Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐẶC ĐIỂM DẬY THÌ SỚM TRUNG ƯƠNG Ở TRẺ EM<br />
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 2010 ĐẾN 2013<br />
Huỳnh Thị Vũ Quỳnh*, Phạm Minh Thu*, Lê Minh Tường Vân*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng và nguyên nhân dậy thì sớm trung ương ở<br />
trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 1/2010-12/2013.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.<br />
Kết quả: 159 trẻ dậy thì sớm trung ương được khảo sát. Tuổi trung bình khởi phát dậy thì sớm là 6,19 tuổi,<br />
đa số là trẻ nữ (nữ/nam: 18,875/1). Thừa cân 31%, béo phì 17%. Chiều cao tiến triển so với tuổi: 35,8%. Triệu<br />
chứng lâm sàng thường gặp nhất ở bé gái là vú to, ở bé trai là lông mu. Tuổi xương tiến triển chiếm 90%, tuổi<br />
xương – tuổi thực trung bình: 29,95 tháng. LH nền trung bình: 1,979 mIU/mL, chọn nồng độ LH nền càng thấp<br />
làm điểm cắt càng ít bỏ sót các trường hợp dậy thì sớm trung ương. Trong nghiệm pháp kích thích GnRH, đa số<br />
các trường hợp LH đạt giá trị điểm cắt tại thời điểm 30 phút (87,7%). Estradiol/bé gái: 54,4% đạt mức dậy thì.<br />
Bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên trên MRI não chiếm 15,7%. Trong đó, microadenoma tuyến yên 56%;<br />
hamartoma hạ đồi 16%. Nang buồng trứng: 27%.<br />
Kết luận: Dậy thì sớm trung ương ở trẻ em thường gặp ở giới nữ. Trẻ thường có triệu chứng thừa cân hoặc<br />
béo phì. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là vú to và lông mu. Đa số dậy thì sớm trung ương là vô căn; 15,7%<br />
có bất thường vùng hạ đồi-tuyến yên.<br />
Từ khóa: Dậy thì sớm, trung ương, nguyên nhân.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE CHARACTERISTICS OF EPIDEMIOLOGY, CLINICAL AND CAUSES<br />
OF PRECOCIOUS PUBERTY IN CHILDREN’S HOSPITAL 2 FROM 1/2010 -12/2013<br />
Huynh Thi Vu Quynh, Pham Minh Thu, Le Minh Tuong Van<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 8 - 14<br />
Objectives: To describe the characteristics of central precocious puberty in patients at Children’s Hospital 2<br />
from 1/2010-12/2013.<br />
Method: Case-series study.<br />
Results: There were 159 precocious puberty cases. The mean age was 6.19; most of them were female<br />
(female/male: 18.875/1). The rate of overweight was 31%, obesity was 17%, and accelerated height was 35.8%.<br />
Most common symptom was breast enlargement in female (98%), pubic hair (100%). Advanced bone age: 90%<br />
mean bone age - chronological bone: 29.95 months. Mean basal LH: 1.979 mIU/mL. In GnRH stimulation test,<br />
peak LH was at 30 minutes in most of case (87.7%). Estradiol/females: 54.4% at pubertal level. 84.3% was<br />
idiopathic central precocious puberty; 15.7% caused of hypothalamus-pituitary lesions (microadenoma: 56%,<br />
hamartoma: 16%).<br />
Conclusions: Precocious puberty was more common in female. Patients were usually overweight or obesity.<br />
Most common symptoms were breast enlargement and pubic hair. Most of cases were idiopathic, 15.7% caused of<br />
hypothalamus-pituitary lesions.<br />
* Bệnh viện Nhi Đồng 2.<br />
Tác giả liên lạc: Bs Huỳnh Thị Vũ Quỳnh<br />
<br />
8<br />
<br />
ĐT: 0989350127<br />
<br />
Email: huynhvuquynhnt@yahoo.com<br />
<br />
Chuyên Đề Nhi Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Key words: Precocious puberty, central, causes.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Dậy thì sớm ngày càng phổ biến trên thế<br />
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuổi khởi<br />
phát dậy thì hoặc xuất hiện các dấu hiệu của dậy<br />
thì có khuynh hướng ngày càng giảm(13).<br />
Dậy thì sớm dẫn đến nhiều vấn đề khác<br />
nhau, như các rối loạn về hành vi ứng xử, tâm lý,<br />
lạm dụng tình dục, có thai sớm, đặc biệt dậy thì<br />
sớm trung ương gây giới hạn phát triển chiều<br />
cao(18).<br />
Chẩn đoán dậy thì sớm trung ương khi<br />
chứng minh được sự hoạt hóa trục hạ đồi –<br />
tuyến yên – tuyến sinh dục sớm hơn tuổi dậy thì<br />
bình thường của trẻ. Phương pháp chuẩn để xác<br />
định sự hoạt hóa của trục hạ đồi - tuyến yên là<br />
đánh giá sự đáp ứng hormon hướng sinh dục<br />
với GnRH hoặc chất đồng dạng với GnRH<br />
(GnRH analog).<br />
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về<br />
dậy thì sớm cũng như dậy thì sớm trung ương ở<br />
trẻ em. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề dậy thì<br />
sớm vẫn còn ít được quan tâm và nghiên cứu.<br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận<br />
lâm sàng và nguyên nhân dậy thì sớm trung<br />
ương ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng<br />
1/2010-12/2013.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG–PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Mô tả hàng loạt ca.<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Tất cả trẻ đã chẩn đoán dậy thì sớm tại bệnh<br />
viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ tháng 1/201012/2013.<br />
<br />
Phương pháp lấy mẫu<br />
Lấy trọn.<br />
<br />
Chuyên Đề Nhi Khoa<br />
<br />
Tiêu chí đưa vào<br />
Tất cả trẻ được chẩn đoán dậy thì sớm trung<br />
tương tại bệnh viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ<br />
tháng 1/2010-12/2013 với các tiêu chuẩn sau.<br />
Tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm<br />
Phát triển một trong các đặc tính sinh dục<br />
thứ phát trước 8 tuổi ở trẻ nữ và trước 9 tuổi ở<br />
trẻ nam.<br />
Trẻ nữ có kinh nguyệt trước 10 tuổi.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm trung ương<br />
Nồng độ LH nền ≥ 0,3 mIU/ml (độ đặc hiệu<br />
100%).<br />
Hoặc nghiệm pháp kích thích GnRH (+) (LH<br />
≥ 5 mIU/ml) (tiêu chuẩn vàng).<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Hồ sơ không theo bệnh án nghiên cứu.<br />
<br />
Thu thập dữ liệu<br />
Ghi nhận các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng như<br />
tuổi, giới tính, tiền căn, cân nặng, chiều cao, BMI,<br />
lý do nhập viện, các triệu chứng lâm sàng (vú to,<br />
lông mu, lông nách, kinh nguyệt, huyết trắng,<br />
tinh hoàn lớn, dương vật lớn), các kết quả cận<br />
lâm sàng như tuổi xương, nồng độ hormon<br />
hướng sinh dục nền, nghiệm pháp kích thích<br />
bằng GnRH, nồng độ hormon sinh dục, kết quả<br />
MRI hạ đồi – tuyến yên. Trong đó, bách phân vị<br />
cân nặng, chiều cao, BMI xác định dựa theo biểu<br />
đồ tăng trưởng của tổ chức Y tế thế giới, thừa<br />
cân và béo phì khi BMI theo tuổi ≥ bách phân vị<br />
thứ 85 và 95, chiều cao tiến triển so với tuổi khi<br />
chiều cao theo tuổi ≥ bách phân vị thứ 95. Tuổi<br />
xương được đánh giá dựa trên X quang xương<br />
bàn tay trái, đọc kết quả theo hệ thống X quang<br />
tuổi xương chuẩn của Greulich – Pyle. Tuổi<br />
xương tiến triển so với tuổi thực khi tuổi xương –<br />
tuổi thực ≥ 6 tháng. Nồng độ estradiol mức dậy<br />
thì khi ≥ 25 pg/mL, nồng độ testosterone mức<br />
dậy thì khi ≥ 20 ng/dL(11).<br />
<br />
9<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
Xử lý số liệu<br />
<br />
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS và<br />
Excell. Các biến số định lượng trình bày dưới<br />
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến số<br />
định tính trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ %.<br />
Tương quan giữa các biến số khảo sát bằng phép<br />
kiểm chi bình phương cho biến định tính, tstudent cho biến định lượng. Giá trị ≤ 0,05: khác<br />
biệt có ý nghĩa thống kê.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Từ 1/2010 đến 12/2013, tại bệnh viện Nhi<br />
Đồng 2 có 159 trường hợp thỏa lưu đồ chẩn đoán<br />
dậy thì sớm trung ương.<br />
<br />
Đặc điểm dịch tễ<br />
Tỉ lệ nữ/nam: 18,875/1. Tuổi khởi phát dậy<br />
thì sớm trung bình: 6,19 tuổi (2 tháng tuổi – 8<br />
tuổi 3 tháng). 1 trường hợp ghi nhận mẹ sử dụng<br />
thuốc ngừa thai khi cho bé bú.<br />
<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
BMI: 31% thừa cân; 17 % béo phì.<br />
Chiều cao: 36% tiến triển so với tuổi.<br />
Tất cả các trường hợp dậy thì sớm trung<br />
ương trong nghiên cứu của chúng tôi là đồng<br />
giới. Triệu chứng thường gặp nhất ở bé gái là vú<br />
to (98%); ở bé trai là lông mu (100%).<br />
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng ở bé gái.<br />
Vú to<br />
Lông mu<br />
Lông nách<br />
Huyết trắng<br />
Kinh nguyệt<br />
Mụn<br />
<br />
Tần số<br />
148<br />
67<br />
53<br />
23<br />
22<br />
11<br />
<br />
%<br />
98<br />
44,4<br />
35,1<br />
15,2<br />
14,6<br />
7,3<br />
<br />
Bảng 2: Phân độ Tanner vú to/bé gái.<br />
Tanner 2<br />
Tanner 3<br />
Tanner 4<br />
<br />
Tần số<br />
54<br />
50<br />
8<br />
<br />
%<br />
48,2<br />
44,6<br />
7,1<br />
<br />
Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng bé trai.<br />
Lông mu<br />
Dương vật lớn<br />
Tinh hoàn lớn<br />
<br />
10<br />
<br />
Tần số<br />
8<br />
6<br />
5<br />
<br />
%<br />
100<br />
75<br />
62,5<br />
<br />
Râu<br />
Lông nách<br />
Mụn<br />
<br />
Tần số<br />
5<br />
1<br />
1<br />
<br />
%<br />
62,5<br />
12,5<br />
12,5<br />
<br />
Đặc điểm cận lâm sàng<br />
Về tuổi xương<br />
90% các trường hợp dậy thì sớm trung ương<br />
có tuổi xương tiến triển. Trong đó, tuổi xương<br />
trung bình: 9,79 tuổi, tuổi xương – tuổi thực<br />
trung bình: 29,95 tháng.<br />
Về nồng độ hormon hướng sinh dục<br />
Bảng 4: Nồng độ LH nền và LH đỉnh trong nghiệm<br />
pháp kích thích GnRH (mIU/mL).<br />
LH nền<br />
LH đỉnh<br />
<br />
Trung bình<br />
1,979<br />
26,591<br />
<br />
SD<br />
2,208<br />
22,68<br />
<br />
Nhỏ nhất<br />
0,07<br />
5,09<br />
<br />
Lớn nhất<br />
12,93<br />
209,43<br />
<br />
Bảng 5: Khảo sát một số điểm cắt LH nền<br />
Điểm cắt LH nền<br />
1 mIU/mL<br />
0,6 mIU/mL<br />
0,3 mIU/mL<br />
0,1 mIU/mL<br />
<br />
Số trường hợp bỏ sót (%)<br />
66 (53,7%)<br />
49 (39,8%)<br />
29 (23,6%)<br />
4 (3,3%)<br />
<br />
Bảng 6: Thời điểm LH đạt nồng độ điểm cắt (≥ 5<br />
mIU/mL).<br />
Thời điểm<br />
Trước test<br />
30 phút<br />
60 phút<br />
120 phút<br />
<br />
Số ca<br />
4<br />
114<br />
6<br />
6<br />
<br />
Phần trăm<br />
3,1%<br />
87,7%<br />
4,6%<br />
4,6%<br />
<br />
Phần lớn các trường hợp LH đạt nồng độ<br />
điểm cắt tại thời điểm 30 phút.<br />
<br />
Về nồng độ hormon sinh dục trong máu<br />
Bảng 7: Nồng độ hormon sinh dục.<br />
Estradiol<br />
Testosterone<br />
<br />
Trung bình<br />
37,285 (pg/mL)<br />
186,76 (ng/dL)<br />
<br />
% đạt mức dậy thì<br />
54,4%<br />
87,5%<br />
<br />
Về siêu âm, kích thước trung bình tử cung,<br />
đánh giá dựa vào đường kính trước sau: 15,772<br />
mm, kích thước buồng trứng trung bình, đánh<br />
giá dựa vào đường kính lớn nhất của buồng<br />
trứng lớn hơn: 20,126 mm. 27% các trường hợp<br />
ghi nhận nang buồng trứng, kích thước trung<br />
bình nang buồng trứng: 9,341 mm, giá trị lớn<br />
nhất là 32 mm, không ghi nhận chồi vách, nghĩ<br />
nhiều nang cơ năng. Ở bé trai, kích thước tinh<br />
<br />
Chuyên Đề Nhi Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015<br />
hoàn trung bình, đánh giá dựa trên đường kính<br />
lớn nhất của tinh hoàn lớn hơn: 25,7 mm. 50%<br />
trường hợp bé trai có đường kính tinh hoàn trên<br />
siêu âm đạt mức dậy thì (≥ 25 mm).<br />
<br />
Nguyên nhân dậy thì sớm trung ương<br />
Bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên trên<br />
MRI não: 15,7%. Trong đó, microadenoma tuyến<br />
yên chiếm tỷ lệ cao nhất (56%); kế đó là<br />
hamartoma vùng hạ đồi (16%). Ngoài ra còn ghi<br />
nhận: u tế bào mầm, u tuyến tùng, nang khe<br />
Rathke, tăng sản tuyến yên (mỗi loại 1 trường<br />
hợp). Các trường hợp còn lại là dậy thì sớm vô<br />
căn (84,3%).<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đặc điểm dịch tễ<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bé gái mắc<br />
bệnh nhiều hơn hẳn so với bé trai, phù hợp với y<br />
văn(16) và các nghiên cứu trước đây.<br />
Tuổi trung bình xuất hiện các dấu hiệu dậy<br />
thì sớm: 6,19 tuổi, thấp hơn so với tuổi trung<br />
bình của trẻ lúc nhập viện: 7,17 tuổi, cho thấy cha<br />
mẹ đưa bé đến khám khá trễ, tình trạng dậy thì<br />
sớm ở trẻ chưa được quan tâm đúng mức.<br />
<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
Tỉ lệ bệnh nhi thừa cân: 31%, béo phì: 17%,<br />
cao hơn hẳn so với tỉ lệ này trong dân số (ở<br />
Đông Nam Á năm 2010 lần lượt là 23% và 5%,<br />
phù hợp với giả thuyết thừa cân và béo phì là<br />
một trong những yếu tố nguy cơ của dậy thì<br />
sớm. Trong một số nghiên cứu có nhóm<br />
chứng, như nghiên cứu của Kaplowitz PB và<br />
cộng sự, chỉ số độ lệch chuẩn BMI trung bình<br />
cao hơn đáng kể ở nhóm những bé gái vú to so<br />
với những bé gái chưa phát triển tuyến vú (p <<br />
0,0001)(8).<br />
Về chiều cao, trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi, chỉ số độ lệch chuẩn (SDS) chiều cao trung<br />
bình là 1,155; thấp hơn nghiên cứu của Doosoo<br />
Kim và cộng sự: 1,4(9); Hyo-Kyoung Nam và<br />
cộng sự: 1,4(13) (P = 0,002) và Huseyin Demirbilek<br />
và cộng sự 1,34(4) (P = 0,02). Điều này có thể do<br />
thiết kế nghiên cứu và chọn mẫu khác nhau<br />
<br />
Chuyên Đề Nhi Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
(nghiên cứu của chúng tôi thu thập cả những<br />
trường hợp dậy thì sớm trung ương không tiến<br />
triển, còn những nghiên cứu khác chỉ thu thập<br />
những trẻ dậy thì sớm trung ương tiến triển),<br />
hoặc do tình trạng phát triển chiều cao khác<br />
nhau giữa các nước. Song, ở cả bốn nghiên cứu,<br />
chỉ số này đều > 1, cho thấy chiều cao trung bình<br />
của dân số nghiên cứu nằm ở mức cao so với<br />
dân số chuẩn, phù hợp với tình trạng tăng<br />
trưởng chiều cao nhanh so với tuổi ở những trẻ<br />
dậy thì sớm trung ương.<br />
Về triệu chứng lâm sàng, vú to là triệu chứng<br />
thường gặp nhất ở bé gái, chiếm 98%. Sau đó là<br />
lông mu 44,4%. Điều này hợp lý vì vú to là triệu<br />
chứng xuất hiện sớm nhất, chỉ sau sự tăng<br />
trưởng nhanh chiều cao. Ngoài ra, vú to và lông<br />
mu là 2 triệu chứng dễ dàng ghi nhận trên lâm<br />
sàng, có hệ thống phân độ Tanner chi tiết, cụ thể.<br />
Nghiên cứu của Paul Kaplowitz cũng cho thấy<br />
vú to và lông mu là hai triệu chứng thường gặp<br />
nhất ở các bé gái dậy thì sớm, chiếm tỷ lệ lần<br />
lượt là 89% và 33%(7).<br />
Ở bé trai, lông mu là triệu chứng thường gặp<br />
nhất (100%); sau đó là dương vật lớn (75%); râu<br />
và tinh hoàn lớn (62,5%). Điều này không phù<br />
hợp với y văn: tinh hoàn lớn là dấu hiệu dậy thì<br />
đầu tiên ở bé trai, tăng kích thước dương vật và<br />
lông mu xuất hiện sau đó khoảng 1 – 2 năm. Sự<br />
không hợp lý này có thể do lông mu là triệu<br />
chứng dễ dàng ghi nhận trên lâm sàng và xuất<br />
hiện ở tất cả các bé trai trong nghiên cứu, đủ để<br />
chẩn đoán dậy thì sớm ở bé trai, nên các bác sĩ<br />
khi thăm khám lâm sàng và ghi nhận vào hồ sơ<br />
có thể bỏ qua dữ kiện về kích thước tinh hoàn.<br />
<br />
Đặc điểm cận lâm sàng<br />
Tuổi xương, trung bình trong nghiên cứu<br />
của chúng tôi là 9,79 nhỏ hơn so với các tác giả<br />
Nam NK (9,8), Demerbilek H (10,6), Yazdani P<br />
(10,46). Điều này có lẽ là do tuổi trung bình<br />
trong nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn tuổi<br />
trung bình trong nghiên cứu của các tác giả<br />
trên. Hơn nữa, trong các ở đa số các nghiên cứu<br />
khác, các tác giả chỉ đo nồng độ LH nền hoặc sau<br />
<br />
11<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015<br />
<br />
nghiệm pháp kích thích GnRH ở những trẻ có<br />
tuổi xương tiến triển nhanh so với tuổi. Do ở<br />
bệnh viện Nhi Đồng 2, bệnh nhi được tiến hành<br />
chụp X quang tuổi xương và đo nồng độ LH<br />
cùng lúc, nên chúng tôi ghi nhận cả những<br />
trường hợp dậy thì sớm trung ương với nồng độ<br />
LH > 5 mIU/mL sau nghiệm pháp kích thích<br />
bằng GnRH nhưng có X quang tuổi xương<br />
không tiến triển hoặc tương đương với tuổi thật,<br />
và xếp vào nhóm dậy thì sớm trung ương không<br />
tiến triển. Tuy nhiên, đa số các trường hợp dậy<br />
thì sớm trung ương có tuổi xương tiến triển, phù<br />
hợp với y văn.<br />
<br />
30 phút sẽ bỏ sót khoảng 9% trường hợp dậy thì<br />
sớm trung ương. Theo nghiên cứu của Han Kyul<br />
Kim và cộng sự, phần trăm tích lũy của nồng độ<br />
LH nền ≥ 5 mIU/mL ở thời điểm 30 phút và 45<br />
phút là 100%; điểm cắt nồng độ LH 4,99 mIU/mL<br />
ở thời điểm 45 phút có độ nhạy 98,4% và độ đặc<br />
hiệu 100% trong chẩn đoán dậy thì sớm trung<br />
ương.<br />
<br />
Nồng độ LH nền trung bình thay đổi qua<br />
nhiều nghiên cứu khác nhau, có thể do sự khác<br />
nhau về thiết kế nghiên cứu, độ nhạy và độ<br />
chuyên của thiết bị đo. Trong đó, nghiên cứu của<br />
chúng tôi có LH nền tương đương với nghiên<br />
cứu của; Elena Chiocca(3) (p = 0,658) và Doosoo<br />
Kim(9) (p = 0,318).<br />
<br />
Về nồng độ estradiol, trong những bé gái<br />
dậy thì sớm trung ương, chỉ có 54,4% các trường<br />
hợp có nồng độ estradiol trong máu đạt mức dậy<br />
thì (≥ 25 pg/mL), do nồng độ estradiol thay đổi<br />
theo chu kì buồng trứng, nên khi đo nồng độ<br />
estradiol ở một thời điểm bất kì, có thể không đạt<br />
được nồng độ dậy thì. Do đó, nồng độ estradiol<br />
không phải là một dấu chứng nhạy để đánh giá<br />
dậy thì.<br />
<br />
Qua khảo sát các điểm cắt LH nền 1<br />
mIU/mL; 0,6 mIU/mL; 0,3 mIU/mL; 0,1 mIU/mL,<br />
ta thấy chọn điểm cắt LH nền càng thấp thì càng<br />
ít bỏ sót các trường hợp dậy thì sớm trung ương<br />
thực sự - so với tiêu chuẩn vàng là nghiệm pháp<br />
kích thích GnRH. Với điểm cắt LH nền 0,6<br />
mIU/mL, theo nghiên cứu của Brito VN và cộng<br />
sự, có độ nhạy là 71% ở bé trai; 63% ở bé gái; độ<br />
đặc hiệu là 100% ở cả hai giới(2). Với điểm cắt LH<br />
nền 0,1 mIU/mL, theo nghiên cứu của Parvin<br />
Yazdani và cộng sự, độ nhạy ở bé trai là 100%, ở<br />
bé gái là 67%. Ngoài ra, nồng độ LH nền > 0,1<br />
mIU/mL cũng có liên quan mạnh với nồng độ<br />
LH > 5 mIU/mL trong nghiệm pháp kích thích<br />
bằng GnRH (r = 0,842; p = 0,0001). Trong khi đó,<br />
nghiên cứu của Neely EK và cộng sự cho thấy<br />
điểm cắt nồng độ LH nền > 0,1 mIU/mL có độ<br />
nhạy 94% và độ đặc hiệu 88% trong chẩn đoán<br />
dậy thì sớm trung ương.<br />
Trong đa số các trường hợp, LH đạt nồng độ<br />
≥ 5 mIU/mL sau nghiệm pháp 30 phút (87%).<br />
Nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm 30 phút và<br />
60 phút sẽ bỏ sót 4,6% trường hợp dậy thì sớm<br />
trung ương, nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm<br />
<br />
12<br />
<br />
Nồng độ FSH nền và FSH trong nghiệm<br />
pháp kích thích GnRH không có sự khác biệt<br />
giữa dậy thì sớm trung ương và dậy thì sớm<br />
ngoại biên, do đó ít có ứng dụng trong lâm<br />
sang.<br />
<br />
Về siêu âm, nghiên cứu của chúng tôi sử<br />
dụng đường kính trước sau để đánh giá kích<br />
thước tử cung, đường kính lớn nhất để đánh<br />
giá kích thước buồng trứng. Đây là một trong<br />
những điểm hạn chế của nghiên cứu, vì<br />
đường kính không chính xác trong việc đánh<br />
giá kích thước tử cung và buồng trứng. Trong<br />
hầu hết các nghiên cứu của các tác giả nước<br />
ngoài, kích thước tử cung và buồng trứng<br />
được đánh giá bằng thể tích với công thức tính<br />
thể tích hình trứng dẹp: Tích đường kính 3<br />
chiều nhân với 0,5233.<br />
Một số tác giả sau khi so sánh siêu âm với<br />
nghiệm pháp kích thích bằng GnRH đã nhận<br />
định thể tích buồng trứng và thể tích tử cung có<br />
thể chẩn đoán chính xác và được sử dụng độc<br />
lập trong việc chẩn đoán tình trạng dậy thì ở bé<br />
gái(5,6). Một số tác giả khác nhận định, kích thước<br />
tử cung có giá trị hơn so với kích thước buồng<br />
trứng trong việc chẩn đoán phân biệt dậy thì<br />
sớm trung ương và phát triển tuyến vú sớm.<br />
<br />
Chuyên Đề Nhi Khoa<br />
<br />