intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyển đổi số trong giáo dục: Thực trạng, yêu cầu và giải pháp đối với các trường đại học, cao đẳng hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

7
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết "Chuyển đổi số trong giáo dục: Thực trạng, yêu cầu và giải pháp đối với các trường đại học, cao đẳng hiện nay" nêu rõ những vấn đề liên quan, xu thế và những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyển đổi số trong giáo dục: Thực trạng, yêu cầu và giải pháp đối với các trường đại học, cao đẳng hiện nay

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 40. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC: THỰC TRẠNG, YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Thiếu tá, ThS. Hoàng Mạnh Cường* Thượng tá, ThS. Nguyễn Thành Dũng* Tóm tắt Chuyển đổi số nói chung và chuyển đổ số trong giáo dục đã trở thành chủ đề nóng trong nhiều sự kiện, hội thảo giáo dục cấp quốc gia và quốc tế, được đưa vào nội dung của nhiều dự án, chương trình và kế hoạch chiến lược không chỉ của các cơ sở giáo dục mà cả các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp. Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ số trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT). Nội dung của bài viết nêu rõ những vấn đề liên quan, xu thế và những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Từ khóa: Chuyển đổi số; công nghệ; giáo dục và đào tạo; hội nhập; toàn cầu hóa; số hóa 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Chuyển đổi số đã, đang và sẽ làm thay đổi đến nhiều hoạt động của xã hội. Cuộc CMCN lần thứ tư tác động nhanh, sâu, rộng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong GD&ĐT, chuyển đổi số dần thay đổi phương pháp giảng dạy từ truyền thống sang phương pháp giảng dạy tích cực, giúp người dạy và người học phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo, sự chủ động và đạt hiệu quả. Mô hình lớp học tập trung đã dần chuyển sang các mô hình dạy học trực tuyến, sử dụng chuyển đổi thông tin và truyền thông; chuyển đổi số đã làm cho hoạt động quản lý giáo dục hiệu quả, nhanh, gọn hơn; việc lưu trữ, tra cứu tài liệu thuận lợi hơn. Với chuyển đổi số, người học tiếp cận tri thức mọi nơi, mọi lúc, chủ động trong việc học tập và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như đại dịch COVID-19 thì việc đẩy nhanh, nâng cao hiệu quả chuyển đổi số là vấn đề cấp thiết, giải pháp mang tính quan trọng, quyết định hiệu quả và * Trường Đại học Nguyễn Huệ (Trường Sĩ quan Lục quân 2) 356
  2. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ chất lượng bền vững của GD&ĐT. Vậy, vấn đề đặt ra là làm gì, làm như thế nào, bắt đầu từ đâu để phát huy cao nhất hiệu quả của chuyển đổi số, khắc phục những tồn tại mà chuyển đổi số để lại? Đây chính là nội dung mà bài viết hướng tới. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số vấn đề liên quan chuyển đổi số 2.1.1. Chuyển đổi số Chuyển đổi số là chuyển các hoạt động từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, nhanh hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Những năm 20 của thế kỷ 21 đã chứng kiến những diễn biến có thể nói là chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại. Nhiều hoạt động xã hội bị đình trệ trên phạm vi cục bộ địa phương, quốc gia và toàn cầu do đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây suy thoái trầm trọng. Khi giáo dục đã từ lâu là nhu cầu đương nhiên được đáp ứng, chúng ta bỗng dưng phải đối mặt với câu hỏi: “Làm sao để được giáo dục”? Triển khai được hoạt động giáo dục không chỉ là vấn đề cá nhân, mà còn là sự sống còn đối với các nhà trường. Khi giáo dục trực tiếp tại trường, lớp là không thể, vấn đề chuyển đổi số trở thành giải pháp ở nhiều cấp từ vi mô đến vĩ mô. Chuyển đổi số không đơn giản chỉ là số hóa các nguồn tài liệu mà còn bao gồm việc chuyển đổi phần cứng, kéo theo việc quản trị các nguồn lực dành cho GD&ĐT cũng thay đổi. 2.1.2. Chuyển đổi số trong giáo dục Chuyển đổi số ngành Giáo dục là việc áp dụng CNTT, khoa học, kỹ thuật phục vụ vào mục đích của giáo dục. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” xác định: phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của sinh viên trước khi đến lớp học. 2.1.3. Nội dung chuyển đổi số trong giáo dục Thứ nhất, chuyển đổi số trong quản lý Số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ các cấp lãnh đạo, quản lý ra quyết định trong lãnh đạo, điều hành hoạt động giáo dục. Để giáo dục trực tuyến có thể diễn ra, toàn bộ đầu vào cho quá trình giáo dục phải được số hóa, trong đó quan trọng nhất là học liệu, tài liệu, sách giáo khoa. Toàn bộ dữ liệu về người học cũng cần phải số hóa để thực hiện quy trình quản lý người học và thực hiện đánh giá quá trình cũng như kết quả học tập. 357
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Thứ hai, chuyển đổi số quá trình giáo dục Phương thức thay đổi dẫn đến phương pháp, kỹ thuật sư phạm cũng phải thay đổi theo, phương pháp truyền thống không còn phù hợp và hiệu quả nữa. Cách thức thực hiện, triển khai phương pháp bắt buộc phải thay đổi, đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng và sử dụng các thiết bị, tính năng của công nghệ sao cho việc giảng dạy của giảng viên để đạt kết quả kỳ vọng. Chuyển đổi số không chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào soạn bài dạy, mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác CNTT để tổ chức giảng dạy thành công. Đây không chỉ là vấn đề của giảng viên mà còn của cả ngành Giáo dục. Thứ ba, chuyển đổi số về đánh giá kết quả và các hoạt động đầu ra của sinh viên Chuyển đổi số phải đảm bảo việc kiểm tra, đánh giá được thực hiện trong quá trình giáo dục, kể cả đánh giá kết quả đào tạo. Không chỉ kết quả đánh giá được số hóa mà quá trình đánh giá cũng phải được triển khai, thực hiện bằng ứng dụng công nghệ trên máy tính. Giảng viên cần tập trung vào công việc giảng dạy và cần được giải phóng khỏi các công việc hành chính, giấy tờ như: làm sổ sách, sổ điểm, học bạ, quản lý hồ sơ học tập của người học. Đây chính là cơ sở để giảng viên nâng cao chất lượng bài giảng cũng như chất lượng giảng bài, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, đáp ứng yêu cầu của thời đại Công nghệ 4.0 và trong đại dịch COVID-19 đang diễn ra hết sức phức tạp hiện nay. Thứ tư, chuyển đổi số về môi trường giáo dục: Các nhà trường cần có hệ thống chính sách để đào tạo trực tuyến được công nhận hợp pháp, tạo môi trường thực sự thuận lợi để cả đội ngũ giảng viên, sinh viên được học và được công nhận kết quả học một cách thích đáng. Việc xây dựng và ban hành chính sách đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học nhưng về cơ bản không phải là thách thức lớn. Thách thức chủ yếu nằm ở việc thực thi chính sách, bởi lẽ để chính sách đi vào đời sống, cần phải có hệ thống các công cụ giám sát, quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục trực tuyến để đảm bảo tính giá trị của hình thức đào tạo này. 2.1.4. Vai trò của chuyển đổi số trong giáo dục hiện nay Cùng với sự phát triển các thành tựu công nghệ, nhất là CNTT chuyển đổi số có vai trò quan trong giúp tăng cường quản lý, giám sát trong các cơ sở giáo dục, theo dõi hoạt động của người học; giúp phân tích hành vi học tập của người học để có hỗ trợ, tư vấn phù hợp; xây dựng hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục của người học, cho phép hợp nhất, quản lý và chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử học tập, bảng điểm của người học để đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất, minh bạch. Bên cạnh đó, chuyển đổi số làm tăng tính tương tác, tính thực hành - ứng dụng giúp cho người học có những trải nghiệm đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ và gây tò mò, hứng thú cho người học, đồng thời tăng tính tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học, tạo không gian và thời gian học linh động, thúc đẩy giáo dục mở - bình đẳng - cá thể hóa. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong khoảng thời gian nào. Đồng thời, chuyển đổi số giúp giảm chi phí đào tạo, tiết kiệm được chi phí trang bị cơ sở vật chất, chi phí chi trả cho giảng viên và chuyên gia; người học tiết kiệm học phí, chi phí sinh hoạt và tài liệu học tập... Và một vấn đề nữa đó chính là việc áp dụng công nghệ vào vận hành giúp quản lý, giảng 358
  4. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ viên và sinh viên triệt để hơn, giảm tải các lãng phí, tăng hiệu suất và chất lượng làm việc của khối văn phòng và đào tạo. Sử dụng những đánh giá của người học kết hợp với việc phân tích các dữ liệu, giảng viên có thể áp dụng các thông tin mà họ có được để tiến hành điều chỉnh các kế hoạch giảng dạy. Sinh viên có thể trả lời các câu hỏi của giảng viên thông qua các phần mềm, từ đó, giảng viên có thể đánh giá chính xác về kiến thức của từng sinh viên. Nhất là trong giai đoạn dịch COVID-19 đang diễn ra hết sức phức tạp trên toàn cầu nói chung và ở Việt Nam nói riêng thì thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục là điều hết sức cần thiết và rất quan trọng để bảo đảm hoạt động cũng như chất lượng công tác quản lý và giảng dạy. 2.2. Thực trạng của chuyển đổi số hiện nay 2.2.1. Ưu điểm Thứ nhất, các cơ sở đào tạo đã nhận thức được vị trí, vai trò của chuyển đổi số và nắm bắt được xu thế của thế giới về chuyển đổi số Các cơ sở đào tạo đã quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”. Các trường đại học, cao đẳng đã xác định ứng dụng CNTT là một trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ 4, Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 36a/ NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ tư. Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”. Từng bước triển khai số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung từ Trung ương đến tất cả các Sở, Phòng GD&ĐT và các cơ sở giáo dục. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối từ Bộ GD&ĐT đến các Sở GD&ĐT và các cơ sở đào tạo trên cả nước đã bước đầu phát huy hiệu quả. Giảng viên các ngành học, cấp học trên cả nước được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ học liệu vào kho học liệu số toàn ngành góp phần xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời. Thứ hai, chuyển đổi số đã tạo bước đột phá trong nắm bắt, theo dõi, cải thiện kết quả và phân tích dữ liệu trong quá trình giáo dục Chuyển đổi số đã tác động rất lớn đến hoạt động giáo dục, nó đã cung cấp một cách thực tế hơn trong việc theo dõi quá trình học tập của người học. Với việc ghi lại cụ thể thông tin trong 359
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA các bài kiểm tra của sinh viên, công nghệ cho phép giảng viên và phụ huynh dễ dàng theo dõi quá trình học của con em mình. Trường học có thể theo dõi và phân tích kết quả học tập của sinh viên. Bên cạnh đó, sinh viên cũng có thể tự theo dõi kết quả học tập của chính mình, tiến trình học cũng như những điều mà bản thân sinh viên còn thiếu sót và cần được cải thiện. Công nghệ giúp cho việc phân tích kết quả và dữ liệu của sinh viên trở nên dễ dàng và chính xác hơn. “Các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi... hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia bắt đầu được hình thành”1. Thứ ba, chuyển đổi số đã góp phần cải tiến các chương trình giảng dạy, tăng tính liên kết giữa nhà trường với gia đình, phụ huynh với giảng viên, tiết kiệm thời gian trong quá trình giáo dục Sự phát triển của chuyển đổi số đã tác động nhiều đến cải thiện chương trình giảng dạy hiện nay, tăng tính thực tiễn và sát với điều kiện của công việc sau khi sinh viên ra trường trong những năm qua. Các cơ sở đào tạo đã đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư. Giảng viên sẽ đóng vai trò quan trọng trong định hướng nghề nghiệp, không đơn thuần chỉ là trang bị kiến thức như hiện tại. Các trường học cần phải tiến tới dạy các chương trình tiềm năng nhưng để làm được điều đó, sinh viên cần phải được cấp quyền truy cập vào các dữ liệu của chương trình học hằng ngày. Các dữ liệu của chương trình học cũng cần phải được cập nhật nhanh chóng theo thời gian thực. Việc giảng dạy của giảng viên trên trường sẽ dễ dàng hơn khi có sự giám sát đồng thời của các bậc phụ huynh. Tự động hóa cung cấp các ghi chú và báo cáo tiến độ học tập của người học cho phụ huynh dưới dạng điện tử. Công nghệ cũng giúp cho nhà trường có thể quản lý chặt chẽ hơn các người học. Điều này sẽ giúp cho người học có một định hướng nghề nghiệp rõ ràng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Giảng dạy trực tuyến là một giải pháp tuyệt vời cho các sinh viên ở vùng xa bởi đây chính là mô hình xuyên biên giới. Sinh viên đơn giản chỉ cần đăng nhập vào một trang web để có thể tìm hiểu về trường đại học cũng như thực hiện các chương trình học mà mình mong muốn. 2.2.2. Hạn chế Thứ nhất, còn tồn tại tư tưởng ngại đổi mới, do dự trong đổi mới, dẫn tới trì trệ, hiệu quả chưa cao Về bản chất, mọi người thường sẽ có xu hướng là làm theo cách đã quen và từ chối di chuyển ra khỏi vùng an toàn để phát triển. Nhiều người trong ngành Giáo dục sợ thất bại và do dự trong việc học các kỹ năng hoặc quy trình mới - những thứ cho phép họ thích nghi với công nghệ. Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ còn lớn. Đây chính là rào cản không nhỏ để chuyển đổi số đạt kết quả cao. Vì các cơ sở đào tạo cần mạnh dạn nghiên cứu, nắm bắt xu thế, tận dụng đi trước, đón đầu để áp dụng chuyển đổi số trong giáo dục, cẩn thận, có lộ trình nhưng không được ngại đổi mới, ngại khó, ngại khổ, ngại vất vả. Bên cạnh đó, sự hạn chế về kiến thức hoặc kỹ năng kém, nhất là về CNTT, nhiều cơ sở đào tạo đang vật lộn với tình trạng thiếu hụt các nhân viên có năng lực số, làm chủ công nghệ số. Đây cũng là rào cản để các cơ sở ngại đổi mới, ngại chuyển đổi số hiện nay. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 360
  6. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Thứ hai, hạn chế về cơ sở hạ tầng, dữ liệu phục vụ chuyển đổi số Hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT, đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giảng viên, sinh viên - đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn - còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số nên khi thực hiện chuyển đổi số khó có thể mang lại hiệu quả cao và đồng đều giữa các vùng, miền, các trường, các đối tượng sinh viên. Trong thời đại kỹ thuật số, nhiều phép đo cung cấp thông tin chi tiết về những người học trong tương lai, hiệu quả nội bộ, trải nghiệm người dùng và hơn thế nữa từ các trường học và giảng viên. Số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của sinh viên. Vì vậy, vấn đề xây dựng học liệu số (như sách điện tử, thư viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) còn phát triển tự phát, chưa đi vào nền nếp và thành hệ thống, khó kiểm soát chất lượng và nội dung học tập. Thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin, cụ thể như: quy định danh mục các thông tin thuộc diện bắt buộc khai báo, nhập liệu - phân biệt với thông tin cá nhân riêng tư thuộc quyền cá nhân; quy định quyền tác giả cho các bài giảng điện tử; quy định khai thác cơ sở dữ liệu, kho học liệu số; quy định tính pháp lý của hồ sơ điện tử nói chung và sổ điểm, học bạ điện tử nói riêng. Chỉ khi các nút thắt này được tháo gỡ mới thúc đẩy phát triển được hệ thống dữ liệu số, học liệu số đủ lớn đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia nói chung và giáo dục đào tạo nói riêng. Hiện tượng cục bộ về dữ liệu còn tồn tại ở không ít các địa phương, nhà trường, một số nhiệm vụ đổi mới GD&ĐT triển khai còn chậm, lúng túng, hiệu quả thấp, hệ thống trường lớp phân bổ chưa hợp lý, một số nơi còn thiếu, xuống cấp. Kết cấu hạ tầng đại học ít được đầu tư, nhất là các phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành. Thứ ba, chuyển đổi số đang thiếu sự hướng dẫn và mang tính chiến lược Một trong những rào cản lớn nhất trong việc chuyển đổi số là việc chúng ta không biết phải bắt đầu từ đâu, thay đổi từ đâu và thay đổi như thế nào cho hợp lý. Nhận thức triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan trung ương và địa phương chưa đều. Trước sự phát triển như vũ bão của CNTT cũng như yêu cầu của thời đại công nghệ số, trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, nhiều cơ sở đào tạo chưa hình dung ra phải bắt đầu chuyển đổi số từ đâu và làm như thế nào để vừa đi tắt đón đầu được công nghệ, vừa phù hợp thực tiễn con người, cơ sở vật chất, chuyên ngành đào tạo. Chính đó là vấn đề thực sự là khâu khó, đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, định hướng cụ thể cũng như phải có chiến lược dài hơi, nếu không các trường sẽ tiến hành tự phát, hiệu quả không cao mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình chuyển đổi của cả ngành Giáo dục. Và một vấn đề lớn của chuyển đổi số trong ngành Giáo dục là việc các công nghệ số hiện đại không tương thích với mô hình của ngành Giáo dục. Để có thể tích hợp các công nghệ hiện đại vào giáo dục, chúng ta cần phải chấp nhận đổi mới và điều này chắc chắn đòi hỏi thời gian và năng lực. 361
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2.3. Những thách thức trong chuyển đổi số Thứ nhất, thách thức về yêu cầu cơ sở hạ tầng Trước tiên, điều dễ thấy là chuyển đổi số đòi hỏi hạ tầng viễn thông phát triển ở một mức độ nhất định, yếu tố này liên quan nhiều đến mức độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương. Do vậy, ngành Giáo dục không thể đi một mình mà phải đồng hành, phối hợp với các ngành khác. Việc này có thể là thách thức đáng kể bởi họ vốn quen hoạt động và vận hành độc lập, đặc biệt là trong điều kiện cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo hiện nay còn nhiều bất cập, việc tổ chức, thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao. Thứ hai, thách thức về môi trường và sự đồng bộ trong chuyển đổi số Thêm vào đó, khi chuyển đổi số phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bối cảnh, nó là cơ hội cho nhóm đối tượng này, cho địa phương hay quốc gia này lại là thách thức cho đối tượng khác, địa phương và quốc gia khác. Cách thức và quá trình chuyển đổi không có một công thức chung, đòi hỏi lãnh đạo các ngành, nhà trường cần phải đề ra chiến lược, giải pháp và lộ trình chuyển đổi riêng cho mình mà không có nhiều sự tham khảo từ kinh nghiệm và thực tiễn từ các ngành khác, các quốc gia khác. Nếu bài toán về hạ tầng mạng, thiết bị và giải pháp công nghệ không được đáp ứng, bài toán về chuyển đổi năng lực của giảng viên không được giải quyết, trải nghiệm học tập số đối với cả giảng viên và người học có thể trở thành thảm họa. Một loạt các nguy cơ hiển hiện như: hành vi học tập có thể bị lệch lạc, hoạt động giáo dục không được kiểm soát, chất lượng giáo dục bị thả lỏng; sẽ rất nguy hiểm nếu như chúng ta “đánh rơi”, để lạc mất người học trong không gian ảo mênh mông. Về vấn đề này, Đảng ta đã nhận định, cơ chế và chính sách trong cán bộ trong hoạt động khoa học và còn nặng nề về hành chính hóa, chưa tạo môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài, hệ thống thông tin, thống kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến lược. Thứ ba, thách thức trong giải quyết vấn đề bất bình đẳng Có thể thấy nguy cơ bất bình đẳng trong giáo dục khi chúng ta chuyển đổi số là không nhỏ. Trong suy nghĩ nhiều người thì việc số hóa hoạt động giáo dục sẽ đem lại sự bình đẳng nhờ ưu thế tiếp cận công nghệ không giới hạn không gian và thời gian. Tuy nhiên, thực tế lại đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề mới phải nghiên cứu như: chuyển đổi số có thể đào sâu hơn nữa sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, nhất là giữa các vùng miền và sinh viên có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Những sinh viên ở miền núi nơi không có điều kiện được tiếp cận hạ tầng viễn thông tốt sẽ khó theo kịp sinh viên nơi đô thị, các thành phố phát triển, bên cạnh đó còn vấn đề về nguồn tài liệu, dữ liệu thông tin... Những sinh viên xuất thân từ những gia đình khó khăn không có những điều kiện về trang thiết bị hoặc không đủ khả năng chi trả chi phí dịch vụ viễn thông cũng sẽ là đối tượng có nguy cơ tụt hậu. Sinh viên khuyết tật cũng có nguy cơ lớn phải hứng chịu bất bình đẳng số do những vấn đề liên quan tới các yếu tố đầu vào (sách vở, tài liệu, ngôn ngữ, trang thiết bị...) lẫn quá trình giáo dục (thao tác điều khiển, giao tiếp với thiết bị, phần mềm, giảng viên...). 362
  8. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 2.4. Yêu cầu của của chuyển đổi số hiện nay Thứ nhất, cần phải cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý phải được hoàn thiện, tạo thuận lợi cho chuyển đổi số trong toàn ngành Giáo dục nói chung và các trường đại học, cao đẳng nói riêng Đó là các chính sách liên quan đến học liệu như sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả; liên quan đến chất lượng việc dạy học trên môi trường mạng như an toàn thông tin mạng; liên quan đến chính trị, tư tưởng, đạo đức người dạy, người học như bảo vệ thông tin cá nhân, an ninh thông tin trên môi trường mạng; và các quy định liên quan đến điều kiện tổ chức dạy - học trên mạng, kiểm định chất lượng, tính pháp lý và công nhận kết quả khi dạy - học trực tuyến. Thứ hai, phải bảo đảm được điều kiện về công nghệ thông tin hiện đại Đây là yêu cầu quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả chuyển đổi số. Nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ trong toàn ngành Giáo dục nói chung và các nhà trường nói riêng đảm bảo việc quản lý, dạy - học có thể được thực hiện một cách bình đẳng giữa các địa phương, nhà trường có điều kiện hoàn cảnh kinh tế khác nhau; đảm bảo môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Thực hiện việc này cần huy động được các nguồn lực xã hội chung tay hỗ trợ trang thiết bị đầu cuối và tham gia cung cấp các hệ thống, giải pháp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Thứ ba, phải có nguồn nhân lực đủ số lượng, nhất là chất lượng cao, đáp ứng tốt yêu cầu chuyển đổi số Chuyển đổi số phải có được đội ngũ nhân lực (cán bộ quản lý, giảng viên, giảng viên, sinh viên) có kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Trước hết là kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, kỹ năng an toàn thông tin, kỹ năng khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc dạy - học. 2.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi số, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay Thứ nhất, phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong ngành Giáo dục nói chung và các nhà trường nói riêng trong tiến hành chuyển đổi số Đây là giải pháp then chốt và suy đến cùng nó quyết định thành công, hiệu quả của chuyển đổi số trong giáo dục bởi không chỉ có chuyển đổi số mà bất cứ lĩnh vực nào nếu không có ý chí, không có quyết tâm thì khó có thể thành công được, nhất là trong lĩnh vực chuyển đổi số hiện nay ở nước ta. Trong điều kiện vô cùng khó khăn như hiện nay (đại dịch COVID-19), cơ sở hạ tầng của các trường đại học, cao đẳng hiện nay nhìn chung còn thiếu, yếu, không đồng bộ, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện đại 4.0 còn hạn chế thì sự đồng lòng, quyết tâm của các cấp và từng cá nhân là vấn đề quan trọng. Do vậy, để chuyển đổi số thành công, các nhà trường cần tiến hành phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi số trong từng bộ môn, khoa, giảng viên, cán bộ quản lý; xây dựng văn hóa số trong ngành Giáo dục. Khắc phục triệt để những nhận thức lệch lạc xem nhẹ chuyển đổi số, nhận thức chưa đến, chưa rõ, chưa sâu 363
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA vị trí, vai trò của chuyển đổi số đến hoạt động GD&ĐT, trung bình chủ nghĩa, ngại đổi mới, sợ thất bại, ỷ lại cấp trên, thiếu tính tự lập, tự chủ, linh hoạt sáng tạo trong thực hiện chuyển đổi. Thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng trách nhiệm cho mọi người, mọi cấp tạo sức mạnh chung trong thực hiện, đoàn kết, chủ động vượt khó để thành công. Xây dựng kế hoạch chu đáo, có lộ trình, có chủ trương, biện pháp cụ thể và hiệu quả. Từng bước khắc phục tình trạng hệ thống GD&ĐT chưa đảm bảo tính đồng bộ, liên thông giữa các trình độ, các phương thức GD&ĐT. Trong đó, chú trọng triển khai hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu và đồng bộ. Tăng cường chất lượng công tác dự báo, hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng đi trước một bước. Trong đó chú trọng chính sách hoàn thiện cơ sở dữ liệu quản lý giáo dục, theo các quy định về chia sẻ, khai thác dữ liệu; hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển hình thức dạy - học trực tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến đảm bảo chất lượng thông qua các quy định về điều kiện mở lớp, thẩm định cấp phép nội dung, kèm theo chế tài phù hợp, tránh tình trạng mất kiểm soát, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp GD&ĐT theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc CMCN lần thứ tư.”2 Thứ hai, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực xây dựng hạ tầng cơ sở, CNTT hiện đại, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số Đây là giải pháp quyết định đến chuyển đổi số thành công hay không thành công và thành công ở mức độ nào. Nói cách khác, chúng ta không thể tiến hành chuyển đổi số được nếu như không có cơ sở hạ tầng, CNTT tương ứng với nó. Cùng với nhân tố con người thì cơ sở hạ tầng là điều không thể thiếu để tiến hành chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong GD&ĐT nói riêng. Đặc biệt là hiện nay, nhìn chung về cơ sở hạ tầng, CNTT các trường ở nước ta còn thiếu, yếu và chưa hiện đại và chưa động bộ; cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đào tạo.3 Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều lĩnh vực đi kèm thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng để toàn bộ mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó. Nếu như ứng dụng CNTT vào giáo dục chủ yếu đề cập đến những chương trình, phần mềm riêng lẻ, tách biệt, chuyển đổi số yêu cầu tất cả những thứ riêng lẻ này phải tương thích và kết nối với nhau, tích hợp và có thể tiếp cận được trên cùng một nền tảng. Nền tảng này cho phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử, quản lý người học và việc giảng dạy, cũng như toàn bộ việc tương tác giữa người học với giảng viên và nhà trường cùng diễn ra. Đây là vấn đề bắt buộc trong chuyển đổi số và để làm được điều này, đòi hỏi trách nhiệm và sự tham gia của mọi tổ chức, mọi người, mọi trường đại học, cao đẳng hiện nay. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị CNTT thiết thực phục vụ dạy - học, tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các vùng, 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 364
  10. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và huy động nguồn lực xã hội hóa cùng tham gia thực hiện. Thúc đẩy phát triển học liệu số phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học ở tất cả các cấp học, ngành học, môn học gắn với việc thẩm định nội dung, kết nối, chia sẻ học liệu giữa các địa phương, nhà trường; hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn ngành, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, các trường; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Triển khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm soát và định hướng thống nhất, tạo môi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giảng viên, sinh viên; phát triển các khóa học trực tuyến mở, hình thành mạng học tập mở; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng chung toàn ngành phục vụ công tác bồi dưỡng giảng viên, hỗ trợ dạy học cho các vùng khó khăn. Hoàn thiện chính sách về quản lý, sử dụng cơ sở sữ liệu quản lý giáo dục (quy định về chia sẻ, khai thác dữ liệu; hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển hình thức dạy - học trực tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến đảm bảo chất lượng...). “Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển... Chú trọng tháo gỡ rào cản về hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế, tài chính, thủ tục hành chính đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”4. Thứ ba, không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số Đây là giải pháp quan trọng, quyết định sự thành công của chuyển đổi số ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Chuyển đổi số phải xuất phát vì con người, từ con người và đích đến là phục vụ con người. Nếu con người không đủ trình độ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số thì không thể tiến hành chuyển đổi số và chuyển đổi số cũng không thể phát huy tác dụng mà ngược lại còn là một “tai hại” nguy hiểm. Do đó, xây dựng con người là nhân tố then chốt, quyết định nhất. Vì vậy, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, kỹ năng CNTT, an toàn thông tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Để vận hành một hệ thống như vậy, đòi hỏi tư duy và năng lực quản lý của lãnh đạo ngành Giáo dục cũng như lãnh đạo nhà trường, đội ngũ giảng viên phải thay đổi. Các nhà trường, nhất là các nhà quản lý và đội ngũ giảng viên cần phải tìm ra cách thức nắm bắt các nội dung, kiến thức, phương pháp và phương thức trên không gian ảo, khai thác hiệu quả công nghệ cho mục đích giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giảng viên cần được trang bị hiểu biết về chuyển đổi số và tư duy số để có thể làm chủ công nghệ và hiểu rõ giới hạn của công nghệ. Bởi chúng ta biết rằng, chuyển đổi số cũng không thể thành công nếu những người trực tiếp thực hiện việc đào tạo (giảng viên) không có đủ kỹ năng sử dụng công nghệ. Giảng viên cần phải biết sinh viên mình học như thế nào, với tinh thần, trách nhiệm, ý thức ra sao dù không gặp trực tiếp, trên cơ sở đó, họ có thể nắm bắt và đánh giá được những gì từ phía người học. Tất nhiên trong quá trình này, họ luôn phải có sự hỗ trợ đồng hành của các nhân viên kỹ thuật và các chuyên gia công nghệ để đảm bảo việc 4 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 365
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA giảng dạy diễn ra suôn sẻ, trôi chảy (đây là vấn đề rất quan trọng và cần thiết). Họ cũng cần có những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động giảng dạy, thu hút được sinh viên trong quá trình giảng trực tuyến, duy trì sự chú tâm của sinh viên vào các nhiệm vụ và hoạt động học tập. Bởi xét đến cùng, thu hút được sinh viên và chất lượng học tập là yếu tố hàng đầu và quan trọng nhất quyết định sự thành công của đào tạo trực tuyến và quá trình chuyển đổi số. Yếu tố quan trọng tiếp theo quyết định hiệu quả của chuyển đổi số là sự sẵn sàng tiếp nhận của người học. Trên thực tế, chúng ta thấy không phải sinh viên nào cũng sẵn sàng cho nội dung học trực tuyến, và không phải sinh viên nào cũng đáp ứng được yêu cầu của học trực tuyến bởi nhiều lý do khác nhau từ nhận thức đến tinh thần, vật chất bảo đảm... Một thực tế mà chúng ta nhận thấy, nguyên nhân học trực tuyến chưa lôi cuốn sinh viên, bên cạnh những lý do kỹ thuật như: trang thiết bị và hạ tầng viễn thông, nguồn tài liệu có những vấn đề do phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên chưa thuyết phục được người học, chưa thực sự tạo môi trường sư phạm trên không gian mạng. Vì vậy, cần phải chuẩn bị tâm thế tốt nhất cho sinh viên, để sinh viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động khắc phục khó khăn, tích cực tham gia học tập tốt nhất. Người học cần được chuẩn bị về tâm thế, tinh thần, kỹ năng, và được hỗ trợ để đảm bảo điều kiện hạ tầng thiết bị đủ để thực hiện học tập trực tuyến. Họ cũng cần được hướng dẫn về phương pháp học tập trực tuyến để bảo đảm hiệu quả. Văn hóa giáo dục số gồm các vấn về đề thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời cũng như cần được xây dựng phát triển trong người học. Đối với đào tạo trực tiếp, việc kiểm soát quá trình đào tạo phần lớn thuộc về cơ sở giáo dục và giảng viên, trong khi đối với đào tạo trực tuyến, người học cũng phải chia sẻ nhiệm vụ này. Muốn như vậy, các nhà trường cần đẩy mạnh tuyên truyền cũng như các đợt tập huấn cho giảng viên, sinh viên trong nhà trường để mọi người hiểu vị trí, vai trò sự cần thiết chuyển đổi số và chuyển đổi số cần làm gì. Có như vậy mới tạo sức mạnh chung để thực hiện hiệu quả chuyển đổi số. Tập huấn với nhiều cách thức khác nhau như: mời các chuyên gia để giới thiệu, thông qua hội ý khoa, bộ môn, giảng viên biết nhiều hướng dẫn giảng viên biết ít; cũng có thể thông qua các buổi tọa đàm sinh viên, hội thảo khoa học thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số thành phần nguồn nhân lực có trình độ CNTT, lồng ghép nội dung giáo dục về chuyển đổi số, đặc biệt là những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 đưa vào giảng dạy trong nhà trường một cách phù hợp, tăng cường đào tạo nhân lực CNTT chuyên nghiệp theo hướng ứng dụng, phục vụ yêu cầu chuyển đổi số. Thứ tư, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ, nhất là trình độ CNTT Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số thành công, một vấn đề quan trọng là chính đội ngũ giảng viên phải nhận thức được yêu cầu, xu thế và nỗ lực để học tập, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Bởi xét đến cùng, mọi giải pháp sẽ khó có thể phát huy cao nhất hiệu quả nếu chủ thể tiến hành (giảng viên, cán bộ quản lý) nhận thức sai về giá trị của nó, không nỗ lực thực hiện, đối phó, trì trệ, ỷ lại, trung bình chủ nghĩa, sợ đổi mới. Do đó, trách nhiệm của chính giảng viên, cán bộ quản lý trong tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ, nhất là trình độ CNTT là góp phần thực hiện chuyển đổi số thành công hơn, hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. 366
  12. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Muốn được như vậy, bản thân lãnh đạo nhà trường cần làm tốt công tác tư tưởng cho giảng viên để họ hiểu được rằng, chuyển đổi số là xu thế chung của tất cả các quốc gia, tất cả các lĩnh vực, trong đó giáo dục là lĩnh vực đặc biệt. Để mọi giảng viên thêm quyết tâm, chủ động, tích cực vượt khó ra sức học tập, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, căn cứ vào tình hình thực tiễn, nhà trường tổ chức các hoạt động giúp đỡ giảng viên trong học tập, nắm bắt kiến thức, nhất là các kiến thức về CNTT, phục vụ tra cứu tài liệu, chuyển bị bài giảng, thực giảng, đánh giá, kiểm tra kết quả cũng như lưu trữ dữ liệu. Đồng thời, có những chính sách phù hợp về vật chất, tinh thần để đội ngũ giảng viên yên tâm học tập, công tác cũng như cống hiến cho sự nghiệp trồng người, khen thưởng những giảng viên tốt, tích cực học tập, đi đôi phê bình những giảng viên trung bình chủ nghĩa, thiếu nỗ lực, gắn kết quả học tập với phân loại cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để tạo thêm động lực cho giảng viên. Đồng thời, đội ngũ giảng viên phải tranh thủ mọi thời gian, điều kiện để học tập nắm bắt kiến thức, nhất là kiến thức về CNTT, bởi nếu không học tập, không phấn đấu nắm bắt xu thế thì sẽ lạc hậu, bản thân sẽ bị bỏ lại sau theo dòng chảy tri thức của nhân loại. 3. KẾT LUẬN Chuyển đổi số trong giáo dục ở mỗi quốc gia, từng địa phương, từng cơ sở đào tạo khác nhau thì cách thức tổ chức và tiến hành cũng không giống nhau, không có một công thức chung và không có con đường chung nào cụ thể. Vì vậy, để nâng cao chất lượng chuyển đổi số trong giáo dục, mỗi cơ sở đào tạo cần nghiên cứu kỹ đặc điểm của nhà trường, điều kiện hiện có về con người, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị CNTT, trên cơ sở chủ trương chung của Đảng, Nhà nước, để tiến hành hợp lý và hiệu quả cao nhất. Nhưng trước hết, cần sự đồng tâm, hợp lực quyết tâm của mọi tổ chức, mọi lực lượng và cá nhân, đây chính là yếu tố then chốt và suy đến cùng quyết định thành công chuyển đổi số. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 4. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ tư. 5. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”. 6. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. 367
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2