intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm tình hình kê toa thuốc tại khoa khám bệnh Bệnh viện Nhi Đồng 2

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đặc điểm tình hình kê toa thuốc tại khoa khám bệnh Bệnh viện Nhi Đồng 2" với mục tiêu nhằm đánh giá thực trạng kê toa thuốc ngoại trú tại khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 2. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm tình hình kê toa thuốc tại khoa khám bệnh Bệnh viện Nhi Đồng 2

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KÊ TOA THUỐC TẠI KHOA KHÁM BỆNH  <br /> BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 <br /> Lục Quả*, Võ Phương Khanh*, Trịnh Hữu Tùng* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Đánh giá thực trạng kê toa thuốc ngoại trú tại khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 2. <br /> Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. <br /> Kết quả: Đơn thuốc từ loại hình bảo hiểm y tế chiếm tỉ lệ 38,24% và loại hình dịch vụ chiếm tỉ lệ 61,76%. <br /> Trong giờ hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% và ngoài giờ hành chánh (giờ trực hay thứ bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ <br /> 51,22%. Đơn thuốc có lỗi sai sót về hình thức kê đơn: Có 13,46% toa thuốc không ghi đầy đủ các phần hành <br /> chánh và mắc các sai sót như bệnh nhân không có ghi tuổi, cân nặng, giới, thuốc không ghi hàm lượng, số lượng <br /> cần mua, cách dùng, không lời dặn dò, ngày tái khám, c hữ ký bác sĩ. Có 0,49% toa có chữ  viết rất khó đọc, <br /> 15,59% chữ viết khó đọc. Giá trung bình một toa thuốc là gần 68.000 đồng. Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng kháng <br /> sinh: 65,27% toa thuốc có ghi thuốc kháng sinh. Trong đó các bác sỹ lớn tuổi, bác sỹ của khoa khám bệnh và bác <br /> sỹ ngoài giờ kê toa thuốc kháng sinh nhiều hơn các, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm), các bác sỹ trong các khoa nội trú và <br /> khám  bệnh  trong  giờ  hành  chánh.  Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  corticoids:  16,80%  toa  thuốc  có  ghi  thuốc <br /> corticoids. Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng thuốc bổ: 22,86% toa thuốc có ghi thuốc bổ. Trong đó các biên chế khoa <br /> khám bệnh, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm và từ 5 ‐ 15 năm) và khám bệnh ngoài giờ hành chánh kê toa cho thuốc bổ <br /> nhiều hơn là các bác sỹ các khoa nội trú, bác sỹ lớn tuổi và bác sỹ khám bệnh trong giờ. Không có đơn thuốc có sử <br /> dụng thực phẩm chức năng. <br /> Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu này là cơ sở để bệnh viện có kết hoạch tập huấn lại cho các bác sỹ tham gia <br /> phòng khám ngoại trú về qui chế kê đơn ngoại trú. <br /> Từ khóa: Thuốc, kê toa. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> ASSESS THE OUTPATIENT PRESCRIPTION  <br /> AT CHILDRENʹS HOSPITAL 2 OUTPATIENT DEPARTMENT <br /> Luc Qua, Vo Phuong Khanh, Trinh Huu Tung <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 76 ‐ 81 <br /> Objective: Assess the outpatient prescription at Childrenʹs Hospital 2 Outpatient Department. <br /> Method: Cross ‐ sectional description study. <br /> Results:  Prescriptions  from  the  type  of  health  insurance  accounted  for  38.24%  rate,  and  type  of  services <br /> accounted  for  61.76%  rate.  During  office  hours  48.78%  proportion  and  out  of  office  hours  (now  directly  or <br /> saturday/sunday)  accounted  for  51.22%  rate.  Prescription  errors  are  errors  on  the  form  prescribed:  13.46% <br /> prescriptions are not filled enough with the administration and errors as patients without an age, weight, sex, <br /> drugs record levels, the amount needed to buy, how to use, non‐verbal reminding, on re‐ examination, physician <br /> signature. There is 0:49% prescription writing very hard to read, hard to read handwriting 15:59%. The average <br /> price of a prescription is close to 68.000 VND. Prescription rate of antibiotics use: 65.27% labeled prescription <br /> antibiotics.  Prescription  rate  using  corticosteroids:  16.80%  labeled  prescription  drugs  corticosteroids.  Rate  of <br /> * Bệnh viện Nhi Đồng 2. <br /> Tác giả liên hệ: CN Lục Quả   ĐT: 0986970657 <br /> <br /> 76<br /> <br /> Email: lucqua2000@yahoo.com. <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> prescription drug use supplement: 22.86% labeled prescription supplements. <br /> Conclusion:  From  the  results  of  this  study  are  the  basis  for  the  planned  hospital  training  for  doctors <br /> participating outpatient clinics for outpatient prescription regulations. <br /> Key words: Outpatient prescription. <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Việc sử dụng thuốc không hợp lý, lạm dụng <br /> kháng  sinh,  corticosteroid,  thuốc  bổ  đang  có <br /> chiều hướng ngày càng gia tǎng ở các nước đang <br /> phát  triển  trong  đó  có  Việt  Nam.  Vấn  đề  lạm <br /> dụng  kháng  sinh,  corticosteroid  và  các  vitamin <br /> đang xảy ra ở tất cả các tuyến, các cơ sở điều trị <br /> từ  xã/phường  đến  phòng  khám/bệnh  viện <br /> quận/huyện,  tỉnh/thành,  các  bệnh  viện  tuyến <br /> Trung  ương,  ở  cả  các  cơ  sở  y  tế  nhà  nước  lẫn <br /> phòng khám tư nhân. <br /> <br /> kê  toa  của  các  Bác  sĩ  tham  gia  khám  bệnh  tại <br /> khoa  khám  bệnh  của  bệnh  viện  Nhi  Đồng  2 <br /> trong năm 2010.  <br /> <br /> Mục tiêu  <br /> Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  lỗi  sai  sót  về <br /> hình thức kê đơn. <br /> Xác định tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng kháng <br /> sinh. <br /> Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng <br /> corticoids. <br /> Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  thuốc <br /> <br /> Trong  thời  gian  gần  đây,  trên  các  phương <br /> tiện thông tin đại chúng phản ánh nhiều về thực <br /> trạng  kê  toa  thuốc  ngoại  trú  tại  các  cơ  sở  y  tế <br /> chưa  phù  hợp  quy  chế  kê  đơn  và  y  đức  của <br /> người thầy thuốc. Bên cạnh việc thực thi nghiêm <br /> chỉnh  quy  chế  kê  đơn  thuốc  ngoại  trú  của  hầu <br /> hết  các  bác  sĩ  tâm  huyết,  vẫn  còn  một  số  ít  các <br /> thầy thuốc vi phạm nhưng chưa có bằng chứng <br /> thống kê cụ thể.  <br /> <br /> bổ. <br /> <br /> Việc  kê  đơn  thuốc  không  đúng  quy  chế  có <br /> tầm  ảnh  hưởng  không  nhỏ  đến  sức  khỏe  của <br /> người dân và vấn đề kinh tế xã hội. Cụ thể như: <br /> <br /> Đối tượng <br /> <br /> Bệnh  nhân  sẽ  không  được  sử  dụng  thuốc <br /> hợp lý đúng theo bệnh mình đang mắc phải dẫn <br /> đến không hết bệnh, có thể bị phản ứng bất lợi <br /> không mong muốn. <br /> <br /> Xác  định  tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  thực <br /> phẩm chức năng. <br /> Xác định sự phân bố các tỷ lệ trên theo: Loại <br /> hình  khám,  thời  điểm  khám,  khoa/phòng  biên <br /> chế công tác và thâm niên công tác. <br /> <br /> Thiết kế nghiên cứu <br /> Cắt ngang mô tả. <br /> Các toa thuốc ngoại trú tại khoa khám bệnh <br /> của bệnh viện Nhi Đồng 2 trong năm 2010.  <br /> <br /> Thời gian <br /> Tháng ngẫu nhiên trong năm 2010. <br /> <br /> Địa điểm <br /> <br /> Do  lạm  dụng,  chỉ  định  không  đúng  kháng <br /> sinh dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh. <br /> <br /> Tại  khoa  khám  bệnh  của  bệnh  viện  Nhi <br /> Đồng 2.  <br /> <br /> Tăng chí phí điều trị do lạm dụng các thuốc <br /> không cần thiết. <br /> <br /> Cỡ mẫu <br /> <br /> Hậu  quả  quan  trọng  là  giảm  lòng  tin  của <br /> người dân vào hệ thống y tế.  <br /> <br /> Phương pháp chọn mẫu <br /> <br />  Nhằm  có  số  liệu  thống  kê  cụ  thể  để  làm <br /> bằng chứng đánh giá thực trạng kê toa thuốc tại <br /> khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Đồng 2, qua <br /> đó đề xuất biện pháp cải thiện phù hợp, chúng <br /> tôi đã tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa<br /> <br /> Toàn bộ. <br /> Chọn  mẫu  ngẫu  nhiên  hệ  thống.  Lấy  01 <br /> tháng bất kỳ trong 06 tháng cuối của năm 2010. <br /> Trong  tháng  được  chọn,  chỉ  khảo  sát  trong  04 <br /> tuần, mỗi tuần lấy cách ngày. Mỗi ngày, lấy toàn <br /> bộ các toa thuốc từ 07 giờ 00 phút đến 7 giờ 00 <br /> phút ngày hôm sau.  <br /> <br /> 77<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013<br /> <br /> Xử lý số liệu <br /> Nhập  số  liệu  bằng  phần  mềm  EpiData  3.1. <br /> Phân  tích  số  liệu  thống  kê  mô  tả  bằng  phần <br /> mềm Stata 11.0 <br /> <br /> KẾT QUẢ  <br /> Đơn thuốc từ loại hình bảo hiểm y tế chiếm <br /> tỉ  lệ  38,24%  và  loại  hình  Dịch  vụ  chiếm  tỉ  lệ <br /> 61,76%. Trong giờ hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% <br /> và  ngoài  giờ  hành  chánh  (giờ  trực  hay  thứ <br /> bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 51,22%.  <br /> Đơn thuốc có lỗi sai sót về hình thức kê đơn: <br /> Có 13,46% toa thuốc không ghi đầy đủ các phần <br /> hành  chánh  và  mắc  các  sai  sót  như  bệnh  nhân <br /> không  có  ghi  tuổi,  cân  nặng,  giới,  thuốc  không <br /> ghi  hàm  lượng,  số  lượng  cần  mua,  cách  dùng, <br /> không lời dặn dò, ngày tái khám, chữ ký bác sĩ. <br /> Có  0,49  %  toa  có  chữ  viết  rất  khó  đọc,  15,59% <br /> chữ viết khó đọc.  <br /> Giá  trung  bình  một  toa  thuốc  là  gần  68.000 <br /> đồng.  <br /> Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  kháng  sinh: <br /> 65,27% toa thuốc có ghi thuốc kháng sinh. Trong <br /> đó  các  bác  sỹ  lớn  tuổi,  bác  sỹ  của  khoa  khám <br /> bệnh  và  bác  sỹ  ngoài  giờ  kê  toa  thuốc  kháng <br /> sinh nhiều hơn các, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm), các <br /> bác  sỹ  trong  các  khoa  nội  trú  và  khám  bệnh <br /> trong giờ hành chánh.  <br /> Tỷ  lệ  đơn  thuốc  có  sử  dụng  corticoids: <br /> 16,80% toa thuốc có ghi thuốc corticoids.  <br /> Tỷ lệ đơn thuốc có sử dụng thuốc bổ: 22,86% <br /> toa thuốc có ghi thuốc bổ. Trong đó các biên chế <br /> khoa khám bệnh, bác sỹ trẻ (dưới 5 năm và từ 5 ‐ <br /> 15 năm) và khám bệnh ngoài giờ hành chánh kê <br /> toa  cho  thuốc  bổ  nhiều  hơn  là  các  bác  sỹ  các <br /> khoa  nội  trú,  bác  sỹ  lớn  tuổi  và  bác  sỹ  khám <br /> bệnh trong giờ.  <br /> Không có đơn thuốc có sử dụng thực phẩm <br /> chức năng. <br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Chúng  tôi  thu  thập  được  5.876  toa  thuốc, <br /> trong đó có 2.247 toa thuốc từ các phòng khám <br /> loại hình bảo hiểm y tế chiếm tỉ lệ 38,24% và có <br /> <br /> 78<br /> <br /> 3.629  toa  thuốc  từ  các  phòng  khám  loại  hình <br /> dịch vụ chiếm tỉ lệ 61,76%. Chúng tôi ghi nhận <br /> số toa loại hình bảo hiểm y tế cao hơn so với ghi <br /> nhận trong tài liệu dạy dùng cho đào tạo liên tục <br /> bác  sĩ,  dược  sĩ  bệnh  viện  của  Bộ  Y  Tế  trong  2 <br /> năm 2003 và 2004 là 36% và 33% (1), chứng tỏ loại <br /> hình  khám  bệnh  BHYT  ngày  càng  được  người <br /> dân  tin  tưởng  và  sử  dụng  rộng  rãi  hơn.  Tuy <br /> nhiên, tỉ lệ này vẫn còn thấp so với tỉ lệ điều trị <br /> BHYT trong nội viện là 95% có thể do các lý do <br /> như đa số các bệnh thông thường đều do tuyến <br /> quận/huyện  đảm  nhận,  muốn  khám  tại  bệnh <br /> viện Nhi Đồng 2 cần phải có giấy chuyển viện, <br /> tâm  lý  của  thân  nhân  bệnh  nhân  muốn  được <br /> khám  nhanh,  đồng  thời  tiền  cho  một  lần  khám <br /> cũng  không  cao  mà  BHYT  không  thanh  toán <br /> 100%  nên  nhiều  người  đã  chọn  giải  pháp  là <br /> khám dịch vụ cho thuận tiện. <br /> Có 2.866 toa thuốc được thu thập  trong  giờ <br /> hành chánh chiếm tỉ lệ 48,78% và 3.010 toa thuốc <br /> được  thu  thập  ngoài  giờ  hành  chánh  (giờ  trực <br /> hay thứ bảy/chủ nhật) chiếm tỉ lệ 51,22%. <br /> Theo quy chế kê toa thuốc ngoại trú (2), có 10 <br /> điều  khoản  quy  định  đối  với  một  toa  thuốc  cụ <br /> thể từ hình thức của toa thuốc đến các nội dung <br /> phải ghi trong toa thuốc: Tên tuổi, địa chỉ, cách <br /> ghi tên thuốc, số lượng, hàm lượng thuốc, cách <br /> dùng thuốc. Xem xét về hình  thức  cách  ghi  toa <br /> thuốc,  chúng  tôi  nhận  thấy  có  791  toa  thuốc <br /> không ghi đầy đủ các phần hành chánh và mắc <br /> các sai sót chiếm 13,46% và 5.085 toa có ghi đầy <br /> đủ các phần hành chánh của toa chiếm 86,54%; <br /> đồng thời thường mắc  những  sai  sót  như  bệnh <br /> nhân  không  có  ghi  tuổi,  cân  nặng,  giới,  thuốc <br /> không  ghi  hàm  lượng,  số  lượng  cần  mua,  cách <br /> dùng được liệt kê trong bảng 1.  <br /> Bảng 1. Tỉ lệ các sai sót về hình thức trong toa thuốc. <br /> Không ghi (thiếu)<br /> Giới<br /> Tuổi<br /> Hàm lượng thuốc<br /> Số lượng thuốc<br /> Cách dùng<br /> Ngày khám<br /> Chữ ký bác sĩ<br /> <br /> n<br /> 81<br /> 82<br /> 70<br /> 63<br /> 64<br /> 68<br /> 63<br /> <br /> %<br /> 10,20<br /> 10,35<br /> 8,84<br /> 7,98<br /> 8,03<br /> 8,58<br /> 7,95<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 <br /> Không ghi (thiếu)<br /> Họ tên đầy đủ của bác sĩ<br /> Cân nặng<br /> Ngày tái khám<br /> Lời dặn<br /> <br /> n<br /> 64<br /> 59<br /> 65<br /> 64<br /> <br /> %<br /> 8,06<br /> 7,50<br /> 8,26<br /> 8,04<br /> <br /> Theo quy định  (2) là chữ viết trên toa phải rõ <br /> ràng, thì trong số  các toa chúng  tôi  khảo  sát  có <br /> 0,49  %  toa  có  chữ  viết  rất  khó  đọc,  15,59%  chữ <br /> viết khó đọc và 83,92% chữ viết có thể đọc được. <br /> Đây là vấn đề mà các bác sĩ thường bị các bệnh <br /> nhân phàn nàn, cũng như báo chí hay nhắc tới. <br /> Trong  791  toa  thuốc  không  ghi  đầy  đủ  các <br /> mục, thiếu ghi giới tính chiếm tỉ lệ là 10,20% và <br /> thiếu  ghi  tuổi  của  bệnh  nhi  chiếm  10,35%,  là  2 <br /> thiếu sót thường gặp nhất. Tuy nhiên, điều đáng <br /> quan tâm là 8,84% trong số các toa này ghi thiếu <br /> hàm lượng thuốc là điều không thể chấp nhận, <br /> vì có thể dẫn đến việc dùng thuốc quá liều hoặc <br /> không  đủ  liều  lượng  thuốc  ảnh  hưởng  đến  kết <br /> quả điều trị. <br /> Xét về người ghi toa, chúng tôi ghi nhận có <br /> 8,09%  các  toa  do  các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  của <br /> khoa  khám  bệnh  ghi  và  91,91%  các  toa  do  các <br /> bác sĩ từ các khoa nội trú ra tham gia khám bệnh <br /> ghi.  Điều  này  phù  hợp  với  sự  phân  công  nhân <br /> sự của Phòng Tổ chức cán bộ. Các bác sĩ thuộc <br /> các nhóm tuổi khác nhau, bác sĩ có biên chế dưới <br /> 05 năm chiếm tỉ lệ 30,72%, các bác sĩ có biên chế <br /> từ 05 đến 15 năm chiếm tỉ lệ 36,51% và các bác sĩ <br /> có biên chế trên 15 năm ghi chiếm tỉ lệ 32,78%. <br /> Điều này chứng tỏ là đa số  các bác sĩ khi được <br /> phân  công  ra  khoa  khám  bệnh  đều  có  ít  nhiều <br /> kinh nghiệm từ trên 05 năm trở lên. <br /> Theo  qui  chế  kê  toa  ngoại  trú,  tên  thuốc <br /> phải  ghi  theo  tên  hóa  học  (generic),  trong <br /> nghiên  cứu  chúng  tôi  nhận  thấy  chỉ  có  3,46% <br /> các  toa  được  ghi  vừa  tên  hóa  học  vừa  tên <br /> thương  mại,  14,1%  các  toa  ghi  theo  đúng  tên <br /> hóa học và 82,44% các toa ghi theo tên thương <br /> mại. Điều này sẽ gây khó khăn cho bệnh nhân <br /> nếu  như  không  mua  thuốc  tại  nhà  thuốc  của <br /> bệnh  viện,  cũng  như  chưa  loại  trừ  được  việc <br /> ghi toa theo trình dược viên. Ngoài ra, việc kê <br /> toa thuốc bằng tên hóa học còn giúp giảm chi <br /> phi  điều  trị  cho  bệnh  nhân,  cụ  thể  với  cùng <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> một  một  thuốc  có  cùng  tên  hóa  học  với  chất <br /> lượng điều trị như nhau, nhưng nếu bác sĩ kê <br /> thuốc biệt dược ngoại thì giá sẽ rất cao, chẳng <br /> những tăng thêm gánh nặng chi phí cho người <br /> bệnh  mà  còn  ảnh  hưởng  đến  ngành  sản  xuất <br /> dược phẩm trong nước sẽ không phát triển. <br /> Xét  về  nội  dung  và  chất  lượng  toa  thuốc, <br /> chúng tôi ghi nhận có 2041 toa là không có ghi <br /> kháng sinh chiếm tỉ lệ là 34,73% và có 3835 toa <br /> có  ghi  thuốc  kháng  sinh  chiếm  tỉ  lệ  lên  tới  là <br /> 65,27%. Theo thống kê của Bộ Y Tế trong 2 năm <br /> 2003 và 2004 (1), số tiền chi cho kháng sinh là 54% <br /> và  56%  trên  tổng  số  tiền  thuốc,  kháng  sinh <br /> chiếm  khoảng  36%  tổng  chi  phí  cho  thuốc  và <br /> hoá  chất  và  tỉ  lệ  cao  nhất  được  báo  cáo  tại  các <br /> bệnh viện nhi Thành Phố Hồ Chí Minh là lên tới <br /> 89%. Cũng theo báo cáo của Cục Quản lý Khám <br /> Chữa  bệnh  năm  2009,  chi  phí  cho  kháng  sinh <br /> chiếm trên 30% tổng chi phí của bệnh viện cho <br /> thuốc  và  hoá  chất.  Điều  này  cho  thấy  việc  lạm <br /> dụng kháng sinh ở khu vực phòng khám là rất <br /> đáng kể, phù hợp với thống kê của Bộ Y Tế. <br /> Toa có ghi thuốc corticoid là 987 toa chiếm tỉ <br /> lệ  là  16,80%,  4889  toa  thuốc  không  có  ghi <br /> corticoid chiếm tỉ lệ là 77,14%. Điều này cho thấy <br /> việc lạm dụng thuốc corticoid là không đáng kể. <br /> Có  1.343  toa  có  ghi  thuốc  bổ  chiếm  tỉ  lệ  là <br /> 22,86% và 77,14% số toa thuốc còn lại không có <br /> sử  dụng  thuốc  bổ  là  4533  toa.  Theo  kết  quả <br /> thống kê của Bộ Y Tế trong các năm 2000, 2001 <br /> và 2002 (1) tỉ lệ tiền chi cho thuốc bổ chiếm 5 ‐ 7% <br /> tổng  tiền  thuốc.  Trong  2  năm  2003,  2004  (1)  tỉ  lệ <br /> tiền chi cho thuốc bổ chiếm 2% tổng tiền thuốc. <br /> Như  vậy  trong  những  năm  gần  đây,  việc  lạm <br /> dụng  thuốc  bổ  có  chiều  hướng  gia  tăng  trở  lại, <br /> đặc biệt tại khu vực phòng khám. <br /> Không  có  toa  nào  có  ghi  thực  phẩm  chức <br /> năng. Đây là điều đáng mừng, có lẻ do sự giám <br /> sát  chặt  chẽ  của  Ban  Giám  Đốc  và  Phòng  Kế <br /> hoạch  Tổng  hợp  không  cho  nhập  thực  phẩm <br /> chức năng vào nhà thuốc của bệnh viện.  <br /> Chúng  tôi  cũng  nhận  thấy  có  580  toa  có <br /> phần  thuốc  ghi  không  phù  hợp  với  chẩn  đoán <br /> bệnh  chiếm  tỉ  lệ  là  9,80%.  Đây  là  điều  đáng  lo <br /> <br /> 79<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013<br /> <br /> ngại về chất lượng kê toa thuốc của các bác sĩ. <br /> Theo  qui  định  của  Qui  chế  kê  đơn  ngoại <br /> trú   do Bộ Y Tế ban hành năm 2008, thời gian <br /> kê toa tối đa là 5 ngày, chúng tôi ghi nhận  có <br /> 261  toa  thực  hiện  không  đúng  quy  định  này <br /> chiếm tỉ lệ là 4,45%.  <br /> (2)<br /> <br /> Giá  trung  bình  một  toa  thuốc  là  gần  68.000 <br /> đồng, toa mắc nhất là 759.000 đồng và rẻ nhất là <br /> 600 đồng với độ lệch chuẩn là 49.000 đồng. Với <br /> điều  kiện  kinh  tế  như  thời  điểm  này,  giá  trung <br /> bình của toa thuốc như vậy là hơn cao so với đời <br /> sống  người  dân,  và  thật  đáng  phê  phán  khi  kê <br /> một toa thuốc có giá cao hơn 1 tháng lương tối <br /> thiểu  của  cán  bộ  công  nhân  viên  (từ  1/5/2010 <br /> mức lương tối thiểu tăng từ 650.000 lên 730.000 <br /> đồng /tháng). <br /> Về phần đánh giá sự phù hợp giữa chi phí <br /> toa  thuốc  so  với  chẩn  đoán  bệnh  và  mức  độ <br /> bệnh ghi trên toa, chúng tôi nhận thấy có 1.360 <br /> toa thuốc có giá tiền không phù hợp chiếm tỉ lệ <br /> là 23,14%. <br /> Khi tìm mối liên quan giữa việc ghi toa cho <br /> kháng sinh, corticoid, thuốc bổ, thực hiện đúng <br /> theo qui chế kê toa  ngoại  trú,  sự  phù  hợp  giữa <br /> chẩn  đoán  bệnh  và  thành  phần  toa  thuốc,  với <br /> các yếu tố có liên quan đến các bác sĩ như biên <br /> chế thuộc khoa Khám bệnh, thâm niên công tác, <br /> khám bệnh trong giờ hay ngoài giờ hành chánh; <br /> chúng tôi ghi nhận được như sau: <br /> <br /> Việc cho kháng sinh (KS) <br /> Các  bác  sĩ  thuộc  biên  chế  khoa  khám  bệnh <br /> ghi  toa  cho  kháng  sinh  nhiều  hơn  các  bác  sĩ <br /> thuộc các khoa nội trú và sự khác biệt này có ý <br /> nghĩa thống kê với P = 0,0083 và OR là 0,75.  <br /> Các  bác  sĩ  có  thâm  niên  công  tác  dưới  5 <br /> năm  có  xu  hướng  kê  toa  có  kháng  sinh  thấp <br /> hơn các bác sĩ có thâm niên 5 – 15 năm và trên <br /> 15  năm,  và  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê <br /> với P 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2