ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------
HOÀNG HẢI
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
THUỘC BỘ CÔNG THƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
1 MỞ ĐẦU:
Chƣơng CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN
6 1: HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước 6
1.1.1. Khái niệm và thực chất cổ phần hoá các DNNN 6
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá các DNNN 12
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình CPH DNNN 17
1.2. Khái quát về quá trình CPH DNNN ở Việt Nam 21
1.2.1. Quá trình nhận thức từ thực tế và hoàn thiện dần chủ trương 21
về cổ phần hoá DNNN
1.2.2. Thể chế hoá chủ trương của Đảng về CPH DNNN 23
1.2.3. Những kết quả chủ yếu đạt được về CPH DNNN 26
1.2.4. Những tồn tại, hạn chế của quá trình CPH DNNN 31
1.3. Kinh nghiệm CPH các DNNN ở một số nước Châu Á 32
1.3.1. Hàn Quốc 32
1.3.2. Singapo 34
1.3.3. Malayxia 34
1.3.4. Trung Quốc 35
1.3.5. Những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam 40
Chƣơng THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
43 2: NHÀ NƢỚC Ở BỘ CÔNG NGHIỆP (NAY THUỘC BỘ
CÔNG THƢƠNG)
2.1. Sự cần thiết CPH DNNN ở Bộ Công nghiệp 43
2.2. Tình hình CPH DNNN tại Bộ Công nghiệp 48
2.2.1. Tổng quan về tình hình triển khai, đổi mới DNNN thuộc Bộ
Công nghiệp từ năm 2001 48
1
2.2.2. Thực tiễn CPH DNNN thuộc Bộ Công nghiệp 51
2.3. Đánh giá chung công tác CPH DNNN thuộc Bộ Công 59
nghiệp
Kết quả 2.3.1 59
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 64
Chƣơng ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY
71 3: MẠNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN Ở BỘ CÔNG
THƢƠNG
3.1. Bối cảnh mới tác động đến quá trình CPH DNNN ở Việt 71
Nam
3.2. Định hướng đẩy mạnh quá trình CPH DNNN 73
3.2.1. Định hướng và nhiệm vụ CPH DNNN của Việt Nam 73
3.2.2. Định hướng CPH DNNN thuộc Bộ Công thương 75
3.3. Những giải pháp cơ bản đẩy mạnh CPH DNNN thuộc Bộ 77
Công thương
3.3.1. Nhóm giải pháp tạo lập điều kiện cần thiết cho CPH các 77
DNNN
Nhóm giải pháp về môi trường thể chế 79 3.3.2.
Nhóm giải pháp về tư tưởng và tổ chức CPH 87 3.3.3.
90 KẾT LUẬN
91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến nay, nước ta đã
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội của nghĩa (XHCN). Trong bước chuyển đổi này,
các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà
nước hoạt động còn kém hiệu quả, bộc lộ nhiều bất cập, khiến cho kinh tế nhà
nước chưa thực sự tương xứng với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế
nhiều thành phần. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã có các chủ
trương về đổi mới các DNNN. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành,
trong đó trọng tâm là cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp nhà nước.
Bộ Công thương (BCT) là một trong những Bộ lớn và quan trọng,
trong đó các DNNN thuộc Bộ Công nghiệp (BCN) trước đây (nay thuộc Bộ
Công thương) sản xuất ra hầu hết tư liệu sản xuất và một phần lớn tư liệu tiêu
dùng cung cấp cho ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu tính đến năm
2001, BCN (nay thuộc Bộ Công thương) trực tiếp quản lý 07 Tổng Công ty
90, 11 Tổng Công ty 91 và 345 doanh nghiệp độc lập, trực thuộc. Những
doanh nghiệp này được Nhà nước đầu tư một khối lượng vốn lớn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, song hiệu quả đưa lại chưa thực sự tương xứng.
Với lý do trên thì việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các DNNN thuộc BCN trước đây là hết sức cần thiết, trong đó CPH DNNN là
giải pháp quan trọng, là yếu tố sống còn trong tiến trình phát triển ngành này
theo hướng hội nhập.
Quá trình thí điểm CPH DNNN ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 06/1992
đến tháng 04/1996, từ tháng 05/1996 đến tháng 06/1998 là giai đoạn mở rộng
CPH, từ 07/1998 đến nay là giai đoạn thúc đẩy CPH DNNN. Đơn vị đầu tiên
thuộc BCN được thí điểm CPH là Nhà máy Xà bông miền Nam (thuộc Công
ty bột giặt miền Nam, Tổng công ty hoá chất II), Nhà máy Diêm Thống nhất
3
(thuộc Liên hiệp sản xuất - xuất khẩu giấy gỗ diêm) vào năm 1992. Tính từ
năm 1992 đến đầu năm 2006, BCN đã CPH được 326 đơn vị (trong đó có 202
doanh nghiệp độc lập và 124 bộ phận doanh nghiệp). Ngày 31 tháng 7 năm
2007, Quốc hội khoá XII thông qua Nghị quyết 01/2007/QH12 hợp nhất Bộ
Công nghiệp và Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương. Quá trình CPH
DNNN những năm qua ở Việt Nam nói chung và Bộ Công thương nói riêng
cho thấy đây là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp với những vấn đề
nhạy cảm như: sở hữu, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, hậu quả xã hội
đối với người lao động…. Nhìn chung, CPH DNNN diễn ra chậm và còn
nhiều vướng mắc. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu CPH DNNN cả
về lý luận và thực tiễn để thúc đẩy mạnh mẽ CPH các DNNN, làm cho quá
trình CPH DNNN thực sự có hiệu quả cả về kinh tế lẫn xã hội. Từ những lý
do trên, tôi đã chọn đề tài: “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc thuộc Bộ
Công thƣơng” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, CPH DNNN luôn là vấn đề thời
sự, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và hoạch định chính
sách phát triển. Qua việc tìm hiểu các tài liệu, tác giả luận văn có thể hệ thống
và nêu ra một số công trình chủ yếu sau:
“Cổ phần hoá DNNN - kinh nghiệm thế giới”. Sách chuyên khảo do
Hoàng Đức Tảo chủ biên, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội năm 1993.
“Cổ phần hoá DNNN, cơ sở lý luận và thực tiễn”. Sách chuyên khảo
do TS. Nguyễn Ngọc Quang biên soạn. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà
Nội, 1996.
“Cơ sở khoa học của việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ
phần ở Việt Nam”- Chương trình khoa học cấp Nhà nước, mã số KX 03.07.05
do Bộ Tài chính chủ trì năm 1993.
4
“Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần”. Sách
chuyên khảo do PTS Đoàn Văn Hạnh biên soạn. Nhà xuất bản Thống kê - Hà
Nội năm 1998.
“Chuyển đổi các DNNN- quản lý sự thay đổi triệt để trong môi trường
phi điều tiết”. Brary Spicer, David Emanuel, Michael Poswell (Anh). Viện
nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Hà Nội, 1998.
“Cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam”- Luận án tiến sỹ của tác giả
Nguyễn Thị Thơm, năm 1999.
“Cổ phần hoá một số DNNN trong ngành Giao thông vận tải – Thực
trạng và giải pháp”- Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Văn Hội, năm 2003.
“Đẩy mạnh CPH DNNN ở nước ta”- Luận văn thạc sỹ của tác giả
Đặng Ngọc Hiếu, năm 2006
Những công trình nghiên cứu trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau của vấn đề CPH DNNN, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt về CPH DNNN thuộc Bộ Công thương. Trước những biến động
của quá trình CPH các DNNN nói chung, của Bộ Công thương nói riêng, đặc
biệt là trong những năm gần đây, tác giả luận văn muốn đi sâu nghiên cứu
một cách có hệ thống từ góc độ của khoa học kinh tế chính trị CPH các
DNNN thuộc Bộ Công nghiệp trước đây (nay thuộc Bộ Công thương), nhằm
đưa ra những giải pháp để đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn CPH
DNNN ở Bộ Công thương hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá đúng thực
trạng CPH DNNN thuộc Bộ Công nghiệp (nay thuộc Bộ Công thương), trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh CPH DNNN ở Bộ
Công thương trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ khoa học sau đây:
5
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về CPH DNNN, kinh
nghiệm CPH DNNN ở một số quốc gia.
- Phân tích đánh giá thực trạng quá trình CPH DNNN trong Bộ Công
nghiệp (nay thuộc Bộ Công thương).
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
CPH DNNN thuộc Bộ Công thương trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dưới giác độ kinh tế chính trị quá trình CPH DNNN
ở Bộ Công thương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Bộ Công thương là Bộ có nhiều DNNN, luận văn
giới hạn nghiên cứu thực trạng CPH các DNNN do Bộ Công nghiệp trước đây
quản lý.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng CPH DNNN
thuộc Bộ Công nghiệp (nay thuộc Bộ Công thương), từ năm 2001 đến cuối
năm 2007.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chung là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể
như trừu tượng hoá khoa học, kết hợp logíc với lịch sử, phân tích và tổng hợp,
thống kê, so sánh…
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về CPH các DNNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CPH DNNN ở Bộ Công
nghiệp trước đây (nay thuộc Bộ Công thương).
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh CPH DNNN thuộc
Bộ Công thương trong thời gian tới.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của CPH các doanh nghiệp nhà
nƣớc
Chƣơng 2: Thực trạng CPH DNNN ở Bộ Công nghiệp (nay thuộc Bộ
Công thƣơng)
Chƣơng 3: Định hƣớng và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc ở Bộ Công thƣơng
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CỔ PHẦN HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1.1. Khái niệm và thực chất cổ phần hoá các DNNN
1.1.1.1. Khái niệm cổ phần hoá các DNNN
Cổ phần hoá là một hình thức chuyển đổi doanh nghiệp từ doanh
nghiệp có một hoặc số ít chủ sở hữu sang các doanh nghiệp có nhiều chủ sở
hữu dưới hình thức các công ty cổ phần (CTCP). Thực chất của quá trình này
là nhằm chuyển đổi hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp cũ sang hình
thức sở hữu hỗn hợp giữa các cổ đông trên cơ sở chia nhỏ tài sản của công ty
thành những phần bằng nhau, bán lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ
phiếu. Thông qua đó thiết lập hình thức tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình
CTCP, hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập. Như vậy CPH có thể
thực hiện cho bất cứ loại hình doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp tư nhân,
DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác. Mặc dù trong thực tiễn CPH diễn
ra cả đối với các doanh nghiệp tư nhân song do số lượng các doanh nghiệp tư
nhân CPH là không đáng kể, cho nên khi nhắc đến CPH người ta thường hiểu
là CPH DNNN.
CPH các DNNN là thuật ngữ xuất hiện và được sử dụng ở Việt Nam
gắn liền với quá trình đổi mới tổ chức và quản lý các DNNN trong thời kỳ đổi
mới. Đổi mới các DNNN là xu hướng có tính phổ biến ở hầu hết các nước
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội (kể cả các nước tư bản và các nước
theo mô hình của chủ nghĩa xã hội), với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động
của các DNNN. Đổi mới các DNNN có thể được diễn ra theo những mức độ
khác nhau, với những nội dung khác nhau như:
- Đổi mới những nội dung hoạt động bên trong các DNNN theo hướng
tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giảm thiểu sự bao cấp của nhà
8
nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN, nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tự do hoá việc tham gia các hoạt động kinh tế cho các thành phần
kinh tế khác ở những khu vực, những hoạt động vốn chỉ dành cho DNNN.
Theo đó DNNN sẽ thu hẹp phạm vi hoạt động, các thành phần kinh tế khác sẽ
mở rộng phạm vi. Sức cạnh tranh giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác sẽ cùng tăng lên. Số lượng các DNNN sẽ giảm, gánh
nặng từ ngân sách cũng giảm bớt.
- Uỷ quyền kinh doanh hoặc cho phép các loại hình kinh doanh ngoài
nhà nước ký những hợp đồng kinh tế thực hiện những dịch vụ công cộng hoặc
cho khu vực ngoài nhà nước thuê những tài sản công cộng.
- Chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ hình thức sở hữu nhà nước ở
DNNN thành sở hữu tư nhân hoặc tập thể dưới hình thức tư nhân hoá hoặc cổ
phần hoá ở các nước tư bản, các nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Nga, Đông
Âu…; cổ phần hoá hoặc bán, khoán, cho thuê các DNNN như ở Việt Nam.
Hiện nay, có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về CPH DNNN như:
CPH DNNN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ DNNN (doanh nghiệp
đơn sở hữu) sang công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu); hay là hình thức
chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật DNNN sang doanh nghiệp
hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp; hay
cũng có cách hiểu CPH DNNN là một hình thức tư nhân hoá... Nhìn chung
các khái niệm về CPH đều nói trực tiếp đến CPH các DNNN, vì vậy, đều nói
tới quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ hình thức DNNN sang hình thức
CTCP, với những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các khái niệm chưa đi sâu
vào bản chất bên trong của quá trình CPH các DNNN. Vì vậy, có thể khái
quát và đưa ra khái niệm đầy đủ về CPH DNNN như sau:
CPH các DNNN là biện pháp có tính đặc thù của quá trình đổi mới các
DNNN, là quá trình chuyển các DNNN thành các CTCP. Đó là biện pháp
chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu nhà nước sang sở hữu của nhiều chủ
9
thể - đa sở hữu (hay sở hữu hỗn hợp), trong đó có thể tồn tại một phần sở hữu
của nhà nước; là quá trình huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất,
xử lý và khắc phục những tồn tại hiện thời của DNNN; tạo điều kiện cho
người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Tất cả nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giảm
nhẹ gánh nặng của ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp.
1.1.1.2. Thực chất cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nƣớc
Muốn hiểu thực chất CPH DNNN, trước hết cần phải phân biệt hai quá
trình chuyển đổi DNNN đó là CPH và tư nhân hoá.
CPH và tư nhân hoá là hai quá trình khác nhau cả về mục đích lẫn
phương thức tiến hành, cụ thể là: mục tiêu CPH DNNN là góp phần nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; huy động vốn của toàn xã hội
để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp; đồng thời qua CPH mà
phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động. Trong khi đó tư nhân
hoá có mục tiêu là xoá bỏ hẳn những DNNN mà Nhà nước xét thấy không cần
thiết nắm giữ. Về hình thức CPH đối với các DNNN được thực hiện tuỳ thuộc
vào hình thức cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn trong những hình thức mà
Nhà nước hướng dẫn rồi đề xuất lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt ra quyết định. Tư nhân hoá DNNN lại được thực hiện theo một hình
thức duy nhất là bán toàn bộ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ở các DNNN cho
các tư nhân và xoá bỏ luôn DNNN này.
Bên cạnh đó, để hiểu rõ hơn thực chất của CPH DNNN cũng cần làm
rõ những khác biệt về nội dung của quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ
phần khác gì với quá trình tư nhân hoá nó. Ở các nước tiến hành CPH DNNN
thành CTCP có thể thông qua một trong hai hình thức sau:
Một là, bán toàn bộ hoặc một phần tài sản hiện có thuộc sở hữu nhà
nước tại doanh nghiệp cho các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân bằng
phương thức phát hành cổ phiếu.
10
Hai là, giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn hiện có của nhà nước tại DNNN,
phát hành cổ phiếu ra công chúng để thu hút thêm vốn mở rộng DNNN.
Cả hai hình thức trên đều là CPH DNNN, đều là quá trình chuyển
DNNN từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang CTCP - hình thức doanh nghiệp
có nhiều chủ sở hữu. Đây cũng là quá trình chuyển việc quản lý doanh nghiệp
trực tiếp là Nhà nước sang quản lý doanh nghiệp gián tiếp của các cổ đông
thông qua hội đồng quản trị. Với cách nhìn nhận như vậy thì không thể quan
niệm CPH DNNN là tư nhân hoá.
Để hiểu rõ thực chất của CPH các DNNN cần đi sâu phân tích các nhân
tố nằm trong quá trình trên.
Nhân tố thứ nhất: DNNN với tƣ cách là đối tƣợng của cổ phần hoá:
DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý hoạt
động với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt động theo luật pháp
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Nhiều nghiên cứu
đã kết luận về sự tồn tại khách quan và vai trò của các DNNN trong nền kinh
tế thị trường, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như
nước ta. Đó là:
- Với tư cách là doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các DNNN
thông qua các hoạt động của mình thực hiện chức năng định hướng, tạo tiềm
lực kinh tế cho Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với nền kinh tế.
- Các DNNN có vai trò to lớn trong nắm giữ các hoạt động then chốt
của nền kinh tế như: điện lực, khai thác khoáng sản, dầu khí, viễn thông, vận
tải và công nghiệp quốc phòng. Đồng thời được tổ chức và hoạt động ở những
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội nhưng hiệu quả kinh tế thấp như các
dịch vụ công ích, các hoạt động bảo vệ môi trường,…Việc nắm giữ này cho
phép Nhà nước một mặt đảm bảo những điều kiện phát triển, những cân đối
lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân giúp cho các doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả; mặt khác đảm bảo những điều kiện cần thiết cho sự ổn định đời
sống kinh tế, xã hội.
11
- Các DNNN ở những vùng biên giới, những vùng có điều kiện phát
triển kinh tế xã hội khó khăn, những vùng còn lạc hậu… có vai trò rất quan
trọng trong việc giữ gìn an ninh quốc phòng, xây dựng chế độ kinh tế - xã hội
công bằng, dân chủ…
Như vậy, việc CPH các DNNN tuy là tất yếu trong điều kiện của nhiều
nước, nhưng CPH DNNN ở quốc gia nào cũng cần phải có sự cân nhắc một
cách thấu đáo để không làm mất đi tiềm lực kinh tế của đất nước, để nhà nước
vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế, đồng thời để các doanh nghiệp có khả
năng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhân tố thứ hai: công ty cổ phần với tƣ cách là sản phẩm của quá
trình CPH các DNNN: Theo Luật doanh nghiệp - Công ty cổ phần là doanh
nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần; Công ty có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động
vốn theo luật chứng khoán; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng
tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần (tuỳ trường hợp đặc biệt được quy định riêng). Cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Như vậy, công ty cổ phần có những nội dung tổ chức và quản lý khác
biệt với những loại hình doanh nghiệp khác, trước hết là các doanh nghiệp tư
nhân. Công ty cổ phần đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, ngày nay phát
triển như là hình thức tổ chức doanh nghiệp khá phổ biến vì tính ưu việt của
nó không chỉ trong huy động vốn mà còn ở cách thức tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh.
Bên cạnh đó là những biện pháp kinh tế, tổ chức tiến hành trong
quá trình CPH: Các biện pháp kinh tế, tổ chức tiến hành trong quá trình cổ
phần hoá phụ thuộc vào trạng thái của các DNNN và mục tiêu của CPH, với
sự hình thành của các CTCP theo mô hình nào (Nhà nước còn nắm quyền chi
phối không, có cho những người ngoài doanh nghiệp mua cổ phiếu không…).
12
Đây chính là điểm để phân biệt sự khác nhau giữa CPH với tư nhân hoá các
DNNN. Đồng thời đây cũng là điểm để phản ánh thực chất của CPH. Điểm
phân biệt rõ nhất giữa CPH DNNN và tư nhân hoá DNNN là các công việc
triển khai và sản phẩm của quá trình đó. Để có sản phẩm khác nhau, tất yếu
cần phải có các biện pháp khác nhau. Nếu ở tư nhân hoá các DNNN, nhà
nước không có những can thiệp, những chi phối doanh nghiệp sau khi thực
hiện tư nhân hoá, thì ở CPH các DNNN, nhà nước vẫn còn nắm phần sở hữu
tài sản (tuỳ theo mức độ cần thiết mà nắm phần chi phối hay không nắm
quyền chi phối). Điều quan trọng hơn, trong xử lý các DNNN theo hình thức
tư nhân hoá, các vấn đề mang tính xã hội, nhất là các vấn đề gắn với lực
lượng lao động của doanh nghiệp cần được xử lý dứt điểm cho đến thời điểm
hiện tại mà không chú ý đến tương lai của họ. Trong khi đó, với CPH các
DNNN, các vấn đề xã hội gắn với lực lượng lao động thường được xem xét cả
quá khứ, hiện tại và tương lai của họ.
Với những điểm khác biệt trên, tư nhân hoá các DNNN có nội dung
thực hiện đơn giản hơn so với cổ phần hoá chúng. Các công việc như định giá
doanh nghiệp, giải quyết các chế độ liên quan đến người lao động và lựa chọn
chủ thể mới của doanh nghiệp là những công việc chủ yếu của tư nhân hoá
các DNNN. Các nội dung về thu hút thêm vốn, tổ chức bộ máy sau tư nhân
hoá là thuộc về DNNN sau khi đã tư nhân hoá. Trong khi đó, CPH các DNNN
bao gồm các công việc như định giá doanh nghiệp; lựa chọn mức độ kiểm
soát của nhà nước với doanh nghiệp, xác định mức độ ưu đãi với các loại cổ
phần theo các cổ đông ưu đãi, mức độ thu hút thêm vốn, duy trì hoạt động ban
đầu trước khi doanh nghiệp bầu chủ tịch Hội đồng quản trị…đều được quan
tâm trong và sau CPH.
Từ những phân tích trên cho thấy: Thực chất của CPH DNNN là quá
trình chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là nhà nước sang doanh nghiệp
đa sở hữu.
13
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá các DNNN
CPH các DNNN đã trở thành xu hướng có tính khách quan ở nhiều
nước, nhất là ở các nước có nền kinh tế đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi. Điều đó bắt nguồn từ những cơ sở kinh tế xã hội chủ yếu
sau:
1.1.2.1. Do yêu cầu đòi hỏi của quá trình xã hội hoá sản xuất trên
thực tế
Xã hội hoá nền sản xuất là xu hướng có tính quy luật của sự phát triển
kinh tế xã hội (KTXH). Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xã hội. Xã hội
hoá sản xuất bắt nguồn từ yêu cầu của huy động các nguồn lực của xã hội cho
phát triển KTXH và tính xã hội của sản xuất phát triển từ thấp đến cao, gắn
liền với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Xã hội hoá sản
xuất đã mang lại những hiệu quả to lớn trong sự phát triển KTXH.
Xã hội hoá sản xuất được biểu hiện ở sự thống nhất của hai mặt đối lập
là sự phân công và hợp tác lao động. Đó chính là sự phân công, chuyên môn
hoá sản xuất ngày càng cao, làm mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các chủ
thể kinh tế, giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế ngày càng chặt chẽ,
do đó sự phụ thuộc vào nhau ngày càng cao trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Sản phẩm làm ra cũng là kết quả lao động của nhiều người,
thậm trí của nhiều quốc gia…tức là xã hội hoá mang tính quốc tế hoá.
Xã hội hoá sản xuất bao gồm ba mặt: Xã hội hoá sản xuất về kinh tế-kỹ
thuật, với nội dung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, gắn liền với tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); xã hội hoá sản xuất về kinh tế-tổ
chức, mà thực chất là tổ chức lại sản xuất xã hội với mục đích làm cho hiệu
suất và năng suất lao động xã hội ngày càng cao; xã hội hoá về kinh tế-xã hội
mà thực chất gắn liền với việc xã hội hoá quan hệ sản xuất, trong đó quan
trọng nhất là quan hệ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản
xuất nói chung và trong từng doanh nghiệp nói riêng.
14
Ba mặt trên có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo nên tính toàn diện
của xã hội hoá sản xuất. Tuy nhiên xã hội hoá về kinh tế-kỹ thuật mang tính
quyết định và xã hội hoá về kinh tế-xã hội có tính chất mở đường, tạo nên
những điều kiện cho xã hội hoá về kinh tế - kỹ thuật và xã hội hoá sản xuất về
kinh tế - tổ chức. Chỉ khi xã hội hoá sản xuất được tiến hành đồng bộ cả 3 mặt
nói trên và có sự phù hợp giữa 3 mặt đó mới là xã hội hoá sản xuất thực tế.
Nếu chỉ dừng lại ở xã hội hoá sản xuất về tư liệu sản xuất mà không tiến hành
đồng bộ và không có sự phù hợp giữa 3 mặt nói trên thì đó mới chỉ là xã hội
hoá sản xuất hình thức.
Vấn đề xã hội hóa sản xuất trên thực tế được tiến hành và biểu hiện cả
trong và sau quá trình CPH các DNNN. Tiêu chuẩn đánh giá, xem xét trình độ
của xã hội hoá sản xuất đó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức
tăng năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Từ tính chất và
yêu cầu trên của xã hội hóa sản xuất cho thấy, xã hội hóa sản xuất là quá trình
kinh tế khách quan của sự phát triển tính xã hội của sản xuất. CPH các DNNN
ở nước ta là một trong những biểu hiện của xã hội hoá sản xuất trên cả 3 mặt,
cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình CPH các DNNN chính là quá trình xây dựng và
hoàn thiện cơ chế quản lý các DNNN một cách tối ưu nhất, qua đó nhằm huy
động các nguồn lực trong toàn xã hội bao gồm các nguồn vốn, nguồn tài
nguyên, trình độ khoa học công nghệ cũng như các nguồn lực khác của tất cả
các chủ thể trong và ngoài nước tham gia vào quá trình CPH, thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Sau
CPH các DNNN, xét về mặt đặc điểm sở hữu các nguồn lực trong các công ty
cổ phần cũng như đặc điểm tổ chức quản trị doanh nghiệp ta nhận thấy nó
mang tính xã hội cao hơn hẳn so với trước khi CPH. Như vậy quá trình CPH
DNNN, chính là quá trình xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế-kỹ thuật.
Thứ hai, như đã phân tích, thực chất CPH DNNN không phải là tư
nhân hoá mà là một cách thức tổ chức sắp xếp lại hoạt động của hệ thống các
15
DNNN sao cho có hiệu quả nhất, tạo ra năng suất lao động xã hội cao nhất
nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Như vậy, nếu xem xét
CPH DNNN từ mục tiêu đến kết quả đạt được ta đều nhận thấy: Thực chất
của CPH DNNN chính là quá trình xã hội hoá sản xuất trên thực tế về mặt
kinh tế-tổ chức.
Thứ ba, trên thực tế quá trình CPH các DNNN ở nước ta thời gian qua
là quá trình chuyển các DNNN từ hình thức một chủ sở hữu sang các doanh
nghiệp nhiều chủ sở hữu. Chính quá trình chuyển đổi này đã làm cho các tư
liệu sản xuất gắn với các chủ thể sở hữu của nó, vì vậy việc sử dụng các yếu
tố nguồn lực của sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặt khác, khi DNNN
chuyển đổi thành công ty cổ phần thì hình thức tổ chức quản lý cũng như
phân phối kết quả sản xuất cũng có những thay đổi cơ bản. Khi còn là DNNN
thì việc tổ chức quản lý cũng như phân phối kết quả sản xuất của doanh
nghiệp là do Nhà nước quyết định vì Nhà nước là chủ thể sở hữu đối với
doanh nghiệp. Nhưng khi đã là công ty cổ phần thì Hội đồng quản trị lại là
người đại diện hợp pháp cho quyền sở hữu của các cổ đông đứng ra giải quyết
các công việc này. Tất cả những thay đổi đó khẳng định CPH DNNN cũng
chính là quá trình xã hội hoá sản xuất trên thực tế về mặt kinh tế-xã hội.
Từ những phân tích trên, một lần nữa có thể khẳng định: CPH DNNN
là tất yếu khách quan, điều đó hoàn toàn do tính chất và yêu cầu của xã hội
hoá sản xuất trên thực tế chi phối.
1.1.2.2. Do yêu cầu đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng
DNNN, đặc biệt là các DNNN ở các nước vốn có nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung là loại hình doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn, quản lý theo
cơ chế hành chính qua nhiều cấp trung gian. Do đó, hệ thống tài chính, kế
hoạch tài chính cứng nhắc kém năng động; tính chủ động trong sản xuất kinh
doanh bị ràng buộc bởi nhiều quy chế, quy định xuất phát từ nguồn gốc của
sở hữu nhà nước của doanh nghiệp. Tình trạng độc quyền của nhiều DNNN
16
lại được pháp luật che chở, bảo vệ nên làm mất đi động lực kinh tế trong hoạt
động. Với chế độ quản lý đó, lợi ích của người quản lý và người lao động
không gắn với kết quả sản xuất một cách chặt chẽ nên hiệu quả sản xuất kinh
doanh không cao. Các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn các doanh
nghiệp khác.
Như vậy, bản thân DNNN với cách thức tổ chức đã chứa đựng những
yếu tố kém ưu việt hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường
hợp, sự tồn tại của DNNN không tạo nên tiềm lực kinh tế cho nhà nước mà
trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đây là yếu tố mang tính tự thân
của chính các DNNN dẫn đến phải đổi mới và hoàn thiện chúng.
Mặt khác, do nhiều lý do ở hầu hết các nước đã tổ chức quá nhiều các
DNNN. Xu hướng phát triển quá nhiều DNNN đã dẫn đến quản lý kém hiệu
quả, ngân sách nhà nước không thể kham nổi, dẫn đến tình trạng bỏ mặc. Sự
thâm hụt và thua lỗ của DNNN làm nhà nước phải gánh chịu, có một số
doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế.
Một mặt, chính phủ các nước nhận thấy cần phải trút bỏ gánh nặng từ phía
các doanh nghiệp, mặt khác các tổ chức tài chính quốc tế đưa ra các biện pháp
gây sức ép, buộc các DNNN phải tổ chức lại sản xuất và quản lý, trong đó có
việc chuyển các DNNN thành các công ty tư nhân hoặc công ty cổ phần.
1.1.2.3. Do có sự thay đổi về vai trò của DNNN trong nền KTTT
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò điều tiết của nhà nước ngày càng
trở nên quan trọng. Tính chất quan trọng này không chỉ là những nhận thức
của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn bắt nguồn từ nhận thức của các tổ
chức kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là những nước có nền kinh tế thị trường
phát triển ở trình độ cao.
Trước hết, đối với các cơ quan quản lý nhà nước, mà đứng đầu là chính
phủ: sau quá trình vận hành quản lý người ta nhận ra hiệu lực của quản lý
không chỉ ở tiềm lực kinh tế của chính phủ mà còn ở vai trò xây dựng các thể
chế quản lý, tạo lập các môi trường kinh tế và pháp lý cho sự hoạt động của
17
các đơn vị kinh doanh… Chính việc tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý đã
mang lại những ích lợi to lớn cho những người sản xuất, kinh doanh, đã là sợi
dây liên kết các đơn vị, cá nhân thành hệ thống kinh tế bao gồm những thành
phần kinh tế, những ngành, những lĩnh vực kinh tế khác nhau. Chúng vừa
cạnh tranh với nhau, nhưng lại thống nhất với nhau.
Vì vậy, vai trò của các DNNN với tư cách là bộ phận kinh tế của nhà
nước tạo nên sức mạnh kinh tế của nhà nước thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế dễ bị suy giảm. Quản lý nhà nước thông qua hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh và các chính sách kinh tế hướng tới tạo lập môi
trường kinh tế và pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp ngày càng phát huy tác
dụng và trở thành những công cụ quản lý chủ yếu. Tiềm lực kinh tế của nhà
nước, trong điều kiện đó được xác lập bằng chính sự đóng góp của các doanh
nghiệp thay cho việc thành lập các DNNN hoạt động kém hiệu quả.
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường, sự đan xen của các thành phần
kinh tế ngày càng trở nên phổ biến, trong đó có mô hình kinh tế hỗn hợp giữa
khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân đã làm cho nhận thức về
vai trò của DNNN trong nền kinh tế có những thay đổi.
Sự thay đổi phương thức quản lý kinh tế của nhà nước thông qua sự
hoàn thiện hệ thống luật pháp và các chính sách kinh tế; sự thay đổi vai trò
của các khu vực kinh tế, trong đó có vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tư
nhân đã làm thay đổi tư duy lý luận và chỉ đạo thực hiện của các chính phủ ở
hầu hết các nước. Đây cũng là cơ sở quan trọng dẫn đến sự thay đổi của hệ
thống các DNNN mà CPH DNNN là một trong các giải pháp quan trọng.
Đối với các tổ chức kinh tế, trước hết là các doanh nghiệp: trong điều
kiện của kinh tế thị trường, nhất là khi giao thương quốc tế ngày càng mở
rộng, khi các vấn đề chính trị ngày càng chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động
kinh tế… thì người ta ngày càng nhận ra vai trò quan trọng của nhà nước đối
với việc quản lý kinh tế.
18
Sự tuân thủ với tính tự giác cao của các doanh nghiệp đã làm thay đổi
phương thức quản lý nền kinh tế. Đây cũng là cơ sở khách quan dẫn đến phải
đổi mới các DNNN.
1.1.2.4. Do sức hấp dẫn của các công ty cổ phần trong hệ thống các
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trƣờng
CTCP với hình thức thu hút vốn đa dạng, với cách thức tổ chức và quản
lý một mặt phát huy sự lãnh đạo tập thể của hội đồng quản trị, sự chịu trách
nhiệm trực tiếp của giám đốc; mặt khác phát huy vai trò làm chủ thực sự của
các cổ đông nên có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn. Vì vậy,
công ty cổ phần đã trở thành hình thức doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Trong bối cảnh cần phải đổi mới các DNNN, việc chuyển từ
DNNN sang CTCP thông qua CPH các DNNN, vì thế đã trở thành tất yếu.
Thật vậy, CPH các DNNN là quá trình chuyển hoá sở hữu, trước hết là
quyền sở hữu. Quyền sở hữu là quyền của tập thể hoặc cá nhân gắn với tài sản
hoặc quá trình sử dụng tài sản. Trong sản xuất kinh doanh, đó là quyền tổ
chức hoạt động kinh doanh, theo đó các quyền về việc làm, được hưởng thụ
các kết quả làm ra, cũng như các quyền về thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp
chúng được thực hiện. CPH DNNN đã giải quyết thoả đáng mối quan hệ về
sở hữu. Nhờ đó, quyền sở hữu chung chung, mơ hồ của nhà nước đối với
DNNN đã thay bằng quyền sở hữu cụ thể của những người góp vốn, sở hữu
cá nhân của những người lao động đã được tôn trọng. Vì thế, CTCP đã trở
thành một trong các hình thức doanh nghiệp có hiệu quả và sức sống cao
trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình CPH DNNN
1.1.3.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
* Các chính sách vĩ mô
- Cơ chế, chính sách CPH
+ Xác định mục tiêu, đối tượng cổ phần hoá là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng tới quy mô, mức độ CPH DNNN. Mục tiêu chính của
19
quá trình CPH DNNN là nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của
các DNNN, cải thiện đời sống của người lao động, góp phần đóng góp vào
ngân sách nhà nước… phải được quán triệt. Bên cạnh đó, cần xác định đối
tượng thực hiện CPH một cách chính xác, hợp lý, rõ ràng.
+ Xác định giá trị doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp trong tiến trình
CPH DNNN. Sự phức tạp của việc xác định giá trị doanh nghiệp là do tính đa
dạng và đặc thù của doanh nghiệp, sự biến động không ngừng của môi trường
đầu tư và các yếu tố tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc xác
định giá trị doanh nghiệp không được thực hiện khoa học, rõ ràng, minh bạch
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà nước, của xã hội, của người lao
động, đồng thời gây nhiều khó khăn trở ngại cho quá trình thực hiện CPH
DNNN.
+ Cơ chế chính sách liên quan tới chế độ của người lao động khi thực
hiện và sau khi thực hiện CPH DNNN là một nhân tố cần được quan tâm. Khi
thực hiện CPH, các chính sách liên quan tới chế độ tham gia mua cổ phần,
quyền lợi về BHXH, chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ hiện hành
nếu không được quan tâm giải quyết thì đó là một vấn đề gây khó khăn cho
việc thực hiện CPH DNNN.
+ Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách liên quan tới các DNNN sau CPH
cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình CPH DNNN. Sự
phân biệt đối xử theo hướng ưu tiên hơn cho các DNNN không CPH hoặc
trước khi CPH so với các DNNN sau CPH chính là một trong những rào cản
quá trình CPH.
- Các chính sách vĩ mô khác
Có thể nói rằng, mọi chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đều ảnh
hưởng đến quá trình CPH DNNN. Ví dụ:
+ Chính sách đối với các thành phần kinh tế sẽ ảnh hưởng đến quá trình
CPH các DNNN. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp
20
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh,
doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh
tế phổ biến…là lực đẩy hết sức to lớn đối với quá trình CPH DNNN.
+ Chính sách đầu tư nước ngoài cũng là yếu tố tác động đến quá trình
CPH các DNNN. Khi thực hiện CPH nếu các DNNN tiếp nhận được nguồn
vốn, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài
thì sẽ thúc đẩy nhanh quá trình CPH và góp phần đảm bảo cho các DNNN sau
CPH có điều kiện phát triển nhanh chóng và vững chắc hơn.
+ Chính sách giải quyết việc làm là nhân tố tác động đến quá trình CPH
các DNNN. Các DNNN sau CPH nhìn chung đều tiến hành sắp xếp lại sản
xuất, theo đó có thể sẽ có một bộ phận lao động bị dôi dư, một số DNNN sau
CPH có thể phải thu hẹp sản xuất hoặc phá sản do không có khả năng cạnh
tranh, kéo theo đó là một bộ phận lao động có thể mất việc làm, nếu nhà nước
không đưa ra những chính sách hỗ trợ, giải quyết khoa học vấn đề việc làm sẽ
tạo ra tâm lý e dè, lo ngại, gây khó khăn cho quá trình CPH các DNNN
* Sự phát triển kinh tế thị trường
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường cho phép sử dụng hiệu quả hơn
các nguồn lực và vì vậy là nhân tố động lực của tăng trưởng kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện, tiền đề để nâng cao thu nhập của dân cư nói
chung, người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Điều đó
cũng có nghĩa rằng khả năng tài chính của dân cư để mua cổ phiếu của các
DNNN CPH tăng lên.
Sự phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với quá trình CPH DNNN. Trong mối quan hệ trực tiếp với CPH
DNNN cần nhấn mạnh đến sự phát triển của thị trường tài chính, thị trường
bất động sản. Trong đó, thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường
tài chính. Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động
21
của các CTCP trong nền kinh tế thị trường. Nó vừa là điều kiện, vừa là tấm
gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các CTCP. Sự kém phát triển và
tính thiếu ổn định của thị trường chứng khoán sẽ gây khó khăn cho quá trình
CPH DNNN. Đó là khó khăn trong đánh giá doanh nghiệp để CPH, trong phát
hành và lưu thông cổ phiếu, trong việc mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu.
Bên cạnh đó, thị trường bất động sản diễn ra thuận lợi và hiệu quả sẽ góp
phần thúc đẩy quá trình CPH, trước hết, là trong việc xác định giá trị quyền sử
dụng đất của DNNN khi CPH. Thực tế cho thấy, việc không tính đúng, tính
đủ giá trị đất trong khi lập và triển khai phương án CPH DNNN ở nước ta thời
gian qua một mặt trực tiếp làm thất thu ngân sách nhà nước, mặt khác gián
tiếp góp phần gây ra các hiện tượng tiêu cực, thậm chí tham nhũng. Nguyên
nhân của tình trạng này một mặt do những hạn chế bất cập của cơ chế, chính
sách của nhà nước trong xác định giá trị doanh nghiệp, mặt khác do sự chưa
phát triển của thị trường bất động sản.
* Điều kiện tự nhiên
Các nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm: vị trí địa lý của doanh
nghiệp và các điều kiện về địa hình, tài nguyên, khoáng sản…gắn với các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình CPH các DNNN. Bởi lẽ, mục đích của các cổ đông là tìm kiếm lợi
tức, nâng cao thu nhập, mà mức lợi tức phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Các DNNN có điều kiện tự nhiên thuận lợi
thường triển khai CPH thuận lợi hơn, nhanh hơn.
1.1.3.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Đặc điểm ngành nghề của các DNNN có ảnh hưởng đáng kể đến quá
trình CPH. Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp nặng khi CPH sẽ diễn ra chậm hơn, khó khăn hơn so với
những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực như dịch vụ, công nghiệp
nhẹ.
22
Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một trong
những yếu tố tác động đến quá trình CPH của các DNNN. Đối với các doanh
nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh tốt, thường xuyên có lãi thì sẽ có điều
kiện hơn khi tiến hành CPH.
Các nguồn lực của doanh nghiệp như: nguồn nhân lực, nguồn tài chính,
hạ tầng kỹ thuật và thông tin là những yếu tố tạo điều kiện để doanh nghiệp
thực hiện CPH và tiếp tục phát triển sau CPH. Nguồn nhân lực nếu đầy đủ về
số lượng, tinh thông về chất lượng, tận tụy, trung thành với lợi ích của doanh
nghiệp là yếu tố quan trọng để DNNN thực hiện CPH thành công. Nếu năng
lực tài chính dồi dào, an toàn, vững chắc… sẽ góp phần giúp doanh nghiệp
hoạch định chiến lược đầu tư lâu dài, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển
nguồn nhân lực… Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật như: diện
tích mặt bằng, đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị…có ảnh hưởng to lớn
đến hiệu quả hoạt động của DNNN trước và sau khi CPH.
Tâm lý của người lao động và đội ngũ lãnh đạo trong các DNNN cũng
là một trong những nhân tố tác động không nhỏ đến quá trình CPH của các
doanh nghiệp. Nếu đội ngũ lãnh đạo còn chưa thông suốt về CPH, sợ ảnh
hưởng đến quyền lợi cá nhân; nếu người lao động còn e dè, chưa sẵn sàng cho
việc thực hiện CPH thì họ sẽ là những vật cản rất lớn đến quá trình CPH các
DNNN.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH CPH DNNN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Quá trình nhận thức từ thực tế và hoàn thiện dần chủ trƣơng
về CPH DNNN
Từ chủ trương xuyên suốt kiên trì phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế đan xen nhau theo các mô hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh phù hợp; chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc để thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; qua
quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm từ thực tiễn mà bổ sung, sửa đổi chủ
23
trương, chính sách đối với đa dạng hóa sở hữu, CPH DNNN ngày một sát
cuộc sống, mỗi bước CPH là mỗi bước góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất,
đem lại lợi ích chung cho cả Nhà nước, người đầu tư và người lao động. Đại
hội VI của Đảng (12/1986) mới bắt đầu chủ trương chuyển một bộ phận
DNNN sang hình thức sở hữu khác, cho nên suốt nhiệm kỳ Đại hội mới đặt
nhiệm vụ sắp xếp lại DNNN theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của
Hội đồng Bộ trưởng, xác định tiêu thức cần thiết để thành lập một DNNN;
thông qua thực hiện Nghị định 388/HĐBT đã tiến hành kiểm kê, đăng ký lại
DNNN đủ tiêu chuẩn, xử lý những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu
quả… nhằm khắc phục tình trạng phát triển DNNN một cách tràn lan như
trước đây bất chấp quy mô và hiệu quả ra sao.
Đại hội VII của Đảng chủ trương từng bước thành lập công ty cổ phần.
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Khóa VII xác định: “Áp dụng từng bước
vững chắc việc bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại
doanh nghiệp” và “ thí điểm việc bán một phần cổ phần, cổ phiếu của một số
DNNN cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”. Đại hội VIII đã xác
định “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng, không phải để tư nhân
hóa”. Đặc biệt, Đại hội IX đã xác định yêu cầu sắp xếp DNNN, CPH: “Trong
5 năm tới cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới
và nâng cao hiệu quả các DNNN hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh
nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Thực hiện tốt chủ trương
CPH và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không
cần nắm 100% vốn. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN để tạo
động lực phát triển và nâng cao hiệu quả”. Để triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX, Hội nghị TW3 đã bàn chuyên đề về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN trong đó có CPH DNNN, coi đó là nhiệm
24
vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức
tạp, mới mẻ. Đến Hội nghị TW9 (khóa IX) khẳng định quan điểm CPH nhanh
hơn, mở rộng hơn diện CPH sang hầu hết các lĩnh vực, các doanh nghiệp lớn.
Đại hội X xác định: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả
DNNN, trọng tâm là CPH. Đẩy mạnh, mở rộng diện CPH DNNN, kể cả các
Tổng công ty nhà nước….Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân
trong và ngoài nước…, trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối”.
Như vậy, chủ trương về CPH DNNN của Đảng từ khi bắt đầu đổi mới
kinh tế - đặc biệt là từ Đại hội VII đến Đại hội X của Đảng đã có một bước
tiến khá dài xuất phát từ đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của đất nước. Từ thực
hiện các hình thức CPH có mức độ trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi
phối; đến triển khai tích cực và vững chắc việc CPH; thí điểm việc bán cổ
phần cho người nước ngoài; đến Đại hội IX đã phê phán một số quan điểm,
chủ trương chưa rõ, chưa có nhận thức thống nhất và chưa thông suốt ở các
cấp các ngành về CPH DNNN nên Đại hội đã chủ trương: trong 5 năm của
nhiệm kỳ phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu,
đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN hiện có. Tới Hội Nghị TW9 (khóa
IX) và nhất là tại Đại hội X, yêu cầu cụ thể đẩy nhanh tiến độ CPH, mở rộng
diện và CPH cả một số Tổng công ty, doanh nghiệp lớn trong một số ngành
mà trước đây cho là Nhà nước phải nắm giữ bất kể đó là ngành kinh tế then
chốt hay không. Từ CPH bằng vận động tự nguyện đã trở thành kế hoạch cụ
thể có xác định thời gian; từ chỉ CPH các doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ
đến CPH cả những doanh nghiệp lớn, Tổng công ty, cả những doanh nghiệp
đang làm ăn có hiệu quả nhưng không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100%
vốn.
1.2.2. Thể chế hóa chủ trƣơng của Đảng về CPH DNNN
Bắt đầu từ năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới,
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định 143/HĐBT
25
ngày 10/5/1990 về chủ trương nghiên cứu và làm thử về mô hình chuyển xí
nghiệp quốc doanh sang CTCP. Tuy vậy, cho đến năm 1992, cả nước vẫn
chưa triển khai CPH được một đơn vị nào. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là do chủ trương CPH theo Quyết định 143/HĐBT đặt ra
quá nhiều mục tiêu không rõ ràng, dễ gây hiểu lầm đối với doanh nghiệp và
người lao động. Nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội VII, ngày 08/6/1992,
HĐBT đã ra quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp tục triển khai CPH
DNNN bằng việc thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP. Đây được coi
là giai đoạn thí điểm CPH DNNN ở nước ta. Để thực hiện quyết định này,
theo chỉ thị số 84/TTg ngày 04/3/1993, Thủ tướng chính phủ đã chọn 76
doanh nghiệp, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc TW chọn 1 đến 2 doanh nghiệp tiến hành thí điểm CPH. Triển khai
chỉ thị của Thủ tướng, các bộ, ngành, địa phương đã thông báo đến từng
DNNN để các doanh nghiệp tự nguyện đăng ký thí điểm chuyển thành CTCP.
Mặc dù đến cuối 1993 đã có 30 doanh nghiệp đăng ký thực hiện thí điểm
CPH, nhưng vì nhiều lý do, 7 DNNN được Chính phủ chọn để thí điểm CPH
và nhiều doanh nghiệp khác cũng xin rút hoặc không tiếp tục làm thử do
không đủ điều kiện. Trong giai đoạn này chỉ có 5 DNNN chuyển thành
CTCP.
Với kinh nghiệm bước đầu sau 4 năm thí điểm CPH và trước nhu cầu
bức xúc về vốn của DNNN, ngày 07/5/1996, Chính phủ chủ trương mở rộng
CPH bằng việc ban hành Nghị định 28/CP thay thế Quyết định 202/CP với
những quy định rõ ràng, cụ thể, đầy đủ hơn về chuyển một số DNNN sang
công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị định, cả nước đã CPH được
25 DNNN. Nhưng việc triển khai thực hiện Nghị định 28/CP vẫn còn nhiều
vướng mắc, nhiều quy định không còn phù hợp với thực tiễn , đã trở thành rào
cản làm giảm tốc độ CPH (như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp,
ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động sau CPH).
26
Từ Đại hội VIII, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN. Thể chế
hoá quan điểm của Đảng, ngày 29/6/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số
44/1998/NĐ-CP thay thế cho các văn bản trước đó về CPH; cùng với Chỉ thị
20/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp
đổi mới DNNN. Từ Nghị định 28/CP đến Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã có
một bước tiến khá rõ về chính sách CPH như: về hình thức CPH, về xác định
giá trị doanh nghiệp, về chính sách đối với người lao động, về tổ chức thực
hiện. Nhìn chung, Nghị định 44/CP đã tạo ra sự hấp dẫn đối với người lao
động, thủ tục, trình tự CPH khá rõ ràng, có sự phân công trách nhiệm cụ thể,
tạo điều kiện cho các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp dễ dàng triển
khai thực hiện việc CPH DNNN.
Tới Đại hội IX, với chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc DNNN theo
tinh thần Nghị quyết TW3 (Khoá IX), Chính phủ đã ban hành Nghị định số
64/2002/NĐ-CP thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP; ra Quyết định số
58/2002/QĐ-TTg về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số
văn bản khác, từng bước tháo gỡ những vướng mắc về mặt chính sách của các
văn bản pháp luật trước đó, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho thực hiện triển khai
CPH. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP và Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ban
hành tiêu chí phân loại DNNN, quy định về đối tượng CPH và phạm vi CPH
phần lớn là doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp quy mô lớn,
hiệu quả cao đa số thuộc Tổng công ty chưa CPH hoặc thuộc danh mục ngành
nghề chưa CPH. Cá biệt một số DNNN CPH có quy mô tương đối lớn (hơn
20 tỷ đồng) nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối mặc dù không
thuộc ngành, lĩnh vực nhà nước cần chi phối.
Để thực hiện chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN, Chính phủ đã ban
hành Quyết định 155/2004/QĐ-TTg ngày 24/8/2004 quy định tiêu chí, danh
mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập
thuộc Tổng công ty nhà nước, trong đó quy đinh rõ những công ty tiến hành
đa dạng hóa sở hữu theo các hình thức CPH, giao hoặc bán cho tập thể người
27
lao động. Nghị định 187/2004/NĐ-CP ban hành ngày 16/11/2004 về việc
chuyển công ty nhà nước thành CTCP thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP.
Nghị định quy định phải thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị
trường; khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn
với thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Sau Đại hội X, Nghị định
109/2007/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP, đây là một
bước tiến quan trọng về thực hiện cơ chế thị trường trong CPH DNNN.
Có thể nói cho đến nay hệ thống văn bản pháp quy phục vụ cho thực
hiện CPH DNNN đã khá đầy đủ, văn bản pháp lý cao nhất trong đó quy định
các hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp là Luật DNNN mà trước đấy
mới chỉ là Nghị định của Chính phủ có tính pháp lý thấp hơn, các quy định
càng ngày càng cụ thể, chi tiết và phân công trách nhiệm rõ ràng đã rút ngắn
thời gian chuyển đổi rất nhiều so với trước, tạo thuận lợi cho công ty sau CPH
hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
1.2.3. Những kết quả chủ yếu đạt đƣợc về CPH DNNN
Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá tăng lên
CPH các DNNN được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992, tính đến
hết tháng 8 năm 2008, cả nước đã CPH được 3.392 doanh nghiệp và bộ phận
DNNN. Trong đó, doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, giao thông,
xây dựng chiếm 66,15%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành
nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,25%. Phân theo chủ sở hữu, doanh nghiệp
thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 61,7%; thuộc các bộ,
ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Phân theo quy mô
vốn, doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 10 tỷ đồng chiếm 79,9%; trên 10 tỷ
đồng chiếm 20,1% (nếu tính riêng năm 2006 là 55% và 45%). Lạm phát cao
và khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động bất lợi đến nền kinh tế nước ta
và làm chậm tiến độ CPH DNNN trong vài năm gần đây (thể hiện qua bảng
số liệu)
28
Bảng 1: Tình hình CPH DNNN từ năm 1992 đến tháng 8-2008
Số lượng DNNN CPH
Năm 1992-1998 123 253 1999 212 2000 205 2001 164 2002 532 2003 753 2004 693 2005 298 2006 116 2007 43 8-2008 3.392 Tổng số
Nguồn: Báo cáo của Ban Đổi mới doanh nghiệp nhà nước
Nếu tính cả doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được CPH thì đến
ngày 30/6/2008, cả nước có 3786 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đã
được CPH. Tổng số vốn điều lệ khi CPH là 106 nghìn tỷ đồng, trong đó Nhà
nước nắm giữ 50%, người lao động nắm giữ 11%, nhà đầu tư bên ngoài nắm
giữ 39% vốn điều lệ. Quá trình CPH các DNNN đã thu về khoảng 78 nghìn tỷ
đồng cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Còn số lượng DNNN chưa CPH,
tính đến tháng 9-2008, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
với tổng số vốn khoảng 200.000 tỷ đồng. Mục tiêu Chính phủ đề ra là đến
2010 phải CPH xong 1.500 doanh nghiệp và khi đó cả nước chỉ còn 554
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong đó có 26 Tập đoàn và Tổng công ty,
178 doanh nghiệp an ninh quốc phòng, 200 nông, lâm trường, 150 doanh
nghiệp thành viên các Tập đoàn và Tổng công ty nhà nước.
Các doanh nghiệp CPH có quy mô ngày càng lớn hơn và mở rộng hơn
sang các lĩnh vực ngành nghề trước đây Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn
như: điện lực, bưu chính viễn thông, hàng không, hàng hải, dầu khí, tài chính,
bảo hiểm…Năm 2006, hoàn thành việc thí điểm CPH 3 Tổng công ty nhà
nước: xuất nhập khẩu xây dựng; thương mại và xây dựng; điện tử tin học. Thủ
29
tướng đã phê duyệt danh sách 71 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện
CPH giai đoạn 2007-2010, trong đó năm 2007 CPH 20 Tập đoàn, tổng công
ty Nhà nước.
Hình thức CPH phong phú phù hợp với thực tiễn. Chính phủ đã cho
phép triển khai áp dụng các hình thức CPH khác nhau, trong đó phổ biến nhất
là hình thức bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, kết hợp
phát hành thêm cổ phiếu (hình thức này chiếm 69,4%), hình thức bán toàn bộ
vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (chiếm 15,5%), hình thức giữ nguyên
vốn nhà nước phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 15,1%). Nhà nước nắm giữ cổ
phần chi phối chiếm 34% số doanh nghiệp đã CPH – đây là những doanh
nghiệp có số vốn tương đối lớn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và một số
doanh nghiệp chưa bán được hết cổ phần đúng theo phương án duyệt ban đầu.
CPH giúp hình thành và phát triển kinh tế cổ phần, đã tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong
doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp. Bình quân Nhà nước đang nắm
giữ 52%; người lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 21%, và cổ đông ngoài
doanh nghiệp nắm giữ 27% vốn điều lệ. Việc đa dạng hoá hình thức sở hữu
DNNN đã góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp chủ động tiếp cận các nguồn vốn của xã hội phục vụ cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh, tăng cường sự kiểm tra giám sát của xã hội đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
CPH đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng cơ cấu lại DNNN.
Qua CPH đã giảm mạnh những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ và thuộc các
ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, góp phần quan
trọng cơ cấu lại DNNN, để DNNN tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Số lượng DNNN đã giảm từ 12.000 doanh nghiệp
vào năm 1993 xuống còn 5.655 doanh nghiệp (năm 2000), 2.663 doanh
nghiệp (năm 2005) và 2.176 doanh nghiêp (tháng 9 năm 2008).
30
CPH đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất,
kinh doanh, đa dạng hoá sở hữu. Nhờ CPH, vốn nhà nước tại DNNN, tuy
chưa tính giá trị quyền sử dụng đất, nhưng nhìn chung đã được đánh giá lại
khách quan và chính xác hơn; đồng thời đã huy động thêm được 25.600 tỷ
đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, mở
rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Qua CPH nhà nước cũng thu về được khoảng 19.500 tỷ đồng để đầu
tư vào mục tiêu khác. Phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CPH được
bảo toàn và phát triển nhờ hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp CPH ngày càng tăng.
CPH tạo cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam. Phương thức CPH từng bước được đổi mới, sát với thị
trường, gắn CPH với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán để tăng tính
minh bạch, thúc đẩy sự luân chuyển linh hoạt của vốn cổ phần trên thị trường
chứng khoán. Đến nay đã có 193 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán, quy mô thị trường chứng khoán năm 2006 đạt 22,7% GDP, đến tháng
5 năm 2007 đã đạt 32,8% GDP. Năm 2006, chỉ tính riêng việc bán đấu giá cổ
phần của 129 doanh nghiệp đã CPH qua hai trung tâm giao dịch chứng khoán
ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã thu về cho nhà nước và doanh nghiệp trên
18.068 tỷ đồng; 4 tháng đầu năm 2007, việc bán đấu giá cổ phần của 34
doanh nghiệp CPH qua 2 trung tâm giao dịch chứng khoán đã thu về cho nhà
nước và doanh nghiệp trên 16.722 tỷ đồng.
CPH mang lại cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động hơn, có
hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Chuyển sang hình thức CTCP,
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả sản xuất, kinh
doanh. CTCP đã thực hiện tốt các biện pháp tiết kiệm, đẩy mạnh sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm; xây dựng mới các nội quy, quy chế hoạt động; có cơ chế
hạch toán, phân phối rõ ràng; thực hiện tinh giản bộ máy quản lý, hợp lý hoá
31
các bộ phận sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp.
CPH tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai
trò làm chủ trong doanh nghiệp; thông qua CPH, một bộ phận quan trọng
người lao động ở DNNN CPH trở thành cổ đông, là người chủ thực sự phần
vốn góp của mình, có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua điều
lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, biểu quyết
các vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc
thẩm quyền Đại hội đồng cổ đông; góp phần thực hiện chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện để người lao động có cổ phần và tham
gia quản lý doanh nghiệp đã được thể chế hoá tại Điều 11 bộ luật Lao động.
Việc kiểm tra, giám sát của người lao động - cổ đông và xã hội đối với
CTCP, nhất là công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, là biện pháp
có hiệu quả làm cho tài chính của CTCP được minh bạch, công khai, cùng
với những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông sẽ tạo
điều kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách
thực chất hơn.
CPH góp phần đẩy nhanh chương trình cải cách hành chính, tiến tới
xoá bỏ cơ chế hành chính chủ quản. Việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu
phần vốn nhà nước trong các DNNN đã CPH từ các bộ, ngành địa phương về
các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước, Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước đã tách bạch rõ ràng hơn vai trò của nhà nước đối
với các doanh nghiệp trong việc thực hiện quyền chủ sở hữu và quản lý nhà
nước. Đến nay, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước đã tiếp
nhận việc giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 526 doanh nghiệp
CPH từ các bộ, ngành địa phương với tổng số vốn nhà nước là 3.651 tỷ đồng
và đang tiếp tục thực hiện việc chuyển giao này theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.
32
Thông qua CPH góp phần tập trung vốn của Nhà nước (sau CPH) vào
các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước, đã phần nào khắc phục tình trạng vốn Nhà nước
đầu tư từ chỗ dàn trải, phân tán vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sang đầu
tư có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào những lĩnh vực, ngành nghề then chốt
của nền kinh tế.
CPH đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp . Nhìn chung các doanh nghiệp sau CPH hoạt động có hiệu quả hơn.
Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850
doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân
tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân
tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh
có hiệu quả; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao
động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình quân 6,6%; cổ tức bình quân
đạt17,11%.
Tóm lại: CPH DNNN đƣợc thực hiện thận trọng theo đúng quan
điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, đồng thời về cơ bản
đã đạt đƣợc mục tiêu đề ra.
1.2.4. Những tồn tại, hạn chế của quá trình CPH DNNN
Tiến độ CPH chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Tuy đạt được những kết
quả đáng ghi nhận nêu trên nhưng so với yêu cầu và mục tiêu của Nghị quyết
TW3, TW9 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội X của Đảng thì việc sắp xếp, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp mà trọng tâm là CPH DNNN vẫn còn chậm, nhất
là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Việc xác định giá trị tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, sơ
hở; giá trị doanh nghiệp chưa được tính đúng và thống nhất; giá trị thương
hiệu, lợi thế kinh doanh, nguồn nhân lực tại doanh nghiệp chưa được xem xét
đánh giá đầy đủ và nhất là chưa xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để
33
đưa vào giá trị doanh nghiệp khi CPH đã làm thất thoát lớn tài sản của Nhà
nước, làm lợi cho một số người, tạo nên bức xúc cho xã hội.
Các hoạt động bổ trợ cho quá trình CPH doanh nghiệp (kiểm toán, tư
vấn, các định chế tài chính trung gian, thị trường chứng khoán…) chưa được
quan tâm phát triển đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; doanh nghiệp CPH chưa
được thực sự chủ động lựa chọn đơn vị tư vấn, xác định giá trị tài sản, xây
dựng phương án CPH, phương án phát triển doanh nghiệp sau CPH.
Mục tiêu thu hút các nguồn vốn xã hội vào sản xuất, kinh doanh khi
CPH DNNN đạt được còn thấp.
CPH chưa thực hiện tốt mục tiêu tạo sự gắn bó, phát huy tính thần làm
chủ của người lao động trong doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý đối với DNNN sau CPH, nhất là với những doanh
nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 51% cổ phần còn nhiều điều chưa rõ, chưa
phù hợp.
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH còn nhiều bất cập.
Hiện đang có tình trạng chưa phân định rõ và nhận thức đúng về người
đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà
nước tại CTCP.
Sau CPH, ở hầu hết các doanh nghiệp, hoạt động của các tổ chức Đảng
và đoàn thể đều gặp khó khăn - nhất là ở các doanh nghiệp mà nhà nước
không giữ cổ phần chi phối.
1.3. KINH NGHIỆM CPH DNNN CỦA MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á
1.3.1. Hàn Quốc
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, CPH các DNNN ở Hàn Quốc đã
được thực hiện. Đến nay, Hàn Quốc đã CPH được 35 DNNN có quy mô lớn
và hàng trăm DNNN có quy mô vừa và nhỏ. Trong số các DNNN quy mô lớn
có các doanh nghiệp điển hình như: hãng Hàng không quốc gia, công ty gang
thép In Chon, PoHang, Công ty điện lực, Công ty độc quyền sản xuất và tiêu
thụ các sản phẩm thuốc vị sâm nhung, Ngân hàng thương mại Hàn Quốc…
34
Riêng năm 1978, chính phủ Hàn Quốc đã bán 68% cổ phần cho 25 hãng
buôn, thu được 167 triệu USD. CPH cũng được thực hiện thông qua bán cổ
phiếu ở các sở giao dịch chứng khoán, trong đó vừa bán cổ phiếu cho các nhà
đầu tư bình thường, vừa bán cổ phiếu cho công chúng có thu nhập thấp. Ví
dụ: Công ty gang thép Po Hang đã bán lượng cổ phiếu chiếm 4,1% cổ phần
cho công chúng có thu nhập thấp. Quá trình CPH các DNNN ở Hàn Quốc
ngoài những nét chung thì còn có một số những đặc điểm mang tính đặc thù
sau:
Thứ nhất, CPH các DNNN đã tiến hành rất thận trọng. Điều đó được
thể hiện ở cách thức triển khai CPH thông qua tiến hành thí điểm ở một số
doanh nghiệp. Từ thí điểm Hàn Quốc tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm sau
đó mới mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Điều đó còn thể hiện ở tốc độ CPH
khá chậm. Qua 3 đợt CPH: đợt 1 từ 1960-1973, đợt 2 từ 1974-1983 và đợt 3
từ 1984 đến nay số lượng các DNNN quy mô lớn được CPH chỉ có 35 doanh
nghiệp. Tuy nhiên, CPH lại tập trung vào các doanh nghiệp quy mô lớn và giữ
vị trí độc quyền, hoạt động trên phạm vi cả nước.
Thứ hai, mục tiêu CPH không chỉ thu hút vốn, giảm bớt gánh nặng của
ngân sách nhà nước … mà còn nhằm phân phối giá trị tài sản của các DNNN
cho quần chúng có thu nhập thấp và giảm bớt sự mất công bằng xã hội. Để
thực hiện mục tiêu này, Hàn Quốc có những phương thức triển khai bán cổ
phiếu đặc biệt, với việc phân chia cổ phiếu bán ra cho người cần ưu đãi. Cụ
thể: Người lao động hiện đang làm việc trong DNNN và người nghèo được
mua 20% giá trị cổ phiếu bán ra. Cổ phiếu ưu đãi được bán thấp hơn giá trị,
trong đó người nghèo được mua với giá bằng 30% giá trị cổ phiếu bán ra,
người về hưu được mua với giá bằng 75% giá trị cổ phiếu bán ra. Với chính
sách ưu đãi của Chính phủ Hàn Quốc, các vấn đề xã hội của CPH nảy sinh đã
được giải quyết.
35
1.3.2. Singapo
CPH DNNN ở Singapo được bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài 10 năm
thì cơ bản hoàn thành. Việc thực hiện CPH các DNNN ở Singapo khá bài bản
với việc thành lập Uỷ ban CPH khu vực kinh tế nhà nước, xây dựng chương
trình CPH hoàn chỉnh và hệ thống, phù hợp với điều kiện của đất nước.
Singapo cũng tiến hành thí điểm CPH các DNNN đang làm ăn có lãi ở một số
lĩnh vực, sau đó tổng kết, cuối cùng triển khai rộng sang các DNNN ở các
lĩnh vực khác. Mục tiêu CPH các DNNN ở Singapo khá đa dạng, trong đó
mục tiêu cơ bản là hạn chế sự độc quyền của các DNNN ở một số lĩnh vực,
chấm dứt kiểu cạnh tranh không trung thực, cạnh tranh hình thức của các
DNNN. CPH DNNN không để xảy ra thâm hụt ngân sách và vẫn duy trì tích
luỹ ở mức độ cao.
Trên thực tế, sau những bước triển khai có tính vĩ mô, tháng 6/1989
trong số 15 DNNN đăng ký CPH đã có 6 DNNN đăng ký bán 100% vốn cổ
phần của nhà nước. Các hãng còn lại thực hiện bán một phần cổ phần sở hữu
của nhà nước như hãng Hàng không quốc gia Singapo giảm phần vốn của nhà
nước từ 61% xuống còn 56%, công ty vận tải Neptune giảm từ 74% xuống
còn 54%, Ngân hàng Singapo vốn của nhà nước từ 48% còn 44%. Đến năm
1996, chương trình CPH các DNNN đã cơ bản được hoàn thành, sớm hơn dự
kiến 2-3 năm. Kết quả của CPH cũng rất khả quan. Nhờ CPH các DNNN ở
những ngành, lĩnh vực không then chốt, những ngành có khả năng thu lợi
nhuận cao, chính phủ Singapo có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh
vực mang tính chiến lược, những nơi tư nhân không đầu tư vì lợi nhuận thấp.
Vai trò của các DNNN còn lại có điều kiện phát huy tác dụng, các DNNN này
trở thành công cụ kinh tế vĩ mô để cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển nền
kinh tế quốc gia.
1.3.3. Malayxia
Quá trình CPH các DNNN ở Malayxia được bắt đầu từ năm 1983. Lý
do và mục tiêu CPH các DNNN của Malayxia có nhiều điểm giống Việt Nam,
36
chủ yếu do sự mở rộng quá mức khu vực kinh tế nhà nước, gây ra sự mất cân
đối kinh tế vĩ mô làm cho thâm hụt ngân sách lớn.
Việc CPH các DNNN ở Malayxia được chia thành 3 bước: Tiến hành
thương mại hoá doanh nghiệp; Chuyển các DNNN hoạt động theo luật công
ty; Xây dựng các DNNN đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định thành những tập
đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Việc
tiến hành CPH, đặc biệt việc phát hành cổ phiếu cũng có những ưu đãi đối với
các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện
đại, sản xuất theo hướng xuất khẩu. Mức cổ phần tối đa bán cho các nhà đầu
tư nước ngoài là 25%, với mục đích để các nhà đầu tư nước ngoài không gây
ảnh hưởng quá lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Kết quả CPH các DNNN ở Malayxia là khá to lớn. Việc chuyển một
phần các DNNN thành CTCP đã giảm bớt gánh nặng của nhà nước đối với
doanh nghiệp. Đã chuyển 96.000 công nhân thuộc các DNNN sang các công
ty cổ phần, bán cổ phần được 6 tỷ USD, thu hút thêm 35,5 tỷ USD ở 24 công
ty cổ phần từ các DNNN sau CPH. Số tiền nhà nước thu được đã sử dụng cho
các hoạt động khác 2 tỷ USD, chuyển giao 374 công trình cho tư nhân. Số
tiền các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sau CPH
đã giúp các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực cạnh
tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.3.4. Trung Quốc
Trong quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trường, Trung Quốc là một trong các nước sớm nhận thấy những hạn chế
của các DNNN như: hiệu quả kinh tế thấp hơn các loại hình kinh tế khác,
nhiều doanh nghiệp ở tình trạng thua lỗ và tình trạng này có xu hướng ngày
càng tăng; tình trạng thất thoát tài sản nhà nước ngày càng tăng và trở nên
nghiêm trọng; máy móc thiết bị nói riêng, trình độ công nghệ nói chung của
các DNNN rất thấp, lạc hậu rất nhiều so với các nước phát triển; các DNNN
ngoài chức năng kinh tế còn phải đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội. Hệ
37
thống các DNNN quá lớn với khoảng 348.000 doanh nghiệp. Tình trạng trên
dẫn đến gánh nặng nợ nần của các DNNN ngày càng lớn làm ngân sách nhà
nước phải chịu, trong khi đó nguồn ngân sách nhà nước có hạn và cần chi
dùng cho nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội khác. Trung Quốc cũng sớm nhận
thấy con đường thoát khỏi khó khăn do các DNNN mang lại là mở cửa nền
kinh tế, đổi mới hệ thống DNNN, chuyển một bộ phận DNNN thành các công
ty cổ phần qua việc tiến hành CPH các DNNN. Việc tiến hành CPH các
DNNN ở Trung Quốc được tiến hành khá khoa học. Bởi vì, nó được thực hiện
theo một lộ trình tuân thủ các vấn đề mang tính lý thuyết và phù hợp với điều
kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực. Việc triển khai cũng được tiến hành thí
điểm trên phạm vi hẹp sau đó rút kinh nghiệm để các đơn vị ở các cấp, các
ngành nghiên cứu học tập. Cuối cùng, CPH các DNNN mới được triển khai
trên phạm vi rộng. Điều đặc biệt của Trung Quốc so với các nước khi tiến
hành CPH các DNNN là vai trò của nhà nước trong xây dựng kế hoạch, lộ
trình và sử dụng các biện pháp mạnh của quản lý hành chính nên kết quả của
CPH các DNNN đạt được rất cao.
Trong những năm 1991-1995 đã có tới 13.500 doanh nghiệp đã CPH
xong. Việc CPH xong một khối lượng lớn các DNNN đã tạo cho chính phủ
một nguồn thu ngân sách khá lớn. Chỉ tính 700 doanh nghiệp bán cổ phiếu
trên thị trường đã thu được 500 tỷ nhân dân tệ, bằng 7,3% GDP của Trung
Quốc năm 1996. Với 97 công ty bán cổ phiếu loại B ra thị trường trong nước
và 38 công ty bán cổ phiếu ra thị trường nước ngoài đã thu được 13 tỷ USD.
Nhà nước đã sử dụng nguồn vốn quan trọng này vào các dự án cải tạo và đầu
tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế đất nước. Gánh nặng đối với
các DNNN sau khi CPH đã được loại bỏ, tạo thêm được 10.000 việc làm mới
trên thị trường chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ phiếu – một lượng tiền
lớn trong dân cư đã được thu hút vào các hoạt động kinh doanh của các
DNNN khi CPH.
38
CPH đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chuyển đổi quản
lý, chuyển đổi hướng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Sở hữu nhà nước đã chuyển sang các hình thức sở hữu khác,
những lý do để nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp không còn. Công ty cổ phần có điều kiện phát huy vai trò tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, những yêu cầu
tối cần thiết của doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Sau CPH, các doanh nghiệp đã có điều kiện tổ chức lại bộ máy quản lý
theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, năng động. Chỉ riêng Tập đoàn ôtô số 1 sau
CPH năm 1996, đến năm 2007 đã giảm được 12.000 người, 200 đơn vị trong
cơ cấu tổ chức.
Theo cơ chế hoạt động của các CTCP, các DNNN sau khi CPH không
chỉ tuân thủ luật kinh doanh và các chính sách của chính phủ mà còn chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cổ đông mà đại diện là Hội đồng quản trị. Sức ép đó
đòi hỏi doanh nghiệp phải có những đổi mới trong quản lý và hoạt động kinh
doanh. Phải trực tiếp tìm hiểu thị trường, chấp nhận và chủ động trong cạnh
tranh, tự tìm cách tồn tại và phát triển khi không còn sự nâng đỡ của nhà
nước, khi được quyền chủ động. Doanh nghiệp đã năng động hơn, thận trọng
hơn khi đưa ra những quyết định về kinh doanh.
Từ những đổi mới trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sau
CPH đã mạnh lên. CPH đã tạo ra những điều kiện để Trung Quốc thực hiện
chiến lược xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng cạnh tranh với các
tập đoàn kinh tế của nước ngoài. Hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp
sau CPH đã nâng cao vị thế của nhà nước khi nắm cổ phần chi phối trong
doanh nghiệp. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước từng bước được phát huy.
Tuy nhiên để khống chế được các cổ phiếu trong các CTCP, nhà nước phải có
cơ chế kiểm tra, kiểm soát hợp lý… Muốn làm được điều đó, đòi hỏi nhà
nước phải có những chính sách hợp lý, năng lực quản lý của Nhà nước phải
nâng lên.
39
Một số nhận xét về cải cách DNNN ở Trung Quốc theo hướng cổ phần
hóa:
Thứ nhất, Trung Quốc thực hiện cải cách DNNN theo mục tiêu cơ bản
là kiên trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân để
phát triển nền kinh tế thị trường cùng hướng tới CNXH mang mầu sắc Trung
Quốc.
Thứ hai, do DNNN hoạt động trì trệ, kém hiệu quả nên Trung Quốc
tiến hành cải cách rất sớm (1978). Với phương châm “dò đá qua sông”, công
cuộc “xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại” được cải cách từng bước theo
từng giai đoạn: ban đầu là giao quyền tự quản nhiều hơn; thực hiện theo chế
độ hợp đồng; cải biến bộ máy quản lý cho DNNN… Hiện nay, Trung Quốc
đang thực hiện các giải pháp đi sâu vào cải cách DNNN nhằm hoàn thiện chế
dộ doanh nghiệp hiện đại. Trong hàng loạt các giải pháp đang thực hiện, tịa
Hội nghị Trung ương 3 khoá XVI Đảng Cộng Sản Trung Quốc (năm 2004) đã
khẳng định rằng: chế độ cổ phần “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ
công hữu”.
Thứ ba, Trung Quốc xác định mục tiêu của cải cách DNNN là quyền sử
dụng tài sản. Do đó, CPH DNNN ở Trung Quốc là nhằm thu hút vốn từ nhân
dân hay người nước ngoài.
Thứ tư, Trung Quốc tuy xác định chế độ cổ phần “là hình thức thực
hiện chủ yếu của chế độ công hữu”, nhưng cũng coi CPH chỉ là một biện pháp
của việc “xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại”. bên cạnh việc tiến hành
CPH hàng nghìn DNNN, Chính phủ Trung Quốc tập trung chỉ đạo xây dựng
2903 DNNN thành công ty lớn, tập đoàn kinh tế làm nòng cốt hoạt động trên
phạm vi toàn quốc. Đồng thời Chính phủ không ngừng hoàn thiện thể chế
quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Tháng 3-2003, Trung Quốc
đã thành lập ban quản lý giám sát tài sản nhà nước trực thuộc Quốc vụ viện.
Theo đó, khắp các địa phương đều thành lập Uỷ ban quản lý giám sát tài sản
nhà nước tại địa phương.
40
Thứ năm, xuất phát từ nhận thức CPH DNNN là biện pháp giải quyết
quyền sử dụng về tài sản, do đó Trung Quốc cho rằng, công ty cổ phần do
Nhà nước nắm cổ phần chi phối là hình thức hợp lý trong mối quan hệ giữa
Chính phủ và doanh nghiệp, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân. Đó
cũng là hình thức tổ chức có thể đưa các doanh nghiệp nhà nước tham gia
cạnh tranh quốc tế có hiệu quả. Vì vậy, trong quá trình CPH, Trung Quốc quy
định rõ loại DNNN cần CPH. Các doanh nghiệp giữ 100% vốn nhà nước như:
ngành quốc phòng, dầu mỏ, năng lượng, nguyên tử, hàng không, cấp nước,
điện lực, bưu chính, đường sắt, in giấy bạc…. Các doanh nghiệp thực hiện
CPH tuỳ tính chất ngành nghề và mức độ phân bổ sở hữu cổ phần, mà quyết
định tỷ lệ cổ phần của Nhà nước, có thể nắm giữ 25% đến 30% cổ phần của
ngành này.
Thứ sáu, phương pháp CPH là bán một số cổ phần của doanh nghiệp
cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, cả nước ngoài để thành lập
công ty cổ phần hình thành tổ hợp cổ đông đa sở hữu, chấm dứt pháp nhân cũ
là DNNN.
Thứ bảy, đối tượng lựa chọn DNNN thí điểm cổ phần hoá là doanh
nghiệp loại lớn và vừa: Công ty bách hoá Thiên Kiều, Bắc Kinh; các công ty
ngành dệt; các ngành công nghiệp, đường sắt không phải là những doanh
nghiệp quy mô nhỏ.
Thứ tám, việc thực hiện CPH DNNN gắn liền ngay từ đầu với việc phát
triển thị trường chứng khoán, kể cả thị trường chứng khoán ở nước ngoài. Do
đó, việc CPH diễn ra khá sôi động, tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả tương
đối lớn. Số lượng cổ phiếu bán ra cũng đạt mức tương đối khá lớn. Năm 1997,
số công ty phát hành cổ phiếu A (bán cho người Trung Quốc) niêm yết trên
thị trường chứng khoán lên tới 655 công ty, tăng 23,6% so với năm 1996, và
cổ phiếu B (bán cho người nước ngoài) cũng có tới 93 công ty, tăng 9,4% so
với năm trước với số vốn đạt 49,058 tỷ NDT; tổng giá trị thị trường cổ phiếu
A và B là 1666,5 tỷ NDT, tăng 69% so với năm trước.
41
1.3.5. Những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam
Nghiên cứu quá trình CPH các DNNN của một số nước trên thế giới có
thể rút ra những bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng vào quá trình CPH
các DNNN ở nước ta nói chung, Bộ Công thương nói riêng.
Một là, CPH đã được thực hiện phổ biến ở hầu hết các nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Thực chất quá
trình CPH là xử lý mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước với kinh tế ngoài nhà
nước, giảm bớt mức độ sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế theo đặc trưng của nền kinh tế thị trường, giảm
bớt độc quyền, sự bao cấp nặng nề của nhà nước làm cho gánh nặng của nhà
nước với doanh nghiệp về kinh tế giảm xuống, nâng cao vai trò chủ động của
doanh nghiệp. Những biểu hiện tích cực trong chuyển đổi các DNNN sau
CPH - Đó là sự vận động tích cực nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi sự trì trệ,
kém năng động và kém hiệu quả. Vì vậy, đó là sự vận động phù hợp và cần
thiết. Từ tổng kết này, một lần nữa khẳng định chủ trương đổi mới các DNNN
nói chung, CPH chúng nói riêng của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn.
Hai là, Các nước thực hiện CPH với quy mô, tốc độ, phương pháp tiến
hành có khác nhau. Tuy nhiên thực tế cho thấy: những nước có thời gian CPH
ngắn, kết quả CPH tốt là những nước đã xác định thời gian, mục tiêu, cách
thức tiến hành phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước đó.
Thường thì các nước có cách thức tiến hành vững chắc, xây dựng thành
chương trình, chuẩn bị các điều kiện về pháp lý và tổ chức, nghiên cứu lựa
chọn mục tiêu, xây dựng bộ máy chỉ đạo, thực hiện, xác lập các giải pháp tiến
hành, kiểm tra giám sát, điều chỉnh, tiến hành các bước từ thí điểm, tổng kết
đúc rút kinh nghiệm sau đó mới triển khai rộng thì kết quả CPH tốt, các vấn
đề tiêu cực nảy sinh sau CPH ít. Kinh nghiệm triển khai cụ thể, chi tiết, vững
chắc của Singapo là minh chứng về CPH hiệu quả cao.
42
Ba là, muốn CPH thành công cần phải có sự vào cuộc và phối hợp chặt
chẽ giữa chính phủ và các bộ, ban ngành với các DNNN, đối tượng của CPH.
Trong sự phối hợp trên, vai trò của chính phủ và các bộ, ban, ngành trong việc
xây dựng chiến lược, xác định mục tiêu, phương thức tiến hành, xác định các
DNNN cần CPH, xác định tỷ lệ cổ phần của nhà nước sau CPH, phương pháp
tính giá trị doanh nghiệp… là hết sức quan trọng. Để CPH các DNNN đạt
được kết quả tốt các doanh nghiệp phải thông suốt từ giám đốc đến những
người lao động; các nước đều có cơ quan chính phủ đặc trách về CPH. Cơ
quan này được tổ chức thống nhất từ cấp nhà nước đến các bộ, ban ngành và
các doanh nghiệp. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ chương trình CPH
DNNN, đồng thời phải kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, tổng kết, bổ sung và tạo
mọi điều kiện để thực hiện chương trình CPH đã xác lập.
Bốn là, để CPH thành công cần phải xác lập môi trường pháp lý hoàn
chỉnh, xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức
tham gia vào quá trình CPH. Đặc biệt, cần xây dựng pháp luật hoàn chỉnh cho
quá trình CPH diễn ra thuận lợi, hạn chế những tiêu cực phát sinh sau CPH.
Thực tế cho thấy: ở những nước công nghiệp mới, hệ thống pháp luật khá
đồng bộ và hoàn chỉnh, không có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau. Các DNNN không sợ sau khi CPH doanh
nghiệp bị lép vế so với khi chưa CPH… CPH đã diễn ra rất thuận lợi. Các
nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế chuyển đổi là những nước có
hệ thống pháp luật thiếu, chưa đồng bộ, hiệu lực thực thi thấp. Vì vậy, đối với
những nước này, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, xác lập môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định là một trong các điều kiện để CPH thành công, đồng
thời giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh sau khi CPH .
Năm là, để CPH thành công, để thu cho ngân sách một nguồn vốn lớn,
cần phải đầu tư chi phí ban đầu cho quá trình CPH; cần phải có những hỗ trợ
cho người lao động để giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh do CPH và sau
CPH. Rõ ràng, để thực hiện CPH cần có những chi phí cho các hoạt động của
43
các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình CPH. Cần có những khoản chi
phí đào tạo và đào tạo lại người lao động ở các doanh nghiệp CPH; khoản chi
phí để chi trả bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc do không đáp ứng yêu cầu sau
CPH… Tất cả những khoản trên đều thuộc ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm
cho thấy, nước nào khi tiến hành CPH chấp nhận các khoản chi phí trên sẽ tạo
được sự đồng thuận của người lao động và doanh nghiệp, CPH diễn ra thuận
lợi, các vấn đề nảy sinh sau CPH đã từng bước được giải quyết ngay chính
trong quá trình CPH.
Sáu là, để CPH không làm suy yếu tiềm lực kinh tế của nhà nước dẫn
đến suy yếu chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, hầu hết các nước đều
lựa chọn các doanh nghiệp của các ngành, các lĩnh vực không then chốt,
không có tính chất quyết định đến nền kinh tế để CPH. Đặc biệt, các nước đều
sử dụng nguồn vốn thu được sau CPH để đầu tư tăng tiềm lực kinh tế của nhà
nước.
Bảy là, CPH các DNNN đều tạo những tác động tích cực đến nền kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những vấn đề kinh tế xã hội cần phải xử lý (như làm
thất thoát tài sản của nhà nước khi tiến hành CPH, xử lý không công bằng đối
với người lao động…) . Nếu không xử lý kịp thời sẽ giảm những ưu việt do
CPH mang lại.
Qua hệ thống hoá, phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn về CPH các
DNNN cho thấy rằng: CPH các DNNN là một hình thức chuyển hoá DNNN
từ một chủ sở hữu là nhà nước sang các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu
dưới hình thức các CTCP. Thực chất, đó là quá trình bao gồm hàng loạt các
biện pháp về kinh tế, tổ chức cả về vĩ mô và vi mô tác động vào DNNN,
chuyển chúng thành CTCP. CPH DNNN là tất yếu khách quan do các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội chi phối và chịu sự tác động của các nhân tố ảnh
hưởng. Nghiên cứu CPH các DNNN ở một số quốc gia cho thấy việc tổ chức
triển khai CPH bài bản, vững chắc không chỉ tạo những kết quả tích cực trong
CPH mà còn hạn chế những tác động xấu đến doanh nghiệp sau CPH.
44
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
Ở BỘ CÔNG NGHIỆP (NAY THUỘC BỘ CÔNG THƢƠNG)
2.1. SỰ CẦN THIẾT CPH DNNN Ở BỘ CÔNG NGHIỆP
Ngày 21/10/1995, Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã ra Nghị quyết về
việc thành lập Bộ Công nghiệp trên cơ sở hợp nhất 3 Bộ đó là: Bộ Công
nghiệp nặng, Bộ Năng lượng, Bộ công nghiệp nhẹ. Bộ Công nghiệp (nay
thuộc Bộ Công thương) là cơ quan của Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ
chức năng quản lý Nhà nước ngành Công nghiệp trong phạm vi cả nước.
BCN có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn về quản lý nhà
nước quy định tại chương IV, Luật Tổ chức Chính phủ và Nghị định số 15/CP
ngày 02/3/1993 của Chính phủ.
Với gần 13 năm hoạt động với tên gọi Bộ Công nghiệp (từ năm 1995
đến cuối năm 2007) Bộ đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế
của đất nước. Căn cứ Nghị quyết 1/2007/QH12 ngày 31/7/2007 của Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam, kỳ hợp thứ nhất về cơ cấu tổ chức Chính phủ theo
đó Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại được sát nhập với tên gọi mới là Bộ
Công thương.
Bộ Công thương chính thức hoạt động theo Nghị định 187/2007/NĐ-
CP ngày 27/12/2007 của Chính phủ. Bộ Công thương là cơ quan của Chính
phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại bao
gồm các lĩnh vực: Cơ khí, luyện kim, Điện, năng lượng mới, công nghiệp khai
thác mở và chế biến khoáng sản, năng lượng tái tạo, dầu khí, hóa chất, vật liệu
nổ công nghiệp, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm và công
nghiệp chế biến khác, lưu thông hàng hóa trong nước, xuất nhập khẩu, hội
nhập kinh tế - thương mại quốc tế, quản lý cạnh tranh, kiểm soát độc quyền,
áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, quản lý Nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ. Hiện nay, các doanh nghiệp trực thuộc Bộ
45
Công thương gồm 11 Tổng công ty 91, 06 Tổng công ty 90 và các doanh
nghiệp trực thuộc khác.
Sự phát triển của các DNNN thuộc Bộ Công nghiệp (BCN) bắt đầu từ
những xí nghiệp Nhà nước (trước đây gọi là xí nghiệp Quốc doanh) với số
lượng và quy mô nhỏ, những doanh nghiệp này được nhà nước cấp 100% vốn
và hoạt động sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu của nhà nước giao cho. Sản
phẩm do những doanh nghiệp này sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho các đơn vị
trong Bộ, một phần bán ra phạm vi ngoài xã hội theo số lượng, giá cả và địa
chỉ cung ứng theo quy định của Nhà nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, DNNN
thuộc BCN vẫn được quan tâm đặc biệt vì vai trò và sứ mệnh của chúng trong
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Với tư cách là bộ phận nòng cốt của
ngành công nghiệp, DNNN thuộc BCN có vị trí đặc biệt quan trọng trong các
thành phần kinh tế ở BCN nói riêng, nền kinh tế quốc dân nói chung. Vai trò
đó được thể hiện qua những điểm sau:
- DNNN thuộc BCN là động lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp
khác thông qua hiệu quả hoạt động cao trên nền của cộng nghệ sản xuất hiện
đại và hệ thống quản lý tiên tiến.
- DNNN thuộc BCN đã chi phối được sự phát triển trong lĩnh vực kinh
tế có ý nghĩa không chỉ với ngành công nghiệp mà chi phối đến sự phát triển
kinh tế của cả nước.
- DNNN thuộc BCN là một trong những nguồn lực vật chất chủ yếu
của Nhà nước, tạo ra được sự đóng góp to lớn cho ngân sách quốc gia.
- DNNN thuộc BCN góp phần quan trọng trong việc thực hiện các
chính sách xã hội như: giải quyết việc làm, trợ cấp xã hội, đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình của họ…
- DNNN thuộc BCN góp phần quan trọng trong việc cung cấp những
sản phẩm công ích phục vụ cho lợi ích quốc gia, cho an ninh, quốc phòng…
nhằm thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
46
Tính đến đầu năm 2003, tổng số DNNN thuộc BCN còn 345 doanh
nghiệp. Kế hoạch CPH đến hết năm 2005 sẽ là 190 doanh nghiệp (chiếm 55%
DNNN) và sát nhập, giao bán 36 doanh nghiệp (chiếm 11% DNNN). Như
vậy, tính đến cuối năm 2005, số DNNN còn lại thuộc BCN là 119 doanh
nghiệp (chiếm 35%), trong đó có 38 Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước 1
thành viên.
Về quy mô vốn, vốn Nhà nước của các doanh nghiệp thuộc Tổng Công
ty 90, 91 và doanh nghiệp trực thuộc Bộ tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001
(chưa tính Tổng Công ty dầu khí Việt Nam) là 47.841 tỷ đồng, đến ngày
31/12/2004 là 63.386 tỷ đồng (Nếu tính cả 62.386 tỷ đồng của Tổng Công ty
dầu khí Việt Nam thì tổng số vốn của các Tổng Công ty 90, 91 và các doanh
nghiệp thuộc Bộ là 126.184 tỷ đồng).
Vốn bình quân của DNNN tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2001 là
49,6 tỷ đồng/doanh nghiệp và tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004, vốn của
các DNNN đã đạt bình quân lên tới 270 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng gấp 5,4
lần. Điều này thể hiện quy mô của các DNNN được giữ lại là những doanh
nghiệp lớn, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, các chỉ tiêu doanh
thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đều tăng qua các năm. Tuy
nhiên, thế mạnh và vai trò của DNNN thuộc BCN nói riêng cũng như DNNN
nói chung chưa được giữ vững và phát huy. Thực tiễn cho thấy DNNN
thường xuyên bị thua lỗ, sự thua lỗ triền miên của DNNN đã khiến ngân sách
của quốc gia không còn đủ sức bao cấp và duy trì hoạt động của chúng. Báo
cáo kiểm toán 2005 cho thấy, trong số 19 tổng công ty nhà nước được kiểm
toán có tới 4 đơn vị lỗ 124 tỷ đồng trong năm 2004, dồn cả số tiền lỗ từ các
năm trước lại thì con số lên tới hơn 1.000 tỷ đồng. Trong số những doanh
nghiệp có số lỗ lũy kế nhiều có cả các DN lớn thuộc Bộ Công nghiệp như
Tổng công ty Giấy Việt Nam (199 tỷ đồng), Tổng công ty Dệt may Việt Nam
(328 tỷ đồng)… Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
47
- Sự xung đột giữa các mục tiêu đặt ra cho kinh tế nhà nước thuộc
BCN.
- Thiếu sự đầu tư công nghệ tiên tiến cho việc tăng năng suất lao động,
phát triển sản xuất.
- Thiếu cơ chế kích thích, thích hợp đối với người lao động và những
người quản lý doanh nghiệp Nhà nước thuộc BCN.
- Thiếu khả năng cạnh tranh, vì giá cả hàng hoá, dịch vụ của DNNN
thường cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân hay hỗn hợp…
Với những lý do trên thì việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới
DNNN thuộc BCN là một tất yếu khách quan và là nhu cầu cấp thiết.
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ: DNNN
đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế – hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN vẫn
còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được, ảnh hưởng tới
hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. DNNN
thuộc BCN cũng giống như các DNNN nói chung đều rơi vào tình trạng: hiệu
quả kinh tế thấp, thiếu vốn trầm trọng, nợ nần dây dưa, đầu tư còn dàn trải, cơ
chế quản lý cứng nhắc, thiếu tính năng động, tính cạnh tranh thấp, mặt khác
cơ chế “xin”, “cho” đối với DNNN là nguyên nhân chính dẫn đến các hiện
tượng tiêu cực trong sản xuất kinh doanh. Một bộ phận cán bộ quản lý còn
thiếu năng lực chuyên môn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN… Đây là nguyên nhân chính dẫn đến
hiệu quả kinh doanh thấp ở hầu hết các DNNN thuộc BCN. Nếu tính đến năm
2001, trước khi thực hiện nghị quyết TW3 (khoá IX) của Đảng về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, BCN quản lý 7 Tổng
công ty 91, 11 Tổng công ty 90 và một số công ty độc lập, trực thuộc theo
bảng dưới đây:
48
Bảng 2: Danh sách các DNNN trực thuộc Bộ công nghiệp (31/12/2001)
STT
Tên Tổng công ty
Số DN
Số lao động
Tổng vốn Nhà nƣớc (triệu đồng)
Nộp NS bình quân 3 năm (triệu đồng)
I TỔNG CÔNG TY 91 1 TCT Điện lực Việt Nam 2 TCT Than Việt Nam 3 TCT Thép Việt Nam 4 TCT Hoá chất Việt Nam 5 TCT Dệt may Việt Nam 6 TCT Thuốc lá Việt Nam 7 TCT Giấy Việt Nam 34.070.615 1.425.466 1.399.692 1.572.348 1.943.200 956.021 979.062 2.492.259 200.000 265.427 234.958 319.932 1.673.107 97.749 71.402 79.804 17.543 34.202 97.662 10.138 11.948 35 43 13 39 40 13 13
II TỔNG CÔNG TY 90 1 TCT Máy và thiết bị công nghiệp 2 TCT Máy động lực và máy NN 3 TCT Thiết bị kỹ thuật điện 4 TCT Điện tử tin học Việt Nam 5 TCT Rượu-bia-nước giải khátVN 6 TCT Xây dựng công nghiệp VN 7 TCT Nhựa Việt Nam 8 TCT Sành sứ, thuỷ tinh CN 9 TCT Da - giầy Việt Nam 10 TCT Khoáng sản Việt Nam 11 TCT Đá quý và vàng Việt Nam III TRỰC THUỘC BCN 1 Các công ty trực thuộc BCN 2 Cục địa chất và khoáng sản 165.092 730.452 357.228 232.081 1.553.474 333.666 355.391 139.210 178.796 149.763 51.240 1.337.163 3.340 85.705 41.771 34.086 66.495 149.321 92.398 180.972 52.798 15.399 24.713 1.440 426.778 1.370 6.251 6.402 5.156 2.982 5.813 14.291 5.384 4.578 21.426 8.009 782 9.773 162 15 13 09 13 08 13 12 07 11 15 08 08 02
Nguồn số liệu: Báo cáo của Bộ Công nghiệp
Tổng số doanh nghiệp độc lập thuộc các Tổng công ty và trực thuộc Bộ
là 330 doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này được nhà nước đầu tư một
khối lượng vốn khá lớn song hiệu quả kinh doanh lại chưa tương xứng. Với
những lý do trên thì việc CPH DNNN thuộc BCN trong giai đoạn hiện nay là
nhu cầu cấp bách và là yếu tố sống còn trong tiến trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới.
CPH DNNN thuộc BCN để hướng tới đạt được các mục tiêu sau:
49
- CPH nhằm chuyển đổi một phần sở hữu của nhà nước trong doanh
nghiệp cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước. Do đó sẽ thu hút được nguồn vốn dồi dào trong dân cư và nguồn vốn
của công nhân viên chức trong doanh nghiệp để đầu tư, phát triển hệ thống cơ
sở hạ tầng, đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại cho các Tổng công ty 91 như
Tổng công ty điện lực Việt Nam; Tổng công ty than Việt Nam; Tổng công ty
dệt-may Việt Nam; Tổng công ty thép Việt Nam…
- CPH sẽ tăng khả năng cạnh tranh, xoá bỏ độc quyền, bình ổn giá cả
cho một số sản phẩm có tính đặc thù như: sản phẩm điện (TCT Điện lực); sản
phẩm than (TCT Than); sản phẩm thuốc nổ (Công ty hoá chất mỏ)…
- CPH sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển của thị trường chứng
khoán trong nước như: làm tăng thêm đơn vị niêm yết cổ phiếu, tăng sự lựa
chọn cho các nhà đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh….
2.2. TÌNH HÌNH CPH DNNN TẠI BỘ CÔNG NGHIỆP
2.2.1. Tổng quan về tình hình triển khai, đổi mới DNNN thuộc
BCN từ năm 2001
Về CPH DNNN, thực hiện Nghị quyết TW3, Nghị quyết TW9 (khoá
IX) và Chỉ thị số 01/2003/CT-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2003 của thủ tướng
Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN, BCN đã thực hiện các công việc sau:
- Phối hợp với công đoàn công nghiệp Việt Nam tổ chức các lớp tập
huấn ở hai miền Nam - Bắc cho trên 900 cán bộ chủ chốt chính quyền và công
đoàn của các Tổng công ty và Công ty về nội dung Nghị quyết TW3, các
Nghị định của chính phủ về công tác đổi mới sắp xếp DNNN, do Ban chỉ đạo
đổi mới và phát triển doanh nghiệp của TW cùng với cán bộ của Bộ Tài
chính, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
TW thực hiện.
50
- Tổ chức tập huấn về xác định giá trị doanh nghiệp để CPH, về nghiệp
vụ có liên quan và về chính sách với người lao động dôi dư khi sắp xếp lại
DNNN.
- Phổ biến sâu rộng các Nghị định của Chính phủ, như: Nghị định
63/2001/NĐ-CP về chuyển DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị-xã hội
thành Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nhà nước một thành viên; Nghị
định 64/2002/NĐ-CP về chuyển DNNN thành Công ty cổ phần; Nghị định
41/2002/NĐ - CP về chính sách đối với người lao động dôi dư; Nghị định
187/2004/NĐ - CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về chuyển
Công ty Nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định 109/2007/NĐ – CP ngày
26 tháng 6 năm 2007 về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành
công ty cổ phần.
- BCN đã cụ thể hoá các chủ trương, chính sách nói trên vào thực hiện
tại Bộ như sau:
+ Ban cán sự và Bộ trưởng BCN đã ban hành chương trình và kế hoạch
hành động của ngành công nghiệp thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW3, Nghị
quyết Hội nghị TW9 (khoá IX) của Đảng.
+ BCN đã có chỉ thị số 02/2003/CT-BCN ngày 23/01/2003 về tiếp tục
sắp xếp đổi mới, triển khai và nâng cao hiệu quả tổng công ty DNNN thuộc
BCN và chỉ thị số 09/2004/CT-BCN ngày 31/03/2004 về đẩy mạnh sắp xếp ,
đổi mới DNNN theo tinh thần Nghị quyết TW9 (khoá IX).
+ Bộ ban hành 08 văn bản về thực hiện CPH, như: Hướng dẫn quy
trình CPH, hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp để CPH, ban hành quy chế tổ
chức chọn các nhà thầu tham gia xác định giá trị doanh nghiệp, văn bản
hướng dẫn tổ chức bán đấu giá cổ phần, hướng dẫn nội dung xác định giá trị
phần vốn Nhà nước tại thời điểm chuyển sang CTCP, văn bản về chuyển giao
các khoản nợ và tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp.
+ Ban cán sự Đảng bộ khối công nghiệp ban hành văn bản số 124/CV-
BCN ngày 08/01/2004 hướng dẫn việc bố trí cán bộ trong Công ty TNHH 1
51
thành viên và CTCP. Đồng thời BCN cũng ban hành quyết định số 543/QĐ-
TCCB ngày 29/03/2004 ban hành quy chế làm việc của công chức là uỷ viên
Hội đồng quản trị kiêm nhiệm tại các Tổng công ty, DNNN trực thuộc Bộ.
Qua đó, nâng cao trách nhiệm quản lý, bảo toàn và phát triển phần vốn Nhà
nước tại các doanh nghiệp.
+ Bộ đã uỷ quyền cho Hội đồng quản trị Tổng công ty trong việc thành
lập Ban đổi mới và phát triển tại các doanh nghiệp, phê duyệt chi phí CPH,
chi phí đào tạo lại lao động khi sắp xếp lại DNNN từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và
CPH DNNN thuộc các Tổng công ty, uỷ quyền Hội đồng quản trị Tổng công
ty 91 thuộc Bộ thành lập Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp có vốn nhà
nước dưới 5 tỷ đồng. Qua đó đề cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị, đồng
thời tạo điều kiện để các Tổng công ty chủ động hơn khi triển khai thực hiện
công tác đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp tại các Tổng công ty.
+ Bộ ban hành và triển khai văn bản số 937/CV-TCKT ngày 10/4/2003
và số 5119/CV-TCKT ngày 12/11/2003, số 414/CV-TCKT ngày 03/2/2004 về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình tài chính tại các doanh
nghiệp. Qua đó phát hiện 43 doanh nghiệp (năm 2003) đang ở trong tình trạng
sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài, mất vốn, mất khả năng thanh toán… Để
khác phục tình trạng trên BCN đã có chỉ thị số 07/ CV-TCKT ngày 04/3/2004
về việc xây dựng và thực hiện đề án khắc phục hậu quả thua lỗ tại doanh
nghiệp, tạo điều kiện về mặt tài chính giúp thực hiện đổi mới, sắp xếp DNNN
được nhanh chóng.
Như vậy với sự ra đời kịp thời của cơ chế, chính sách theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCH TW Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ
9 BCH TW Đảng (Khóa IX) đã tạo được nền tảng pháp lý cho việc sắp xếp,
đổi mới DNNN của BCN. Tuy nhiên tiến độ ban hành các văn bản còn chậm,
chưa thật đầy đủ và đồng bộ, từ đó mà việc triển khai, sắp xếp đổi mới DNNN
của BCN chủ yếu tập trung từ năm 2003 trở lại đây.
52
2.2.2. Thực tiễn CPH DNNN thuộc Bộ Công nghiệp
2.2.2.1. Xác định giá trị doanh nghiệp CPH
Xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành CPH được BCN coi là khâu
quan trọng quyết định đến tiến trình CPH DNNN tại BCN. Từ năm 1994 đến
cuối năm 2007 BCN đã 2 lần tổng kiểm kê tài sản, xác định lại giá trị tài sản
và vốn của các DNNN. Ngoài ra, hàng năm giá trị tài sản của các DNNN
thuộc Bộ công nghiệp còn được điều chỉnh từng phần theo tốc độ trượt giá
của thị trường. Những kết quả của việc kiểm kê, đánh giá đó chủ yếu được
xác định theo nguyên tắc định giá cũ, thiếu những căn cứ của giá cả thị trường
trong việc xác định giá trị tài sản. Do vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp
CPH không thể căn cứ hoàn toàn vào giá trị kiểm kê tài sản đó được.
Qua kinh nghiệm thực tiễn của một số nước thực hiện CPH thành công,
cho thấy việc xác định giá trị doanh nghiệp là một vấn đề rất khó khăn và
phức tạp. Chính vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng cần phải giải
quyết kịp thời, để góp phần thúc đẩy tiến trình CPH DNNN tại DCN là tìm ra
cách thức và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp sao cho hợp lý, đảm
bảo thuận mua, vừa bán giữa Nhà nước (chủ sở hữu) với người mua cổ phần
(cổ đông).
Căn cứ pháp lý để xác định giá trị doanh nghiệp CPH các DNNN của
BCN là: Nghị định số 55/2003/NĐ-CP ngày 28/5/2003, Nghị định số
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, Thông tư số 39/2004/TT-BTC ngày
11/5/2004, Thông tư số 40/2004/TT-BTC ngày 30/5/2004, Thông tư số
126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004, Nghị quyết số 993/NQ-UBTVQH ngày
08/12/2006. Đặc biệt là theo điều 22 của Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007 thì các doanh nghiệp CPH có tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế
toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn Nhà nước theo sổ sách kế toán từ
10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có khả
năng định giá, như: Công ty kiểm toán, Công ty chứng khoán, Tổ chức thẩm
53
định giá, Ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước có chức năng định giá thực
hiện tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp.
Việc xác định giá trị DNNN thuộc diện CPH thuộc BCN được áp dụng
theo phương pháp tài sản. Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp được
đánh giá theo giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp, đó là toàn bộ giá trị tài sản thể hiện trên
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp theo sổ kế toán được xác định bằng cách: lấy toàn bộ giá trị tài sản
theo sổ kế toán của doanh nghiệp trừ các khoản nợ phải trả, số dư quỹ khen
thưởng, phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp có tính đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị thực
tế của doanh nghiệp được loại trừ giá trị tài sản thuê, mượn, nhận góp liên
doanh liên kết, giá trị tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý, các khoản
nợ phải thu không có khả năng thu hồi, các khoản đầu tư dài hạn vào các
doanh nghiệp khác, tài sản thuộc công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn
quỹ khen thưởng, phúc lợi…
Việc xác định giá trị doanh nghiệp của các DN CPH thuộc BCN đã
thực hiện đúng theo quy định của Nhà nước. Qua khảo sát thực tế tại BCN,
tính từ năm 1994 đến cuối 2007 thì tổng số doanh nghiệp được xác định giá
trị là 395 doanh nghiệp thực hiện CPH. Trong đó có 126 DN thực hiện xác
định giá trị doanh nghiệp qua tổ chức tài chính định giá. Tổng giá trị doanh
nghiệp xác định là 45.096.134 triệu đồng, so với sổ sách tăng 13,24% với
mức tăng tuyệt đối là 5.284.479 triệu đồng, chiếm 17,74% tổng số tài sản của
các doanh nghiệp thuộc BCN. Tổng giá trị thực tế vốn Nhà nước là
14.496.084 triệu đồng, tăng 47,85% với mức tăng tuyệt đối là 4.691.185 triệu
đồng, chiếm 12,65% tổng số vốn nhà nước của các doanh nghiệp thuộc BCN.
Tổng giá trị tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp là 1.054.084 triệu
đồng (chiếm 10,76% giá trị vốn Nhà nước theo sổ sách), có 85 doanh nghiệp
xử lý nợ phải thu khó đòi là 67,339 triệu đồng. Xử lý số lỗ lũy kế cho 67
54
doanh nghiệp với số lỗ là 736.487 triệu đồng (chiếm 5,57% giá trị vốn Nhà
nước theo sổ sách).
Trong số các doanh nghiệp đã xác định giá trị thì có 204 doanh nghiệp
có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng, 70 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 10 tỷ
đến 30 tỷ đồng, 12 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 30 tỷ đến 50 tỷ đồng, 98
doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 50 tỷ đồng. Trong 395 doanh nghiệp
được xác định giá có 28 doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh với giá trị lên tới
240.137 triệu đồng. 60 doanh nghiệp có liên doanh và đầu tư dài hạn, khác
với tổng mức là 915.976 triệu đồng (chiếm 6,32% giá trị vốn Nhà nước sau
khi xác định lại). Trên cơ sở xác định giá trị doanh nghiệp, BCN đã chỉ đạo và
triển khai công tác bán cổ phần. Việc bán cổ phần được thực hiện công khai
và theo đúng chế độ quy định. Những doanh nghiệp có mức bán ra ngoài trên
10 tỷ đồng, đã thực hiện bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán. Trên cơ sở
giá đấu bình quân thành công để thực hiện bán cổ phần ưu đãi cho người lao
động trong doanh nghiệp và cho nhà đầu tư chiến lược theo đúng đối tượng,
số lượng và có bản cam kết của họ.
Trong 395 doanh nghiệp thực hiện CPH (tính đến hết 2007) có tổng
vốn điều lệ 15.166.016 triệu đồng. Trong đó phát hành thêm là 1.430.896
triệu đồng. Tổng giá trị cổ phần Nhà nước nắm giữ là 8.826.621,31 triệu đồng
(chiếm 58,2% tổng vốn điều lệ). Tổng số người lao động trong doanh nghiệp
CPH tham gia mua cổ phần là 175.988 người, được mua cổ phần ưu đãi với
giá trị cổ phần theo mệnh giá là 1.538.746 triệu đồng (chiếm 10,14% tổng số
vốn điều lệ). Mặt khác, để giải quyết chế độ cho số lao động dôi dư tại thời
điểm CPH (do doanh nghiệp không thể bố trí công việc cho số lao động này)
với tổng số tiền chi là 597.716 triệu đồng (được tính trừ vào phần vốn Nhà
nước tại thời điểm CPH). Theo phương án được duyệt thì số tiền thu được từ
bán phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là 4.801.432 triệu đồng.
Để đảm bảo tỷ lệ cổ phần Nhà nước và cổ phần ưu đãi cho người lao
động, Nhà nước bổ sung thêm vốn cho các doanh nghiệp cổ phần là 692.149
55
triệu đồng. Đồng thời một số doanh nghiệp trả lại phần vốn do Nhà nước nắm
giữ (giảm tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước) là 374.551 triệu đồng.
2.2.2.2. Xử lý tình hình tài chính trƣớc khi CPH
Xử lý tài chính trước khi CPH DNNN thuộc Bộ công nghiệp là một
khâu khá quan trọng, giúp cho việc xác định chính xác giá trị doanh nghiệp
CPH.
Đối với những tài sản các doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp liên
doanh, liên kết và các tài sản khác không thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, các doanh nghiệp thoả thuận với bên chủ tài sản thanh lý hợp đồng
thuê mượn và trả lại cho chủ sở hữu tài sản tại thời điểm trước khi CPH là
115.021 triệu đồng, số còn lại 5.210 triệu đồng giá trị tài sản, các doanh
nghiệp thoả thuận với chủ tài sản để Công ty cổ phần kế thừa.
Đối với các khoản nợ phải thu: số nợ phải thu chủ yếu phát sinh có liên
quan đến các doanh nghiệp cùng trong BCN, một số khoản phải thu ở các đơn
vị khác ngoài BCN. Trong tổng số nợ phải thu của các DNNN đủ điều kiện
CPH tính đến thời điểm trước khi CPH là 310.250 triệu đồng. Trong đó, nợ
phải thu khó đòi (có đủ hồ sơ chứng minh khoản nợ phải thu không có khả
năng thu hồi) là 67.339 triệu đồng không được tính vào giá trị doanh nghiệp
CPH.
Các khoản lỗ không có nguồn bù đắp của 67 doanh nghiệp được duyệt
phương án CPH là 736.487 triệu đồng (chiếm 5,15% giá trị vốn của nhà nước
theo sổ sách) được Bộ cho phép không được tính vào giá trị doanh nghiệp
CPH.
Đối với khoản nợ phải trả: Số tiền nợ phải trả của các DNNN thuộc
BCN được phê duyệt phương án CPH tính đến thời điểm trước khi CPH với
số tiền là 872.150 triệu đồng. Trong đó, số nợ phải trả không có nguồn bù đắp
(không có khả năng thanh toán) được Bộ cho phép không tính vào giá trị
doanh nghiệp CPH là 250.176 triệu đồng.
56
Đối với các khoản dự phòng, như: Dự phòng nợ phải thu khó đòi; dự
phòng giảm giá hàng tồn kho; quỹ dự phòng tài chính sau khi dùng để bù đắp
các khoản tài sản tổn thất như: nợ không thu hồi được, các khoản lỗ trong
kinh doanh, số còn lại được tính vào giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp CPH là 125.250 triệu đồng.
Đối với các khoản đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác, gồm có
đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết dài hạn, góp vốn vào thành lập công ty
TNHH Nhà nước một thành viên, được các Công ty cổ phần hoá kế thừa với
tổng số tiền là 915.976 triệu đồng.
Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi tính đến thời điểm
trước khi CPH của các doanh nghiệp được phê duyệt phương án CPH với
tổng số tiền 60.510 triệu đồng, được BCN giải quyết chia cho người lao động
đang làm việc ở doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp theo
số năm công tác tại doanh nghiệp CPH
Như vậy khi tổng hợp kết quả xử lý tài chính của các doanh nghiệp
CPH thì tổng giá trị tài sản không được tính vào giá trị doanh nghiệp CPH
tính đến hết năm 2007 của các doanh nghiệp CPH thuộc BCN là 1.054.902
triệu đồng.
Việc xử lý tài chính của các DNNN thuộc BCN khi đã thực hiện các
biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trước khi CPH được tổng kết số liệu
theo bảng sau:
Bảng 3: Tình hình xử lý tài chính ở một số Tổng công ty thuộc Bộ Công
nghiệp
57
TT Tên DN
Khác (Tr.đ)
Khác (Tr.đ)
Tài sản không cần dùng (Tr.đ) Tài sản chờ thanh lý (Tr.đ) Xóa nợ ngân hàng (Tr.đ) Chi phí CPH (Tr.đ)
Công nợ khó đòi đã xử lý (Tr.đ) Các khoản giảm trừ vốn nhà nước Lỗ giảm vốn (Tr.đ)
Chi phí thực hiện giao vốn (Tr.đ)
Ưu đãi cho người lao động (Tr.đ) 3.403,8 - - I TCT thiết bị Điện 8.946,6 34,7 - 3.344,0 - 918,2 -
Việt Nam
II TCT Rượu – Bia - 18.378,0 13.946,0 377,0 50.183 0,08 1.823,0 - 11.158 51.651 674
NGK HN
III TCT Xây dựng công 10.804,0 4.160,0 13.294,0 - 3.965 2.917,0 36.654,0 1.950 - -
nghiệp VN
IV TCT Rượu – Bia - 9.972,0 7.404,0 - 2.971 8.801 - - - - -
NGK SG
V TCT Máy động lực 8.968,6 82.035,13 32,60 120,61 1519,71 - 2088,2 4987,25 - -
và máy NN
VI TCT Máy và thiết bị 9.374,0 374,0 3490,0 - - 2466,0 - 8.610 - -
công nghiệp
Tổng cộng 66.433,2 157.953 17193,6 53527,0 120,69 13662,91 - 16163,2 114107,05 2624,0
Nguồn: Báo cáo tình hình sắp xếp đổi mới DNNN của Bộ Công nghiệp đến ngày 11/9/2007
58
2.2.2.3. Về quyết toán CPH tại BCN
Tính đến hết năm 2007 đã quyết toán CPH là 326 doanh nghiệp. tổng
số vốn Nhà nước tại thời điểm quyết toán tăng 18% so với thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp là 551.008 triệu đồng (trong đó có 21 doanh nghiệp giảm
vốn Nhà nước với tổng mức là: 23.573 triệu đồng), số tiền này không có đơn
vị nào xin tăng vốn Nhà nước mà nộp về quỹ hỗ trợ sắp xếp tổ chức CPH
Nhìn chung việc bán cổ phần lần đầu và cổ phần tiếp theo cho người
lao động trong doanh nghiệp (giảm 40% so với giá bình quân); cho nhà đầu tư
chiến lược (giảm 20% so với giá bình quân) và bán ra bên ngoài (theo giá đấu
bình quân) được Bộ triển khai nhanh chóng, dứt điểm và thực hiện khá
nghiêm túc theo tinh thần của Nghị định 187/2004/NĐ-CP và gần đây là Nghị
định 109/2007/NĐ-CP, các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính và tuân thủ
theo quy định chung, nghĩa là: Tất cả các doanh nghiệp có số vốn bán ra lớn
hơn 2 tỷ đồng đều được tổ chức bán thông qua các Công ty tài chính trung
gian (Công ty chứng khoán); Các doanh nghiệp có số vốn bán ra nhỏ hơn 2 tỷ
đồng hoặc ở các vùng sâu, vùng xa hẻo lánh, Bộ giao cho công ty chủ trì tổ
chức hội đồng bán đấu giá. Các hội đồng bán đấu giá này đều được Bộ quyết
định thành lập theo đúng quy định của Nhà nước.
2.2.2.4. Quản lý và sử dụng tiền bán cổ phần
Toàn bộ số tiền thu được từ CPH DNNN thuộc BCN (bao gồm tiền thu
từ bán phần vốn Nhà nước và tiền chênh lệch tăng do bán đấu giá cổ phần
phát hành thêm tại các doanh nghiệp CPH) sau khi trừ đi chi phí CPH được
BCN sử dụng vào các mục đích sau:
- Giải quyết cho số lao động dôi dư tại thời điểm CPH (do doanh
nghiệp không thể bố trí công việc cho số lao động này) với tổng số tiền chi ra
là 16.005 triệu đồng.
- Hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp CPH do bán cổ phần ưu đãi cho
người lao động và các nhà đầu tư chiến lược với số tiền là 50.125 triệu đồng.
- Chuyển trả về quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Bộ tài chính để đầu
tư cho các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, nhưng thiếu
59
vốn, công ty cổ phần Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, nhưng vốn Nhà
nước có tại doanh nghiệp CPH không đủ đảm bảo số cổ phần của Nhà nước
với số tiền là 374.551 triệu đồng.
2.2.2.5. Chính sách đối với ngƣời lao động trong DNNN CPH
Các DN CPH thuộc BCN và người lao động làm việc trong các DN
CPH được hưởng các ưu đãi sau:
- Các ưu đãi về mua cổ phiếu dành cho người lao động: BCN cho phép
những người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp
tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp CPH được mua tối đa 100 cổ phần
cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực Nhà nước, với giá ưu đãi bằng 60%
giá đấu thành công bình quân của từng nhà đầu tư. Tính đến hết năm 2007,
tổng số tiền thu được do bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh
nghiệp CPH của các công ty cổ phần tại BCN là 1.790.222.400 triệu đồng
(trong đó số người tham gia mua cổ phần là 210.120 người; số năm công tác
bình quân là 14,2 năm; mệnh giá của một cổ phần là 10.000 đồng; tỷ lệ giảm
giá là 40%; số cổ phần bán bình quân cho 1 năm công tác là 100 cổ phần).
- Về chính sách tiền lương, tiền thưởng: Sau khi DNNN chuyển sang
công ty cổ phần, trong lúc hợp đồng chưa được ký kết giữa doanh nghiệp và
người lao động trong doanh nghiệp thì chế độ tiền lương, tiền thưởng vẫn
được thực hiện theo hiện hành, để đảm bảo duy trì thu nhập cho cán bộ công
nhân viên tối thiểu bằng mức lương tại thời điểm trước khi CPH.
- Về chế độ bảo hiểm xã hội: tiếp tục thực hiện chế độ BHXH đối với
người lao động theo quy định tại điều lệ BHXH Việt Nam ban hành theo Nghị
định 12/CP, Thông tư số 13/2005/TT-LĐTBXH.
- Sau khi công ty Nhà nước chuyển thành CTCP, nếu có nhu cầu tổ
chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ, dẫn đến người lao động ở
công ty Nhà nước chuyển sang CTCP bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường
hợp người lao động tự nguyện thôi việc thì được giải quyết như sau:
+ Trong 12 tháng kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại công ty thuộc đối
60
tượng hưởng chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN theo
quy định số 41/2002/NĐ-CP thì được hỗ trợ từ quỹ hỗ trợ lao động dôi dư.
Các đối tượng lao động mất việc, thôi việc còn lại thì được hưởng trợ cấp mất
việc, thôi việc theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và được hỗ trợ
tiền thu của Nhà nước do CPH công ty Nhà nước quy định tại điều 45 Nghị
định 109/2007/NĐ-CP.
+ Trường hợp người lao động bị mất việc, thôi việc trong 4 năm tiếp
theo thì công ty cổ phần có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp
theo quy định của Bộ Luật Lao động, số còn lại được thanh toán từ tiền thu
của Nhà nước do CPH công ty Nhà nước quy định tại điều 45 Nghị định
109/2007/NĐ-CP. Hết thời hạn trên, công ty cổ phần chịu trách nhiệm thanh
toán toàn bộ tiền trợ cấp cho người lao động. Tính đến cuối năm 2007, BCN
đã giải quyết theo chế độ cho 18.486 lao động dôi dư của các doanh nghiệp
CPH. Tổng số tiền chi ra từ quỹ hỗ trợ, sắp xếp doanh nghiệp cho lao động
dôi dư tại các DNNN CPH thuộc BCN là 597.716 triệu đồng.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CPH DNNN THUỘC BCN
2.3.1. Kết quả
Công tác CPH DNNN thuộc BCN được Bộ xác định là nhiệm vụ quan
trọng để đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước và
được Bộ triển khai từ năm 1994. Tuy nhiên, những năm đầu khi tiến hành
CPH (từ 1994 đến 2002), số lượng DNNN thuộc BCN tham gia CPH còn rất
ít và tiến độ triển khai còn chậm chạp không đúng theo dự kiến, cụ thể BCN
chỉ chuyển được 45 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp sang công ty cổ
phần với tổng giá trị phần vốn Nhà nước là 264,5 tỷ đồng.
Đặc biệt từ sau khi có Nghị quyết TW3, TW9 (khoá IX), nghị quyết
Đại hội X của Đảng, công tác CPH DNNN đã được Bộ xác định là một trong
những nhiệm vụ hàng đầu cần tập trung chỉ đạo để thực hiện kế hoạch mà
Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ trong giai đoạn từ 2003-2005 là phải
CPH 285 đơn vị (trong đó có 195 doanh nghiệp độc lập và 90 bộ phận doanh
nghiệp).
61
Trong vòng 3 năm từ 2003-2005 BCN đã thực hiện CPH được 281 đơn
vị (trong đó 192 doanh nghiệp độc lập và 89 bộ phận doanh nghiệp), đạt
98,5% so với kế hoạch được giao, cụ thể:
- Năm 2003, CPH được 90 đơn vị (trong đó có 54 doanh nghiệp độc lập
và 36 bộ phận doanh nghiệp) vượt 75% kế hoạch cả năm.
- Năm 2004, CPH được 91 đơn vị (trong đó có 56 doanh nghiệp độc lập
và 35 bộ phận doanh nghiệp) vượt 75% kế hoạch cả năm.
- Năm 2005 CPH được 100 đơn vị (trong đó có 82 doanh nghiệp độc
lập và 18 bộ phận doanh nghiệp) vượt 86% kế hoạch cả năm.
- Năm 2006 CPH được 55 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp.
- Năm 2007: CPH được 3 Tổng công ty; 2 công ty nhà nước độc lập
trực thuộc BCN và 9 công ty thành viên của Tổng công ty.
Nếu tính từ đầu năm 2006 đến hết tháng 12/2007 BCN đã chuyển được
69 đơn vị sang CTCP. Năm 2006 đã thực hiện CPH thí điểm Tổng công ty
Điện tử và Tin học Việt nam theo quyết định số 06/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Tổng số vốn của Nhà nước tại các đơn vị đã CPH (từ tháng
1/2006 đến tháng 12/2007) là 5.007,6 tỷ đồng, tổng số vốn điều lệ là 5.371 tỷ
đồng, trong đó phát hành thêm cổ phiếu với trị giá là 294 tỷ đồng, tổng giá trị
cổ phần Nhà nước nắm giữ là 59,42% vốn điều lệ, người lao động trong
doanh nghiệp CPH tham gia mua cổ phần chiếm 21,9% tổng vốn điều lệ, cổ
phần bán ra bên ngoài doanh nghiệp là 18,68% vốn điều lệ.
Các DNNN sau khi CPH đã hoạt động năng động hơn, tài chính doanh
nghiệp được lành mạnh hơn và lao động dôi dư của các doanh nghiệp đã được
sắp xếp, xử lý. Vì vậy các doanh nghiệp hoạt động ổn định và phát triển. Qua
khảo sát của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp ở 136 DNNN đã CPH
trên một năm cho thấy: Các hoạt động đều có hiệu quả hơn so với trước khi
CPH. Cụ thể:
Về vốn điều lệ: Nhiều doanh nghiệp sau khi CPH đã bổ sung tăng vốn
điều lệ từ lợi nhuận sản xuất kinh doanh hoặc phát hành thêm cổ phiếu, điển
hình là các đơn vị sau: CTCP May Bình Minh thuộc Tập đoàn Dệt may Việt
62
Nam vốn điều lệ tăng từ 18 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng; Công ty Giầy Đồng Nai
thuộc Tổng công ty Giầy Việt Nam vốn điều lệ tăng từ 23 tỷ đồng lên 43 tỷ
đồng; CTCP Đá mài thuộc Tổng công ty Máy và thiết bị công nghiệp vốn
điều lệ tăng từ 7,49 tỷ đồng lên 10,4 tỷ đồng; CTCP Cát Lợi thuộc tổng công
ty Thuốc lá Việt Nam vốn điều lệ tăng từ 50 tỷ đồng lên 80 tỷ đồng.
Về doanh thu: Có 76% doanh nghiệp sau khi CPH doanh thu tăng hơn
trước khi CPH, điển hình là các đơn vị sau: CTCP sản xuất và kinh doanh vật
tư thiết bị điện của Công ty Than nội địa thuộc Tập đoàn công nghiệp Than-
Khoáng sản Việt Nam doanh thu tăng từ 133 tỷ đồng lên 270 tỷ đồng; CTCP
may Đồng Nai thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam doanh thu tăng từ 99 tỷ
đồng lên 266 tỷ đồng, CTCP bê tông ly tâm Thủ Đức thuộc Tổng công ty xây
dựng công nghiệp Việt Nam doanh thu tăng từ 55 tỷ đồng lên 84 tỷ đồng…
Về nộp ngân sách: Có 65% doanh nghiệp nộp ngân sách cao hơn trước
khi CPH, điển hình là các đơn vị sau: CTCP đầu tư thương mại dịch vụ than
thuộc Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam, nộp ngân sách tăng
từ 31 tỷ đồng lên 58 tỷ đồng, CTCP May Việt Thịnh thuộc Tập đoàn Dệt May
Việt Nam nộp ngân sách tăng từ 1,2 tỷ đồng lên 6,2 tỷ đồng, CTCP xây dựng
công nghiệp nhẹ số 2 thuộc Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam
nộp ngân sách tăng từ 1,6 tỷ đồng lên 4,2 tỷ đồng.
Về lợi nhuận: Có 80% doanh nghiệp hoạt động có lãi so với trước khi
CPH, điển hình là các đơn vị sau: CTCP Điện tử Biên Hòa thuộc Tổng công
ty Điện tử và Tin học Việt Nam, trước khi CPH lãi 1,5 tỷ đồng, sau một năm
lãi 15 tỷ đồng; tương ứng ở CTCP đại lý tàu biển thuộc Tập đoàn công nghiệp
Than-Khoáng sản Việt Nam trước khi CPH lãi 1,2 tỷ đồng, 5,3 tỷ đồng; ở
CTCP phân lân Ninh Bình thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam, trước khi
CPH là 6,2 tỷ đồng, 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, còn một số ít công ty được CPH
(chiếm 6%) vẫn còn bị lỗ: điển hình là CTCP Giấy Vạn Điểm thuộc Tổng
công ty Giấy Việt Nam lỗ 14,9 tỷ đồng, CTCP Dệt Đông Nam thuộc Tập
đoàn Dệt-May Việt Nam lỗ 8 tỷ đồng…
63
Về cổ tức: Do sản xuất kinh doanh có hiệu quả nên nhiều CTCP có cổ
tức cao. Trong đó có khoảng 71% CTCP có cổ tức đạt trên 10%/năm, điển
hình là các đơn vị sau: CTCP Than Tây Nam thuộc Tập đoàn công nghiệp
Than-Khoáng sản Việt Nam, cổ tức đạt 25%/năm; CTCP bê tông ly tâm Thủ
Đức thuộc Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam, cổ tức đạt
25%/năm; CTCP bê tông ly tâm An Giang thuộc Tổng công ty xây dựng công
nghiệp Việt Nam, cổ tức đạt 22%/năm.
Về lao động: Có 45% số doanh nghiệp có lao động tăng hơn trước khi
CPH, nhất là các doanh nghiệp Dệt-May, điển hình là CTCP may Hồ Gươm
tăng 1.900 lao động, CTCP may Việt Hưng tăng 1000 lao động, CTCP may
10 tăng 2000 lao động…
Về kết quả kinh doanh nói chung của các DNNN của BCN (nay thuộc
BCT): Kết quả công tác CPH của BCN đã góp phần quan trọng để ngành
Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá và ổn định trong mấy năm qua, cụ thể:
Năm 2001 tăng 14,8%, năm 2002 tăng 15%, năm 2003 tăng 16,1%, năm 2004
tăng 16%, năm 2005 tăng 16,8%, năm 2006 tăng 16,8%, năm 2007 tăng 17%,
các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận sau thuế, nộp ngân sách đều tăng, riêng số
lao động thì giảm xuống. Có thể thấy được kết quả kinh doanh nói chung của
các DNNN thuộc BCN sau CPH qua số liệu kết quả thực hiện CPH ở một số
Tổng công ty của Bộ này
64
STT
Tên công ty cổ phần
Vốn điều
Doanh thu
Nộp ngân sách
Lợi nhuận
Số lao động
Thu nhập bình
Vốn
Cổ
Nhà
lệ
sau thuế
quân người
tức
nước
01/01/2007
bình
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
khi
(Tr.đ)
quân
2006
trước
trước
2006
trước
2006
trước
2006
trước
2006
CPH
năm
CPH
(Tr.đ)
CPH
(Tr.đ)
CPH
(Tr.đ)
CPH
(Tr.đ)
CPH
(Tr.đ)
(Tr.đ)
2006
(Tr.đ)
(Tr.đ)
(Tr.đ)
(Tr.đ)
(Tr.đ)
(Tr.đ)
I
TCT Thiết bị Điện VN
29.926
57.964
193.531
231.291
4.590
5.650
6.443
10.314
1.164
1.115
1.646
1.785
10,34
II
TCT Rượu-bia-NGK HN
137.685
200.625
575.522
831.173 221.747 294.182
33.465
76.871
1.979
1.797
2.278
3..344
18,94
III
TCT Rượu-bia-NGK SG
183.000
376.000
599.178
944.493 189.217 219.242
40.226
93.339
1.981
1.642
2.471
3.354
10,20
IV
TCT Xây dựng CN VN
174.449
256.036
222.382
2598.197
45.534
52.598
21.104
44.231 10.418
9.066
1.295
1.990
11,17
V
TCT Động lực và Máy NN
56.148
91.142
944.053
1197.819
4.573
28.202
2.083
6.121
1.643
1.449
1.154
1.645
6,17
VI
TC Động lực Máy và TBCN
70.747
71.468
308.035
364.586
14.927
18.982
6.945
17.473
2.614
2.005
1.470
1.758
10,62
Tổng cộng
651.955
1.053.235
4.742.701
6.167.559 480.588 618.856 110.266 248.349 19.799 17.074
1.543
2.193
11,8
Bảng 4: Kết quả thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở một số Tổng công ty thuộc Bộ Công thương
Nguồn số liệu: Báo cáo tình hình sắp xếp, đổi mới DNNN của Bộ Công nghiệp ngày 11/09/2007
65
Tóm lại, công tác CPH DNNN của BCN trong những năm qua nhìn
chung là thuận lợi. Bộ luôn luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước để quán triệt, hướng dẫn và phối hợp cùng các doanh nghiệp giải
quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình cổ phần hoá. Kết quả sản xuất
kinh doanh của đơn vị đã chuyển sang công ty cổ phần đã chứng minh được
sự đúng đắn, hiệu quả của giải pháp này. Sau CPH, giá trị phần vốn Nhà nước
được xác định tăng lên, các nguồn lực khác của doanh nghiệp, như: diện tích
đất, máy móc thiết bị, nguồn tài nguyên được khai thác sử dụng hiệu quả hơn.
Nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, lao động, công nợ dây dưa…do lịch sử để lại
đã được giải quyết. Từ đó có thể khẳng định: CPH là xu thế phát triển doanh
nghiệp, phù hợp với hội nhập khu vực và quốc tế; mô hình công ty cổ phần
tạo cho doanh nghiệp năng động hơn trong đầu tư phát triển, dễ dàng phát
hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp; người lao động làm chủ doanh nghiệp thực sự hơn, tài chính
doanh nghiệp được minh bạch hơn nên người lao động phấn khởi, yên tâm,
tạo động lực cho phát triển doanh nghiệp; trách nhiệm cán bộ quản lý cao
hơn, năng động hơn; các chế độ mua cổ phần ưu đãi đã động viên người lao
động hăng hái mua cổ phần.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Sự phân tích ở trên cho thấy CPH DNNN thuộc BCN là giải pháp quan
trọng để tăng quy mô vốn, phát huy quyền tự chủ của các chủ sở hữu vốn
trong doanh nghiệp, tăng hiệu quả kinh doanh, xoá bỏ độc quyền, tăng khả
năng cạnh tranh và cải thiện rõ rệt đời sống người lao động trong doanh
nghiệp, từ đó làm tăng tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng
cũng như toàn bộ xã hội nói chung. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cổ phần
hoá diễn ra còn chậm và nhiều vướng mắc. Dưới đây là một số vướng mắc
khó khăn chủ yếu:
* Về cơ chế, chính sách CPH
66
- Về xác định giá trị doanh nghiệp: Thực tế một số doanh nghiệp khi
xác định giá trị doanh nghiệp để CPH, do bị vướng mắc về tài chính như công
nợ dây dưa không giải quyết dứt điểm được, lỗ cộng dồn quá lớn, không đủ
điều kiện để giải thể, phá sản doanh nghiệp theo luật định. Một số doanh
nghiệp di chuyển mặt bằng sản xuất ra ngoài thành phố, vướng mắc về đối tác
liên doanh với nước ngoài nên việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH gặp rất
nhiều khó khăn, cản trở. Việc xác định giá trị lợi thế của doanh nghiệp dựa
trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế/giá trị vốn Nhà nước trước khi CPH và
lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ là chưa hợp lý. Vì lợi nhuận của
doanh nghiệp tạo ra không phải chỉ có bộ phận vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp mà là toàn bộ vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, nên tính
như vậy là không chính xác, từ đó dẫn đến việc xác định giá trị doanh nghiệp
cũng không chính xác.
Như vậy, việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần phải được
làm rõ, nhằm xác định giá trị thực tế phần vốn có khả năng sinh lời của Nhà
nước tại doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc huy động vốn (kêu gọi góp vốn)
trong việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu nhà nước tại các DNNN CPH. Đây
không phải là bán đứt DNNN, phạm trù này khác với việc CPH DNNN, nên
nhìn nhận rằng: Việc xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu là phục vụ cho
việc CPH và cũng chỉ là một công đoạn trong toàn bộ quy trình chuyển đổi, là
toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH, có khả
năng sinh lời. Giá trị doanh nghiệp được xác định không phải chỉ dựa vào giá
trị của các phương tiện sản xuất, nhà cửa, nguyên vật liệu, mà điều quan trọng
hơn lại chính là khả năng sử dụng các phương tiện thiết bị, phục vụ sản xuất
kinh doanh và tạo lợi nhuận.
Vấn đề đặt ra là phải tính toán đúng đắn, có tính đến yếu tố quản lý mới
sau CPH, không để gây thiệt hại đến phần vốn hiện có của Nhà nước tại
doanh nghiệp, nhưng đến nay vẫn chưa được Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể.
Bộ Tài chính chưa hướng dẫn phương pháp xác định giá trị thương quyền và
giá trị lợi thế về đất. Các doanh nghiệp CPH được giao mặt bằng nhà, xưởng
67
ở những vị trí thuận lợi, sau CPH cho thuê lại để kiếm lời, không đúng với
mục tiêu sản xuất kinh doanh mà Nhà nước không có cơ sở để quản lý được.
Việc định giá xây dựng nhà xưởng, kho bãi thực hiện theo khung giá đã lạc
hậu, nhưng chậm được sửa đổi. Việc giao tài sản cố định để CPH còn nhiều
quan điểm khác nhau (giao toàn bộ, hay xem xét chỉ giao một phần), tính
hoặc không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Nếu tính
giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thì hiện tại chưa có hướng
dẫn của Chính phủ và chưa có bảng giá chuẩn theo giá thị trường để áp giá
cho doanh nghiệp.
- Chính sách CPH DNNN chưa bao quát đầy đủ tính đa dạng, phức tạp
và phù hợp với thực trạng DNNN tại Bộ Công nghiệp trước đây.
+ Những doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao, nhiều người mua cổ
phần thì triển khai dễ dàng, còn những doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh
thấp, hoặc trước mắt chưa có hiệu quả thì rất khó bán cổ phần. Những doanh
nghiệp trong diện sắp xếp để thực hiện phương án CPH thường là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiết bị, công nghệ chưa được đầu tư đổi mới, sức
cạnh tranh còn yếu. Do đó, CPH không hấp dẫn với người mua cổ phần. Vì
vậy doanh nghiệp không thể thu hút được vốn để đầu tư máy móc thiết bị, đổi
mới dây chuyền công nghệ và đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến làm
chậm tiến trình CPH DNNN có quy mô nhỏ, vốn ít.
+ Việc nắm giữ cổ phần chi phối của Nhà nước: Theo Chỉ thị số
01/2003/CT-TTg, ngày 16/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ, những doanh
nghiệp có số vốn trên 5 tỷ đồng đang sản xuất kinh doanh có lãi thì CPH lần
đầu Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối 51%. Như vậy số lượng cổ phần chi
phối nhà nước nắm giữ quá nhiều. Trong số hơn 345 đơn vị đã CPH tính đến
hết năm 2007, thì có 185 doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối,
chiếm 53% số doanh nghiệp đã CPH. Vì vậy, số cổ phần còn lại không đủ để
bán ưu đãi cho người lao động, cho nhà đầu tư chiến lược và không còn cổ
phần để bán ra ngoài. Đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng CPH
khép kín trong nội bộ doanh nghiệp.
68
+ Với những DNNN có quy mô nhỏ thì hình thức CPH chủ yếu là bán
phần vốn hiện có tại doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành thì 30% số cổ
phần còn lại sau phần để lại cho Nhà nước và bán giá ưu đãi cho CBCNV, sẽ
được đưa ra bán đấu giá cho đối tượng ngoài doanh nghiệp là quá ít, chưa huy
động được nguồn vốn dồi dào đầu tư từ xã hội, hạn chế khả năng của các nhà
đầu tư tiềm năng trong và ngoài nước. Mặt khác số doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu ra công chúng và niêm yết ra thị trường vẫn còn quá ít.
+ Việc xử lý công nợ phải thu, phải trả, nhất là nợ phải thu khó đòi: một
số doanh nghiệp Nhà nước CPH tại Bộ Công nghiệp gặp khó khăn khi đối
chiếu hồ sơ, chứng từ gốc, thất lạc do qua nhiều đời giám đốc và kế toán
trưởng (đặc biệt đối tượng nợ là các doanh nghiệp ở nước ngoài và các doanh
nghiệp đã giải thể).
+ Về chế độ ưu đãi cho người lao động trong DNNN tại BCN khi CPH,
có ý kiến cho rằng, chưa đủ độ khuyến khích để người lao động quan tâm và
hưởng ứng. Ngoài ra, còn phải tính đến khả năng tài chính để mua cổ phần
của người lao động trong các doanh nghiệp CPH. Chế độ ưu đãi cho người
lao động trong các DNNN khi CPH còn cào bằng giữa các doanh nghiệp
CPH, chưa có chế độ hỗ trợ cho vay mua cổ phần đối với người lao động
trong DNNN có khó khăn.
* Cơ chế, chính sách với các doanh nghiệp sau CPH
- Một số cơ chế, chính sách sau CPH chưa động viên được doanh
nghiệp, sau CPH như: vay vốn ngân hàng khó hơn vì phải thế chấp, không
còn tín chấp như DNNN, chính sách đền bù khi di chuyển mặt bằng ra ngoài
thành phố, không được ưu đãi như DNNN. Do vậy, đã làm ảnh hưởng đến
tính tích cực của DNNN thực hiện CPH.
- Do chưa có hướng dẫn rõ, quyền, nghĩa vụ của công ty, chế độ, chính
sách gắn với vấn đề bảo hiểm xã hội;... nên các doanh nghiệp thuộc BCN sau
CPH vẫn phải vận dụng các quy định như đối với DNNN để hoạt động như:
Định mức duyệt quỹ lương, chế độ nâng bậc lương, thi lên bậc thợ... Nhận
thức về công ty cổ phần chưa đúng và đầy đủ, các cổ đông, hoặc không sử
69
dụng hết quyền của mình, hoặc sử dụng quá vai trò, quyền hạn của cổ đông,
cho nên đưa ra những đòi hỏi vượt quá thẩm quyền.
- Vấn đề quan hệ quản lý nhà nước với doanh nghiệp sau CPH:
Có nhiều doanh nghiệp sau CPH tại Bộ Công nghiệp chưa được tổ chức
hoạt động theo đúng quy định của pháp luật và điều lệ công ty cổ phần, không
xác định rõ mối quan hệ giữa các cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám đốc,
nên vẫn điều hành theo kiểu DNNN (hầu hết sử dụng ban lãnh đạo cũ để điều
hành công ty cổ phần). Chưa xác định rõ cơ quan quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp CPH. Vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ cơ quan nào là đầu mối
tổng hợp, giải quyết những vướng mắc, chịu trách nhiệm tuyên truyền, cung
cấp thông tin, phổ biến chính sách để doanh nghiệp tổ chức hoạt động kinh
doanh theo đúng pháp luật, chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát doanh nghiệp
trong việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm quản lý kinh doanh phần vốn
Nhà nước trong các DNNN CPH.
- Vấn đề cổ phần và quản lý cổ phần của Nhà nước: Đối với cổ phần
Nhà nước cần xem xét để xử lý các vấn đề tồn tại sau:
+ Cơ quan nào của Nhà nước có thẩm quyền quyết định bán bớt hoặc
tăng vốn cổ phần Nhà nước, kể cả việc dùng cổ tức được chia để tái đầu tư
tăng cổ phần Nhà nước, hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn rõ ràng, dẫn đến sự
chậm trễ trong các quyết định của công ty.
+ Vấn đề tăng vốn và điều chỉnh cơ cấu vốn, khi công ty cổ phần muốn
tăng vốn điều lệ, nhưng cổ đông nhà nước không muốn, nhất là trường hợp cổ
phần của Nhà nước là cổ phần chi phối. Không giải quyết được vấn đề này sẽ
hạn chế sự thu hút thêm vốn cho sự phát triển của công ty.
+ Cần xác định rõ người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực
tiếp quản lý cổ phần nhà nước tại công ty cổ phần, thẩm quyền trách nhiệm
của họ, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm. Đây là nội dung chưa được hướng dẫn
trước khi có Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 06/12/2000 của Chính phủ và
kể cả sau khi có Nghị định. Do thiếu sâu sát, nên đã cử người đại diện không
đủ thẩm quyền, dẫn đến quyết định của hội đồng quản trị công ty chậm, triển
70
khai quyết định chậm, lỡ thời cơ kinh doanh, hoặc không thể hiện được vai
trò, trách nhiệm (kể cả quyền lợi) của người kiêm nhiệm chức trách quản lý
các công ty cổ phần (nhất là cổ phần chi phối) của Nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp sau CPH thuộc BCN còn phải tiếp tục giải
quyết những tồn đọng của quá trình CPH như:
+ Chưa xử lý dứt điểm nợ tồn đọng (nợ khó đòi) trước khi CPH nên
doanh nghiệp sau khi CPH tiếp tục gặp khó khăn trong đòi nợ, trả lãi đối với
khoản nợ khó đòi này. Mặc dù Chính phủ đã có những cơ chế tạo điều kiện
cho phép các DNNN xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng, cũng chỉ giới
hạn ở các khoản nợ đã xác định được là không có khả năng thu hồi (con nợ đã
bị giải thể, phá sản, bị chết, đang thi hành án hoặc đang bỏ trốn trong khi
người thân có quan hệ thừa kế không có khả năng thanh toán nợ). Những
khoản nợ tồn đọng nhiều năm do cơ chế cũ để lại cũng khó có khả năng thu
hồi, con nợ còn tồn tại thì doanh nghiệp sau khi chuyển đổi vẫn phải kế thừa
và không xử lý được. Đây chính là gánh nặng của doanh nghiệp sau CPH.
+ Một số công ty sau CPH vẫn tiếp tục giữ hộ Nhà nước số tài sản
không cần dùng nhưng chưa được giải quyết dứt điểm, điều đó dẫn đến việc
quản lý tài sản không rõ ràng giữa tài sản của doanh nghiệp với tài sản giữ hộ
Nhà nước và doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục khai thác số tài sản giữ hộ.
+ Thủ tục chuyển quyền sử dụng đất trong doanh nghiệp nhìn chung là
khó khăn, phức tạp và kéo dài. Do không tính giá trị sử dụng đất vào giá trị
doanh nghiệp khi CPH (nhất là các doanh nghiệp ở thành phố lớn, có vị trí địa
lý tốt) nên đã có sự chênh lệch giá trị cổ phần rất lớn, từ chính giá trị quyền sử
dụng đất.
2.3.2.2. Nguyên nhân
- Việc nhận thức về nội dung, ý nghĩa của CPH DNNN và mô hình
công ty cổ phần của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước chưa đúng, chưa đồng
bộ; các Nghị định, thông tư của chính phủ đưa ra chưa kịp thời và thiếu sự
hướng dẫn cụ thể, nên việc triển khai thực hiện CPH DNNN của BCN còn
chậm và chưa thật hiệu quả. Sự phối hợp giữa Bộ Công nghiệp với các Bộ,
71
ngành có liên quan trong chỉ đạo và xử lý các vướng mắc trong CPH DNNN
còn thiếu sự đồng bộ, chưa kịp thời.
- Công tác tuyên truyền, hướng dẫn về chủ trương, chính sách CPH
DNNN chưa thực sự kịp thời, thường xuyên và sâu rộng. Trong nhiều DNNN,
cán bộ lãnh đạo sợ mất quyền lợi và địa vị, người lao động sợ giảm thu nhập
và mất việc làm khi chuyển thành công ty cổ phần.
- Chưa có sự phát triển đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường
như: thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị
trường bất động sản, các tổ chức tài chính trung gian chưa làm tốt vai trò môi
giới để thu hút các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần và tham gia quản trị
DNNN sau CPH.
- Sự đổi mới cơ chế, chính sách quản lý từ DNNN sang công ty cổ phần
chưa đồng bộ và theo kịp với nhu cầu quản lý kinh doanh của doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường, do chưa được rút kinh nghiệm tổng kết, triển khai áp
dụng thực tiễn hoặc chưa được ban hành đầy đủ như mô hình công ty Nhà
nước. Các công cụ khuyến khích, quản lý kinh tế trong các công ty cổ phần
chưa được đẩy mạnh như: cơ chế lương, thưởng đối với cán bộ chủ chốt, đối
với cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề…
- Nhà nước còn can thiệp quá nhiều vào công tác quản lý hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp CPH (nhất là những công ty cổ phần Nhà
nước nắm giữ cổ phần chi phối), từ đó mà hạn chế đến tính chủ động, sáng
tạo của doanh nghiệp.
Sự phân tích thực trạng CPH DNNN ở Bộ Công nghiệp (nay thuộc Bộ
công thương) cho thấy quá trình CPH DNNN ở đây đã đạt được những thành
tựu rất cơ bản, song còn nhiều hạn chế, vướng mắc cả trong triển khai thực
hiện cũng như sau CPH cần được khắc phục, tháo gỡ.
72
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở BỘ CÔNG THƢƠNG
3.1. BỐI CẢNH MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CPH DNNN Ở VIỆT NAM
Hiện nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới. Tham gia vào sân chơi toàn cầu cũng có nghĩa là Việt
Nam phải tuân thủ “luật chơi” chung. Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu
và rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta có những cơ hội cần
được tận dụng và phát huy để thúc đẩy quá trình CPH DNNN:
Sự mở cửa và cởi mở, thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư
trong và ngoài nước. Việt Nam hiện đang được đánh giá là một trong số
không nhiều nước ở Châu Á có môi trường tốt cho thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Sự đánh giá này trong những năm qua được thể hiện bằng lượng vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam ngày càng gia tăng, hiện đang tạo ra
khoảng 16% GDP của đất nước. Sự mở cửa và cởi mở, thông thoáng trong
chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước được đánh giá là yếu tố hàng
đầu tạo nên môi trường đầu tư tốt này. Luật Đầu tư được ban hành năm 2006
đã xoá bỏ hàng rào và phân biệt đối xử, ngăn cách giữa đầu tư trong nước và
đầu tư ngoài nước. Trong giới đầu tư nước ngoài hiện Việt Nam đang được
khẳng định là “điểm đến của đầu tư”. Tâm lý và sự quan tâm lớn này đang là
cơ hội tốt cho đẩy mạnh CPH DNNN ở nước ta.
Sự quan tâm lớn tạo nên nhu cầu lớn của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước trong tham gia đầu tư ở nhiều lĩnh vực sản xuất và kinh doanh ở
nước ta. Cùng với sự cởi mở và thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư 73
trong và ngoài nước thì một nền kinh tế với sức vươn lên mạnh mẽ của các
ngành, các lĩnh vực đầu tư ở tất cả các địa phương, vùng miền của đất nước
đang tạo nên nhu cầu của chính bản thân các ngành, các lĩnh vực cần phát
triển này đối với đầu tư. Nhu cầu nội tại này cùng với nhu cầu tìm kiếm cơ
hội đầu tư của các nhà đầu tư cũng đang tạo nên cơ hội tốt cho sự gặp gỡ cung
và cầu cho các hoạt động đầu tư phát triển. Đáng chú ý là cơ hội này đang
được tăng cường bởi một số yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư và
chuyển dịch đầu tư sang thị trường Việt Nam. Một số yếu tố quan trọng trong
quyết định đầu tư như dung lượng thị trường và tiềm năng thị trường (sức
mua) lớn và tiềm tàng, giá nhân công rẻ, bối cảnh chính trị tốt… đang làm cơ
hội thu hút vốn đầu tư phát triển.
Bên cạnh những điều kiện khách quan hết sức thuận lợi trên thì Đảng
và Chính phủ cũng đang hết sức nỗ lực cải thiện môi trường thể chế. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện mà nội dung
chủ yếu là: hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức kinh doanh, làm cho chế độ cổ
phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế; hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị
trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường; hoàn thiện thể chế gắn kết
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển và bảo vệ môi trường. Các văn bản luật, các chế tài, quy định
từng bước được hoàn thiện theo sự phát triển của cơ chế thị trường. Đó là cơ
hội tốt để có thể tạo môi trường thông thoáng thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước, đối xử bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế, tôn trong sự
hoạt động khách quan của cơ chế thị trường. Tất cả những yếu tố trên đã và
đang hỗ trợ tính cực cho quá trình CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đó thì cũng đặt ra những khó
khăn thách thức trong những năm tới đối với nền kinh tế nước ta nói chung và
đối với quá trình CPH DNNN nói riêng, đó là:
74
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ với đa phần là các doanh nghiệp quy mô
vừa và nhỏ; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém; Sự yếu kém về năng lực
quản lý nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng; Một sân chơi
cần thiết cho công ty cổ phần là thị trường chứng khoán cón rất non trẻ và sơ
khai, chứa đựng nhiều rủi ro; Sự thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao, đáp
ứng yêu cầu quốc tế; Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, nhất là ở khu vực
DNNN, gây khó khăn, cản trở quá trình CPH DNNN.
Hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang có ảnh
hưởng trực tiếp tới thị trường tài chính và vì vậy tác động tiêu cực đến quá
trình CPH DNNN ở Việt Nam, cụ thể: luồng vốn đầu tư vào Việt Nam có khả
năng giảm, thị trường chứng khoán sẽ khó có thể sôi động trở lại trong thời
gian ngắn vì các nhà đầu tư đang gặp khó khăn về tài chính, việc huy động
vốn trong và ngoài nước của cả Chính phủ và doanh nghiệp, trong đó có
doanh nghiệp niêm yết sẽ gặp khó khăn hơn.
Về tổng thể, các yếu tố trên sẽ là thách thức trong việc huy động, khơi
thông các nguồn lực tài chính cho đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất
khẩu trong thời gian tới, đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình đẩy
mạnh CPH DNNN ở nước ta hiện nay.
3.2. ĐỊNH HƢỚNG ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CPH DNNN
3.2.1. Định hƣớng và nhiệm vụ cổ phần hoá DNNN của Việt nam
3.2.1.1. Định hƣớng
Nhận thức về sự cần thiết và hiệu quả sắp xếp, đổi mới DNNN đạt
được thời gian qua là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới
DNNN trong thời gian tới, trên phương diện CPH và giải quyết các vấn đề
sau CPH các DNNN cần tập trung vào các hướng sau:
Hoàn thành kế hoạch sắp xếp đổi mới DNNN theo hướng hình thành
loại hình công ty Nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các CTCP, thúc đẩy việc
hình thành một số tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt
động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có những ngành chính, nhiều chủ sở
hữu, trong đó nhà nước giữ vai trò chi phối; đẩy mạnh và mở rộng diện CPH;
thực hiện cơ chế nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp thông quan công ty 75
đầu tư tài chính nhà nước, thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh
doanh, xoá bỏ đặc quyền kinh doanh của DNNN.
Thực hiện đẩy mạnh và mở rộng diện CPH DNNN, với nhiều chủ sở
hữu tham gia, tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, làm cho
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ngày càng tăng lên và được sử dụng có hiệu
quả, tạo tiền đề huy động vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Kiên
quyết thực hiện phương thức thị trường trong CPH DNNN. Nhà nước giữ cổ
phần chi phối ở những ngành, những lĩnh vực bảo đảm điều tiết vĩ mô và cân
đối lớn của nền kinh tế, chỉ giữ 100% vốn ở các doanh nghiệp hoạt động đảm
bảo an ninh, quốc phòng và sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà
chưa CPH được.
Chuyển toàn bộ Tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình
công ty mẹ-công ty con. Tổ chức lại Hội đồng quản trị để thực sự là đại diện
của chủ sở hữu trực tiếp tại tập đoàn, tổng công ty. Tiếp tục thực hiện thí
điểm cơ chế Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê giám đốc giỏi điều hành
doanh nghiệp.
Tăng cường năng lực của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước để thực hiện tốt vai trò quản lý và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp. Hoàn thành việc chuyển giao quyền đại
diện chủ sở hữu vốn Nhà nước từ các Bộ, ngành, địa phương về Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước; thực hiện việc thu hẹp và tiến tới xoá bỏ
chức năng đại diện chủ sở hữu của các Bộ, UBND các Tỉnh, Thành phố đối
với doanh nghiệp có vốn nhà nước hoạt động kinh doanh. Tổng công ty Đầu
tư và kinh doanh vốn Nhà nước tiếp tục thực hiện việc cơ cấu lại vốn Nhà
nước, tiến tới chỉ đầu tư vốn vào những Tập đoàn, Tổng công ty và doanh
nghiệp quy mô lớn, vào các lĩnh vực Nhà nước cần đầu tư.
3.2.1.2. Nhiệm vụ
Đến tháng 6 năm 2009, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh
nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh
76
và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường
quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng
công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc
các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Để chỉ đạo tiếp tục thực hiện công tác sắp xếp, đổi mới và CPH DNNN,
nhiệm vụ đặt ra cho giai đoạn từ 2007 đến 2015 là:
- Giai đoạn 2007 – 2010: thực hiện kế hoạch của Chính phủ, cần CPH
khoảng 1.400 doanh nghiệp, trong đó sẽ chỉ đạo chặt chẽ việc CPH Tập đoàn
Dệt-May Việt Nam, 06 Tổng công ty 91 và 64 Tổng công ty 90. Với lộ trình
trên, đến cuối năm 2010 cả nước sẽ còn khoảng 404 doanh nghiệp 100% vốn
Nhà nước, trong đó có 23 tập đoàn, tổng công ty lớn, 181 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch
vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường. Có khoảng 150 doanh nghiệp thành viên
do các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ. Với cơ cấu
này, Nhà nước vẫn chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và đảm bảo
cân đối lớn của nền kinh tế vĩ mô; các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có thêm cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế, tham gia vào sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích;
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Giai đoạn 2010 – 2015: Tiếp tục CPH các Tập đoàn,Tổng công ty
Nhà nước; chỉ giữ lại 5 đến 7 tập đoàn quan trọng nhất đối với nền kinh tế
quốc dân. Hoàn thành việc sắp xếp các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh,
công ích theo ngành; các nông, lâm trường theo hướng sử dụng có hiệu quả
đất đai theo quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt. Tập trung nguồn lực cho
phát triển các tập đoàn, tổng công ty mà nhà nước giữ trên 50% vốn điều lệ
hoạt động trong những ngành, lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản
xuất và dịch vụ quan trọng và một số lĩnh vực công ích.
3.2.2. Định hƣớng CPH DNNN thuộc Bộ Công thƣơng
77
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 3, Nghị quyết
Hội nghị BCH TW lần thứ 9 (Khóa IX) của Đảng, các Nghị định của Chính
phủ và Chỉ thị, quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Phương hướng và nhiệm
vụ chủ yếu của công tác đổi mới, sắp xếp Tổng công ty và doanh nghiệp của
BCT như sau:
- Xây dựng các đề án thành lập Tập đoàn kinh tế và chuyển sang hoạt
động theo mô hình công ty mẹ-công ty con, tích cực xây dựng lộ trình CPH
các doanh nghiệp thành viên thay vì chuyển sang công ty TNHH Nhà nước
một thành viên.
- Các Tập đoàn, các tổng công ty rà soát và có lộ trình cụ thể các doanh
nghiệp đã là công ty TNHH một thành viên nay chuyển sang thực hiện CPH.
- Các Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, Dệt-May Việt Nam và
Tổng công ty Điện lực Việt Nam đã có quyết định của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tiến độ CPH và sắp xếp doanh nghiệp từ năm 2006, tiếp tục triển
khai và thực hiện theo lộ trình.
- Khảo sát tình hình phát triển sản xuất kinh doanh, những tồn đọng,
vướng mắc của các doanh nghiệp sau CPH để tổng hợp, đề xuất với nhà nước
có các cơ chế chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này
phát triển ổn định, vững chắc.
Về CPH các DNNN trực thuộc BCT, tiến hành theo hướng sau:
- Các tập đoàn và tổng công ty đã chuyển đổi và hoạt động theo mô hình
Công ty mẹ - con, thực hiện CPH các công ty con hiện Nhà nước còn nắm giữ
100% vốn và sau đó tiến hành CPH công ty mẹ - Tổng công ty.
- Đối với các Tổng công ty chưa chuyển đổi theo mô hình Công ty mẹ -
công ty con, tuỳ theo tình hình cụ thể của các đơn vị để chuyển đổi phù hợp,
có thể theo hướng là chuyển đổi tổng công ty sang hoạt động theo mô hình
công ty mẹ - con, thực hiện CPH các công ty con 100% vốn Nhà nước và sau
đó tiến hành CPH công ty mẹ - Tổng công ty hoặc thực hiện CPH toàn bộ
tổng công ty mà không nhất thiết phải chuyển thành công ty mẹ - con.
Về lộ trình CPH DNNN từ năm 2008 - 2010 được dự kiến như sau:
78
- Năm 2008: tiếp tục CPH 04 Tổng công ty, 06 đơn vị thành viên của
Tổng công ty, 11 công ty khai thác than hầm lò, 06 công ty cơ khí và phụ trợ,
thí điểm CPH trường Cao đẳng nghề Hồng Cẩm, 01 trường đào tạo của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam, CPH các công ty phân phối điện và nhà máy điện có
quy mô trung bình và vừa, CPH công ty phân bón Bình Điền và công ty gang
thép Thái Nguyên.
- Năm 2009 - 2010: Dự kiến CPH 04 công ty mẹ - Tổng công ty, 02 nhà
máy nhiệt điện, 03 công ty TNHH một thành viên và công ty Dầu thực vật,
hương liệu mỹ phẩm Việt Nam. Đồng thời chuyển viện nghiên cứu cơ khí
thành Công ty cổ phần.
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH CPH DNNN THUỘC
BỘ CÔNG THƢƠNG
3.3.1. Nhóm giải pháp tạo lập điều kiện cần thiết cho CPH các
DNNN
3.3.1.1. Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNNN
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để CDNNN thực sự hoạt động trong môi
trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc
quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của DNNN. DNNN có quyền tài sản,
thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật. Gắn
trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng
tốt yêu cầu quản lý công ty theo chế độ hiện đại.
Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Đây là yêu cầu chung
của phát triển kinh tế đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với các DNNN thuộc Bộ Công
thương trong đó có các doanh nghiệp của Bộ Công nghiệp trước đây, xây
dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là xây dựng chiến lược đầu tư các trang thiết bị
và các điều kiện vật chất tiên tiến cho các hoạt động của các doanh nghiệp là
tăng thêm khả năng, tiềm lực cho sản xuất kinh doanh.
79
Điều đó, một mặt tạo cho các DNNN thuộc BCT làm tốt chức năng
nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, sẽ tạo cho doanh
nghiệp khả năng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư với tư cách là các cổ đông
tương lai của các DNNN trong khi tiến hành CPH. Khó khăn lớn nhất đối với
Bộ khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và hạ tầng là vốn. Bởi vì, nhu cầu đầu
tư rất lớn, nhưng khả năng thu hồi vốn đầu tư trực tiếp để tái đầu tư xây dựng
mới hầu như không có. Để giải quyết vấn đề vốn, một mặt cần đa dạng hoá
huy động các nguồn vốn, mặt khác phải sử dụng nguồn vốn đầu tư một cách
đầy đủ và có hiệu quả.
3.3.1.2. Phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trƣờng, các loại thị
trƣờng
- Để các DNNN trước và sau khi CPH có những cơ chế và điều kiện
hoạt động theo kinh tế thị trường cần phải có những giải pháp mang tầm vĩ
mô nhằm phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trường. Đó là:
+ Nhà nước cũng như Bộ Công thương cần hoàn thiện các công cụ
quản lý vĩ mô. Công tác quy hoạch, kế hoạch phải gắn liền với cơ chế thị
trường. Mọi phương án về sản xuất kinh doanh phải đặt trong mối quan hệ so
sánh về chất lượng, giá cả trong nước với nước ngoài, trước hết là trong khu
vực.
+ Đổi mới về quản lý giá cả, cụ thể là Bộ nên khuyến khích các doanh
nghiệp sản xuất hạ giá thành, nâng cao chất lượng để kích thích nhu cầu tiêu
dùng của xã hội, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tất cả những vấn
đề trên sẽ tác động tích cực tới quá trình CPH các DNNN thuộc BCT.
+ Bên cạnh đó, cần đưa ra các biện pháp xử lý hiện tượng độc quyền,
thúc đẩy cạnh tranh tự do, tránh sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Cần đẩy nhanh quá trình phát triển thị trường dịch vụ tài chính, thị
trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường bất động sản. Đây chính
là môi trường trực tiếp giúp doanh nghiệp chuyển đổi cơ chế kinh doanh,
80
nâng cao sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng chính là các điều
kiện tiền đề để đẩy mạnh CPH DNNN.
+ Phát triển thị trường chứng khoán tạo môi trường kinh tế để thực hiện
CPH DNNN. Đứng trước thách thức và cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế,
sự vận hành của cơ chế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải theo kịp tiến
trình hội nhập. Do đó, cần phải quy định bắt buộc tất cả các DNNN CPH phải
niêm yết trên thị trường chứng khoán bởi vì các DNNN ở nước ta nguồn vốn
từ đầu đã thuộc sở hữu toàn dân nên rất cần công khai hoá các thông tin kinh
tế cần thiết về các doanh nghiệp thực hiện CPH, không những chỉ đối với
những người làm việc trong các doanh nghiệp đó mà còn đối với toàn xã hội.
Hơn nữa, thị trường chứng khoán lại là kênh thu hút vốn quan trọng từ xã hội
để đầu tư và phát triển. Các doanh nghiệp nói chung và các DNNN thuộc Bộ
Công thương nói riêng hiện đang rất thiếu vốn, đặc biệt đứng trước nhu cầu
đầu tư để hiện đại hoá công nghệ sản xuất, cần phải và không nên bỏ qua
kênh tạo vốn này.
Hiện tại, có một số DNNN ở các ngành công nghiệp (điện lực, chế biến
sữa…) quá trình CPH đã gắn với thị trường chứng khoán thông qua đấu thầu
và niêm yết cổ phiếu. Nhờ đó, sự huy động vốn rộng rãi hơn, đặc biệt cổ
phiếu bán được với giá cao hơn. Bộ Công thương cần nghiên cứu xây dựng
các đề án triển khai theo kiểu gắn kết giữa CPH với thị trường chứng khoán
để nâng cao hiệu quả của CPH.
+ Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng
đất và bất động sản gắn liền với đất, bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành
hàng hóa một cách thuận lợi, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn
trong sản xuất, kinh doanh. Xác định rõ quyền sử dụng đất là một hàng hóa
đặc biệt, được định giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của
nhà nước. Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ
luật, kỷ cương trong quản lý đất đai. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh
doanh bất động sản. Sự phát triển thị trường bất động sản là cơ sở để xác định
đúng giá trị của doanh nghiệp trong quá trình CPH DNNN, tránh tổn thất cho
81
nhà nước, loại bỏ được những tiêu cực nảy sinh trong việc sử dụng đất của
không ít DNNN sau CPH, đồng thời tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong
nước và ngoài nước mua cổ phần của các doanh nghiệp trong và sau CPH.
3.3.2. Nhóm giải pháp về môi trƣờng thể chế
Để thúc đẩy mạnh mẽ và vững chắc CPH, phải đặc biệt coi trọng vai trò
của môi trường thể chế, trong việc đề ra và thực hiện các giải pháp về cơ chế,
chính sách và biện pháp triển khai trong quá trình CPH và sau CPH.
3.3.2.1. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp tiến hành CPH.
*Thứ nhất: Về chính sách đối với người lao động.
- Về vấn đề bảo hiểm xã hội (BHXH):
BHXH là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết vấn đề lao động trong
CPH DNNN. Người lao động có tâm lý e ngại đi đào tạo lại để chuyển sang
nghề khác, đặc biệt là những nghề có mức lương thấp hơn vì lý do là khi về
hưu ở nghề mới, lương hưu sẽ thấp hơn so với khi về hưu ở nghề cũ, dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp không hoặc rất khó sắp xếp và sử dụng hợp lý lao
động của mình sau khi CPH.
Vấn đề nợ BHXH: Thực tế trong những năm qua cho thấy, khi thực
hiện CPH doanh nghiệp nói riêng và sắp xếp doanh nghiệp nói chung đều gặp
trường hợp phải xử lý – đó là vấn đề nợ BHXH. Trong quá trình CPH, vấn đề
nợ BHXH cần phải được giải quyết ngay trước khi chuyển đổi để người lao
động yên tâm và không để dây dưa loại nợ này. Trong CPH, mặc dù không đề
cập riêng vấn đề xử lý nợ bảo hiểm mà nó được đề cập trong xử lý nợ nói
chung, tức là được tính toán trừ vào giá trị doanh nghiệp. Cuối cùng, là nợ
BHXH cũng chưa thể được giải quyết vì đó là tài sản, là giá trị doanh nghiệp,
không phải là tiền để trả nợ.
Để thúc đẩy quá trình CPH DNNN, cần thiết phải tháo gỡ những vướng
mắc đang gặp phải. Cụ thể có thể giải quyết theo hai hướng: Hướng thứ nhất,
cần tháo gỡ ngay trong các chính sách về cải cách doanh nghiệp nhằm giúp
các doanh nghiệp chuyển đổi giải quyết vấn đề BHXH, đặc biệt các doanh
82
nghiệp thực sự khó khăn về tài chính để giải quyết phần nợ về BHXH; Hướng
thứ hai, cần có những điều chỉnh trong chính sách BHXH.
- Về chế độ ưu đãi mua cổ phần trong DN:
Các cơ quan ban hành văn bản, chế độ CPH cần quan tâm hơn nữa đối
với chế độ mua cổ phần ưu đãi trong DN CPH. Theo quy định hiện hành,
người lao động được mua 100 cổ phần cho 01 năm công tác nhưng bình quân
một cán bộ công nhân viên chỉ được mua 50 cổ phần cho 01 năm công tác
theo mức giá ưu đãi. Nguyên nhân là do ngoài số cổ phần của Nhà nước
chiếm 51%, số cổ phần bán cho người lao động chỉ còn lại là 29%/vốn điều
lệ. Vì vậy, nên chăng cần sửa đổi theo hướng quy định chi tiết hơn về mức ưu
đãi (không theo hướng một mức như hiện nay là 40% so với giá ưu đãi) nhằm
đảm bảo quyền lợi công bằng của người lao động trong các DN khi thực hiện
CPH để họ được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi mua cổ phần trong DN.
- Về chế độ đối với lao động dôi dư trong DN CPH:
Phía DN cần chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên
cơ sở Phương án CPH của DN. Phải phân loại để xác định số lao động dôi dư,
đưa ra hướng giải quyết cụ thể:
+ Cho nghỉ hưu trước tuổi đối với người gần đến tuổi nghỉ hưu.
+ Đào tạo lại để tái sử dụng, hỗ trợ để chuyển sang ngành nghề mới.
Phía Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ để DN có điều kiện thực
hiện hiệu quả các phương án mà DN đó xây dựng. Trên thực tế, một số DN
của Bộ đã phát sinh lượng lao động dôi dư khá lớn sau CPH. Vì vậy, các
DNNN thuộc Bộ Công thương, sau CPH đã xác định được lực lượng lao động
dôi dư nhưng lại không có phương án khả thi để giải quyết do DN không có
nguồn để chi trả phần trợ cấp mất việc cho người lao động. Các DN đều có
nguồn quỹ dự phòng trợ cấp mất việc cho lao động dôi dư nhưng số dự trữ
quá nhỏ, không đủ kinh phí để giải quyết trợ cấp cho số lao động dôi dư ở DN
mình.
* Thứ hai: Về cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp.
- Về cơ chế xác định giá trị DN:
83
Kiên quyết bằng các phương pháp thị trường trong thực hiện xác định
giá trị doanh nghiệp cho những doanh nghiệp chuẩn bị CPH, đồng thời điều
chỉnh lại giá trị doanh nghiệp của những doanh nghiệp đã CPH giai đoạn
trước khi có Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/6/2007
nhằm xác định chính xác số lượng cổ phần bán lần đầu và số lượng cổ phần
cần bán bổ sung, giúp cho các DN CPH tăng quy mô vốn, thực hiện và mở
rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ, góp phần vào việc tăng trưởng của
DN CPH và khắc phục được hiện tượng bán cổ phần khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp, làm thất thoát tài sản của nhà nước:
- Xoá bỏ việc xác định giá trị doanh nghiệp thông qua hội đồng (như quy
định của Nghị định số 187/2004/NĐ-CP). Thực hiện xác định giá trị DN
thông qua các tổ chức chuyên nghiệp để nâng cao tính minh bạch trong định
giá (như quy định của Nghị định số 109/2007/NĐ-CP).
- Thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của các công ty nhà nước
thuộc Bộ Công thương trước khi chuyển sang công ty cổ phần, quy định rõ
trách nhiệm của người quản lý, điều hành doanh nghiệp trong việc xử lý tồn
tại về tài chính, quy định việc chuyển giao tài sản, công nợ đã loại ra khỏi giá
trị DN CPH phải được chuyển giao ngay cho công ty mua bán công nợ và tài
sản tồn đọng của DN để tiếp tục thu hồi và xử lý.
- Bổ sung quy định về xác định giá trị tài sản là quyền sử dụng đất của
DN sát với giá thị trường và phù hợp với quy định của Luật Đất đai ban hành
năm 2003, trong đó:
+ Đối với diện tích đất DN CPH đang sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ
sở, văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh thì DN CPH
được quyền lựa chọn thuê đất hoặc giao đất theo quy định của Luật Đất đai.
Nếu DN CPH lựa chọn hình thức thuê đất thì không tính giá trị đất vào
giá trị DN CPH. DN CPH tiếp tục ký hợp đồng thuê đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Nếu DN CPH thực hiện hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử
dụng đất vào giá trị DN CPH và giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị
84
doanh nghiệp sẽ do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quy định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường
và công bố vào ngày 01 tháng 1 hàng năm theo quy định của Chính phủ.
+ Đối với diện tích đất mà Nhà nước đã giao cho DN xây dựng nhà để bán
hoặc cho thuê, xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì
phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN CPH. Giá trị quyền sử dụng
đất tính vào giá trị DN CPH thực hiện theo quy định đối với trường hợp DN
CPH thực hiện hình thức giao đất.
* Thứ ba: Về cơ chế bán cổ phần:
Kiên quyết xoá bỏ cơ chế bán cổ phiếu theo giá sàn cho người lao động
trong DN và các nhà đầu tư chiến lược mà phải tuân thủ theo quy định của
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/6/2007. Đó là bán cổ
phiếu với giá bằng 60% giá đấu thành công bình quân. Có như vậy, CPH mới
thực sự gắn với thị trường, tránh thất thoát tài sản, góp phần đấu tranh chống
tham nhũng (đặc biệt đối với trường hợp chỉ bán cổ phần trong nội bộ DN).
Việc bán cổ phần theo phương thức bán đấu giá công khai thực hiện như sau:
- Đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian, nếu khối lượng cổ phần bán
ra có giá trị nhỏ hơn 10 tỷ đồng. Trường hợp không có tổ chức tài chính trung
gian nhận bán đấu giá cổ phần thì ban chỉ đạo CPH DN trực tiếp tổ chức bán
đấu giá cổ phần tại DN.
- Đấu giá tại Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán nếu khối lượng cổ phần bán ra có giá trị từ 10 tỷ đồng trở lên. Trường
hợp DN CPH có khối lượng cổ phần bán ra dưới 10 tỷ đồng có nhu cầu thực
hiện bán đấu giá tại Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán thì cơ quan có thẩm quyền CPH quyết định.
- Thực hiện bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong công ty cổ phần
với mức giá bằng 60% giá đấu thành công bình quân, người lao động chỉ
được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại doanh nghiệp.
Cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn
25% vốn điều lệ và cổ phần bán cho các tổ chức công đoàn tại DN CPH
85
không quá 3% vốn điều lệ (số cổ phần này do tổ chức công đoàn nắm giữ và
không được quyền chuyển nhượng).
Tuy nhiên, cũng qua một số cuộc đấu giá trên thị trường chứng khoán
bước đầu cũng xuất hiện một số bất cập, cần sớm nghiên cứu, tháo gỡ để việc
đấu giá cổ phần trên thị trường thu được thành công lớn hơn. Cụ thể:
- Việc công bố thông tin về DN đấu giá cần được xác định bổ sung chi tiết
hơn về nội dung báo cáo tài chính của một số năm gần đây nhất (3 năm tài
chính trước khi CPH) để nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư hợp lý.
- Quy trình đấu giá hiện thời áp dụng còn thủ công (bỏ phiếu tại các hòm
phiếu), làm hạn chế khả năng tham gia rộng khắp của nhà đầu tư trong nước
và quốc tế. Cần bổ sung quy định bỏ phiếu dưới các hình thức hiện đại hơn
(qua hòm thư, qua mạng…) để có khả năng thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư
trong nước và quốc tế.
- Khối lượng cổ phần đấu giá cần nghiên cứu đề có thể chia làm nhiều lần
đấu giá (đối với DN có quy mô lớn) để tránh hiện tượng bán đấu giá không
hết, hoặc nếu hết thì cũng không thu được giá tối ưu cho Nhà nước và DN.
- Cần dành một tỷ lệ cổ phiếu nhất định để bán cho các nhà đầu tư nhỏ
thông qua việc đăng ký cổ phần nhưng không ghi mức giá cụ thể, mà nhà đầu
tư chấp nhận mức giá mua bình quân của thị trường, để đảm bảo cho một tỷ lệ
cổ phiếu bán ra công chúng cho một số nhà đầu tư nhất định, tránh việc tập
trung cổ phiếu vào tay một số nhà đầu tư chuyên nghiệp.
3.3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nƣớc trong CPH
Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong CPH là một giải pháp
nhằm tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong thực tiễn. Mặc dầu,
đến nay Chính phủ đã có các văn bản triển khai thực hiện CPH DNNN, các
ngành, các cơ quan chức năng đã có thông tư hướng dẫn thực hiện (Bộ Tài
chính, Bộ lao động và thương binh xã hội…). Các cơ quan Nhà nước có
quyền lực để thực hiện CPH (các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố…) đã
được thành lập và đi vào hoạt động. Đã có sự phối hợp giữa các cơ quan từ
trung ương đến địa phương trong quá trình thực hiện CPH nhưng để thúc đẩy
86
vững chắc hơn nữa CPH DNNN nói chung và các DNNN thuộc Bộ Công
thương nói riêng, cần tiếp tục nâng cao năng lực quản lý của nhà nước trong
cổ phần hoá:
Thứ nhất, nâng cao năng lực của cơ quan nghiên cứu và ban hành các
văn bản, quy định CPH DNNN.
Cần rà soát lại các văn bản pháp luật đã ban hành, tiến hành những sửa
đổi cần thiết cho phù hợp với tình hình mới, tạo môi trường thuận lợi cho việc
phát triển các CTCP và CPH DNNN.
Trên cơ sở các văn bản, những quy định hiện hành về CPH và kinh
nghiệm thực tiễn về CPH trong nước và quốc tế, tiến hành hoàn thiện thành
hệ thống bộ luật chi tiết và đồng bộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
CPH.
Cần nghiên cứu ban hành cơ chế quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các DN
thuộc mọi thành phần kinh tế để theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của DN
trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phát huy cao nhất nguồn vốn của
các DN, đặc biệt là các DN thu được lượng vốn lớn từ các kênh đầu tư thông
qua giải pháp CPH.
Thứ hai: phát huy vai trò của các Trường Đại học và chuyên nghiệp
Cần phát huy tốt vai trò của các Trường Đại học và chuyên nghiệp, đặc
biệt là các trường thuộc khối kinh tế và trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi
dưỡng nghiệp vụ về chứng khoán và TTCK để làm tốt việc trao đổi, cung cấp
thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ, đào tạo đủ lực lượng cán bộ và nhân viên
chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu CPH DNNN, quản lý CTCP, xây dựng và
phát triển TTCK. Trong điều kiện nước ta hội nhập với kinh tế quốc tế và khu
vực thì vấn đề đào tạo và nâng cao khả năng ngoại ngữ cho lực lượng cán bộ,
nhân viên nói trên là yêu cầu cấp bách. Nếu không sớm đưa ra giải pháp để
khắc phục tồn tại này thì có thể đây là trở ngại tương đối lớn trong quá trình
CPH của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.3.2.3. Hoàn thiện quản lý DNNN sau CPH
87
Vai trò của các cơ quan Nhà nước với doanh nghiệp CPH đã thay đổi từ
sau CPH. Tuy nhiên, nhiều vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp sau CPH vẫn chưa được giải đáp rõ ràng: quan niệm như thế
nào về quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp; nội dung quản lý Nhà nước
đối với doanh nghiệp sau CPH; những cơ quan có chức năng quản lý nhà
nước với các doanh nghiệp, vấn đề thu hẹp đầu mối các cơ quan quản lý Nhà
nước để tránh chồng chéo và xác định cơ quan là đầu mối để tổng hợp và giải
quyết những vướng mắc cho doanh nghiệp, chịu trách nhiệm tuyên truyền,
cung cấp thông tin, phổ biến chính sách để doanh nghiệp tổ chức hoạt động
kinh doanh theo đúng pháp luật, chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát các
doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật; cơ quan giúp Chính phủ quản lý
các DNNN sau CPH; vấn đề quản lý Nhà nước để không phân biệt đối xử
giữa DNNN và doanh nghiệp sau CPH…
Các biện pháp trong cải cách và quản lý DNNN còn thiên về khu vực
DNNN có 100% vốn hoạt động theo Luật DNNN, chưa chú trọng các biện
pháp cải cách các doanh nghiệp sau CPH, nhất là DNNN còn nắm cổ phần chi
phối. Các bộ, ngành, UBND cấp Tỉnh và các cơ quan đổi mới DNNN mới chỉ
quan tâm đến thực hiện kế hoạch sắp xếp, CPH, giao, bán, khoán, cho thuê,
chuyển đổi sang Luật doanh nghiệp, mà chưa quan tâm đến quản trị doanh
nghiệp sau CPH, quản lý phần vốn Nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp có cổ
phần chi phối của Nhà nước. Chưa phân định rõ ràng và rành mạch điều hành
doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước với công ty Nhà nước có
100% vốn Nhà nước.
Giải pháp cho vấn đề này là:
- Đẩy mạnh áp dụng thông lệ quản trị công ty tốt nhất và bắt buộc áp
dụng điều lệ mẫu đối với các công ty cổ phần và công ty niêm yết. Tăng
cường tập huấn, bồi dưỡng cán bộ quản lý công ty cổ phần, người lao động
(cổ đông) về quyền hạn, trách nhiệm của cổ đông, của cơ quan quản lý trong
công ty cổ phần, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng của
công ty, tính minh bạch và chế độ công bố thông tin… nhằm làm cho các cổ
88
đông trong DN nắm được các quy định pháp lý, tránh xung đột trong nội bộ
DN.
- Thống nhất tiêu chuẩn người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và
người trực tiếp quản lý cổ phần nhà nước tại CTCP, tăng thẩm quyền và trách
nhiệm đối với người đại diện. Nghiên cứu, bổ sung quy định bổ nhiệm, miễn
nhiệm và chế độ tiền lương, tiền thưởng đối với người trực tiếp quản lý phần
vốn nhà nước tại công ty cổ phần.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, chế độ cho DN sau chuyển
đổi, giải quyết kịp thời các vướng mắc cho DN. Hoàn thiện hệ thống cơ quan
đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết
hợp đăng ký kinh doanh đối với các DN CPH và cung cấp thông tin cho DN
sau CPH.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trên cơ sở ban hành mới hoặc bổ sung,
sửa đổi một sô văn bản pháp luật như Luật DN, Luật sử dụng vốn vào kinh
doanh, Luật về cạnh tranh và chống độc quyền, Luật phá sản, Luật Lao
động,… để từng bước và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn sự khác biệt về điều kiện
kinh doanh đối với các loại hình DN, khuyến khích DN nâng cao hiệu quả,
sức cạnh tranh.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ DN nâng cao khả năng tự cạnh tranh thông
qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, nước… hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, hỗ
trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và người lao động trong DN, hỗ trợ tiếp
cận và mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng, bảo vệ thương hiệu hàng hoá
có khả năng cạnh tranh… tạo điều kiện để các DN phát tiển sau CPH.
3.3.3. Nhóm giải pháp về tƣ tƣởng và tổ chức CPH
Quá trình CPH ở nước ta từ khi triển khai thí điểm đến nay đã được gần
20 năm, quá trình CPH ở nước ta chủ yếu xuất phát từ một nền kinh tế sản
xuất nhỏ, từ các quan hệ chủ yếu là hiện vật chuyển sang kinh tế thị trường.
Do vậy, việc tăng cường ý thức tư tưởng cho cán bộ lãnh đạo và người lao
89
động về CPH là giải pháp rất quan trọng để thúc đẩy quá trình CPH các
DNNN thuộc Bộ Công thương. Sau đây là một số nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Tăng cường công tác tư tưởng phục vụ CPH.
- Tổ chức, tuyên truyền trong cấp uỷ, đảng viên trong tất cả các cấp
lãnh đạo và cơ sở quán triệt đầy đủ và thống nhất chủ trương của Đảng về
CPH DNNN, hăng hái tham gia công tác CPH trong các doanh nghiệp. Quán
triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương CPH DNNN, uốn nắn những nhận thức
sai lệch, quan điểm sai trái để có sự thống nhất cao trong cấp uỷ Đảng, chính
quyền, Đoàn thể trong các doanh nghiệp thuộc Bộ Công thương.
- Tổ chức, tuyên truyền sâu rộng và giải thích cho người lao động trong
các doanh nghiệp hiểu và nhận thức đúng đắn những nội dung cơ bản của chủ
trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về CPH DNNN. CPH DNNN là
quá trình chuyển đổi DNNN từ một chủ sở hữu thành doanh nghiệp đa sở
hữu, là biện pháp hữu hiệu để cơ cấu lại doanh nghiệp, lợi ích của các cổ
đông, lợi ích của người lao động, lợi ích của nhà nước gắn liền với nhau, có
như vậy mới đảm bảo được sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò các tổ chức Đoàn thể trong doanh nghiệp như Công
đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ….để họ thực sự trở thành những tổ chức
tuyên truyền có hiệu quả về đường lối chính sách của Đảng về CPH DNNN
cho người lao động.
- Phổ cập rộng rãi các kiến thức chủ yếu về đầu tư trong kinh tế thị
trường, về các tổ chức kinh tế trong đó có CTCP, về thị trường chứng khoán.
Thứ hai: Kiện toàn và nâng cao năng lực của cán bộ tham gia thực
hiện công tác CPH
- Nâng cao năng lực của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp, đặc biệt
là cán bộ trực tiếp tham gia công tác CPH. Kiện toàn bộ máy chỉ đạo, điều
hành CPH doanh nghiệp để họ thực sự là những người tham mưu trực tiếp,
chuyên tâm, tích cực đối với nhiệm vụ được giao.
- Tiếp tục kiện toàn Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Ban chỉ
đạo CPH… bố trí cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo công
90
tác tham mưu cho lãnh đạo trong việc thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Phối hợp mời các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán về
các doanh nghiệp để họ trực tiếp thuyết giảng về chế độ, chính sách doanh
nghiệp và người lao động được hưởng từ việc CPH DNNN, để họ thực sự an
tâm và gắn bó với doanh nghiệp.
Thứ ba: Tăng cường sự chỉ đạo của Bộ Công thương đối với công
tác CPH.
Việc tăng cường sự chỉ đạo sát sao của Bộ Công thương là giải pháp
quan trọng và có tác động lớn đến tiến độ và sự thành công của công tác CPH
ở các DNNN trực thuộc Bộ. Dưới đây là các biện pháp cụ thể của giải pháp:
- Tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra tại các DNNN trực thuộc nhằm kịp
thời nắm bắt thực trạng tài chính của các doanh nghiệp.
- Ban hành các văn bản nội bộ để chỉ đạo, chấn chỉnh công tác tài chính
ở các đơn vị.
- Tăng cường công tác giám sát, đánh giá hiệu quả các doanh nghiệp.
Thành lập Ban đánh giá giám sát doanh nghiệp tại Bộ và các doanh nghiệp
trực thuộc.
- Phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan và các địa phương để giải
quyết nợ tồn đọng và các khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp trực
thuộc Bộ.
- Tổ chức các cuộc họp, Hội nghị với cán bộ trực tiếp thực hiện công
tác CPH để trao đổi kinh nghiệm và cùng giải quyết, tháo gỡ những khó khăn
trong quá trình thực hiện CPH DNNN.
- Đôn đốc, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch
sắp xếp, CPH và kịp thời đề xuất các biện pháp để giải quyết khó khăn, vướng
mắc cho các doanh nghiệp trong quá trình CPH.
91
KẾT LUẬN
Cổ phần hoá DNNN là một nội dung cơ bản của đổi mới DNNN ở Việt
Nam. CPH DNNN khác biệt về bản chất với tư nhân hoá DNNN. Điều đó thể
hiện ở sự khác biệt giữa CPH và tư nhân hoá về mục tiêu, hình thức và nội
dung. Tính tất yếu khách quan của CPH DNNN xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi
của quá trình xã hội hoá sản xuất trên thực tế; từ yêu cầu đòi hỏi phải nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường; từ
sự thay đổi về vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường; từ sức hấp dẫn
92
của các công ty cổ phần trong he thống các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế thị trường.
Việc nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN của một số nước
Châu Á cho thấy đây là vấn đề được các quốc gia hết sức quan tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế của mình. Tuy nhiên việc áp dụng những kinh
nghiệm ấy phải tính tới các đặc điểm mang tính đặc thù của Việt Nam nói
chung, của ngành công thương nói riêng.
Trong thời gian qua, CPH DNNN ở Bộ Công nghiệp (nay thuộc Bộ
Công thương) đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển của ngành công nghiệp nói riêng, của kinh tế nước ta nói
chung. Điều đó thể hiện ở số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, ở
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá không
ngừng tăng lên. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vướng mắc, khó khăn trong quá
trình triển khai, thực hiện cổ phần hoá, cũng như hoạt động của các DNNN
sau cổ phần hoá. Những vướng mắc khó khăn này chủ yếu là ở cơ chế, chính
sách cổ phần hoá; cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp sau cổ phần
hoá.
Để đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ở Bộ Công thương trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp, trong đó có các nhóm giải pháp chủ yếu là: tạo lập điều kiện cần thiết
cho cổ phần hóa các DNNN; môi trường thể chế; tư tưởng và tổ chức cổ phần
hoá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Ân, Lê Hữu Nghĩa (2004), phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam: lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2007), Báo cáo về công
tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
3. Bản tin CPH doanh nghiệp của Phòng thương mại và công nghiệp (VCCI)
số 2/2005.
93
4. Bản tin CPH doanh nghiệp của Phòng thương mại và công nghiệp (VCCI)
số 3/2005.
5. Barry Spicer - David Emanuel - Michael Powel (1998), Chuyển đổi các
doanh nghiệp nhà nước. Quản lý thay đổi triệt để tổ chức trong môi trường
phi điều tiết, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương - Trung tâm thông
tin tư liệu, Hà Nội.
6. Báo cáo của ban cán sự Đảng bộ Công nghiệp ngày 22/7/2005 về tình hình
thực hiện Nghị quyết TW3 và TW9 khoá IX về DNNN.
7. Báo cáo của Bộ Công nghiệp về tình hình thực hiện công tác cổ phần hoá
DNNN thuộc Bộ Công nghiệp từ năm 1992 đến 2005
8. Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc so sánh với Việt Nam
(1997), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. PGS.TS. Phạm Ngọc Côn (2001), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
(nghiên cứu và vận dụng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Chính phủ (1999), Nghị định số 103/1999/NĐ - CP ngày 10/9/1999 về
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
11. Chính phủ (1994), Nghị định số 120/CP ban hành quy chế tạm thời về
việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN.
12. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước các văn bản hiện hành (2006), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, Phần I, II NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết số 10/NQ - TW ngày 17
tháng 3 năm 1995 của Bộ chính trị tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ
đạo của DNNN.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
94
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Sự thật, Hà Nội.
20. Đại học Harvard (2008), Lựa chọn thành công, chương trình Việt Nam.
Kinh tế Trung Quốc đại luận chiến (1995), NXB Quản lý kinh tế, Hà Nội.
TS.Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - những vấn
đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Một trăm câu hỏi và trả lời về chế độ doanh nghiệp hiện đại (1995). NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội
21. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (2005), Một số vấn đề phát triển kinh tế ở
Việt Nam hiện nay, NXB Thế giới, Hà Nội.
22. Đào Trọng Thanh (1997), “Cải cách doanh nghiệp nhà nước: kinh nghiệm
thế giới”, Tạp chí Tài chính (12/1998).
23. Hoàng Đức Tảo (1993), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước-kinh nghiệm
thế giới, NXB Thống kê, Hà Nội.
24. Tài liệu Hội nghị triển khai quyết định số 528/QĐ - TTg về bán đấu giá cổ
phần nhà nước (2005) của Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
25. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế học (2004), Kinh
nghiệm thí điểm cổ phần hoá ở Trung Quốc.
26. Uỷ ban chứng khoán nhà nước (28/9/2001), Thông tư 02/2001/TT- UBCK
hướng dẫn thực hiện Nghị định 48/1998/NĐ - CP của Chính phủ ngày
11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
27. Viện Khoa học Tài chính (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và
cải cách khu vực công.
28. Viện Quản lý kinh tế trung ương và UNDP, Hội thảo cổ phần hoá DAVIE
- 97/016 về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
95
29. Viện Nghiên cứu kinh tế trung ương (22/9/2005), Báo cáo tình hình thực
hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.
30. Website Đảng Cộng sản Việt nam.
31. Website Bộ Công thương.
96