intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CHƯƠNG 6 XỬ TRÍ ĐƯỜNG KHÍ VÀ SỰ THÔNG KHÍ PHỔI PHẦN 1

Chia sẻ: Tu Oanh04 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

64
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những nguyên nhân của một tắc đường khí và biết cách nhận biết nó. Những kỹ thuật quản lý đường khí lúc bắt đầu thủ thuật hồi sinh. Sử dụng những dụng cụ đơn giản để duy trì đường khí thông thương Sử dụng những dụng cụ đơn giản để thông khí phổi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CHƯƠNG 6 XỬ TRÍ ĐƯỜNG KHÍ VÀ SỰ THÔNG KHÍ PHỔI PHẦN 1

  1. CHƯƠNG 6 XỬ TRÍ ĐƯỜNG KHÍ VÀ SỰ THÔNG KHÍ PHỔI (GESTION DE L’AIRWAY ET DE LA VENTILATION) - PHẦN 1 NHỮNG MỤC TIÊU Gồm có : Nh ững nguyên nhân của một tắc đ ường khí và biết cách nhận biết nó.  Nh ững kỹ thuật quản lý đường khí lúc bắt đầu thủ thuật hồi sinh.  Sử dụng những dụng cụ đơn giản để duy trì đường khí thông thương  Sử dụng những dụng cụ đơn giản để thông khí phổi  PHẦN I XỬ TRÍ CƠ BẢN ĐƯỜNG KHÍ VÀ SỰ THÔNG KHÍ PHỔI (GESTION DE BASE DE L’AIRWAY ET DE LA VENTILATION) I/ NHẬP ĐỀ Các bệnh nhân cần hồi sức (réanimation) th ường có đ ường khí bị tắc, thường nhất là hậu quả của sự mất tri giác, nhưng đôi khi sự tắc đường khí cũng có thể là nguyên nhân của ngừng tim-hô hấp. Một sự đánh giá nhanh chóng với sự kiểm soát đường khí và sự góp phần của một thông khí nhân tạo (ventilation artificielle) là thiết yếu, không những để ngăn ngừa các thương tổn thiếu oxy
  2. mô thứ phát (lésions hypoxiques secondaires) đối với n ão bộ cũng như đối với những cơ quan sinh tử khác, mà cũng bởi vì, nếu không được tái cấp oxy thích đáng, không có thể tái khởi động cơ tim bị ngừng và phục hồi một nhịp với thông máu có hiệu quả. II/ CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY TẮC ĐƯ ỜNG DẪN KHÍ. Sự tắc đường khí (obstruction des voies aériennes) có thể không hoàn toàn hoặc hoàn toàn. Sự tắc có thể xảy ra ở b ất cứ nơi nào từ mũi và miệng đến các phế quản. Nơi các bệnh nhân bất tỉnh, nơi tắc thông thường là ở hầu (pharynx). Nguyên nhân chính xác của tắc đư ờng khí trong một tình trạng hôn m ê đã được nhận diện trong lúc nghiên cứu những bệnh nhân trong tình trạng gây m ê tổng quát. Sự tắc đường khí trước đây được quy cho sự xê dịch ra sau của lưỡi, do trương lực cơ bị giảm, nên sau cùng lưỡi đến tiếp xúc với th ành sau của hầu. Nh ững công trình nghiên cứu trên những bệnh nhân được gây m ê đã cho th ấy rằng mức tắc của đường khí thường là ở khẩu cái màng (palais membraneux) và nắp thanh quản (épiglotte), hơn là lưỡi. Sự tắc cũng có thể gây nên b ởi các chất mửa và máu, sau khi ợ các chất chứa trong dạ dày hay là do một chấn thương hoặc do sự hiện diện của các dị vật. Sự tắc thanh quản có thể xảy ra do phù, gây nên bởi các vết bỏng, bởi một phản ứng viêm hay b ởi phản vệ (anaphylaxie). Co thắt thanh quản (spasme laryngé) có thể là kết quả của một phản ứng không thích hợp đối với một kích thích các đường hô hấp trên hay có thể xảy ra sau khi hít một vật lạ. Sự tắc các đường khí dưới thanh quản ít thường h ơn nhưng có thể xảy ra do dịch tiết khí quản quá mức, phù niêm mạc, co thắt khí quản, phù phổi hay hít các chất chứa trong dạ dày. III/ NHẬN BIẾT SỰ TẮC ĐƯỜNG KHÍ. Điều n ày được thực hiện tốt nhất bởi phương thức nhìn, nghe, cảm thấy : Nhìn sự hiện diện của những cử động của lồng ngực và bụng. 
  3. Nghe và cảm thấy khí đi qua ở miệng và mũi.  Đối với một tắc không hoàn toàn (obstruction partielle), sự đi vào của khí bị giảm và thường ồn ào. Thở rít lúc thở vào (stridor inspiratoire) được gây n ên bởi tắc n ơi ho ặc  trên thanh quản. đường hô hấp dưới với khuynh h ướng xẹp và tắc lúc thở ra.  những tiếng ồng ọc (gargouillements) gợi ý sự hiện diện của chất dịch  hay vật lạ nửa rắn nửa lỏng trong các đ ường hô hấp chính. tiếng gáy (ronflement) xảy ra khí hầu bị gây tắc một phần bởi lưỡi hay  khẩu cái. Một tiếng rít (stridor) cũng là tiếng ồn của co thắt thanh quản hay một  tắc. Một tắc hoàn toàn các đư ờng khí (obstruction complète des voies aériennes) nơi m ột bệnh nhân thực hiện những cố gắng hô hấp sẽ dẫn đến những cử động lồng ngực và thành bụng nghịch lý (mouvement paradoxal), thường được mô tả như là hô hấp răng cưa (respiration en dents de scie). Quan sát bệnh nhân cho thấy rằng khi bệnh nhân cố thở vào, thành ngực thu vào về phía trong trong khi bụng nở ra. Điều này tương phản với hô hấp bình thường, trong đó những cử động của bụng hướng lên cao và ra ngoài (do cơ hoành bị đẩy xuống d ưới) là đồng bộ với sự nâng lên của thành ngực. Khi có một tắc đường khí, những cơ phụ hô hấp khác tham gia vào ; các cơ ở cổ và vai co lại để hỗ trợ những cử động của lồng ngực. Cũng có thể có lõm gian sườn (creusement intercostal) hay dư ới sườn (souscostal) và lún khí qu ản (affaissement de la trachée). Sự thăm khám hoàn chỉnh cổ, ngực và bụng là cần thiết để gián biệt những cử động nghịch lý n ày, đôi khi có th ể bắt chước một hô hấp b ình thường. Điều quan trọng là thăm khám cũng xác định sự vắng mặt của tiếng hô hấp để chẩn
  4. đoán đúng đắn một tắc hoàn toàn của đ ường khí. Một hô hấp bình thường phải êm ái trong khi một hô hấp lúc bị tắc hoàn toàn sẽ hoàn toàn yên lặng. Trừ phi sự tắc đường khí có thể được lấy đi để cho phép một thông khí phổi thích đáng trong một khoảng thời gian vài phút, những thương tổn thần kinh cũng như những cơ quan sinh tử khác có thể xuất hiện, dẫn đến ngừng tim. Mỗi khi có thể được, phải cho oxy nồng độ cao đồng thời cố khai thông đường hô hấp. Khi đường hô hấp trở n ên thông suốt, độ bảo hòa của oxy sẽ được tái lập nhanh hơn nhiều nếu FiO2 (fraction inspirée en oxygène) tăng cao. NHỮNG BỆNH NHÂN VỚI MỞ KHÍ QUẢN HAY VỚI STOMIE TRACHEALE THƯỜNG TRỰC. Một bệnh nhân với một canun mở khí quản (canule de trachéostomie) hay với stomie khí qu ản vĩnh viễn (thường sau một cắt bỏ thanh quản) có thể phát triển một tắc đư ờng khí do blocage ở canule hay ở stomie (sự tắc đư ờng khí không thể xảy ra ở hầu). Phải lấy đi tất cả vật lạ nằm ở canun hay stomie. Nếu cần thiết, phải lấy canun đi hay, nếu có, thay guide tubulaire của mở khí quản. Phải cho oxy và n ếu cần thiết, hỗ trợ thông khí qua stomie hay canun mở khí quản, chứ không phải qua miệng. IV/ NHỮNG KỸ THUẬT CƠ BẢN ĐỂ KHAI THÔNG ĐƯỜNG KHÍ. Khi sự tắc đ ường hô hấp được phát hiện, những biện pháp thích đáng phải được thực hiện để khai thông và duy trì một sự thông thương của đường dẫn khí. Có 3 thủ thuật có thể đư ợc sử dụng để điều chỉnh một tắc đường hô hấp trên : Nghiêng đầu (head tilt, bascule de la tête)  Nâng cằm (chin lift)  Đẩy h àm (jaw thrust) 
  5. 1/ NGHIÊNG ĐẦU (HEAD TILT) VÀ NÂNG CẰM (CHIN LIFT). Đặt một bàn tay trên trán của bệnh nhân và đẩy nhẹ đầu về phía sau ; đặt các ngón tay của bàn tay kia dưới góc của cằm bệnh nhân và kéo nhẹ về phía trên để nâng lên những cơ quan trước của cổ. 2/ ĐẨY H ÀM (JAW THRUST) Đẩy h àm là một thủ thuật khác cho phép nâng hàm về phía trước và lên cao và như thế điều chỉnh sự tắc gây nên bởi lưỡi. Tốt hơn khi đư ợc sử dụng cùng với nghiêng đ ầu. LÀM SAO THỰC HIỆN ĐẨY H ÀM. Nh ận diện góc của xương hàm.  Với ngón trỏ và những ngón tay khác được đặt dưới góc xương h àm, ấn  mạnh về phía trên và phía trước để nâng h àm lên. Bằng cách sử dụng các ngón cái, mở nhẻ miệng bằng cách xê dịch cằm  về phía dưới. 3 phương pháp đơn giản này có thể hữu ích trong hầu hết các trường hợp mà tắc đư ờng khí xảy ra đó các mô mềm bị giãn . Sau mỗi thủ thuật, phải xác nhận sự thành công b ằng cách sử dụng chuỗi thấy, nghe, cảm thấy. Nếu không có được một đường dẫn khí thông thường, phải tìm kiếm những nguyên nhân gây tắc khác. Một vật lạ rắn trong miệng có thể được lấy đi bằng cách sử dụng n gón tay cong lại dưới dạng cái móc. Một hàm răng bị gãy hay b ị xê dịch phải được lấy đi nhưng đối với những răng giả còn dính tốt, thì tốt hơn là nên để yên tại chỗ để giúp duy trì những đư ờng nét đúng đắn của gương mặt, điều này sẽ làm
  6. dễ một sự ăn khớp tốt h ơn trong lúc thông khí miệng-miệng, miệng-mặt nạ hay với quả bóng. 3/ QUẢN LÝ ĐƯỜNG DẪN KHÍ NƠI MỘT BỆNH NHÂN NGHI CÓ NHỮNG THƯƠNG TỔN CỘT SỐNG CỐ. Nếu một thương tổn tủy sống được nghi ngờ (thí dụ nếu nạn nhân đ ã b ị té, đã nhận một cú vào đầu hay vào cổ, hay đã được cứu sau khi phóng vào trong vùng nước cạn) phải giữ đầu, cổ, ngực và vùng thắt lưng trong một tư thế trung dung trong lúc hồi sức. Một sự nghiêng đ ầu quá mức do thủ thuật nghiêng đ ầu (head tilt) có th ể làm gia trọng chấn thương và làm thương tổn tủy sống cổ ; tuy nhiên, biến chứng n ày vẫn là lý thuyết và nguy cơ tương đối không được biết đến. Khi có một nguy cơ thương tổn cột sống cổ, phải thiết lập sự thông suốt của đường hô hấp trên bằng thủ thuật đẩy hàm (jaw thrust) hay nâng cằm (chin lift) đồng thời nhờ một người giúp giữ vững bằng tay đầu và cổ ở vị trí thẳng hàng. Nếu một sự tắc đe dọa đường khí vẫn tồn tại mặc dầu áp dụng đúng đắn thủ thuật đẩy hàm và nâng cằm, phải thêm một nghiêng đ ầu với biên độ càng nhỏ càng tốt cho đến khi đường khí được thông thương ; việc đảm bảo đường khí mở ưu tiên hơn nh ững thương tổn của cột sống cổ. V/ SỬ DỤNG CÁC DỤNG CỤ ĐƠN GIẢN ĐỂ DUY TRÌ ĐƯỜNG KHÍ THÔNG SUỐT. Các canules đơn giản đôi khi rất có hiệu quả và đôi khi thiết yếu để duy trì các đường khí mở, nhất là khi các thủ thuật hồi sức kéo dài. Vị trí đúng đắn của đầu và cổ phải được duy trì để cho phép làm thẳng hàng và như vậy khai thông các đường khí. Điều n ày ph ải được thực hiện một cách liên tục trong lúc hồi sức. Các canun kh ẩu -hầu (canules oro-pharyngées) và tỵ-hầu (naso-pharyngées) nhằm giải quyết sự tắc ở khẩu cái màng (palais membraneux) và bù trừ sự xê
  7. dịch về phía sau của lư ỡi n ơi một bệnh nhân hôn mê, nhưng các thủ thuật nghiêng đ ầu (head tilt) và đ ẩy hàm (jaw thrust) cũng có thể cần thiết ngoài sự thiết đặt canule. 1/ CANUN KH ẨU HẦU (CANULES ORO-PHARYNGEES). Nh ững canun khẩu-hầu hay canun Guedel là những ống cong bằng plastic, được tăng cường ở đầu miệng, có một phần cong cho phép các canun thích ứng một cách đúng đắn với lưỡi và kh ẩu cái xương (palais osseux). Các canun có các kích thước khác nhau từ thời kỳ sơ sinh đến tuổi trư ởng thành. Cần phải ước tính kích th ước cần thiết bằng cách chọn lựa canun tùy theo chiều d ài tương ứng với khoảng cách giữa các răng của bệnh nhân và góc của xương hàm dưới. Các kích thước thông thường nhất lần lượt là 2, 3 và 4 đối với những người trưởng thành có kích thước nhỏ, trung bình và to lớn. Trong khi đặt canun khẩu hầu, lưỡi đôi khi có thể bị đẩy ra sau, làm gia trọng sự tắc hơn là điều chỉnh. Một kỹ thuật đặt đúng đắn phải tránh vấn đề n ày. Mửa và co thắt thanh quản có thể xảy ra nếu các phản xạ lưỡi-h ầu (réflexes glosso- pharyngés) và thanh quản hiện diện và vì vậy việc đặt canun này phải được thực hiện duy nhất nơi b ệnh nhân hôn mê. KỸ THUẬT ĐẶT CANUN GUEDEL. Mở miệng bệnh nhân và đảm bảo rằng không có vật lạ hiện hiện, để  không đẩy chúng vào trong thanh quản (nếu các vật lạ hiện diện, phải dùng máy hút để lấy chúng đi). Đưa canun vào trong xoang miệng trong một tư thế phần cong hướng về  phía trên cho đến chỗ tiếp nối giữa khẩu cái màng và xương và sau đó quay 180 độ. Đẩy canun cho đến khi nó định vị trong hầu. Kỹ thuật quay này làm giảm thiểu nguy cơ đ ẩy lưỡi về phía dưới và phía sau.
  8. Phải cẩn thận đừng đẩy các răng cửa trước. Do đó bệnh nhân phải khá mất tri giác để không gây một réflexe de gag hay de lutte và nếu một phản ứng nào đó được chứng thực, thì canun khẩu hầu phải được trực tiếp lấy đi. Một vị trí được đặt đúng đắn được thể hiện bởi một sự cải thiện tính thông suốt của các đường khí và b ởi sự xác nhận rằng phần dẹt loe ra của canun nằm giữa các răng của bệnh nhân hay ở các o răng hay môi (nếu bệnh nhân không có răng). Sau khi đã thiết đặt, phải duy trì nghiêng đầu (head tilt) và nâng cằm  (chin lift) và kiểm tra sự thông suốt của đ ường khí và của sự thông khí bằng cách sử dụng kỹ thuật thông thư ờng nghe, thấy, cảm thấy. Nếu có một sự nghi ngờ thương tổn cổ, phải duy trì sự thẳng hàng và sự bất động của đầu và cổ. Hít dịch thường có thể thực hiện xuyên qua một canun kh ẩu -hầu, bằng một ông hút có thể uốn được có kích thước nhỏ 2/ CANUN TỴ-HẦU (CANULES NASO-PHARYNGEES). Các canun tỵ hầu được làm bởi plastic mềm và dễ dát (malléable), được vạt mép (biseauté) ở một đầu và được mở rộng đầu kia. Các canun này thường chịu được tốt hơn các canun khẩu hầu nơi những bệnh nhân mất tri giác kém sâu hơn và chúng có th ể rất hữu ích thậm chí thiết yếu n ơi những bệnh nhân với các hàm bị khẹp lai, bị trismus hay những thương tổn h àm mặt. Phải sử dụng chúng một cách rất thận trọng lúc nghi ngờ một gãy xương đáy sọ, và cần nhớ rằng chúng có thể gây nên chảy máu trong mũi. Sự đặt sai canun tỵ hầu đi xuyên qua một chỗ gãy xương đáy sọ vào bên trong hop sọ là có th ể xảy ra, mặc dầu rất hiếm. Đứng trư ớc một gãy xương, được biết hay đ ược nghi ngờ, của đáy sọ, một canun khẩu -hầu đư ợc ưa thích hơn, nhưng n ếu như không th ể đặt được, và rằng đường dẫn khi bị tắc, sự thiết đặt thận trọng của một ống tỵ-hầu có thể cứu được mạng sống (khi những lợi ích
  9. hơn nhiều các nguy cơ). Các canun được khắc thành milimet tùy theo đường kính trong và chiều d ài gia tăng tùy theo đường kính. Những phương pháp thông thường để xác định kích thước của các canun tỵ hầu (đo tùy theo kích thước ngón út hay các lỗ mũi trước của bệnh nhân) không tương ứng tốt với cơ thể học của các đường khí và không đáng tin cậy. Các kích thước được dùng nơi người trư ởng thành là 6 đ ến 7 mm Sự thiết đặt có thể gây n ên những thương tổn ở niêm mạc mũi và gây nên chảy máu với một tần số có thể đạt đến 30% các truong hợp. Nếu ống quá dài, nó có thể kích thích các phản xạ thanh quản và thiệt-hầu và gây nên co thắt thanh quản hay nôn mửa. KỸ THUẬT ĐẶT CANUN TỴ - HẦU. kiểm tra sự mở nơi lỗ mũi phải.  vài canun cần đặt một kim găm nơi ph ần gần để th êm một phương tiện  bổ sung nhằm tránh đẩy ống vào quá xa qua các ỗ mũi. bôi trơn ống bằng cách dùng một gel hòa tan trong nước.  đưa ph ần vạt mép (partie biseautée) vào trước, thẳng đứng dọc theo sàn  mũi vừa quay nhẹ. Phần cong của vanun phải được hướng về phía chân của bệnh nhân. Nếu gặp tắc, hãy lấy ống đi và thử lỗ mũi trái. Một khi đ ã đ ược thiết đặt, kiểm tra sự thông suốt của đường hô hấp và  sự hiệu quả của thông khí bằng kỹ thuật nghe, thấy, cảm thấy. Để duy trì sự thẳng hàng đúng đ ắn của đầu và cổ, các kỹ thuật nâng cằm hay đấy hàm có th ể vẫn cần thiết. Nếu có nghi ngờ thương tổn cột sống cổ, duy trì sự thẳng hàng và bất động đầu và cổ. VI/ OXYGENE
  10. Phải luôn luôn cho oxy nếu có sẵn,. Một mặt nạ loại Venturi có thể cấp một nồng độ oxy từ 24 đến 60% tùy theo m ặt nạ được lựa chọn. Một mặt nạ oxy chu ẩn có thể mang lại đến 50% oxy, miễn là lưu lượng oxy được cấp đầy đủ. Lúc đầu, phải cấp nồng độ oxy cao nhất : một mặt nạ có một réservoir có thể đảm bảo một nồng độ oxy thở vào 85% đối với một lưu lượng 10 -15 L/ phút. Phải theo dõi độ bảo hòa oxy bằng một pulseoxymètre (Sp02) hay bằng khí máu động mạch để sau đó định chuẩn nồng độ oxy được thở vào. VII/ HÚT. Các máy hút, với một ống hút (sonde d’aspiration) lớn và cứng (loại Yankauer), phải được sử dụng để lấy đi các chất dịch (máu, nước miếng và các chất trong dạ dày) n ằm trong đư ờng hô hấp tren. Phải hút một cách thận trọng nếu bệnh nhân còn giữ một phản xạ hầu (gag reflex) nguyên vẹn bởi vì đ iều đó có thể gây mửa. Một ống hút mảnh và gấp được có thể cần thiết nơi những bệnh nhân m à sự mở miệng bị h ạn chế. Những ống hút n ày có thể được đưa vào xuyên qua những canun khẩu[*] hay tỵ-hầu. VIII/ THÔNG KHÍ. Đối với mọi bệnh nhân mà sự thông khí tự nhiên (ventilation spontanée) không thích đáng hay vắng mặt, phải bắt đầu một thông khí nhân tạo (ventilation artificielle) càng nhanh càng tốt. Sự thông khí bằng khí thở ra(thông khí “ cứu miệng-miệng ”, ventilation de “ sauvetage par bouche-à-bouche ”) tỏ ra hiệu quả nhưng nồng độ oxy được thở ra bởi người cứu chỉ 16-17% và vì vậy phải thay th ế nó ngay khi nào có thể đư ợc bằng một thông khí với khí giàu oxy. Thông khí miệng-miệng (ventilation au bouche-à-bouche) có ưu điểm to lớn là không cần dụng cụ nào, nhưng kỹ thuật của nó không đư ợc ưa thích về mặt thẩm mỹ, nhất là khi có các ch ất nôn mửa và máu hiện diện, và ngư ời sơ cứu có thể do dự khi phải tiếp xúc mật thiết với một nạn nhân thường là không quen biết.
  11. Ch ỉ có một số rất nhỏ các trường hợp những người đã bị lây nhiễm sau khi đã thực hiện một RCP, thí dụ bởi bệnh lao hay SARS. Sự truyền của virus HIV trong lúc thực hiện hồi sinh đã không bao giờ được báo cáo. Để tránh những vấn đề này, có các đồ phụ tùng đơn giản cho phép tránh một sự tiếp xúc trực tiếp giữa ngươi cứu và n ạn nhân. Vài trong số những phụ tùng này cũng cho phép làm giảm nguy cơ nhiễm trùng được truyền từ người này qua người kia. Một thiết bị th ường đ ược sử dụng là mặt nạ bỏ túi (masque de poche hay pocket mask). Mặt nạ này tương tự với một mặt nạ được sử dụng trong gây mê và cho phép sự thông khí đư ợc thực hiện từ miệng vào mặt nạ. Nó có một van một chiều (valve unidirectionnelle), cho phép khí được thở ra bởi nạn nhân được làm lệch h ướng ra ngo ài người cứu, như vậy cho phép hai đư ờng khí (nạn nhân và người cứu) hoàn toàn được tách biệt. Mặt nạ trong suốt, điều này cho phép nhìn thấy các chất mửa và máu từ bệnh nhân. Vài m ặt nạ có một van để buộc một nguồn oxy. Van này m ột chiều (oneway valve) để cho không bị rò trong trường hợp nguồn oxy không đư ợc nối vào. Cũng có thể cho oxy bổ sung bằng các mặt nạ không có van thích ứng n ày : chỉ cần đặt một đầu của ống oxy dưới mặt nạ và sau đó đảm bảo mặt nạ được áp kín đầy đủ. Khó khăn chính lúc sử dụng các mặt nạ này là duy trì một khả năng áp kín đủ giữa mặt nạ và m ặt của bệnh nhân. Một kỹ thuật dùng hai bàn tay rất được khuyến nghị. Nh ững áp suất tăn g cao có th ể được phát sinh trong các đường khí của nạn nhân n ếu thổi vào những thể tích lưu thông (volume courant) hay lưu lượng thở vào (flux inspiratoire) quá quan trọng, điều này khiến dạ d ày bị thổi phồng và do đó tạo một nguy cơ quan trọng trào ngược (régurgitaion) và hít dịch vào phổi (aspiration pulmonaire). Khi sự căng dạ dày xảy ra, độ dẻo của phổi (compliance pulmonaire) lại còn b ị giảm, điều này làm cho sự thông khí càng khó khăn hơn. Nguy cơ làm căng dạ dày và do đó gây ợ được làm gia tăng bởi :
  12. đầu và cổ không được thẳng hàng và tắc các đường khí.  bất túc cơ vòng thực quản dưới (xảy ra n ơi những bệnh nhân ngừng  tim). các áp su ất thổi vào tăng cao.  Mặc dầu cần các thể tích lưu thông khá quan trọng (khoảng 10 ml/kg) trong lúc thông khí b ằng khí th ở ra (ventilation par air expiré) (thông khí miệng-miệng), khi oxy bổ sung được sử dụng, những thể tích thấp hơn khoảng 400 -600 ml (6 - 7 ml/kg) đảm bảo một sự cấp oxy và thông khí thích đáng, điều n ày cho phép làm giảm sự căng trướng dạ d ày. Nếu lưu lượng thở vào quá th ấp, thời gian thở vào sẽ bị kéo dài ra và thời gian cần để xoa bóp ngục bị giảm bớt. Phải thực hiện mỗi thông khí trong 1 giây, và cho một thể tích gây nên một cử động có thể thấy đ ược của thành ngực ; điều n ày là một thỏa hiệp giữa sự việc cho một thể tích đầy đủ, giảm thiểu nguy cơ làm căng dạ d ày, và cho phép một thời gian đầy đủ để thực hiện xoa bóp tim. Trong khi làm RCP với các đường khí không được bảo vệ, phải cho hai thông khí sau mỗi chu kỳ 30 xoa bóp ngực. 1/ K Ỹ THUẬT THÔNG KHÍ MIỆNG MẶT NẠ (VENTILATION BOUCHE-A-MASQUE). Đặt bệnh nhân nằm ngửa, với đầu ở tư thế “ sniffing position ”, nghĩa là  với cổ hơi gấp với một chiếc gối đặt dưới đầu, còn đầu thì ưỡn (được đẩy ra sau) so với cổ. Áp mặt nạ lên m ặt của nạn nhân bằng cách sử dụng các ngón cái của hai  bàn tay. Áp dụng thủ thuật đẩy hàm (jaw thrust).  Nâng hàm dưới lên về phía trong của mặt nạ bằng các ngón tay kia,  đồng thời đ è ép vào phía sau của các góc của xương hàm dưới (jaw thrust). Đồng thời, áp mặt nạ lên m ặt với những ngón cái để thực hiện một sự kín tốt.
  13. Thổi xuyên qua van thở vào (valve inspiratoire) và nhìn cử động của  lồng ngực. Ngừng thổi vào và nhìn ngực hạ xuống.  Mọi rò khí giữa mặt và mặt nạ có thể được làm giảm bớt bằngcách điều  chỉnh sự đè ép, ho ặc bằng cách làm biến đổi vị trí của các ngón tay và các ngón cái, hoặc bằng cách làm gia tăng thủ thuật đẩy hàm. nếu có oxy, phải được gắn vào van với lưu lượng 10 L/phút.  2/ BALLON AUTO-GONFLABLE (BÓNG BƠM PHỒNG TỰ ĐỘNG). Bóng bơm ph ồng tự động (ballon auto -gonflable, self-inflating bag) này có thể được nối hoặc với một mặt nạ mặt (masque facial), một ống khí quản (tube trachéal), hay một thiết bị cho phép một giải pháp thay thế trong sự xử lý đường khí, như mặt nạ thanh quản hay Combitube. Khi quả bóng bị nén, dung lượng của nó được đưa vào phổi và khi quả bóng được thả ra, khí thở ra được chuyển hướng ra không khí chung quanh qua van một chiều. Sau đó quả bóng tự làm đ ầy một cách tự động nhờ một lỗ mở nằm ở phía đối diện. Đư ợc sử dụng không cho thêm oxy, hệ thống bóng-van -mặt nạ cho phép thông khí bệnh nhân chỉ bằng không khí chung quanh với một nồng độ oxy thở vào 21%. Điều này có th ể đ ược làm gia tăng khoảng 45% bằng cách nối một nguồn oxy với lưu lượng 5-6 L/phút trực tiếp vào quả bóng, kế cận chỗ vào của khí. Nếu một hệ thống réservoir đư ợc buộc vào và nếu lưu lượng oxy đ ược gia tăng khoảng 10 L/phút, một nồng độ oxy đ ược thở vào có thể gần 85%. Khi ballon nở ra lại, nó được làm đ ầy bởi oxy đến đồng thời từ réservoir và từ luồng khí liên tục đến từ ống nguồn oxy. Mặc dầu bóng bơm phồng tự động (ballon autogonflable) cho phép một sự thông khí với những nồng độ oxy cao, việc sử dụng nó chỉ với một người đòi hỏi một năng lực đáng kể. Khi được sử dụng với mặt nạ mặt, thường khí không
  14. bị rò giữa mặt nạ và mặt của bệnh nhân. Cũng khó thực hiện đồng thời một sự đặt thẳng hàng đầu và cổ nhờ thủ thuật đẩy hàm với chỉ một bàn tay, đồng thời bóp bóng với b àn tay kia. Một rò khí sẽ sinh ra một sự giảm thông khí và nếu đường dẫn khí không thông thương, không khí có thể bị chuyển lệch mạnh về phía dạ d ày. Điều này sẽ còn làm giảm th êm sự thông khí và làm gia tăng m ạnh nguy cơ hít dịch và ợ. Có một khuynh hướng tự nhiên cố bù lại sự rò khí b ằng cách bóp thêm quả bóng, điều này tạo n ên những đỉnh cao áp suất trong đường dẫn khí và lại còn đẩy khí th êm vào trong dạ dày. Vài qu ả bóng có những cơ chế làm h ạn chế lưu lượng, như thế làm giới hạn những đỉnh cao áp suất trong đường khí nhằm làm giảm sự căng trướng dạ dày. Thủ thuật đè sụn nhẫn có thể cho phép làm giảm nguy cơ này nhưng cần sự hiện diện của một người thứ ba được đào tạo. Một thủ thuật đè sụn nhẫn không được thực hiện đúng đắn lại còn có th ể làm cho sự thông khí phổi của bệnh nhân còn khó kh ăn hơn. Nêu sự thông khí phải được tiếp tục với ballon, một kỹ thuật bởi hai người được ưa thích hơn. Một người giữ mặt nạ vào m ặt bằng cách đặt hai b àn tay như để giữ pocket mask (kỹ thuật đẩy hàm) và một người khác thông khí bằng cách bóp qu ả bóng. Với cách như thế, có thể có một khả năng kín tốt h ơn, thủ thuật đẩy hàm được duy trì một cách hiệu quả hơn và b ệnh nhân có thể được thông khí một cách tốt h ơn và an toàn hơn. NHỮNG ĐIỂM CHÍNH YẾU Việc xử lý đường hô hấp và thông khí phổi là một giai đoạn thiết yếu  của hồi sinh tim -phổi. Nh ững thủ thuật đ ơn giản để khai thông đường khi, được bổ sung với  hoặc không những thiết bị cơ bản, thường sẽ cho phép đạt đ ược sự thông thương đường khí. Phải cho oxy với lưu lượng cao nơi tất cả các bệnh nhân cho đến khi  mức độ bảo hòa oxy đ ược biết.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2