
Cổ Loa Với Nỏ Muôn Nghìn
Những phát hiện về khảo cổ những mũi tên đồng Cổ Loa cho thấy nhiều
điều thú vị về người Việt cổ.
Đô thị Cổ Loa ngày xưa đã là kinh đô của nhiều triều đại: Từ An Dương Vương
với tên nước là Âu Lạc (273 trước Công nguyên), đến Triệu Đà (206 trước Công
nguyên), với quốc hiệu Đại Việt, rồi Ngô Quyền (933). Những vị vua này đã để
lại trên sử VN những trang oai hùng, sáng tỏ ý chí quật cường tự chủ của dân
tộc.
Cổ Loa còn thấm đượm mối tình oan trái của Trọng Thủy và Mỵ Châu, cùng chói
lọi huyền thoại nỏ thần Kim Quy phản ánh một sức võ trang cường mạnh.
Những huyền thoại ấy có phần phai nhạt đôi chút theo thời gian, nhưng gần đây
lại được bật sáng nhờ sự khai quật của các nhà khảo cổ học, hàng ngàn mũi tên
đồng Cổ Loa. Số lượng lớn những mũi tên này đã đặt ra nhiều câu hỏi từ vài
mươi năm nay mà bây giờ mới giải đáp được vài phần trong muôn một.
Nguồn gốc những mũi tên đồng Cổ Loa
Khi phân tích, bằng những phương pháp vật lý hiện đại, những mũi tên cùng
những hiện vật lưu trữ ở Viện Khảo cổ Hà Nội - tương tự như những cổ vật trên
các hình ảnh chụp từ Bảo tàng Viện Lịch sử và Triển lãm tư nhân Vân - Hồ - nhờ
sự ân cần của GS Hà Văn Tấn, thấy những mũi tên có chứa những thành phần
kim loại tương tự như thành phần các trống đồng thời Đông Sơn, kể cả trống
đồng Ngọc Lũ.
Lẫy nỏ Cổ Loa
Những nguyên tố chính tìm được là đồng, chì, thiếc. Nhất là không có kẽm.
Những kết quả tương tự cũng tìm thấy trong những vòng chân nữ tướng đào
được trong những vùng lân cận, khác hẳn với các gương đồng, phần nhiều chỉ
chứa nhiều nguyên tố đồng.

Khi so sánh tỉ mỉ với kết quả phân tích nguyên tố kể cả các nguyên tố phụ mà
thành phần bé hơn một phần trăm những mũi tên đồng với các hiện vật và
quặng trong các vùng địa dư khác nhau thì thấy rằng tên đồng là những sản
phẩm bản địa.
Kỹ thuật luyện kim các mũi tên đồng
Riêng trong các mũi tên đồng, còn tìm thấy nguyên tố sắt. Sự có mặt của sắt
trong các mũi tên chứng tỏ rằng người Việt cổ đã biết luyện kim chứa một
nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy trên 1.500oC. Mục đích của họ chú ý làm cho
có những mũi tên cứng mạnh, dễ xuyên sâu vào mục tiêu. Kỹ thuật luyện kim
thời Việt cổ đã được thế giới chú ý từ một thế kỷ nay nếu chúng ta căn cứ trên
những bài họ đăng trên các tạp chí chuyên môn.
Muôn ngàn mũi tên Cổ Loa
Kỹ thuật luyện kim tân tiến trong thời Việt cổ còn tìm thấy trong những chiếc dao
găm nữ tướng mà các phương pháp phân tích vật lý đã tìm ra nguyên tố titan.
Người Việt cổ có lẽ chưa biết đích xác nguyên tố này nhưng nghệ nhân luyện
kim đã gặp biết quặng chứa nguyên tố gì đó mà hai mươi thế kỷ sau này gọi là
titan, sẽ đem lại một hợp kim cứng và nhẹ, thích ứng cho bàn tay người nữ
tướng.
Đứng trước sự kiện kỹ thuật ấy, chúng ta không thể nào không kính phục và
ngưỡng mộ tư duy và trình độ kỹ thuật của các nghệ nhân luyện kim thời Việt cổ.
Phân đoàn tay nỏ trong binh lực
Số lượng lớn các mũi tên đồng tìm được lại cho phép chúng ta khẳng định rằng
ở thời Việt cổ vùng Cổ Loa đã có một lực lượng quân sự được phân thành đoàn
tiểu xạ gồm nhiều tay nỏ, nếu ta lại căn cứ trên những lẫy nỏ Cổ Loa mà các nhà
khảo cổ học vừa tìm thấy gần đây.
Những lẫy nỏ này tinh vi và bé hơn những nỏ tìm thấy ở các vùng thượng du,
nơi các đồng bào tộc Mường hay nhiều tộc khác cư trú. Thời đó ở Bắc phương
người ta hay dùng cung trong lúc người tộc Việt hay dùng nỏ.

Phải chăng những tay nỏ này rất thiện xạ, vì họ đã gây ra trong đối phương ấn tượng hãi
hùng, như những nỏ thần, mà nỏ Kim Quy chỉ là một huyền tượng.
Cách bắn nỏ tài ba đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong vùng Cổ Loa, có khi dùng
trong quân đội chính triều, có khi trong những lực lượng đối lập, như ta đã biết,
hơn mười thế kỷ sau An Dương Vương, vua Ngô Xương Văn - một trong hai vua
anh em đồng kế vị Ngô Quyền, đã chết năm 965 sau Công nguyên, vì một mũi
tên, cũng gần Cổ Loa, kinh đô thời ấy.
Gương đồng và dao găm nữ tướng
Những lẫy nỏ Cổ Loa tìm được cũng bằng hợp kim đồng. Khi bật - một lần lẫy
chỉ phát một mũi tên. Tuy những lẫy nỏ này không phải từ nỏ của An Dương
Vương nhưng cũng giúp làm sáng tỏ được huyền thoại nỏ thần. Cơ cấu đơn tiễn
này làm nhẹ một phần nào tội lỗi của Mỵ Châu. Vận nước Âu Lạc tuy nổi chìm
theo thời gian qua mối tình cay đắng của Mỵ Châu - Trọng Thủy, nhưng không
làm quên được thực tế Cổ Loa đã là kinh đô của một nước có tổ chức lớn, có kỹ
thuật cao, kể cả kỹ thuật quân sự, bao hàm thêm khía cạnh nhân bản và tình
người.
Theo GS-TS PHẠM VĂN HƯỜNG
Người lao động
PHÁT HIỆN KHU LÒ ĐÚC MŨI TÊN ĐỒNG
TRONG THÀNH NỘI CỔ LOA
Phạm Minh Huyền, Lại Văn Tới,
Trần Anh Dũng, Nguyễn Đăng Cường

Theo kế hoạch tu bổ và tôn tạo khu đền An Dương Vương hay đền
Thượng như cách gọi của nhân dân ở Cổ Loa, của Ban QLDT&DT Hà Nội. Viện
Khảo cổ học đã được mời thực hiện hạng mục đào khảo cổ. Đây là cuộc khai
quật đầu tiên được diễn ra trong khu vực thành Nội của khu di tích Cổ Loa nổi
tiếng.
Cuộc khai quật khảo cổ đã được tiến hành từ ngày 10 - 1 - 2005, đến hết
tháng 3 - 2006. Chúng tôi đã đào 6 hố, hố H1, H2 ở phía Đông của đền, H3 ở
phía sau đền. Hố H4 ở phần bờ thành làm tay ngai bên phía Đông, đồng thời
cũng là một đoạn thành Cổ Loa xưa. Hố H5, H6 là hai mắt rồng trước đền. Tại
cả 6 hố đào chúng tôi đều phát hiện được lớp có chứa những di tích được chúng
tôi gọi là giai đoạn Cổ Loa hay lớp Cổ Loa. Trong hố H1, H2, H3 là lớp văn hoá
thứ ba, tại hố H4 là các lớp đất đắp thành, tại hố H5, H6 là lớp đất cuối cùng có
chứa gốm “Cổ Loa”.
Tại lớp Cổ Loa ở các hố H1, H2 đã phát hiện được lò đúc mũi tên và
những di tích có khả năng liên quan đến lò đúc. Vì tầm quan trọng của những
phát hiện này, chúng tôi xin thông báo riêng khu lò đúc.
Di tích lò đúc: Ở hố H3 một phần còn nằm trong vách Bắc của hố khai
quật.
Lò xuất hiện ngay trên mặt lớp Cổ Loa trong một vùng đất có hình chữ
nhật gần 3m2, không kể phần còn lại nằm trong vách Bắc.
Nửa di tích đã xuất lộ, chúng tôi mới chỉ bóc đi lớp đất trên cùng. Được sự
đồng ý của ông giám đốc Ban QLDT & DT Hà Nội, chúng tôi đã dừng xử lý khu
lò này để đợi trình một phương án tiếp tục mở rộng khai quật khu lò, đồng thời
giữ lại để làm khu trưng bày.
Các lớp đất
Trên mặt khu lò là lớp đất thứ nhất, lớp đất cuối cùng khi lò không còn
hoạt động nữa. Đất có màu nâu hơi vàng, có lẫn lốm đốm than tro. Trong lớp
này tìm được nhiều mảnh ngói Cổ Loa, một số mảnh khuôn đúc, đáng chú ý có
một mảnh khuôn có hai chữ Hán được đọc theo âm Hán Việt là “thần học”.
Lớp đất thứ hai, đất màu nâu đen, trong lớp này có các cụm ngói, đá phế
thải của khuôn đúc. Đào hết lớp thứ hai, phía ngoài là sinh thổ, phía trung tâm
chứa đầy than tro.
Lớp thứ ba chỉ có ở trung tâm, đất đen xám của than tro, chủ yếu là tro.
Lớp đáy là nền sét sinh thổ, những nơi bị nung nóng đất có màu đỏ.
Cấu trúc khu lò: Từ lớp thứ hai cấu trúc của khu lò được nhận biết. Có thể
thấy có hai vùng:

Vùng ngoài có nhiều cụm ngói được đặt úp hoặc đặt ngửa một cách có ý
thức. Ở góc Tây Nam có một cụm đá khá lớn, chất liệu đá giống với đá của
khuôn đúc. Đây là những mảnh khuôn đúc hỏng hoặc phế liệu thải ra khi chế tác
khuôn ngay tại khu lò đúc. Nhiều mảnh khuôn đúc vỡ nằm rải rác cùng với
những mảnh ngói. Ở góc Đông Bắc có một cụm khuôn đúc nằm chồng chất lên
nhau. Tất cả những ngói, đá, khuôn đúc vừa mô tả ở trên gần như làm thành
một vành đai xung quanh khu vực trung tâm có than tro.
Vùng trung tâm: Sau khi lấy hết lớp đất thứ nhất và lớp đất thứ hai ở vùng
trung tâm hoàn toàn là lớp than tro, chủ yếu là tro. Chúng tôi đã bóc hết lớp than
tro ở nửa của khu lò. Đáy của lớp than tro là lớp sét đỏ do chịu nhiệt cao, độ
cháy nhạt dần từ trong ra ngoài. Ở giữa nửa phần này có một hố ăn sâu xuống,
hố có phần miệng rộng rãi thu dần xuống đáy. Hố này có nhiều khả năng là một
lò, có thể tạm dùng thuật ngữ “hố lò” để chỉ loại di tích này. Ngoài “hố lò” này ra
ở góc Đông Nam có ba hố nông hơn và không có hình dáng nhất định. Những
hố này không phải là “hố lò”. Chắc chắn khu vực lò này sẽ có cả một hệ thống
“hố lò”.
Vì chưa xử lý xong khu vực lò đã xuất lộ và chưa khai quật hết toàn bộ
khu lò nên bước đầu chúng tôi mới chỉ có thể nhận biết được những nét cơ bản
như vậy. Còn rất nhiều điểm chưa thể giải thích được như công dụng của những
nhóm ngói trong khu vực lò là gì?. Có phải người ta sản xuất khuôn đúc ngay tại
khu lò không? Tại sao có những khuôn đúc lại nằm chồng chất thành cụm như
vậy?.
Di tích liên quan đến lò đúc đồng: Tại hố H2b có hai di tích liên quan
đến lò đúc.
Di tích thứ nhất, được ký hiệu là H2F16a, di tích này cũng mới chỉ xuất lộ
một phần trong hố đào, phần còn lại nằm trong vách Tây và vách Nam. Khi mới
xuất lộ chúng tôi thấy một vùng đất hình chữ nhật có chiều dài 1,50m, chiều
ngang 1,0m. Trong quá trình xử lý, di tích dần lộ ra là một hố đào hình bầu dục,
một đầu hố xuất lộ trong hố khai quật cong tròn, hố đào có xu hướng thu dần
vào giữa như hình lòng chảo. Đáy hố cách mặt lớp Cổ Loa là 1,8m, cách mặt đất
hiện nay là 3,2m, trong hố được lấp thành từng lớp và theo hình lòng chảo một
cách có ý thức. Có 3 lớp chính, trên cũng là đất màu vàng, trong lớp này cũng có
những lớp đất lấp khác nhau, cứ một lớp vàng xám rồi lại đến một lớp vàng đỏ
chồng lên nhau. Lớp thứ hai là lớp đất xám đen của than tro, trong lớp này có
nhiều mảnh ngói Cổ Loa, và có một cục đá rất nặng chúng tôi nghĩ là quặng. Lớp
đất này rất mềm, ẩm ướt. Lớp dưới cùng là lớp xám, than tro có ít hơn lớp thứ

