YOMEDIA
ADSENSE
Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
70
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nguyễn Đình Chiểu là tác giả tiêu biểu nhất của văn học Nam Bộ. Sức tác động của văn chương Nguyễn Đình Chiểu đối với người đọc không chỉ ở truyện thơ Lục Vân Tiên mà còn ở mảng thơ điếu.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017<br />
<br />
<br />
<br />
Đặc điểm từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu<br />
<br />
Art of manipulation of reduplicatives in “điếu” styled poems<br />
by Nguyen Dinh Chieu<br />
<br />
ThS.NCS. Nguyễn Ngọc Phú<br />
Trường Đại học Đồng Tháp<br />
<br />
Nguyen Ngoc Phu, M.A. Ph.D.student<br />
Dong Thap University<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Nguyễn Đình Chiểu là tác gia tiêu biểu nhất của văn học Nam Bộ. Sức tác động của văn chương<br />
Nguyễn Đình Chiểu đối với người đọc không chỉ ở truyện thơ Lục Vân Tiên mà còn ở mảng thơ điếu.<br />
Một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ở thơ điếu của ông là vận dụng từ láy một cách độc đáo, sáng<br />
tạo góp phần thể hiện tâm trạng nhà thơ trước thời cuộc và nhất là tái hiện hoàn cảnh lịch sử, địa danh<br />
của Lục tỉnh Nam kỳ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Qua khả năng biểu đạt của các từ láy, ông tự hào<br />
ngợi ca những vị lãnh binh anh dũng, giãi bày nỗi đau đối với những người trung nghĩa đã hy sinh vì đất<br />
nước và nhân dân.<br />
Từ khóa: từ láy, thơ điếu, Nguyễn Đình Chiểu.<br />
Abstract<br />
Nguyen Dinh Chieu is the most typical author of Vietnamese Southwestern literature. Nguyen Dinh<br />
Chieu’s literary influences on readers are not only “Luc Van Tien” but also Dieu styled poems. One of<br />
the best artistic characteristics of his “điếu” styled poems is the manipulation of reduplicatives in a<br />
unique and creative manner, which contributes to expressing his feelings towards the then social reality,<br />
especially, describing the historical context, prescribing administrative names located in the Six<br />
provinces of the South during wartime. Through his abilities of using reduplication, he proudly praised<br />
the heroic army leaders, expressed the pain of loss for those who have been wholeheartedly loyal to the<br />
country and people.<br />
Keywords: reduplicative, “điếu” styled poem, Nguyen Dinh Chieu.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Nguyễn Đình Chiểu là là một tác gia Tiên (viết trước khi Thực dân Pháp xâm<br />
lớn của văn học Việt Nam trung đại, là lược nước ta/ 1858), Dương Từ - Hà Mậu,<br />
trường hợp tiêu biểu nhất cho khuynh hướng và Ngư Tiều y thuật vấn đáp (viết sau 1858),<br />
văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế Nguyễn Đình Chiểu lại đưa truyện Nôm<br />
kỷ XIX. Cũng chính Nguyễn Đình Chiểu là phát triển theo một hướng khác với truyện<br />
người có công lớn nhất, sớm nhất đưa văn Nôm truyền thống, đưa truyện Nôm gắn liền<br />
học Nam Bộ đi vào quỹ đạo của văn học cả với những vấn đề thời sự nóng bỏng của dân<br />
nước. Với ba truyện thơ Nôm dài: Lục Vân tộc và thời đại - vấn đề chống chủ nghĩa<br />
<br />
<br />
140<br />
NGUYỄN NGỌC PHÚ<br />
<br />
<br />
thực dân phương Tây, chống sự nô thuộc hóa” (Hoàng Văn Hành)… Trong văn học,<br />
văn hóa ngoại lai. Ngoài truyện Nôm, mảng đặc biệt là trong thơ ca, từ láy có chức<br />
văn tế và thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu năng và vai trò quan trọng khó có thể thay<br />
với nhiều tác phẩm xuất sắc (Văn tế nghĩa sỹ thế (khả năng biểu cảm, biểu niệm, biểu<br />
Cần Giuộc, Văn tế Trường Định, 10 bài thơ vật, biểu tượng)... Từ láy trong mảng sáng<br />
điếu Trương Định, 12 bài điếu Phan Tòng, 2 tác thuộc hai thể văn tế và thơ điếu của<br />
bài khóc Phan Thanh Giản) cũng thực sự là Nguyễn Đình Chiểu (ở bài viết này chỉ<br />
hiện tượng văn học độc đáo vào loại “có một khảo sát ở mảng thơ điếu) không chỉ có ý<br />
không hai”. Ngôn từ của các bài văn tế và nghĩa biểu cảm, biểu niệm, biểu vật, mà<br />
thơ điếu vừa nêu không chỉ giàu tính biểu còn thể hiện rất chân thực, sinh động đặc<br />
cảm, biểu niệm, mà còn rất giàu tính biểu trưng ngôn ngữ vùng Nam Bộ.<br />
vật, biểu tượng; không chỉ là tiếng lòng thiết 2. Khả năng biểu cảm, biểu niệm của<br />
tha nhất của một con người (cá nhân nhà từ láy trong mảng thơ điếu (khóc thương<br />
thơ) mà còn là tiếng lòng thiết tha nhất của những anh hùng vì nước mà hy sinh) của<br />
nhân dân Nam Bộ đối với những anh hùng Nguyễn Đình Chiểu tuy mộc mạc, giản dị<br />
vì nước mà hy sinh. Một trong những loại từ nhưng có sức gợi thật sâu xa. Qua khảo sát<br />
tạo nên những lớp sóng ngôn từ xúc động ấy 12 bài Thơ điếu Trương Định, 10 bài Thơ<br />
là từ láy. điếu Phan Tòng, 2 bài Thơ điếu Phan<br />
Từ láy là những từ được cấu tạo theo Thanh Giản, chúng tôi thấy có 22 từ láy,<br />
phương thức láy - “phương thức lặp lại trong đó từ láy bộ phận: 20 từ, chiếm<br />
toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (…) 90,9%; từ láy hoàn toàn: 02 từ (đâu đâu,<br />
của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” (Đỗ dàu dàu), chiếm 9,1% (cụ thể hơn: ở 12 bài<br />
Hữu Châu), “là từ được cấu tạo bằng cách Thơ điếu Trương Định có 16 từ láy, chiếm<br />
nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất 72,8%; ở 10 bài Thơ điếu Phan Tòng có 03<br />
định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ, chiếm 13,6%; ở 2 bài Thơ điếu Phan<br />
từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hòa với nhau Thanh Giản có 3 từ, chiếm 13,6%). Xin<br />
về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng xem bảng thống kê dưới đây:<br />
<br />
Bảng thống kê các từ láy trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu<br />
Phân loại<br />
Số lượng<br />
TT Phạm vị khảo sát Từ láy Từ láy Tỷ lệ %<br />
từ láy<br />
bộ phận hoàn toàn<br />
12 bài thơ điếu 16 từ láy lâm dâm, sảng sốt, bâng khuâng, lỡ đâu đâu 72,8%<br />
Trương Định dở, chống chỏi, chàng ràng, thở<br />
1 than, xững vững, om sòm, lác đác,<br />
kêu rêu, náu nương, thình lình,<br />
xăng văng, ngơ ngẩn<br />
10 bài thơ điếu 3 từ láy nhảy nhót, xếu mếu, bâng khuâng 13,6%<br />
2<br />
Phan Tòng<br />
2 bài thơ điếu Phan 3 từ láy tan tành, thung dung dàu dàu 13,6%<br />
3<br />
Thanh Giản<br />
Tổng cộng 22 20 (90,9%) 02 (9,1%)<br />
<br />
141<br />
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU<br />
<br />
<br />
Bảng khảo sát cho thấy, về đặc điểm phải chịu nhiều tổn thất, mất mát. Binh<br />
cấu tạo, theo số lượng âm tiết, Nguyễn sương lác đác chỉ sự thưa thớt, chóng tàn<br />
Đình Chiểu chỉ có sử dụng từ láy đôi như thời cuộc, khắc họa cảnh quê hương<br />
(không có từ láy ba, láy tư). Theo quy tắc bị giặc Pháp xâm chiếm như cảnh “nắng<br />
điệp và đối, tác giả sử dụng từ láy hoàn liền thâu”.<br />
toàn tương đối ít (chỉ có 2 từ), còn đa số Nguyễn Đình Chiểu tự hào, ngợi ca<br />
là từ láy bộ phận. Các từ láy ở đây được công lao Trương Định - vị lãnh binh nghĩa<br />
gắn với nội dung và giá trị biểu đạt riêng, hiệp, chiến đấu đến cùng và dũng cảm hy<br />
có hiệu quả cao trong biểu cảm, biểu sinh vì sự sống còn của mảnh đất Nam<br />
niệm, thể hiện rõ tâm trạng nhà thơ trước Bộ, của độc lập dân tộc. Với tính cương<br />
thời cuộc. Không những thế, những từ láy trực, khẳng khái của người Nam Bộ, vị<br />
này còn góp phần khắc họa hình tượng anh hùng hướng mũi tấn công vào quân<br />
con người trung nghĩa yêu nước - hình xâm lược dẫu biết rằng lực lượng đôi bên<br />
tượng thẩm mỹ trung tâm của thời đại với không ngang sức:<br />
những nét đẹp riêng trong tính cách, Hay dở phải chăng trời cũng biết<br />
phẩm giá (giản dị, bộc trực, khảng khái, Một tay chống chỏi mấy năm dài<br />
hành động cụ thể, rõ ràng, giám hy sinh (Thơ điếu Trương Định - Bài 4)<br />
vì nghĩa lớn). Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ Chống chỏi - từ láy âm có phụ âm<br />
nỗi xót thương đối với người anh hùng đầu trùng nhau giữa các tiếng, phần âm<br />
cùng các nghĩa quân qua những câu thơ chính, vần cuối khác biệt ở các tiếng độc<br />
đầy cảm động: lập, thể hiện ý chí kiên cường, không chịu<br />
Mấy dặm non sông đều xững vững khuất phục trước mọi khó khăn, gian khổ<br />
Nạn dân ách nước để ai toan? suốt mấy năm dài.<br />
(Thơ điếu Trương Định - Bài 7) Nguyễn Đình Chiểu cũng dành cho<br />
Từ láy xững vững góp phần quan Phan Tòng một tình cảm sâu nặng, càng<br />
trọng trong thể hiện không chỉ niềm tiếc trân trọng, ngưỡng mộ tinh thần vì nghĩa<br />
thương vô hạn mà còn cả sự choáng váng của Phan Tòng:<br />
của “mấy dặm non sông” trước sự ra đi Sao ra nhảy nhót giữa vòng danh<br />
của lãnh binh Trương Định. Son đóng chưa khô ấn đốc binh<br />
Ở bài 8 trong Thơ điếu Trương Định, (Thơ điếu Phan Tòng - Bài 4)<br />
Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ: Từ láy nhảy nhót có sự trùng lặp phụ<br />
Giặc cỏ om sòm mưa lại nhóm âm đầu nhưng khác biệt phần âm chính,<br />
Binh sương lác đác nắng liền thâu vần cuối, giúp nhà thơ diễn tả quyết tâm<br />
(Thơ điếu Trương Định - Bài 8) của Phan Tòng khi đến với cuộc chiến<br />
Om sòm là từ láy vần, có phần vần, đấu: hăm hở, hăng hái đứng lên quyết<br />
âm chính trùng lặp nhưng khác thanh chiến với kẻ thù, dù son đóng chưa khô<br />
điệu và phụ âm đầu. Lác đác có phần trên ấn đốc binh của ông.<br />
vần, âm chính trùng lặp, khác phụ âm đầu Trước cảnh kẻ thù xâm chiếm quê<br />
nhưng lại giống thanh điệu. Từ láy om hương, nhân dân điêu đứng lầm than,<br />
sòm tỏ thái độ châm biếm, nhạo báng, lên triều đình đứng ngoài vòng thế sự,<br />
án những kẻ phản quốc dẫn đường cho Nguyễn Đình Chiểu giãi bày niềm trăn<br />
giặc, khiến cho phong trào kháng Pháp trở qua Thơ điếu Phan Tòng:<br />
<br />
142<br />
NGUYỄN NGỌC PHÚ<br />
<br />
<br />
Ai khiến cuộc hòa ra cuộc chiến “tiết”. Vì thế nỗi lòng, phẩm chất của ông<br />
Người qua An Lái luống bâng khuâng càng được nêu cao. Thực sự, cho đến<br />
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 7) nay, độ lùi về thời gian đã cho thấy Phan<br />
Hay: Thanh Giản là một con người chính trực,<br />
Bâng khuâng ngày xế cả than trời nhân nghĩa, yêu nước và có tư tưởng<br />
Ai đổ cho người gánh nạn đời canh tân. Ông Võ Văn Kiệt rất có cơ sở<br />
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 8) khi nhận định: “Phan Thanh Giản vẫn<br />
Từ láy bâng khuâng diễn tả trạng còn là con người đáng kính trọng, đáng<br />
thái luyến tiếc, lo lắng cho nhân dân phải tôn vinh, một danh nhân của dân tộc ta,<br />
gánh chịu nạn xâm lược của Thực dân phải coi Phan Thanh Giản là người yêu<br />
Pháp. Câu thơ gợi cảm giác buồn cho nước thương dân, không phản quốc hại<br />
thân phận con người và gợi câu hỏi: ai đã dân”(2); “Tôi khẳng định Phan Thanh<br />
làm “cuộc hòa ra cuộc chiến” khiến nhân Giản là người yêu nước, thương dân, một<br />
dân phải lầm than, khiến ai đi qua địa phẩm cách đáng kính trọng”(3). Nguyễn<br />
danh An Lái cũng phải chạnh lòng luyến Đình Chiểu xót thương cho tình thế khó<br />
tiếc, xót xa ?. Từ láy sử dụng trong câu xử của vị lão thần, thông cảm, thấu hiểu<br />
thơ thể hiện thái độ đau xót Nguyễn Đình tấn bi kịch và cũng muốn bênh vực cho<br />
Chiểu khi viết về thân phận quần chúng hành động của Phan Thanh Giản, thấy<br />
nhân dân nói chung và Trương Định, được Phan Thanh Giản giữ tiết nhọc<br />
Phan Tòng nói riêng. Nhân dân tự mình nhằn, giám hy sinh và cũng chịu nhiều<br />
đứng lên kháng Pháp. Còn các quan lớn, oan khuất, cố gắng giữ cho tròn chữ tiết<br />
hỏi một câu, nghe mà đau lòng: đối với triều đình và nhân dân.<br />
E nỗi dạ đài quan lớn hỏi Tất cả những từ láy như: lâm dâm,<br />
Cớ sao xếu mếu cảnh Ba Tri? sảng sốt, bâng khuâng, lỡ dở, chống chỏi,<br />
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 5) đâu đâu, chàng ràng, thở than, xững<br />
Từ láy xếu mếu gợi tả tình cảnh điêu vững, om sòm, lác đác, kêu rêu, náu<br />
đứng của nhân dân không biết phải làm nương, thình lình, xăng văng, ngơ ngẩn<br />
như thế nào trước kẻ thù hung bạo. (trong Thơ điếu Trương Định); nhảy<br />
Trước cái chết của Phan Thanh Giản, nhót, xếu mếu, bâng khuâng (trong Thơ<br />
Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ niềm xót điếu Phan Tòng); và tan tành, dàu dàu,<br />
thương và ngợi ca tấm lòng trung quân - thung dung trong Thơ điếu Phan Thanh<br />
ái quốc của vị đại thần phải thừa hành Giản được Nguyễn Đình Chiểu sử dụng<br />
đường lối sai lầm của vua Tự Đức qua 2 rất độc đáo và giàu sức gợi tả. Các thành<br />
bài thơ (1 bài thơ chữ Nôm, 1 bài thơ chữ tố của từ láy có sự tương quan với nhau<br />
Hán). Bằng những lời thơ trầm buồn, về thanh điệu hoặc các bộ phận ngữ âm<br />
“nhà thơ kể lại sơ lược công trạng của tạo nên nội dung ngữ nghĩa nhất định.<br />
Phan Thanh Giản và tấm lòng trung trinh Quan hệ này thể hiện sự hòa phối, lặp lại<br />
của vị lão thần đã trải thờ ba triều vua, về âm giữa các thành tố trong từ. Chính<br />
gặp cảnh thế yếu đành liều chết theo sự hòa phối và lặp lại này đem lại tính<br />
thành để giữ tròn chữ tiết tháo”(1). Phan biểu trưng về nghĩa cũng như sắc thái<br />
Thanh Giản thấy mình có tội với nhân biểu cảm của từ láy. Các từ láy trên góp<br />
dân nên đành chết đi để giữ tròn chữ phần thể hiện giá trị biểu đạt về tư tưởng,<br />
<br />
143<br />
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU<br />
<br />
<br />
tình cảm đối với các nhân vật trung thay đổi, lâm vào trạng thái khó khăn,<br />
nghĩa, làm sáng thêm chân dung những không còn khả năng trụ vững. Từ láy<br />
anh hùng nghĩa hiệp ở Nam Bộ. xững vững trong Thơ điếu Trương Định<br />
3. Từ láy trong thơ điếu của Nguyễn khiến lời thơ trở nên bi tráng:<br />
Đình Chiểu mang đậm màu sắc phương Mấy dặm non sông đều xững vững<br />
ngữ Nam Bộ. Bên cạnh sử dụng từ láy Nạn dân ách nước để ai toan?<br />
toàn dân, thơ điếu của ông còn sử dụng (Thơ điếu Trương Định - Bài 7)<br />
những từ láy là phương ngữ Nam Bộ. Xững vững có nghĩa: choáng váng,<br />
Ngoài 10 năm sống ở kinh đô Phú Xuân, “hoa mắt” vì bị một tác động mạnh, bất<br />
hầu hết cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu ngờ; có khả năng suy sụp; điêu đứng lao<br />
gắn bó với nhân dân Nam Bộ, và sáng tác đao, nghiêng ngả, ở trạng thái không ổn<br />
của ông hướng tới đối tượng trước hết là định (Theo Từ điển từ ngữ Nam Bộ -<br />
người dân Nam Bộ. Từ láy thể hiện màu Huỳnh Công Tín, tr.1368).<br />
sắc phương ngữ Nam Bộ, đem đến những Từ láy thể hiện màu sắc Nam Bộ<br />
giá trị, đặc trưng rất riêng trong phong trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu<br />
cách văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Đó dựa trên sự gần gũi với từ địa phương hay<br />
là các từ: sảng sốt, chống chỏi, chàng dựa trên một đơn vị vốn là một từ địa<br />
ràng, xững vững,, thình lình, xăng văng, phương. Từ láy được Nguyễn Đình Chiểu<br />
xếu mếu, thung dung,… Hầu hết các từ tạo ra gần gũi với từ địa phương, thực sự<br />
trên đều được ghi trong Từ điển từ ngữ có ý nghĩa nghệ thuật. Từ láy thể hiện<br />
Nam Bộ do Huỳnh Công Tín biên soạn. màu sắc phương ngữ Nam Bộ góp phần<br />
Tuy nhiên, trong phương ngữ Nam Bộ, tạo nên sự đa dạng, phong phú, làm giàu<br />
“người nói có thể dựa vào sự gần gũi về thêm không chỉ cho phương ngữ Nam Bộ<br />
âm mà phát âm biến dạng đi hoặc nói trại mà còn cho vốn từ láy tiếng Việt.<br />
đi một bộ phận nào đó trong âm tiết, miễn 4. Từ láy trong thơ điếu của Nguyễn<br />
là âm hưởng chung của toàn âm tiết không Đình Chiểu còn góp phần “làm sống lại”<br />
biến khác hoàn toàn thì người nghe vẫn lịch sử, địa danh vùng Lục tỉnh Nam kỳ<br />
nhận ra được tiếng gốc”(4). Từ láy thể hiện cách đây đã gần hai thế kỷ. Thơ điếu của<br />
màu sắc phương ngữ Nam Bộ trong thơ ông mang tính chất thời sự, đồng thời thể<br />
điếu Nguyễn Đình Chiểu cũng có hiện hiện tâm trạng đau xót của tác giả trước<br />
tượng này. sự hy sinh anh dũng của các anh hùng<br />
Các từ láy phản ánh cách đánh giá lãnh binh. Trong Thơ điếu Trương Định,<br />
của người Nam Bộ về sự vật, hiện tượng từ láy ít nhiều phản ánh thời gian, không<br />
hay tính cách thể hiện màu sắc phương gian lịch sử vùng đất Nam Bộ hào hùng:<br />
ngữ Nam Bộ, có từ tương ứng trong ngôn Quân thân còn gánh nặng hai vai<br />
ngữ toàn dân. Từ láy mang đậm tính Lỡ dở công trình hệ bởi ai?<br />
phương ngữ trong những bài thơ điếu của (Thơ điếu Trương Định - Bài 4)<br />
Nguyễn Đình Chiểu có sức khái quát toàn Thời gian được phản ánh trong Thơ<br />
bộ tình hình của nghĩa quân. Khi tướng điếu Trương Định là thời gian vùng đất<br />
quân xuất hiện, phong trào đấu tranh Nam Bộ gặp nhiều khó khăn trong việc<br />
chống giặc xâm lược trỗi dậy; khi tướng chống quân xâm lược, thông qua từ láy<br />
quân mất đi, thế cuộc của nghĩa quân lỡ dở, Nguyễn Đình Chiểu phản ánh<br />
<br />
144<br />
NGUYỄN NGỌC PHÚ<br />
<br />
<br />
phần nào tình trạng bấy giờ đang diễn ra. cụ thể được nêu trong các bài thơ làm<br />
Từ láy lỡ dở có phần vần trùng lặp, khác sống dậy tinh thần của vùng đất Nam Bộ<br />
phụ âm đầu, khác thanh điệu nhằm biểu nửa sau thế kỷ XIX:<br />
thị sự không hoàn thành được trọn vẹn Ai khiến cuộc hòa ra cuộc chiến<br />
một việc gì đó, chưa thực hiện xong mà Người qua An Lái luống bâng khuâng<br />
còn đang ở tình trạng lỡ dở. Nguyễn (Thơ điếu Phan Tòng - Bài 7)<br />
Đình Chiểu muốn nói đến cuộc kháng Ngựa trạm xăng văng miền Bắc khuyết<br />
chiến chống xâm lược của các vị lãnh Xe nhung ngơ ngẩn cõi Tây Ninh<br />
binh và nhân dân ta chưa hoàn thành, vậy (Thơ điếu Trương Định - Bài 11)<br />
mà tướng quân hy sinh, biết tìm ai tiếp Các từ láy xăng văng (có sự giống<br />
tục lãnh đạo cuộc chiến đấu chống quân nhau ở âm chính, âm cuối), ngơ ngẩn<br />
xâm lược: (giống nhau phụ âm đầu, âm chính và âm<br />
Đâu vầy sấm chớp nổ thình lình cuối khác biệt) giúp người thời nay hình<br />
Gió hạc thêm buồn mấy đạo binh dung cụ thể nơi trạm ngựa xăng văng, thể<br />
(Thơ điếu Trương Định - Bài 11) hiện trạng thái không ổn định, không chỉ<br />
Từ láy thình lình thật giản dị, gần gũi ở miền Nam mà cả ở miền Bắc khuyết<br />
nhưng gây ấn tượng sâu sắc về sự bất cũng lo lắng; cõi Tây Ninh, xe nhung<br />
ngờ, đột nhiên của sấm chớp (ám chỉ khói cũng ngẩn ngơ, đầy buồn lo, không yên<br />
lửa chiến tranh). trước thực tại thời bấy giờ...<br />
Trương Định mất đi là một tổn thất Trong Thơ điếu Phan Thanh Giản,<br />
lớn, là sự đau xót khôn cùng, không chỉ Nguyễn Đình Chiểu viết:<br />
nhân dân đau xót mà cảnh vật thiên nhiên Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự<br />
cũng đượm nỗi bâng khuâng: An đắc thung dung tựu nghĩa thần<br />
Nghe chốn Lý Nhơn người sảng sốt (Thơ điếu Phan Thanh Giản - Bài 2)<br />
Nhìn cồn Đa Phước cảnh bâng khuâng Thung dung (từ láy Hán) có sự giống<br />
(Thơ điếu Trương Định - Bài 3) nhau về âm chính, âm vần cuối diễn tả sự<br />
Khi nghe tin Trương Định hy sinh, ở ung dung, có vẻ như thư thả của Phan<br />
chốn Lý Nhơn người nghe sảng sốt. Đây Thanh Giản trước khi chết. Lòng trung<br />
là trạng thái sảng sốt, bàng hoàng vì sự quân - ái quốc của cụ - một con người trải<br />
việc diễn ra một cách đột ngột, cảnh cồn ba triều vua, đến cuối đời vẫn quyết giữ<br />
Đa Phước cũng phải bâng khuâng. Từ láy tiết trong sạch, khó ai có thể hiểu hết<br />
bâng khuâng thể hiện trạng thái lo lắng được. Bi kịch của Phan Thanh Giản cũng<br />
trước sự hy sinh của vị lãnh binh yêu là bi kịch của cả một thời đại trước thực<br />
nước, làm cồn Đa Phước cũng phải xót trạng sáu tỉnh Nam kỳ lọt vào tay thực<br />
xa, u buồn. Đây là vùng đất đầy nghĩa dân Pháp. Các từ láy (dĩ nhiên đặt trong<br />
tình, không chỉ con người mà mảnh đất chỉnh thể câu thơ, bài thơ) tuy không diễn<br />
nơi đây cũng mang nặng những tâm tư tả một cách cụ thể chi tiết về hoàn cảnh<br />
tình cảm giống như con người, buồn lịch sử vùng đất Nam Bộ, nhưng gợi cho<br />
thương cho con người. Mấy dặm non chúng ta cảm nhận tâm trạng đau khổ của<br />
sông đều thảng thốt khi hay tin Trương nhân dân Nam kỳ trong những ngày bị<br />
Định mất đi. Các từ láy gắn liền với Pháp tấn công quyết liệt. Các vị lãnh binh<br />
những địa danh và cảnh vật thiên nhiên cũng đành phải bất lực:<br />
<br />
145<br />
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU<br />
<br />
<br />
Gò Công binh giáp hãy chàng ràng giả của khuynh hướng văn học yêu nước –<br />
Ngó Bắc trông Nam luống thở than chống Pháp ở giai đoạn nửa sau thế kỷ<br />
(Thơ điếu Trương Định - Bài 7) XIX đều là nhà nho hành đạo. Nguyễn<br />
Gò Công là nơi chịu nhiều đau Đình Chiểu cũng là nhà nho hành đạo,<br />
thương mất mát, nhân dân luôn sống nhưng do hoàn cảnh riêng – bị mù, cách<br />
trong cảnh hồi hộp, âu lo, binh giáp cũng hành đạo của ông khác các nhà nho khác.<br />
chàng ràng. Từ láy thở than (có sự trùng Không thể trực tiếp tham gia kháng Pháp,<br />
lặp về âm đầu, phần âm chính và âm vần ông vẫn theo dõi sát phong trào, tìm cách<br />
cuối khác biệt) gợi lên một không khí u tham mưu cho các lãnh tụ nghĩa quân –<br />
buồn, vắng lặng trước sự tàn phá của nhất là Trương Định. Trương Định trong<br />
quân xâm lược, góp phần tái hiện hoàn văn tế và thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu<br />
cảnh lịch sử đau thương nơi Gò Công - thực sự là một anh hùng, một tấm gương<br />
vùng đất Nam Bộ chịu nhiều đau thương, trung nghĩa hiếm có:<br />
mất mát ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Giúp đời dốc trọn ơn nam tử<br />
Trong Thơ điếu Phan Tòng, Nguyễn Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần…<br />
Đình Chiểu mô tả tình cảnh thật thảm Cái chết của Trương Định khiến<br />
thương của nhân dân Ba Tri: người anh hùng Lỡ dở công trình. Nhưng<br />
E nỗi dạ dài quan lớn hỏi Lỡ dở công trình hệ bởi ai? Câu thơ đặc<br />
Cớ sao xếu mếu cảnh Ba Tri biệt có từ láy lở dở hàm chứa bao đau<br />
(Thơ điếu Phan Tòng - Bài 5) xót, tiếc thương, và oán trách thời thế,<br />
Cái chết của Phan Tòng khiến nhân oán trách triều đình…<br />
dân Ba Tri rơi vào hụt hẫng, đau đớn Với Phan Thanh Giản – nhân vật<br />
khôn cùng. Còn ai có thể lãnh đạo phong phức tạp hơn, qua những vần thơ đầy ẩn<br />
trào yêu nước ? Các quan lớn thời bấy ý, Nguyễn Đình Chiểu vừa xót thương,<br />
giờ không quan tâm gì đến nhân dân, lại chia xẻ, vừa có chút trách móc người bạn<br />
còn hỏi “cớ sao xếu mếu”, làm cho lòng trước bài toán trung quân – ái quốc. Xét<br />
người càng căm giận hơn. Từ láy xếu trong quan hệ với lý tưởng trung quân,<br />
mếu (hai từ tố khác nhau ở phụ âm đầu) Phan Thanh Giản là vị quan trung thần,<br />
vừa bày tỏ sự xót thương, vừa thể hiện trong quan hệ với nhân dân ông thấy<br />
lòng căm thù đối với bọn tay sai bán mình chưa làm tròn nghĩa vụ, chưa thực<br />
nước hại dân. Có thể thấy các từ láy trong hiện được việc nghĩa cứu dân nên đành<br />
các bài thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu tuẫn tiết. Hành động tuẫn tiết của Phan<br />
gần gũi, bình dị nhưng có khả năng biểu Thanh Giản cũng là một biểu hiện đáng<br />
vật (tái hiện cuộc sống) một cách cụ thể trân trọng của con người trung nghĩa.<br />
sinh động, tạo nên nét đặc trưng trong Phan Thanh Giản mất đi, nhân dân Nam<br />
cách ngôn từ của Nguyễn Đình Chiểu. Bộ đau xót; đất trời, non nước cỏ cây<br />
5. Từ láy góp phần đắc lực trong khắc cũng chịu cảnh thảm sầu:<br />
họa hình tượng con người trung nghĩa yêu Non nước tan tành hệ bởi đâu<br />
nước - mẫu hình con người đẹp nhất trong Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu<br />
văn học yêu nước nửa sau thế kỷ XIX mà (Thơ điếu Phan Thanh Giản - Bài 1)<br />
Nguyễn Đình Chiểu là người tiên phong Vì đâu mà non nước tan tành? Từ<br />
tìm kiếm, xây dựng. Có thể thấy các tác láy tan tành có phụ âm đầu trùng lặp và<br />
<br />
146<br />
NGUYỄN NGỌC PHÚ<br />
<br />
<br />
có phần vần khác biệt, thể hiện sự tan ra lịch sử vùng Lục tỉnh Nam Kỳ...<br />
từng mảnh, gợi hình ảnh nhà cửa, ruộng Chú thích:<br />
vườn đã bị giặc Pháp tàn phá tan tành. Từ (1)<br />
Ngô Viết Dinh: Đến với thơ Nguyễn Đình<br />
láy dàu dàu hoàn toàn giống nhau về Chiểu, Nxb Thanh niên, 2002, tr.676.<br />
(2) (3)<br />
thành phần cấu tạo, ngữ nghĩa, nhưng Nhiều tác giả: Thế kỷ XIX nhìn về nhân vật<br />
khác nhau về trọng âm nhằm thể hiện thái lịch sử Phan Thanh Giản, Tạp chí Xưa và<br />
nay phối hợp với Trung tâm Khoa học Xã<br />
độ nhấn mạnh của tác giả và kéo dài ra<br />
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ<br />
trong khi phát âm. Trọng âm rơi vào chức Hội thảo khoa học, 2003, tr.274 - 279.<br />
tiếng thứ hai của từ láy dàu dàu, chỉ sự (4)<br />
Trần Thị Ngọc Lang: Phương ngữ Nam Bộ<br />
héo úa của cây cỏ, nhấn mạnh sự héo tàn, những khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa so<br />
tang thương. Các từ láy đậm tính gợi với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb KHXH Hà<br />
hình, gợi cảnh tượng chiến tranh chết Nội, 1985, tr.123.<br />
(5)<br />
chóc, nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá, gợi Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu: Thơ văn<br />
Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn, 2005,<br />
sự tang tóc bao trùm lên quê hương.<br />
tr.886.<br />
6. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn<br />
của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ văn TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
yêu nước chống Pháp giai đoạn nửa sau 1. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng<br />
thế kỷ XIX. Cuộc đời Nguyễn Đình Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội.<br />
Chiểu là tấm gương sáng về đạo đức và 2. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa<br />
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.<br />
lòng yêu nước, đặc biệt thái độ sống và<br />
3. Ngô Viết Dinh (2002), Đến với thơ Nguyễn<br />
chiến đấu vì chính nghĩa, vì vận mệnh Đình Chiểu, Nxb Thanh niên.<br />
của dân tộc và nhân dân. Từ láy là một 4. Nhiều tác giả (2003), “Thế kỷ XIX nhìn về<br />
trong những yếu tố đặc sắc của ngôn ngữ nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”, Tạp chí<br />
thơ nói chung, thơ điếu nói riêng của Xưa và nay phối hợp với Trung tâm Khoa<br />
Nguyễn Đình Chiểu, góp phần quan trọng học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí<br />
tạo nên sự thấm thía, dư ba cho nhiều vần Minh tổ chức Hội thảo khoa học.<br />
5. Hoàng Văn Hành (1985), Từ láy trong tiếng<br />
thơ viết tự đáy lòng của tác giả. Các từ<br />
Việt, Nxb Khoa học Xã hội.<br />
láy được lựa chọn, vận dụng, tổ chức 6. Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu (2005),<br />
trong các câu thơ/ bài thơ một cách hợp Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà<br />
lý, góp phần hữu hiệu trong biểu đạt nội văn.<br />
dung tư tưởng, giãi bày cảm xúc, tâm 7. Nguyễn Nguyên Trứ (1970), “Một số suy<br />
trạng của nhà thơ và nhân dân trước sự ra nghĩ xung quanh việc xác định từ láy đôi<br />
đi của người anh hùng cứu nước. Từ láy trong tiếng Việt hiện đại”, Tạp chí Ngôn<br />
ngữ (số 2), tr.52.<br />
trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu<br />
8. Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn<br />
còn thể hiện chân thực sắc thái phương Thạch Giang (1982), Nguyễn Đình Chiểu<br />
ngữ Nam Bộ, như là dấu ấn khắc ghi hiện toàn tập, tập 2, Nxb Đại học và Trung học<br />
thực một thời bi thương và hào hùng của chuyên nghiệp, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 09/3/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017<br />
<br />
<br />
<br />
147<br />
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn