intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

Chia sẻ: Phạm Đức Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

462
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một bộ phận máu thịt của văn học dân tộc. Nếu như Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản là những người mở đường thì Hồ Biểu Chánh là người đã góp phần bổ sung, phát triển. Hồ Biểu Chánh thuộc số ít nhà văn Việt Nam sử dụng những từ ngữ bình dân một cách tự nhiên; phản ánh chính xác hiện thực xã hội, tình cảm và tâm lý con người miền Nam thời thuộc địa. Những...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

  1. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH CHARACTERISTICS OF HO BIEU CHANH’S NOVELS SVTH: TỐNG VĂN CHÍNH Lớp 04CVH2, Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm GVHD: PGS-TS. NGUYỄN PHONG NAM Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm TÓM TẮT Tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một bộ phận máu thịt của văn học dân tộc. Nếu như Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản là những người mở đường thì Hồ Biểu Chánh là người đã góp phần bổ sung, phát triển. Hồ Biểu Chánh thuộc số ít nhà văn Việt Nam sử dụng những từ ngữ bình dân một cách tự nhiên; phản ánh chính xác hiện thực xã hội, tình cảm và tâm lý con người miền Nam thời thuộc địa. Những cảnh, những tình, những người cùng với bao sự việc trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rất gần gũi, quen thuộc với quần chúng. Khi nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi mong muốn sẽ đem lại cho bạn đọc một cái nhìn toàn cảnh về hiện thực xã hội Nam bộ đầu thế kỷ XX, thấy được những nét truyền thống và cách tân trong nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. SUMMARY th Novels written in Vietnamese national script in the South of Viet Nam from the end of the 19 th last century to the beginning of 20 century play a very important role in the national literature. Nguyen Trong Quan, Tran Chanh Chieu and Truong Duy Toan were considered to be the pioneers in writing this new genre which Ho Bieu Chanh continued contributing and developing. Ho Bieu Chanh was one of the minority of (VietNamese) writters who could use the popular words naturally; and through his novels, the social reality in the colony period, the sentiment and feelings of the people in Southern Vietnam were truly relected. The scenery, the emotion as well as the characters and the facts described in his novels were very c lose and familiar to people is this period. Therefore, my research on Characteristic of Ho Bieu Chanh’s novels attempts to provide the readers with an overview of the society in Southern th Vietnam the beginning of 20 century and help the readers realize the combination of the traditional and new writing styles shown in Ho Bieu Chanh’s novels. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Việt Nam giai đoạn 1900 – 1930 có sự tồn tại song song của hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác; hai công chúng với hai quan niệm văn học khác nhau. Nền văn học cũ đang suy yếu dần, từng bước cách tân. Nền văn học mới vừa phát huy những nhân tố hiện đại vừa kế thừa những thành tựu của nền văn học cũ. Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam bộ. Người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trong buổi bình minh của văn xuôi Quốc ngữ đầu thế kỷ XX, khi mà cả người sáng tác và người tiếp nhận văn chương đều còn bỡ ngỡ với các tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Hồ Biểu Chánh đã ra sức tạo dựng và bồi đắp cho nền tiểu thuyết mới, đưa nó đến gần với độc giả. Người đương thời và các thế hệ độc giả về sau đã đón nhận những sáng tác của ông một cách nồng nhiệt, trân trọng: “Càng lâu về sau, ông càng trở thành nhà văn cổ điển của nền văn học Việt Nam” (Trần Bạch Đằng). Nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh để thấy được những đóng góp của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại; phục vụ hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập sau này. 159
  2. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Trong suốt 50 năm sáng tác liên tục, Hồ Biểu Chánh đã để lại cho đời 64 tiểu thuyết. Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số tiểu thuyết tiêu biểu được xem là những tác phẩm mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 3. Ý nghĩa của đề tài 3.1. Nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh sẽ cung cấp cho chúng ta những kiến thức về con người Hồ Biểu Chánh; về hình ảnh xã hội Nam bộ những năm đầu thế kỷ XX; chỉ ra những nét truyền thống và cách tân trong nghệ thuật. Từ đó cho phép chú ng ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về tác giả cũng như những sáng tác giá trị của ông. 3.2. Đề tài được thực hiện nhằm khẳng định những đóng góp quan trọng của Hồ Biểu Chánh trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua việc nghiên cứu sự nghiệp văn học của một nhà văn sáng tác bằng chữ Quốc ngữ ở giai đoạn đầu, số lượng tác phẩm nhiều nhất, sẽ giúp chúng ta thấy được quá trình vận động và phát triển của văn xuôi Việt Nam trong hơn một thế kỷ nay. 3.3. Nghiên cứu đề tài này, bản thân người viết sẽ có điều kiện sưu tầm, tìm hiểu sâu sắc hơn những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh; đồng thời người viết cũng hy vọng sẽ góp thêm tài liệu bổ ích cho các bạn sinh viên trong quá trình nghiên cứu tác giả, tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh. 5. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Có thể nói, những tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói chung và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nói riêng là một phần quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, nhiều vấn đề nghiên cứu vẫn còn bị bỏ ngỏ. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được các nhà nghiên cứu chú ý từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu một cách hệ thống mà mới chỉ dừng lại ở những đánh giá, nhận xét mang tính khái quát trong một số giáo trình như Giáo trình văn học Việt Nam, tập 4B của Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm thế Ngũ; Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Nguyễn Kim Anh chủ biên; Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập 1, của Nguyễn Q. Thắng; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, của Phan Cự Đệ. Ngoài công trình Chân dung Hồ Biểu Chánh của Nguyễn Khuê đã được công bố từ rất sớm (1962), tới nay, vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu vĩ mô tương xứng với sự nghiệp tiểu thuyết lớn lao mà Hồ Biểu Chánh đã để lại cho đời. Từ thực tế đó, khi nghiên cứu đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi mong muốn sẽ có thêm nhiều hiểu biết về tác giả, tác phẩm của Hồ Biểu Chánh nói riêng và các tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói chung. 6. Cấu trúc đề tài Đề tài của chúng tôi được chia thành ba phần: 50 trang. Ngoài phần mở đầu (06 trang) và phần kết luận (02 trang), nội dung chính được chia thành ba chương (42 trang): Chương 1: Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Chương 2: Hình ảnh Nam bộ đầu thế kỷ XX qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Cuối cùng là phần phụ lục, tài liệu tham khảo và nguồn ngữ liệu. 160
  3. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Chương này có tính chất định hướng lý luận cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ở chương 2 và chương 3. Nội dung được chia thành 4 mục: 1.1. Khái niệm “tiểu thuyết” 1.2. Vài nét tiểu sử Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1884 - 1958), tên thật là Hồ Văn Trung, hiệu Thứ Tiên, tự Biểu Chánh. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở Tiền Giang. Năm 1905 ông thi đỗ bậc Thành Chung. Từ năm 1906 – 1946, ông làm việc cho chính phủ Nam kỳ tự trị. Cuối năm 1946, Hồ Biểu Chánh giã từ chính trường, về quê ở ẩn và dành trọn quãng đời còn lại cho việc sáng tác văn học. 1.3. Sự nghiệp văn học của Hồ Biểu Chánh Với 50 năm sáng tác, bên cạnh sự nghiệp chính trị, Hồ Biểu Chánh đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học gồm nhiều thể loại như tiểu thuyết, hồi ký, biên khảo, dịch thuật, phê bình văn học, tuỳ bút, thơ, truyện thơ, truyện ngắn… Trong đó, tiểu thuyết là lĩnh vực mà nhà văn thành công hơn cả. Từ khi tiểu thuyết đầu tay ra đời Ai làm được (viết năm 1912, nhà Tín Đức tư xã xuất bản năm 1922) cho đến tác phẩm cuối cùng Hy sinh (1958) đang còn dang dở, Hồ Biểu Chánh đã lần lượt giới thiệu tới độc giả 64 tiểu thuyết. Trong đó, 18 tác phẩm ra đời trong thời kỳ 1912 – 1932 được các nhà nghiên cứu đánh giá: “có đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại”. 1.4. Vai trò, vị trí của Hồ Biểu Chánh trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Toàn bộ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được xem như một bộ “từ điển bách khoa” về đời sống xã hội và con người Nam bộ đầu thế kỷ XX. Qua việc xây dựng cốt truyện; miêu tả tính cách, phân tích tâm lý nhân vật; lời thuật truyện, ngôn ngữ nghệ thuật, Hồ Biểu Chánh đã góp phần chuyển tiểu thuyết Việt Nam từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại. Chương 2: Hình ảnh Nam bộ đầu thế kỷ XX qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phản ánh hiện thực xã hội đương thời một cách chân thực, sống động, vừa đa dạng nhưng cũng rất cụ thể. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chúng ta như đang được trở về với những gì đã hiện hữu ở Nam bộ thời bấy giờ, để chứng kiến cuộc sống cực khổ của nhân dân ta, để ngậm ngùi đau xót trước những vết thương lở loét của xã hội miền Nam một thời thuộc địa. 2.1. Tình hình kinh tế Kinh tế nông nghiệp lạc hậu được duy trì; kinh tế tư bản được nhen nhóm ở thành thị. Hoa màu do nông dân canh tác đều rơi vào tay địa chủ phong kiến. Tiền do xã hội làm ra đều chui vào túi các nhà tư bản Pháp. Nền kinh tế nước ta bị phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ, nghèo đói xảy ra triền miên. 2.2. Văn hoá xã hội Phong tục trong hôn nhân; văn hoá ăn mặc; văn hoá giao tiếp, ứng xử. 2.3. Mâu thuẫn giai cấp Xung đột giàu – nghèo; xung đột chính - tà, mâu thuẫn nông dân - địa chủ. 2.4. Thế lực đồng tiền Tiền là phương tiện để mua danh bán tước; tiền là quyền lực trong vấn đề hôn nhân; tiền là ma lực phá hoại nhân phẩm, đạo đức con người. Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, giữa truyền thống và cách tân. Tính cổ điển thể hiện ở quan niệm đạo đức, quan điểm thẩm mĩ mang tính dân 161
  4. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 chủ và nhân văn của văn học trung đại. Tính hiện đại thể hiện qua việc tiếp thu những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết phương Tây như ngôn ngữ, nghệ thuật xây dựng nhân vật và kết cấu. 3.1. Ngôn ngữ Dùng nhiều phương ngữ Nam bộ; vận dụng linh hoạt các thành ngữ; câu văn như lời nói thường ngày. 3.2. Nhân vật Con người đạo lý; con người tham tiền hám lợi; con người tự khẳng định. 3.3. Kết cấu Kết cấu theo trình tự thời gian; kết cấu truyền thống (chia theo hai tuyến nhân vật); mô hình gặp gỡ - lưu lạc – đoàn viên. 3.4. Kế thừa, phóng tác các tác phẩm văn học nước ngoài Tuy Hồ Biểu Chánh giữ nguyên cốt truyện hay một phần cốt truyện của các tác phẩm văn học nước ngoài, nhưng câu chuyện, hoàn cảnh, tính cách, tâm lý, hành động của nhân vật, lời kể chuyện đều mang đậm sắc thái Nam bộ; phù hợp với đạo đức, văn hoá, phong tục tập quán vùng đồng bằng Sông Cửu Long. PHẦN KẾT LUẬN Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đã xuất hiện và phát triển ở Nam bộ. Hồ Biểu Chánh được xem là một trong số ít nhà văn có những đóng góp to lớn cho việc mở đầu và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là sự kế thừa các giá trị của văn học truyền thống, kết hợp với các yếu tố mới dựa trên sự phóng tác các tiểu thuyết cổ điển phương Tây để cách tân tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh một cách chân xác hiện thực xã hội Nam bộ vào những năm đầu thế kỷ XX. Qua tiểu thuyết của ông chúng ta tìm được những dấu tích của một nền nông nghiệp lạc hậu; một nền văn hoá đan xen cũ mới trong buổi giao thời. Những mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa nhân dân lao động lương thiện, chất phác với những tên địa chủ phong kiến bù nhìn, tàn ác, dâm ô. Ở đó, có cả những hạng người mới do xã hội thuộc địa đẻ ra như thầy thông ngôn, thầy kí, đốc phủ sứ … cấu kết với địa chủ, trà đạp, áp bức nhân dân. Trong bối cảnh đó, sức hút của đồng tiền lại có dịp trỗi dậy và phát huy tác dụng, nó len lỏi vào những ngõ ngách sâu kín nhất của con người, chi phối đến cách nghĩ và hành động của một bộ phận nhân dân đương thời. Bên cạnh việc phản ánh hiện thực một cách tinh tế, Hồ Biểu Chánh còn rất thành công trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh được xem là bức tranh truyền thần bằng chữ hết sức sống động và chính xác về cuộc sống và phong tục của người dân Nam bộ đầu thế kỷ XX. Từ việc sử dụng ngôn ngữ, đến cách xây dựng kết cấu, lời thuật truyện, nghệ thuật miêu tả tính cách, phân tích tâm lý nhân vật đều rất Nam bộ. Dù là các tác phẩm phóng tác từ văn học nước ngoài nhưng ông đã sáng tạo để nó phù hợp với đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của địa phương, dân tộc. Tuy nhiên, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng có một số hạn chế nhất định. Đó là việc dùng nhiều từ địa phương Nam bộ trong một câu, một đoạn văn dẫn đến những hạn chế của sự phổ biến các tác phẩm của ông trong cả nước. Tư tưởng của nhà văn khi giải quyết các mối xung đột còn ở dạng ôn hoà, chủ yếu là lấy đạo lý làm phương tiện giáo dục con người, cải tạo văn hoá. Số phận nhân vật thay đổi đôi khi quá đột ngột theo chủ ý của nhà văn. Tác giả cũng chưa đi sâu phân tích được tâm lý nhân vật mà chủ yếu miêu tả tiểu sử và chân dung nhân vật. Lối kết thúc truyện còn mang đậm màu sắc dân gian theo thuyết nhân quả: “ở hiền gặp lành”. Thế nhưng, đây là những tiểu thuyết ra đời từ thời trứng nước, các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh xuất hiện trong bối cảnh nền tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ vừa mới hình thành, 162
  5. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 lối viết tiểu thuyết theo kiểu phương Tây còn quá mới mẻ cho nên tiểu thuyết của ông cũng như của các nhà văn đương thời khó tránh khỏi những hạn chế đó. Dẫu sao, đây cũng là những bước khởi đầu, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử văn học Việt Nam. Thể loại tiểu thuyết chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại. Để từ những bước chập chững này, những nhà văn kế sau có dịp tiếp thu, đổi mới và đưa tiểu thuyết Việt Nam phát triển, nở rộ vào những năm 1932 – 1945 của thế kỷ XX. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Ái (chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Tp Hồ Chí Minh. [2] Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh. [3] Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, HN. [4] Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb ĐH & THCN, HN. [5] Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục. [6] Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H. [7] Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD. [8] Dương Quảng Hàm (2001), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn. [9] Nguyễn Khuê (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. [10] Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. [11] Nguyễn Phong Nam (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Đại học Sư phạm, Đà Nẵng. [12] Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Nxb Đồng Tháp. [13] Nhiều tác giả (2006), Hồ Biểu Chánh người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Văn Nghệ. [14] Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb KHXH. [15] Cù Đình Tú (1999), “Một vài suy nghĩ về ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh”, in trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tr.308 - 313. [16] Nguyễn Q. Thắng (2007), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập 1, Nxb Văn học. [17] Lê Trí Viễn - Nguyễn Đình Chú (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4B, Nxb Giáo dục. NGUỒN NGỮ LIỆU [18] Website, http:// www.hobieuchanh.com ngày 25/12/2007. 163
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2