nước ngoài để  tài trợ  cho các khoản vay của  mình. Vào thời điểm cuộc khủng hoảng xảy ra, các ngân hàng bán buôn được   phép đi vay nước ngoài và hầu như không bị  kiểm soát. Các chaebol nhận thấy  cơ  hội của mình và thuyết phục các quan chức chính phủ  cho phép chuyển đổi  nhiều công ty tài chính (một số thuộc sở hữu của chaebol) thành ngân hàng bán   buôn. Các ngân hàng bán buôn đã chuyển một lượng lớn tiền cho chủ  sở  hữu   của mình là các chaebol để đầu tư vào các lĩnh vực không sinh lợi (unproductive)  như sản xuất ô tô, thép và hóa chất. Khi các khoản vay trở nên tệ hại, sân khấu  cho cuộc khủng hoảng tài chính đã được thiết lập. 3. Suy   giảm   thị   trường   chứng   khoán   và   sự   thất   bại   của   các   doanh  nghiệp: bất ổn gia tăng 
  15. Nền kinh tế HQ sau đó trải qua một cú sốc tiêu cực liên quan đến giá xuất khẩu  gây tổn hại đến lợi nhuận biên vốn đã rất thấp và quy mô của các doanh nghiệp  vừa và nhỏ gắn liền với Chaebol. Ngày 23/01/1997, một cú sốc thứ 2 xuất hiện   làm gia tăng bất ổn cho hệ thống tài chính: tập đoàn Hanbo – chaebol lớn thứ 14  tuyên bố phá sản. Thật vậy sự phá sản của Hanbo chỉ là khởi đầu, hơn 5 trong   số  30 chaebol lớn nhất đã tuyên bố  phá sản trong năm. Tình trạng xấu đi của   bảng cân đối kế toán khu vực tài chính và phi tài chính cùng với sự gia tăng các   yếu tố bất định do các vụ  phá sản gây ra đã khiến cho thị  trường chứng khoán  giảm mạnh hơn 50% so với đỉnh của nó. 4. Vấn đề  lựa chọn đối nghịch ­ rủi ro đạo đức và sự  suy giảm tổng   cầu Sự gia tăng bất ổn, suy giảm giá trị tài sản ròng làm trầm trọng thêm vấn đề bất  cân xứng thông tin gây khó khăn trong việc sàn lọc khách hàng tốt trong số  những khách hàng xấu. Sự  suy giảm trong giá trị  tài sản ròng làm giảm giá trị  của tài sản thế chấp và làm gia tăng động lực để thực hiện đầu tư mạo hiểm vì   sẽ  bị mất ít vốn nếu đầu tư  không thành công. Sự  gia tăng bất ổn và suy giảm  thị  trường chứng khoán trước khủng hoảng, cùng với sự  suy thoái trong bảng   cân đối kế  toán của các ngân hàng, vấn đề  lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo   đức làm cho hoạt động cho vay giảm sút và nền kinh tế thu hẹp lại. Sự  suy yếu của nền kinh tế  cùng với sự  suy thoái bảng cân đối kế  toán của   ngân hàng đủ  chín mùi để  dẫn nền kinh tế  HQ bước vào giai đoạn tiếp theo:   khủng   hoảng   tiền   tệ   ­   HQ   chính   thức   rơi   vào   cuộc   khủng   hoảng   tài   chính  nghiêm trọng.
  16. Biểu đồ chỉ số thị trường chứng khoán Hàn Quốc năm 1995 – 1999 5. Khủng hoảng tiền tệ  Bảng cân đối kế toán yếu kém của khu vực tài chính và dòng vốn của nền kinh   tế bị dừng đột ngột, dẫn đến một cuộc tấn công đầu cơ trên tiền tệ HQ là điều  không thể  tránh khỏi. Trước sự  sụp đổ  của đồng path Thái và 42 công ty tài  chính  ở  Thái Lan tuyên bố  đóng cửa tháng 8/1997, khủng hoảng tài chính bắt   đầu lây lan trên thị  trường, liệu rằng những vấn đề  tương tự  có tồn tại  ở  các  quốc gia Đông Á khác. Ngay sau đó, các nhà đầu cơ nhận ra rằng hệ thống ngân   hàng HQ đang gặp rắc rối, NHTW HQ không thể bảo vệ đồng tiền của họ bằng   cách tăng lãi suất vì điều này sẽ  nhấn chìm những ngân hàng vốn đã quá suy  yếu. Các nhà đầu cơ  bắt đầu tháo chạy khỏi đồng won, dẫn đến 1 cuộc tấn  công đầu cơ. 6. Khủng hoảng tiền tệ gây ra khủng hoảng tài chính Cuộc tấn công đầu cơ  khiến đồng won mất giá nghiêm trọng, gần 50%. Vì cả  công ty tài chính và phi tài chính đều có quá nhiều khoản nợ ngoại tệ, việc đồng 
  17. won mất giá khiến giá trị  các khoản nợ  nước ngoài tính bằng nội tệ  gần như  tăng gấp đôi, gây xói mòn giá trị tài sản ròng. Bảng cân đối bị tàn phá khi ngân hàng trả hết các khoản vay ngoại tệ với nhiều  đồng won hơn, trong khi vẫn không thu hồi được các khoản vay bằng đồng USD  mà ngân hàng đã cho các công ty trong nước vay. Mặc khác, các tổ chức tài chính  được khuyến khích vay nợ nước ngoài ngắn hạn, khiến cho ngân hàng phải đối  mặt với vấn đề  thanh khoản vì phải trả  các khoản nợ  này một cách nhanh   chóng. Chính phủ phải can thiệp để đảm bảo cho tất cả các khoản tiền gửi của   ngân hàng và ngăn chặn một sự  hoảng loạn ngân hàng, nhưng sự  mất mát vốn  có nghĩa là ngân hàng phải cắt giảm các khoản cho vay. Biểu đồ tỷ giá hối đoái ($ per won) năm 1995 – 1999
  18. biểu đồ lãi suất ở Hàn Quốc năm 1995 – 1999 Cắt giảm cho vay càng làm cho nền kinh tế trở nên thu hẹp hơn, GDP thực 1998   giảm còn 6%, tỷ  lệ  thất nghiệp tăng mạnh. Trong tình huống này chúng ta kỳ  vọng tỷ lệ lạm phát sẽ  giảm, thay vào đó tỷ  lệ  lạm phát lại tăng lên. Các cuộc   khủng hoảng tiền tệ  đứng đằng sau sự  nghịch lý này. Cụ  thể, sự  sụp đổ  của   đồng tiền HQ sau cuộc tấn công tiền tệ đã làm gia tăng giá nhập khẩu, trực tiếp   làm lạm phát tăng lên và làm suy giảm uy tín của ngân hàng. Do đó, lạm phát  tăng mạnh từ 5 – 10%. Lãi suất thị trường tăng vọt lên mức 20% để bù đắp cho lạm phát cao và vì ngân  hàng HQ theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt theo khuyến cáo của Quỹ tiền tệ  quốc tế. Lãi suất cao dẫn đến sụt giảm trong lưu chuyển tiền tệ, các doanh  nghiệp để  có được nguồn vốn bên ngoài buộc phải tăng cường lựa chọn đối   nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tín dụng. Thông tin bất cân xứng trên thị  trường tín dụng, cộng với lãi suất cao đã  ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định  thắt chặt đầu tư – một lý do khác khiến cho tổng cầu sụt giảm gần 10%.
  19. 7. Nền kinh tế bắt đầu phục hồi Đầu năm 1998, cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế chúng ta thảo luận ở phần  6 đã phát huy tác dụng, nền kinh tế  bắt đầu hồi phục. Ngoài ra chính phủ  HQ   cũng đã phản ứng rất tích cực với cuộc khủng hoảng bằng cách thực hiện một   loạt các cải cách giúp khôi phục niềm tin vào hệ thống tài chính. Thị trường tài   chính hồi phục, kích thích nền kinh tế, GDP thực bắt đầu tăng lên. Khủng hoảng HQ gây ra một chi phí nhân lực quá cao, số  lượng người nghèo  tăng từ  6 lên trên 10 triệu người, tỷ  lệ  tự  tử  và ly hôn tăng gần 50%, tỷ  lệ  nghiện ma túy tăng 35%, tỷ lệ tội phạm tăng 15%. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở ARGENTINA 2001­2002 Khủng hoảng tài chính  ở  Argentina được bắt đầu bời sự  mất cân bằng về  tài   chính trầm trọng mà chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây 1. Sự mất cân bằng về tài chính trầm trọng Trái ngược với Mexico và các nước Đông Á. Argentina có 1 hệ thống ngân hàng  được giám sát rất chặt, và việc bùng nổ  cho vay đã không xảy ra trước cuộc  khủng hoảng. Các ngân hàng đã ở  trong tình trạng cực kì tốt trước cuộc khủng   hoảng, mặc dù một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng đã bắt đầu vào năm 1998.  Tuy nhiên, thật không may rằng Argentina  đã luôn gặp khó khăn trọng việc  kiểm soát ngân sách của mình.  Ở  Argentina, các tỉnh (tương tự  như  các tiểu   bang ở  Mỹ) kiểm soát 1 tỷ lệ  lớn phần trăm chi tiêu công, nhưng việc kiếm ra  lợi nhuận thì lại là trách nhiệm chủ yếu của chính phủ liên bang. Với hệ thống  này, các tỉnh có động lực trong việc tiêu xài vượt quá khả năng của mình và sau  đó lại nhờ  đến chính phủ  liên bang định kỳ  để  chịu trách nhiệm cho khoản nợ  của họ. Vì vậy, Argentina luôn bị thâm hụt ngân sách.
  20. Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào năm 1998 đã làm tình hình trở nên tệ hơn bởi vì  nó làm giảm thu nhập chịu thuế (tax revenues) và dẫn đến 1 khoảng cách ngày  càng lớn giữa chi tiêu chính phủ và thuế. Sự mất cân đối về tài chính diễn ra sau   đó nghiêm trọng đến mức chính phủ  gặp khó khăn trong việc thuyết phục cả  người dân trong nước và nước ngoài mua đủ số lượng trái phiếu, nên Argentina  đã cưỡng chế  các ngân hàng trong việc tiêu thụ  1 số  lượng lớn nợ  chính phủ.   Cho đến năm 2001, các nhà đầu tư đã bắt đầu mất niềm tin vào khả năng chi trả  số  nợ  này của chính phủ  Argentina. Giá của khoảng nợ  giảm mạnh,  để  lại  nhiều lỗ  hỏng trong bảng cân đối của các ngân hàng. Hệ  thống ngân hàng đã  từng được xem là 1 trong những hệ thống mạnh và được kiểm soát nghiêm ngặt  nhất trong số các thị trường mới nổi bây giờ đang bắt đầu mất đi tiền gửi. 2. Lựa chọn đối nghịch và vấn đề rủi ro đạo đức trở nên tệ hơn Sự thoái hóa của các bảng cân đối ngân hàng và sự mất đi các khoản tiền gửi đã  khiến các ngân hàng phải giảm đi số  lượng tiền cho vay. Vì vậy, lựa chọn đối  nghịch và các vấn đề rủi ro đạo đức trở nên tệ hơn. Giống như trường hợp của   Hàn Quốc, việc cắt giảm tiền cho vay bắt nguồn từ  sự  gia tăng trong vấn đề  thông tin bất cân xứng đã dẫn đến sự thu hẹp lại của nền kinh tế, vợi lạm phát  và sản lượng giảm  đi, thất nghiệp tăng, có thể thấy trong biểu đồ 8,9,10. Sự yếu đi của nền kinh tế  và suy thoái của các bảng cân đối ngân hàng đã mở  đường cho giai đoạn tiếp theo của cuộc khủng hoảng­ một cuộc hoảng loạn   ngân hàng. 3. Hoảng loạn ngân hàng bắt đầu Vào tháng 10­2001, các cuộc đàm phán giữa chính quyền trung ương và các tỉnh   nhằm cải thiện tình hình tài chính thất bại, và thu nhập chịu thuế tiếp tục giảm 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2