Cơ sở cho quá trình tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân khu vực Đông Nam Á
lượt xem 6
download
Bài viết Cơ sở cho quá trình tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân khu vực Đông Nam Á trình bày những cơ sở quy định quá trình tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân khu vực Đông Nam Á; Một số đặc điểm trong tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân Đông Nam Á trên phương diện tinh thần.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ sở cho quá trình tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân khu vực Đông Nam Á
- Tạp chí KH&CN- Trường Đại học Bình Dương, Vol.4 № 4/2021 CƠ SỞ CHO QUÁ TRÌNH TIẾP BIẾN VĂN HOÁ ẤN ĐỘ CỦA CƯ DÂN KHU VỰC ĐÔNG NAM Á Lê Ái Phú1, Nguyễn Trường Khánh2 1 Trường Đại học Bình Dương, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương, Việt Nam Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2 ĐHQG-Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Ngày nhận bài:20/09/2021 Biên tập xong:03/12/2021 Duyệt đăng:10/12/2021 TÓM TẮT Được giới nghiên cứu đánh giá là khu vực có lịch sử - văn hóa đặc biệt, Đông Nam Á có một nền tảng chung được hình thành từ những điều kiện tự nhiên thuận lợi của khu vực này, là cái nôi của nền nông nghiệp cổ xưa trải dài từ bờ nam sông Trường Giang cho đến tận Đông Bắc Ấn. Trên nền tảng chung ấy, suốt chiều dài phát triển, cư dân bản địa đã hình thành nên cho mình một cơ tầng văn hóa bản địa khá đặc sắc với trình độ phát triển tương đối cao. Bên cạnh đó, còn không ngừng “mở cửa” tăng cường tiếp thu các nền văn hóa từ bên ngoài để làm phong phú hơn, đa dạng hơn nền văn hóa nội sinh của mình, trong đó nổi bật lên là nền văn hóa Ấn Độ. Chính trong quá trình giao thoa và tiếp biến giữa văn hóa ngoại lai - Ấn Độ với văn hóa nội sinh - Đông Nam Á đã hình thành nhiều nét văn hóa độc đáo, tạo thành bản sắc rất riêng trong cùng một khu vực. Cuộc “phối ngẫu” giữa hai nền văn hóa ấy đã tạo nên sự thống nhất và đa dạng cho văn hóa khu vực Đông Nam Á. Nghiên cứu này nhằm tìm ra những cơ sở quy định đặc điểm tiếp biến văn hoá Ấn Độ của cư dân Đông Nam Á trong cuộc “hôn phối” thú vị ấy. Từ khoá: Ấn Độ; bản sắc; Đông Nam Á; tiếp biến văn hoá. 1. DẪN NHẬP như chỉ để lại ảnh hưởng tại Việt Nam. Đáp án cho câu hỏi tại sao văn hoá Với vị trí nằm giữa hai nền văn hoá Trung Hoa không được cư dân Đông lớn của nhân loại là Trung Quốc và Ấn Nam Á lựa chọn tiếp nhận có lẽ thuộc Độ, Đông Nam Á mang một số phận bị về những nguyên nhân có tính quy định kẹp giữa “hai gã khổng lồ” và tất yếu lịch sử này có lẽ sẽ không cần bàn nhiều phải chịu những ảnh hưởng văn hoá đến, khi nó đã trở thành hiện thực tất nhất định từ hai “cái nôi” này. Trong định của hoàn cảnh đưa đẩy, và một đó, nhiều quan điểm nghiên cứu lâu nay phần nào đó do sự lựa chọn xác quyết vẫn xác định ảnh hưởng nổi bật hơn của của con người. Sự tiếp nhận văn hoá Ấn văn hoá Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Độ mang nhiều nét ngẫu nhiên, tương Á, trong khi văn hoá Trung Hoa gần hợp hơn, bởi một lẽ dễ nhận thấy nhất 1
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự là không như mối quan hệ Trung Quốc hoá bị động nhưng không gây xung đột; – Việt Nam, văn hoá Ấn Độ đã đến với và cuối cùng, sự phản ứng (reaction) Đông Nam Á hoàn toàn trong sự cởi mở đưa đến những vận động phản tiếp biến của tình hoà hiếu, không đao binh và áp (contra-accurative movements) do có đặt quyền lực chính trị [1, p. 21]. Sự lựa áp bức văn hoá hoặc do những hệ luỵ chọn và gặp gỡ hoà điệu sẽ phản ánh tiêu cực không lường trước mà yếu tố sống động nhất trong một bối cảnh giao văn hoá ngoại lai đem lại [2, p. 152]. lưu đầy tình hữu nghị như thế, và bài Bài viết sẽ vận dụng lý thuyết của ba viết này sẽ thử phân tích kiểu lựa chọn học giả trên để thông qua các dữ kiện ứng xử của cư dân Đông Nam Á trong đã trình bày về quá trình và nội dung tiếp biến văn hoá với Ấn Độ. Từ đó, sẽ tiếp nhận văn hoá Ấn Độ tại Đông Nam có những đánh giá nhất định về đặc Á, mà do dung lượng giới hạn của một điểm và mức độ ảnh hưởng của văn hoá bài báo khoa học, người cụ thể trên Ấn đến khu vực này. phương diện văn hoá tinh thần, xác định Khái niệm tiếp biến văn hoá loại hình kết quả cũng như kiểu lựa (acculturation) do Robert Redpield chọn của cư dân nơi đây xét trong ba (1897 – 1958), Ralph Linton (1893 – kiểu lựa chọn được các tác giả phân loại 1953) và Melville J. Herskovits (1895 – bên trên, trong tiếp trình tiếp biến văn 1963) đề xuất để chỉ dạng kết quả của hoá này. giao lưu văn hoá (cultural contacts) 2. NHỮNG CƠ SỞ QUY ĐỊNH trong trường hợp quá trình giao lưu QUÁ TRÌNH TIẾP BIẾN VĂN HOÁ diễn ra trực tiếp và liên tục, với hệ luỵ ẤN ĐỘ CỦA CƯ DÂN KHU VỰC làm biến đổi căn bản mô thức văn hoá ĐÔNG NAM Á của một hay của tất cả các nhóm tham gia. Ba khuynh hướng kết quả của tiếp 2.1. Đặc điểm không gian địa lý và biến văn hoá, bao gồm: sự chấp nhận dân cư (acceptance), tức đa số của một nhóm 2.1.1. Đặc điểm không gian địa lý đồng thuận tiếp thu phần lớn chất liệu Đông Nam Á – Southeast Asia (hay văn hoá mới và loại bỏ hầu hết di sản Southeastern Asia) - ngay từ tên gọi đã xưa cũ, ở đây ta hiểu là sự biến đổi văn mang tính mô tả vị trí của nó trên bản hoá mang tính chủ động tiếp nhận; sự đồ thế giới: nằm ở phía Đông Nam của thích nghi (adaptation) tức các dấu vết Á châu, hay còn có thể được mô tả là văn hoá bản địa và ngoại lai được kết vùng địa lý phía Nam Trung Quốc và hợp tạo thành một chỉnh thể văn hoá phía Đông của Ấn Độ, nếu mượn điểm hoạt động suôn sẻ, là sự biến đổi văn mốc là hai quốc gia – dân tộc lớn này. 2
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… Đông Nam Á ngày nay là một khu vực tạo thành hai quần đảo lớn bậc nhất thế có diện tích 4,545 triệu km2 và có dân giới mà ngày nay là Indonesia (bao số hơn 655 triệu người. chứa Brunei, Timore Leste và một phần Về địa hình, Đông Nam Á bao gồm Malaysia) và Philippine. Các quần đảo hai phần là Đông Nam Á lục địa cùng với phần Đông Nam Á lục địa bao (Mainland Southeast Asia) và Đông quanh cũng như bị ngăn cách bởi một Nam Á hải đảo (Maritime Southeast vùng biển kín là trung gian giữa Ấn Độ Asia). Phần lục địa với đặc điểm gồm Dương và Thái Bình Dương mà học giả một phía gắn vào đất liền và một phía Nguyễn Thế Anh gọi là “Địa Trung Hải mở rộng ra đại dương, là dạng địa hình của châu Á” [6, pp. 9–10], khiến các kết hợp giữa những dải đồng bằng phì vùng đất không qua xa cách nhau. Cùng nhiêu gắn liền lưu vực các con sông với tính chất tương đối tĩnh của vùng tương đối lớn như Irrawady, biển tạo đã cơ hội cho những cuộc giao Chaophraya, Mekong, sông Hồng… và lưu tiếp xúc và di dân từ rất sớm giữa những dãy núi cao trải dài, chia cắt đất các vùng đất nơi này, với dấu tích khảo đai thành nhiều khu vực tách biệt [3, p. cổ còn để lại, cũng như các bằng chứng 15], [4, pp. 56–57]. Ta sẽ thấy sự chia ngôn ngữ học được phát hiện minh cắt ấy là cơ sở ra đời đa dạng khối cư chứng cho những cuộc giao lưu nội văn dân với văn hoá, ngôn ngữ ít nhiều khác hoá khu vực [6, p. 9], [7, pp. 7–8]. Cũng biệt theo hai hướng văn minh đặc trưng vùng biển trung gian ấy ngay từ sớm đã bởi đồng bằng và đồi núi [4, p. 57], về mở ra cánh cửa giao lưu liên khu vực, sau sẽ trở thành nhiều tiểu quốc khác khiến nhiều học giả suốt thời gian dài nhau. Hệ thống sông ngòi nơi này cũng ngộ nhận nền văn hoá nơi này gần như là cơ sở cho hoạt động kinh tế và giao chỉ do ảnh hưởng từ bên ngoài, cụ thể thương trên mặt nước, sông nối liền với Đông Nam Á bị xem là một bản sao thu biển cùng đặc điểm đường bờ biển trải nhỏ của Ấn Độ và Trung Quốc [1], [4], dài của các quốc gia nơi này cũng sớm [7]. Tuy vấn đề đã được đặt lại, nhưng mở ra ý tưởng cho những chuyến hải hoàn cảnh địa lý có phần khép kín cũng trình và đồng thời cửa sông cũng chính đã hạn chế cơ hội giao lưu của vùng đất là cửa ngõ chào đón khách thương [5, này chỉ còn gói gọn trong phạm vi p. 6]. Cư dân Đông Nam Á nhờ đó có tương tác với hai nền văn hoá Ấn và lẽ là những người đi biển thuộc hạng Hoa, và biết đến các nền văn hoá khác đầu tiên trên thế giới. tương đối muộn. Phần hải đảo gồm trên 20.000 hòn Về khí hậu, toàn bộ khu vực Đông đảo lớn nhỏ trải dài từ Đông sang Tây Nam Á thuộc vùng nhiệt đới ẩm gió 3
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự mùa với đặc trưng nóng và ẩm, với nay hầu hết đều thuộc chủng những đợt gió mùa theo chu kỳ cứ mỗi Mongoloid phương Nam (Southern nửa năm lại lần lượt mang đến một mùa Mongoloid) [4, p. 73]. Tuy vậy, học mưa và một mùa khô. Ta sẽ thấy tính giới đã chỉ ra rằng người Mongoloid chu kỳ của gió mùa nơi này chính là phương Nam chỉ lan toả đến miền Nam một điều kiện thuận lợi, thậm chí cũng Trung Hoa và miền Bắc Đông Nam Á chính là nguồn cảm hứng cho những (tức chủ yếu ở Đông Nam Á lục địa) chuyến hải trình khai thác hải sản hay vào khoảng 7.000 năm trước, theo tiến giao lưu thương mãi [5, p. 5]. Khí hậu trình mở rộng canh tác nông nghiệp và nhiệt đới ẩm cũng khiến khu vực này từ hệ quả của sự bùng nổ dân số. Cũng từ thuở ban sơ có một thảm thực vật dày, đó, khoa học đã minh chứng cho thấy đa dạng chủng loại, vừa là thách thức nhân chủng Mongoloid phương Nam đối với sự cư trú an toàn và ổn định của tại Đông Nam Á thực chất là kết quả con người, nhưng vượt qua thách thức của sự hoà huyết giữa chủng người này đó, nó cũng rèn giũa con người về kỹ với những nhóm dân cư bản địa đã định năng ứng phó điều kiện khắc nghiệt của cư từ trước, mà chủ yếu là thuộc đại tự nhiên, đồng thời cung cấp cho cư dân chủng Úc (Australo-Melanesia) và đại nơi đây nguồn thổ sản phong phú và chủng Phi (Negrito), đồng thời qua thời một nguồn tài nguyên nông nghiệp đầy gian đã tạo nên một sự thay thế mạnh giá trị. Đa số các quốc gia-dân tộc nơi mẽ nhóm người bản địa [4, pp. 74–75]. này đều có lợi thế phát triển canh tác Những người homo sapiens tổ tiên nông nghiệp lúa nước, có lẽ đây cũng là của đại chủng Úc Australo-Melanesia một trong những vùng thuần hoá cây đã đến định cư tại khu vực Đông Nam lúa và canh tác lúa nước đầu tiên trên Á từ khoảng 45.000 năm trước, và được thế giới, tuy nhiên cũng có nơi bị hạn giới khảo cổ cho rằng họ đã di cư về chế về điều kiện trồng lúa như phía Đông qua con đường Wallace từ Indonesia, hướng họ đến các giống cây miền Nam Ấn Độ. Chứng tích cho cuộc trồng khác như cọ sagu vốn ít được ưa định cư này là những công cụ bằng đá chuộng làm lương thực hơn [5, p. 5], và và các di chỉ hang động có niên đại cũng do đó thúc đẩy cư dân nơi này có khoảng 30-40.000 năm trước tìm thấy ở thiên hướng đến với nghề biển như một Borneo, Indonesia, hay tại Philippine… đặc điểm chung của các cư dân ở phần [4, p. 72]. Vào cuối thời đại Tân thạch hải đảo [5, p. 6]. khí (Neo-lithic), tiểu chủng Nam Đảo 2.2. Đặc điểm dân cư (Austranesia) đã từ Đài Loan di cư đến Về cư dân, người Đông Nam Á ngày Đông Nam Á, trở thành nhóm cư dân 4
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… chủ đạo tại Malaysia, Philippines, giao lưu, tương tác và học hỏi lẫn nhau Brunei, Indonesia và Timor-Leste và giữa các cộng đồng người. Từ đó cũng miền Nam Việt Namthay thế dần những mở ra một địa hạt rộng lớn của sự tương người Negrito lẫn Australo-Melanesia đồng hay thống nhất trong đa dạng bản địa, hình thành những nhóm cư dân trong văn hoá của khu vực Đông Nam mới mang theo một đời sống khác hẳn Á. Và một điểm nữa ta có thể nhận thấy, [5, p. 18]. cư dân Đông Nam Á có quan hệ nhân Đặc điểm chung có thể thấy vẫn là, chủng gần gũi với người Ấn Độ trong dù phát tích từ cội nguồn đa dạng nhân quá trình di dân thời tiền sử. chủng, cư dân Đông Nam Á trải qua 2.3. Cơ tầng văn hoá bản địa tiến trình lịch sử đã tạo thành một cộng Như có trình bày ở trên, đã có một đồng tương đối thống nhất về chủng thời học giới luôn quan niệm Đông người và sắc dân. Tuy vậy, tính chất đa Nam Á chỉ như một bản sao thu nhỏ của dạng về mặt nguồn cội vẫn còn minh Ấn Độ và Trung Hoa, hai cái nôi văn chứng qua sự phân bố nhiều ngữ hệ hoá lớn của nhân loại mà nhiều người khác nhau tại khu vực này. Ngôn ngữ cho rằng đã gần như quy định toàn bộ ngày nay của người Đông Nam Á bao diện mạo văn hoá của khu vực Đông gồm bốn ngữ hệ chính là Thái – Kadai, Nam Á. Và hệ quả là họ đã gọi khu vực Nam Á, Nam Đảo, Tạng – Miến. Thậm này bằng những cái tên kiểu như chí, mỗi ngữ hệ còn có sự phân chia “Ngoại Ấn Độ”, “Đại Ấn Độ”, “Tiểu thành rất nhiều phương ngữ (dialects) Trung Hoa”, hay đến như cách đặt các khác nhau, bất kể sự tồn tại của những danh xưng “Indochinese peninsula” tức nhóm cư dân ưu thế hay những nỗ lực bản đảo Trung Ấn hay “Indonesia” nhất thể hoá bằng quyền lực, tạo nên mang nghĩa “quần đảo Ấn Độ, đã làm một phức thể rộng lớn của sự đa dạng lu mờ thực tế về một cơ tầng văn hoá văn hoá, như một thách thức to lớn đối độc lập của khu vực Đông Nam Á chứ với học giới muốn nghiên cứu về văn không phải nơi đây chỉ là vùng văn hoá hoá khu vực này [7, pp. 7–9]. phụ thuộc của Trung Quốc và Ấn Độ Tính chất đa dạng về nhân chủng và [1, p. 20]. ngôn ngữ như đã nêu trên đã tạo nên sự Tác giả D. G. E. Hall (1997) đã dẫn đa dạng văn hoá của cư dân nơi này, chứng nhiều tư liệu khảo cổ để chứng nhưng yếu tố thống nhất như một kết minh rằng cư dân Đông Nam Á đã có quả của tiến trình đời sống dân cư Đông nền tảng văn hoá bản địa tương đối phát Nam Á vừa là nhân tố xúc tác, vừa là triển từ thời đồ đá, với các di tích từ biểu hiện minh chứng cho khả năng 5
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự nông cụ cho đến đồ trang trí mỹ nghệ p. 17], [5, p. 26], [8, p. 85]. được chế tác bằng đá tìm thấy tại Bắc Đông Nam Á còn là khu vực có có Sơn-Hoà Bình và Bắc Trung Bộ Việt nền văn minh kim khí khá phát triển. Từ Nam, hay tại Luang Prabang, Lào, đầu thế kỷ XX trở lại, đã có nhiều cuộc Sumatra thuộc Indonesia, Assam thuộc khai quật và nghiên cứu trên khắp các Cambodia, thung lũng Irrawady và quốc gia Đông Nam Á và phát hiện Brahmaputra thuộc Myanmar… với nhiều di chỉ tạo thành các bộ sưu tập đồ trình độ chế tác tinh xảo và đa dạng các kim khí Đông Nam Á lớn, phản ánh kiểu cách [1, pp. 23–25], mà trong đó, một diễn trình phát triển liên tục về kỹ văn hoá Hoà Bình được các học giả nghệ chế tác kim loại của khu vực này đánh giá là bước phát triển cao nhất của từ thời sơ kỳ đồng thau cho đến thời kỳ kỹ nghệ chế tác trên đá cuội (chopper- đồ sắt. Bên cạnh nền văn hoá kim khí chopping tool) [8, p. 74], minh chứng Đông Sơn nổi tiếng vốn trước đó được cho sự định cư lâu dài cũng như biểu thị học giới cho là nền văn hoá kim khí duy đây là nền văn hoá có căn cơ. Nhiều nhất của Đông Nam Á, từ thập niên nghiên cứu khác cho thấy có sự giao 1950 trở về sau, nhiều khu vực kim khí lưu, tương tác và lan toả văn hoá rộng trên khắp Đông Nam Á đã được phát lớn giữa các nhóm cư dân cổ đại tại khu hiện, có nhiều nét tương đồng với đồ vực này, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ kim khí Đông Sơn, như các di chỉ tại giữa họ, qua các minh chứng về sự phân Bản Chiang và Bản Na Di ở Đông Bắc bố loại rìu hình chữ nhật tương ứng với Thái Lan [8, pp. 123–124]. Giới khảo địa bàn phân bố của các cư dân nói cổ cũng phân loại một số khu vực văn ngôn ngữ Nam Á [1, p. 25], hay những minh kim khí tiêu biểu của Đông Nam tương đồng về mặt loại hình sản phẩm Á bao gồm: khu vực kim khí Bắc Lào, và kỹ thuật chế tác [8, p. 75]. Những chủ yếu là tại Luang Prabang; khu vực người Đông Nam Á cổ xưa cũng đã biết kim khí Đông Bắc Thái Lan, chủ yếu tại chế tạo đồ gốm từ rất sớm và nhiều hiện bản Chiang và bản Na Di; khu vực kim vật còn lưu lại cho đến ngày nay được khí Malaysia; khu vực kim khí tìm thấy rải rác hầu hết mọi vùng đất Indonesia; khu vực kim khí Philippine, của cả bộ phận đất liền lẫn hải đảo của chủ yếu tại Kalanay [8, pp. 125–129]. khu vực này [1, pp. 23–26]. Nhiều học giả cho rằng kỹ nghệ làm gốm có lẽ đã Đặc điểm loại hình chế tác và kỹ đi theo nhóm dân Nam Đảo di cư từ Đài thuật luyện kim của các khu vực kim Loan, và những người này có lẽ còn khí này có nhiều nét tương đồng, có thể đem cả nghề dệt vải đến nơi đây với dự đoán về một lịch sử giao lưu mật trình độ trang trí tương đối đặc sắc [1, thiết và có ảnh hưởng lẫn nhau. Tóm 6
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… lại, nền văn hoá kim khí tại Đông Nam 20]. Á đã đạt đến trình độ phát triển cao, và Các di tích khảo cổ xa xưa cũng khả năng ta có thể dự đoán đến từ sự minh chứng cho những dấu vết văn hoá thúc đẩy của hoạt động canh tác nông tinh thần của cư dân bản địa. Như ta nghiệp nơi này. thấy từ thời đại kim khí ở Đông Nam Á, Những di chỉ khảo cổ cho thấy sản nhiều di chỉ mộ chum được tìm thấy xuất nông nghiệp tại Đông Nam Á đã phần lớn trên các gò đất cao, bên trong có từ 3.000-2.000 năm TCN, với dấu chứa đựng nhiều đồ tuỳ táng mô phỏng vết về sự thuần hoá cây lúa nước, cùng một đời sống hiện thực, tiêu biểu như việc sử dụng phổ biến các nông cụ và khu di chỉ mộ táng Kalanay tại đồ dùng gốm [5, p. 18]. Tại cao nguyên Philippine, có nhiều nét tương đồng với Khorat ở Thái Lan ngày nay vẫn còn các khu mộ táng được khai quật ở khu lưu những dấu vết của các công trình vực văn hoá Sa Huỳnh và khu vực sông thuỷ lợi có niên đại khoảng 3.000 năm Đồng Nai [8]. Những vật tuỳ táng tái TCN gồm hồ chứa và kênh mương hiện đời sống hiện thực, phản ánh cái nhằm dẫn nước tưới tiêu phục vụ nghề nhìn của người xưa về sự sống sau cái trồng lúa, cùng vết tích những khu định chết, đồng thời cho thấy một tâm thức cư lớn của con người quanh đó [5, p. trân trọng, thờ kính người thân quá cố, 19], được cho là của nhóm dân cư canh một biểu hiện của tín ngưỡng gia tiên. tác và hộ vệ các công trình này. Chính Theo đúc kết của học giả G. Cœdès đời sống canh tác nông nghiệp đưa đến (1975) thì cư dân Đông Nam Á bản địa yêu cầu về chế tạo nông cụ, cũng như bên cạnh tập tục mai táng mộ chum, họ các dụng cụ xây dựng công trình thuỷ còn có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín lợi, có lẽ đã thúc đẩy cư dân Đông Nam ngưỡng thờ gia tiên và thần đất đai; có Á sớm khai thác và cải tiến các kỹ thuật quan niệm xây đền thờ ở cao ráo; và luyện chế kim loại, như nhiều ý kiến quan niệm thần thoại chứa đựng các cặp vẫn cho rằng văn minh kim khí nội sinh nhị nguyên đối lập giữa các thực thể tự từ sớm nơi khu vực này chứ không phải nhiên [9, pp. 8–10]. Đặc điểm nhận chịu sự ảnh hưởng bên ngoài. Sự ảnh thức ấy, có thể xét đến phát hiện của hưởng khả dĩ có lẽ là việc người Đông Trần Quốc Vượng rằng hoạ tiết trống Nam Á tiếp nhận kỹ nghệ đồ sắt từ đồng Đông Sơn cho thấy từ xa xưa Trung Hoa hoặc Ấn Độ từ khoảng 500 người Việt đã có lối tư duy lưỡng phân năm TCN, khi mà các con đường giao / lưỡng hợp và tư duy nhân quả theo chu lưu giữa Đông Nam Á với hai cái nôi trình thời gian gắn với hoạt động gieo văn minh này đã xuất hiện [5, pp. 19– trồng, sinh sôi, phát triển mà ông gọi đó 7
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự là một kiểu tư duy biện chứng cổ xưa Đông Nam Á lục địa cho đến hải đảo, [10, pp. 62–63]. Có thể thấy, lề lối nhận phản ánh một lịch sử giao lưu tương tác thức cũng như quan niệm tín ngưỡng mật thiết [12, pp. 112–115] cũng như của cư dân Đông Nam Á cổ xưa chủ nét đặc thù văn hoá kiến trúc nơi này. yếu mang đặc điểm duy nhiên, đúc kết Theo tác giả Từ Chi, mô hình tổ chức từ kinh nghiệm thực tiễn quan sát trong cộng đồng của cư dân Đông Nam Á bản tự nhiên mà cụ thể có lẽ là kinh nghiệm địa biểu thị một tính chất dân chủ công từ hoạt động sản xuất. Đời sống canh xã cổ xưa, mà ông mô hình hoá thành tác nông nghiệp khiến con người có lối ba vòng tròn đồng tâm: Trung tâm là vị sống gần gũi và biết trân quý, tôn trọng trưởng làng hay trưởng bản; Vòng kế là sinh giới tự nhiên, dẫn đến hành vi siêu hội đồng già làng; vòng ngoài là hội linh hoá các thực thể thiên nhiên quanh nghị toàn thể cư dân [12, pp. 122–123], họ. Từ niềm tin duy nhiên đến từ nông một mô hình phản ánh tính cộng đồng nghiệp, người Đông Nam Á có lối tư tiêu biểu. duy chuộng sự phân đôi, sinh sôi nảy nở Như vậy, có thể thấy trước khi tiếp đưa đến hình thành tín ngưỡng phồn nhận văn hoá Ấn Độ, cư dân Đông Nam thực hay tín ngưỡng hồn lúa [11, pp. Á đã có một nền văn hoá riêng, độc lập, 216–222], mà có lẽ vì thế người phụ nữ, và ở một trình độ phát triển nhất định đại biểu cho sự sinh nở, có vị thế cao với những nét bản sắc đặc thù. Sự tiếp trong xã hội nơi này, nhiều tộc người nhận văn hoá Ấn Độ, cả về hàm lượng nay vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ [9, lẫn nội dung, ắt hẳn chịu sự quy định p. 10]. của cơ tầng văn hoá gốc này, do đó, các Đời sống nông nghiệp lúa nước đặc phân tích theo sau sẽ căn cứ vào đây để thù cũng khiến các cư dân tổ chức cộng làm rõ đặc điểm nhu cầu và sự chọn lựa đồng thành làng xã và cùng chung sống của cư dân Đông Nam Á trong tiếp giữa nhiều thế hệ. Những “tàn tích”, nói nhận hoặc giả cải biên sáng tạo truyền theo ngôn ngữ của E.B. Tylor, nơi các thống từ những chất liệu ngoại nhập, cụm nhà sàn và những nhà rông, nhà thông qua so sánh tính chất tương đồng lớn, cùng các đơn vị hành chính như hay mâu thuẫn giữa các giá trị nội địa buôn, bản, mường còn lại ngày nay và Ấn Độ. Đây sẽ là cơ sở để tiến tới chính là biểu hiện cho một truyền thống phát hiện tính cách con người Đông quần cư đa thế hệ như thế. Bên cạnh đó, Nam Á trong hoạt động tiếp biến văn các kiến trúc nhà sàn, nhà rông của cư hoá. dân Đông Nam Á có nét tương tự nhau 2.4. Bối cảnh tiếp nhận giữa các quốc gia-dân tộc trải từ vùng 8
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… Từ khoảng những năm đầu Công Theo Nguyễn Thế Anh (1972), nguyên, người Ấn Độ bắt đầu tìm đến người Ấn Độ tìm đến Đông Nam Á như khu vực phía Đông với động cơ tìm là một hệ quả của kỹ nghệ giao thương kiếm vàng (thư tịch cổ gọi Đông Nam tại Ấn phát triển và trong thời kỳ họ tìm Á là Suvanabhumi – Xứ sở Vàng) và thấy thị trường mới tại Trung Hoa, do gia vị, nhưng cũng mang theo các tôn đó Đông Nam Á như vùng đệm trung giáo và chữ Phạn, nhờ những chiếc gian được tận dụng khai thác thêm các thuyền lớn có thể vượt biển và chở tới lợi ích. Nhu cầu của các tộc trưởng và sáu, bảy trăm người. Tác giả G. Coedès lãnh đạo cư dân bản địa Đông Nam Á cho rằng đạo Phật có vai trò rất quan về giá trị củng cố quyền lực từ niềm tin trọng trong sự phát triển hàng hải này Ấn giáo cũng góp phần thúc đẩy quá của Ấn Độ, nhờ tư tưởng xóa bỏ rào cản trình này [6, p. 16]. giai cấp của tôn giáo này đồng thời đã Sự tiếp nhận văn hoá Ấn Độ tại Đông triệt tiêu “nỗi lo sợ bị ô nhiễm vì phải Nam Á là một quá trình diễn ra liên tục, tiếp xúc với các man di (tức thuyền tuy nhiên có sự khác biệt về nội dung nhân nô lệ)” của những khách thương và mức độ qua mỗi thời kỳ lịch sử khác và tăng lữ [9, p. 23]. Trong những nhau. Tác giả Lương Ninh (1998) chia chuyến hải trình dài ngày ấy, các quá trình truyền bá văn hoá Ấn Độ vào thương nhân Ấn Độ chở theo các nhà tu Đông Nam Á thành ba giai đoạn: (1) hành kiêm thầy thuốc, thầy cúng và Thế kỷ II-III, truyền bá tôn giáo, tượng thầy pháp, trên thuyền họ thờ tượng bồ thờ và văn tự trong thời điểm Đông tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và Nam Á chưa có chữ viết và văn minh đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) được nhà nước; (2) Thế kỷ IV-VI, truyền quan niệm sẽ “làm sóng yên biển lặng”, Phật giáo và chữ Pali; (3) Thế kỷ VII- che chở cho thủy thủ đoàn [9, pp. 23– X, các công trình lớn và mô hình nhà 24], [13, p. 26], [14, p. 111]. Từ chi tiết nước phong cách Ấn; (4) Sau đó, bản này, ta nhận ra hình ảnh của Phật giáo địa hoá mạnh mẽ [15, pp. 68–73]. Đại thừa thông qua hình tượng từ bi cứu khổ của các vị Bồ tát, và như vậy, quá 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TRONG trình lan tỏa của văn hóa Ấn không chỉ TIẾP BIẾN VĂN HOÁ ẤN ĐỘ CỦA song hành với hoạt động thương mại CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á TRÊN đường biển, mà còn gắn liền với sự PHƯƠNG DIỆN TINH THẦN truyền bá Phật giáo Đại thừa và tất Vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhiên là đồng thời cả với việc truyền bá cư dân Đông Nam Á chịu ảnh hưởng đạo Bà-la-môn giáo nữa. đậm nét của tư tưởng Ấn Độ. Với 9
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự phương diện vũ trụ quan, có thể khảo tương đồng với hiện trạng bản xứ của sát thông qua về sự biến đổi tư duy thần chúng: Ta thấy Phật giáo truyền bá thoại của người Chăm trước và sau khi mạnh và phát triển tại Đông Nam Á vào tiếp nhận văn hoá Ấn Độ, qua hai thần những thời điểm mà tại Ấn Độ tôn giáo thoại sáng thế Sakkarai Krân ka Nam này chiếm ưu thế: Từ thế kỷ III Tr.CN mâk mang kal lak và Damnưy Ppadauk – đầu CN và giai đoạn thế kỷ V-VII; Tanưh Riya [16, pp. 625–626]. Theo đó trong khi Ấn Độ giáo phát triển ưu thế từ cơ sở tư duy thần thoại duy nhiên, cả ở Ấn Độ lẫn tại Đông Nam Á từ thế vay mượn các yếu tố tự nhiên với sự đối kỷ VIII-XII [17, pp. 147–148]; và (2) tư lập, phân đôi gắn liền đặc điểm nhận tưởng chính thống chủ yếu thâm nhập thức bản địa của cư dân Đông Nam Á, giới vương quyền, dân gian hầu như chỉ sau khi tiếp nhận văn hoá Ấn Độ người tiếp nhận thông qua các sử thi và giai Chăm đã cải biến sáng thế luận dựa trên thoại, truyện kể. bản thể thần tính siêu việt, siêu nhiên, Trong nhận thức về quyền lực cai trị và tư duy cặp đôi bị thay thế thành cấu và luật lệ xã hội, các vương quốc cổ trúc các con số biểu tượng. Đông Nam Á đã tiếp nhận chủ động thể Về nhân sinh quan, triết lý sống và thức vua thần (devaraja) gắn kết giữa hành động đến từ việc lưu truyền các thế quyền với thần quyền từ Ấn Độ, nhà phiên bản của Jataka, Mahabharata, vua đồng nhất mình với thần linh hoặc Ramayana hay Panchatantra, Phật, Bồ-tát [1, p. 351], [9, pp. 22–23]. Niddesa… mà theo Cœdès được tìm Sự lựa chọn chủ động này có thể lý giải thấy các trích đoạn rất sớm tại Đông từ nguyên do các tín ngưỡng, quan Nam Á [9, p. 16] đã vun bồi trong nhân niệm nhận thức bản địa của người Đông dân nơi này những lý tưởng về cái Nam Á hoàn toàn thiếu vắng một học thiện, về chính nghĩa, lòng nhân ái, từ thuyết củng cố cho vương quyền hay bi, lý tưởng sống vị tha, hòa bình, hòa thiết lập một niềm tin sùng bái tập thể hợp, tức những giá trị thực ra vốn đã của toàn dân mà qua đó có thể liên hệ manh nha và được nuôi dưỡng từ trong đến vai trò nhà lãnh đạo. Như vậy, đây cơ tầng văn hóa bản địa (văn hóa nông là khía cạnh mà tư tưởng Ấn Độ có thể nghiệp) của họ. bổ sung hiệu quả. Về tôn giáo, đặc điểm chung của sự Một đặc điểm tổ chức nhà nước hiệu tiếp nhận Phật giáo và Bà-la-môn giáo quả khác được cư dân Đông Nam Á tiếp tại Đông Nam Á có thể được đúc kết thu là quan niệm bành trướng lãnh thổ như sau: (1) đó là quá trình tiếp nhận, và thiết lập bộ máy cai trị phân cấp độc tồn tại và phát triển của các tôn giáo này lập chịu sự lệ thuộc trung ương thay cho 10
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… mô hình làng bản tự quản cũ [6, pp. 18– người Chăm sáng tạo ra chữ viết cho 19] dựa theo thể thức mandala tức vũ riêng họ gồm có 31 phụ âm và 32 âm trụ quan Meru của Ấn Độ [1, p. 354]. Ở sắc, xuất hiện lần đầu tiên trong bia đây ta có thể dễ dàng liên hệ thấy nét Đông Yên Châu (Quảng Nam) và được tương đồng với nhận thức tổ chức xã xem là tấm bia cổ nhất ghi bằng chữ địa hội Đông Nam Á bản địa với ba lớp phương ở Đông Nam Á [19, p. 65]. Các quyền hành của một bản làng như đã đề dân tộc khác tại Đông Nam Á cũng dựa cập ở trên như một cải tiến bổ sung cho theo chữ Phạn chế tạo nên chữ viết của một bối cảnh xây dựng cơ chế điều riêng mình từ thế kỷ VII-XIV [17, p. hành mới ở quy mô cấp nhà nước, 122]. nhưng vẫn đảm bảo tính liên hệ chặt Như vậy, có thể thấy chữ viết của cư chẽ, sự tự trị tự quản hiệu quả và quan dân Đông Nam Á tuy chịu ảnh hưởng trọng nhất là tinh thần dân chủ cố hữu. sâu sắc từ văn tự Ấn Độ, nhưng tiến Bên cạnh những tiếp nhận, các nhà trình lịch sử đã khẳng định tinh thần nghiên cứu cùng thống nhất chỉ ra rằng độc lập văn hoá và ý thức dân tộc của cư dân Đông Nam Á đã khước từ thẳng họ trong việc cải biến từ chất liệu học thắn quan niệm Ấn Độ về chế độ đẳng tập được, bổ sung các sáng tạo tự thân cấp hà khắc, cũng như sự hạ thấp vai trò để hình thành nên chữ viết đặc trưng của nữ giới trong xã hội [1], [5], [9], cho dân tộc mình. xuất phát từ sự dị biệt gốc rễ văn hoá 4. KẾT LUẬN bản địa và những niềm tin tập quán đã ăn sâu tâm thức cư dân nơi này về các Có thể tổng hợp mấy ý sau về cơ sở giềng mối quan hệ xã hội. quy định sự tiếp nhận văn hoá Ấn Độ của cư dân Đông Nam Á. Trước hết, vị Về mặt chữ viết, có một số giả thuyết trí địa lý trên trục giao thương Ấn Độ - cho rằng trước tiếp xúc, giao lưu với Trung Hoa khiến người Ấn Độ sớm tìm các nền văn hoá bên ngoài, cư dân đến Đông Nam Á, và nguồn tài nguyên Đông Nam Á đã có văn tự nội sinh như tự nhiên cùng sản phẩm nơi đây đã thu quan điểm của học giả Hà Văn Tấn về hút họ duy trì giao lưu trong bối cảnh chữ viết Đông Sơn [17, p. 120]. Tuy lịch sử và văn hoá Ấn Độ đưa đến sự vậy, nhận định trên dừng lại ở mặt giả hướng ngoại. Gần gũi trong dân cư và thuyết. Thực tế các cư dân Đông Nam văn hoá giữa Đông Nam Á và Ấn Độ Á biết đến và sử dụng chữ Ấn Độ từ rất cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình thêm sớm, như các chứng tích bi ký Sanskrit sâu rộng. ở Phù Nam và Champa từ thế kỷ thứ II- IV [14], [18]. Trên cơ sở chữ Phạn, Tuy nhiên, nền tảng văn hoá tương 11
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự đối vững vàng và không ít khác biệt với dân nơi này thuộc loại hình nằm giữa sự Ấn Độ đã khiến cư dân Đông Nam Á chấp nhận và thích nghi, khẳng định không hề học hỏi một phía mà luôn chủ tính cách khoan dung và cởi mở trong động chọn lọc và tiếp thu những yếu tố giao lưu học hỏi nhưng luôn đề cao tự phù hợp, bảo lưu các giá trị nội tại. Từ hào bản sắc riêng biệt. lý thuyết tiếp biến văn hoá cho thấy cư TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] D. G. E. Hall, Lịch sử Đông Nam Á. Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 1997. [2] R. Redpield, R. Linton, and M. J. Herskovits, “Memorandum for The Study of Acculturation,” Am. Anthropol., no. 38, 1936. [3] Nguyễn Đình Khoa, Nhân chủng học Đông Nam Á. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1983. [4] N. Tarling, Ed., The Cambridge History of Southeast Asian. Vol. 1: From Early Time to c. 1800, 1st ed. Melbourne: The Cambridge University Press, 1994. [5] M. S. Heidhues, Lịch sử phát triển Đông Nam Á: Từ hình thành đến hiện đại (Huỳnh Kim Oanh và Phạm Viêm Phương dịch). Hà Nội: Văn hoá Thông tin, 2007. [6] Nguyễn Thế Anh, Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á trừ Việt Nam (Từ nguyên sơ đến thế kỷ XVI). Sài Gòn: Lửa Thiêng, 1972. [7] M. Osborne, Southeast Asia: An Introductory History. Crows Nest, New South Wales: Allen & Unwin, 2016. [8] Hà Văn Tấn và cộng sự, Về khảo cổ học tiền sử Đông Nam Á. Hà Nội: Viện Đông Nam Á, 1983. [9] G. Cœdès, The Indianized States of Southeast Asia (Translated by S. B. Cowing). Canberra: Australian University Press, 1975. [10] Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử: Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá Thông tin, 1996. [11] Nguyễn Tấn Đắc, Văn hoá Đông Nam Á. Thành phố Hồ Chí Minh: Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2005. [12] Phạm Đức Dương and Trần Thị Thu Lương, Văn hoá Đông Nam Á. Hà Nội: Giáo dục, 2001. [13] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận. Hà Nội: Văn học, 2010. [14] Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XIX (Nguyễn Nghị dịch). Hà Nội: NXB Thế Giới, 2014. 12
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Cơ Sở Cho Quá Trình… [15] Lương Ninh, “Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ với văn hoá Đông Nam Á,” Văn hoá nghệ thuật nước ngoài, vol. 5, no. 167, pp. 68–75, 1998. [16] Trương Văn Món, “Sự hỗn dung văn hóa, Chăm-Việt, Hiện tượng thờ Nữ Thần Po Ina Nagaa, Miền Trung, Việt Nam,” in Văn hóa thờ Nữ thần - Mẫu ở Việt Nam và châu Á: Bản sắc và giá trị, Hội Folklore châu Á - Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Ed. Hà Nội: Thế giới, 2013, pp. 617–633. [17] Mai Ngọc Chừ, Văn hoá Đông Nam Á. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998. [18] Ngô Văn Doanh, Văn hoá cổ Chămpa. Hà Nội: Văn hoá Dân tộc, 2002. [19] Trương Hữu Quýnh and Đào Tố Uyên, Các nền văn minh trên đất nước Việt Nam. Hà Nội: Giáo dục, 1998. 13
- TC KH&CN- BDU, Vol.4 № 4/2021 Lê Ái Phú và cộng sự THE BASIC CONDITIONS IN ACCULTURATION WITH INDIA OF SOUTHEAST ASIANS Phu Le Ai1, Khanh Nguyen Truong2 1 Binh Duong University, Thu Dau Mot City, Binh Duong Province, Viet Nam 2 The University of Social Sciences and Humanities, Viet Nam National University Ho Chi Minh City ABSTRACT Southeast Asia - one of the cradles of the world ancient agriculture, located in the area from the south of the Yangtze River to the northeastern of India - has been considered as a region with a unique history and culture. Thereby, natives have created their indigenous distinctive cultural foundation with a relatively highly-developed level throughout the development process. Also, to foster and diversify their endogenous cultures, they have constantly been receiving external cultures, one of which is Indian culture. The acculturation between Indian culture and Southeast Asia's endogenous culture led to the formation of many unique cultural features with its own identities compared to other cultures in the same region. Up to now, “the marriage” of two cultures has created unity and diversity of cultures in Southeast Asia. This study aims to search for basic conditions which determined the special cultural exchange results between India and Southeast Asia. Keywords: acculturation; identity; India; Southeast Asia. Liên hệ: Lê Ái Phú Trường Đại học Bình Dương Số 504 Đại lộ Bình Dương, P. Hiệp Thành, Tp. Thủ Dầu Một, Bình Dương. E-mail: leaiphu@bdu.edu.vn 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cơ sở lý thuyết ngữ dụng học (Tập 1): Phần 2
232 p | 384 | 86
-
Cơ sở lý luận phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
17 p | 298 | 85
-
Giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài (Chương trình cơ sở): Phần 2
114 p | 34 | 15
-
Thực trạng công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ ở các trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ các nhà quản lý cấp cơ sở
7 p | 89 | 6
-
Một số biện pháp quản lí hoạt động thư viện hướng tới giáo dục văn hóa đọc cho học sinh các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội
6 p | 118 | 6
-
Phát triển năng lực khoa học tự nhiên cho học sinh trung học cơ sở trong dạy học môn khoa học tự nhiên thông qua sử dụng bài tập tiếp cận theo chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA
5 p | 227 | 5
-
Một số biện pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn Toán ở trường trung học cơ sở
6 p | 101 | 4
-
Phật giáo nhập thế - Tiếp cận từ tư tưởng Phật giáo nhập thế của Trần Nhân Tông
18 p | 60 | 4
-
Một số nhận xét về sự tác động của các yếu tố gia đình và xã hội đến quá trình tự rèn luyện tư cách đạo đức của học sinh Trung học Phổ thông tại TP Hồ Chí Minh
8 p | 50 | 4
-
Ưu điểm và nhược điểm của một số hình thức đánh giá quá trình học tập
6 p | 256 | 4
-
Một giải pháp chuyển đổi từ cơ sở dữ liệu quan hệ sang mô hình dữ liệu cho Web ngữ nghĩa - Lương Thái Ngọc, Nguyễn Hữu Duyệt
9 p | 70 | 4
-
Bồi dưỡng năng lực khoa học cho học sinh trung học cơ sở thông qua sử dụng bài tập tiếp cận PISA
10 p | 49 | 3
-
Chuyển đổi số và những định hướng chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số: Hàm ý cho các doanh nghiệp và cơ sở giáo dục
7 p | 12 | 3
-
Sử dụng bài tập tiếp cận Pisa nhằm phát triển năng lực khoa học tự nhiên của học sinh ở trường trung học cơ sở
16 p | 56 | 2
-
Hiệu quả của chương trình can thiệp trẻ tự kỷ dựa trên sự kết hợp giữa gia đình và cơ sở can thiệp
7 p | 66 | 2
-
Quá trình ổn định đời sống nhân dân vùng tái định cư thủy điện Sơn La ở huyện Quỳnh Nhai
8 p | 45 | 2
-
Một số yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế tại các cơ sở đào tạo ở Hà Nội
4 p | 42 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn