YOMEDIA
ADSENSE
Chương 7 - Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hoá và giải quyết các vấn đề xã hội.
733
lượt xem 247
download
lượt xem 247
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Hệ thống xã hội chủ nghĩa là thể chế chính trị ở các nước có đảng cộng sản đã hoặc đang giữ quyền lãnh đạo. Các nước này, tạm gọi tắt là hệ thống Xô viết, tự gọi mình là các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó từ chủ nghĩa xã hội được dùng theo nghĩa giai đoạn trước chủ nghĩa cộng sản. Các nước khác lại gọi họ là các nước cộng sản. Hệ thống các nước này không bao gồm các nước có mục tiêu chủ nghĩa xã hội không theo chủ nghĩa Marx-Lenin....
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chương 7 - Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hoá và giải quyết các vấn đề xã hội.
- CHƯƠNG VII ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VÀ GiẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.
- I. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ Khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng: Văn hoá Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
- Khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp: - Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội. -Văn hoá là hệ các giá trị, truyền thống, lối sống. - Văn hoá là năng lực sáng tạo của một dân tộc. -Văn hoá là bản sắc của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác…
- 1. Thời kỳ trước đổi mới a. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới. Trong những năm 1943-1954 Năm 1943, Đảng ta đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, xác định: -Văn hoá là một trong ba mặt trận của cách mạng VN (Kinh tế, chính trị, văn hoá). - Đề ra ba nguyên tắc của nền văn hoá mới: + Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng của nô dịch và thuộc địa) + Khoa học hoá (chống lại tất cả những gì làm cho văn hoá phản tiến bộ). + Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hoá phản lại hoặc xa rời quần chúng)
- Ngày 3-9-1945 trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam mới trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách về văn hoá: đó là chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân . Năm 1946, Chính phủ thành lập Ban trung ương vận động Đời sống mới, tháng 3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới nhằm giáo dục lại tinh thần nhân dân.
- Trong kháng chiến chống Pháp, đường lối của Đảng về văn hoá đã chỉ rõ: -Mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc. -Cổ động văn hoá cứu quốc, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới yêu nước và tiến bộ. -Bài trừ hủ tục và những ảnh hưởng xấu của văn hoá thực dân phản động. -Học cái hay, cái tốt của văn hoá thế giới…
- Trong những năm 1955-1986 Từ Đại hội III (1960), Đảng chủ trương: - Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. -Mục tiêu là làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ, xoá bỏ những thói hư, tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hoá ngày càng cao. -Có hiểu biết cần thiết về khoa học kỹ thuật tiên tiến để xây dựng CNXH.
- Đại hội IV, V tiếp tục đường lối phát triển văn hoá của Đại hội III, xác định: -Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân. -Nhiệm vụ của công tác văn hoá thời gian này là tiến hành cải cách giáo dục, phát triển mạnh khoa học, nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống các tư tưởng văn hoá hủ bại, thực dân…
- b. Đánh giá sự thực hiện đường lối. -Đã xoá bỏ dần những những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hoá phong kiến, thực dân, đế quốc. -Bước đầu xây dựng nền văn hoá dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. -Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết. -Hệ thống giáo dục mới được hình thành. -Văn hoá cứu quốc đã động viên nhân dân tích cực kháng chiến chống Pháp, xây dựng chế độ mới.
- Trong những năm 1955-1986, công tác tư tưởng văn hoá đã đạt được những thành tựu to lớn: - Sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển với tốc độ cao, kể cả những năm chiến tranh. - Hoạt động văn hoá, nghệ thuật phát triển nhiều mặt. -Trình độ văn hoá chung của nhân dân được nâng lên. - Con người sống có tình, có nghĩa, đoàn kết, thương yêu nhau. Chủ nghĩa yêu nước, nhân phẩm và những giá trị cao quý của con người Việt Nam được phát huy, điều đó góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ vững
- Hạn chế và nguyên nhân - Công tác tư tưởng, văn hoá còn thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. - Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm. - Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển. - Đời sống văn học, nghệ thuật còn có những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. -Một số công trình van hoá vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không được quan tâm, bảo tồn, lưu giữ…
- Nguyên nhân: -Đường lối xây dựng phát triển văn hoá 1955-1986 bị chi phối bởi tư duy chính trị nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, “ai thắng ai” đấu tranh giữa 2 con đường, đấu tranh 2 phe, đấu tranh ý thức hệ… -Mục tiêu, nội dung của cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá giai đoạn này bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất: triệt để xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ bóc lột… -Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục, kìm hãm năng lực tự do sáng tạo…
- 2. Trong thời kỳ đổi mới a. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá. - Đại hội VI (1986) xác định: Khoa học-kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế-xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNXH. - Đại hội VII (1991), thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chủ trương về văn hoá xây nền văn hoá VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Đại hội VII, VIII, IX, X : xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển.
- b.Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội: Các hệ giá trị, truyền thống và lối sống của con người Việt Nam : yêu nước, yêu lao động, cần cù, thông minh, dũng cảm, sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, hiếu thảo với ông bà, tổ tiên, lòng nhân ái, vị tha, tôn sư, trọng đạo, tiết kiệm, tự kiềm chế, rộng lượng, các món ăn của dân tộc… đã thấm sâu vào con người, cộng đồng, được truyền từ đời này sang đời khác, hình thành bản sắc riêng của dân tộc.
- Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc VN vượt qua thác ghềnh, tồn tại, không ngừng phát triển. Chủ trương của ta là làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, đẩy lùi các tiêu cực xã hội. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển -Sự phát triển kinh tế VN những năm qua không đơn thuần do các yếu tố kinh tế tạo ra mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và quản lý, do sự giải phóng tư tưởng, bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học… Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy. -Trong điều kiện cuộc CMKHCN, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo, đổi mới của những cá nhân và cả cộng đồng, không đơn thuần là dựa vào dân số nhiều hay ít, tài nguyên giàu có hay nghèo nàn…
- Trong nền kinh tế thị trường -Tính tích cực của văn hoá thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật tạo ra hàng hoá chất lượng cao đáp ứng mọi yêu cầu đời sống xã hội. -Tạo tiền đề quan trọng để nước ta hội nhập nay càng sâu, toàn diện hơn vào nền KT thế giới. -Văn hoá phương Đông cổ vũ lối sống chừng mực, hài hoà thân thiện với thiên nhiên… -Hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, hạn chế lối sống của một xã hội tiêu thụ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường…
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển. -Mục tiêu xây dựng một xã hội VN dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, chính là mục tiêu văn hoá. -Chiến lược phát triển KT-XH 1991-2000 xác đinh: + Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. + Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng XH, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường. + Phát triển hướng tới mục tiêu văn hoá-xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững, trường tồn.
- Vì vậy cần phải: -Xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế xã hội. Phát triển văn hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội. -Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hoá, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. -Phải có chính sách kinh tế trong văn hoá, văn hoá trong kinh tế. - Xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.
- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới. - Việc phát triển KT-XH cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn vv… Những nguồn lực này có thể bị khai thác cạn kiệt. - Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh, tự sinh không bao giờ cạn kiệt. - Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. - Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn xây dựng CNXH phải có con người XHCN.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn