TÁMLÝHỌCDÁN số<br />
<br />
C hư ơng III<br />
<br />
N H Ữ N G VẤN ĐỂ TÂM ú H Ọ C<br />
C Ủ A H À N H VI S IN H Đ Ẻ ở C Ấ P Đ Ộ GIA Đ ÌN H<br />
Mục tiêu:<br />
Sau khi nghiên cứu chương này, người học cần đạt được<br />
khả năng:<br />
1. Phân tích được ảnh hưởng của hoàn cảnh cuộc sống gia<br />
đình đến vấn đề sinh đẻ.<br />
2. Trình bày được ảnh hưởng của các biểu tượng vé cuộc<br />
sống gia đình và các thành viên của nó đến hành vi sinh<br />
đẻ.<br />
3. Mô tà được các khía cạnh cơ bản của các mối quan hệ<br />
qua lại trong gia đình và trình bày được ảnh hưởng của<br />
mỗi khía cạnh đó đối với vấn đề sinh đẻ.<br />
4. Nêu được các biểu hiện vé thái độ cùa hai vợ chồng đối<br />
với vấn đề số con trong gia đình.<br />
5. Xác định được ý nghĩa của việc quyết định sinh con.<br />
6. Phân tích và phê phán việc kiểm soát giới tính của trẻ<br />
sơ sinh.<br />
79<br />
<br />
-----------------------------------------------------------------TRÁN TRỌNGTHỦY<br />
<br />
I. GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ SINH ĐẺ<br />
Theo chúng tôi, muốn thấy được mối quan hệ giữa gia<br />
đình và vấn đề sinh đẻ thì tâm lý học dân sô' cần xem xét các<br />
khía cạnh như: hoàn cảnh của đời sống gia đình, các quan<br />
niệm về cuộc sống gia đình và các thành viên của nó. Những<br />
khía cạnh này làm hợp nhất các nhân tố của hành vi sinh đẻ,<br />
các nhân tố này lại được quy định chủ yếu bởi tính chất xã hội<br />
của gia đình, rồi sau đó bởi những đậc điểm của cặp vợ chồng.<br />
Ta hãy xét về những khía cạnh đó.<br />
1. Khía cạnh hoàn cảnh của cuộc sống gia đình<br />
<br />
Ở đây ta hãy xem xét sự phụ thuộc của hành vi sinh đẻ vào<br />
phản ứng cùa gia đình đối với các điều kiện vật chất và nhà ờ,<br />
vào vị thế xã hội đã đạt được, vào quan hệ đối với những người<br />
thân. Trong khuôn khổ của vấn đề này, mối liên hệ của việc<br />
sinh đẻ và cảm giác về bản thân của cá nhân ờ những giai đoạn<br />
khác nhau cùa chu kỳ gia đình (hình thành gia đình trẻ và sự<br />
tách khỏi cha mẹ cùa nó, thời kỳ mang thai, xuất hiện dứa con<br />
đầu lòng và việc giáo dục nó ở những giai đoạn lớn khôn khác<br />
nhau, sự xuất hiện mỗi đứa con tiếp theo..v..v) được xác định.<br />
Rõ ràng là, ờ giai đoạn này hay giai đoạn kia trong chu kỳ gia<br />
đình sẽ có những vấn đề đặc biệt nảy sinh trong gia đình, sẽ<br />
xuất hiện những tính chất đặc biệt của lối sống, cùa các mối<br />
quan hệ qua lại, tính tích cực xã hội cùa các thành viên trong<br />
gia đình (trước hết là của người phụ nữ) sẽ thay đổi, sẽ xuất<br />
hiện những tâm thế mới và những tâm thế trước đây sẽ thay<br />
đổi, trong đó có tâm thế sinh đẻ và giáo dục con cái.<br />
80<br />
<br />
TÂMLÝHỌC DÂN số<br />
<br />
Trong việc nghiên cứu khía cạnh “hoàn cảnh của đời sống<br />
gia đình” cần tính đến cậc mối liên hệ theo những hướng khác<br />
nhau của các nhân tố: ảnh hưởng của các điều kiện sống của<br />
gia đình đến hành vi sinh đẻ của nó, và ngược lại, ảnh hưởng<br />
cùa hành vi sinh đẻ đến hoàn cảnh gia đình. Các công trình<br />
nghiên cứu ờ Liên Xô trước đây đã phát hiện có hai loại liên<br />
hộ giữa các nhân tố trên. Chảng hạn, theo các số liệu của<br />
I.Ph.Đêmenchiêva, thì việc sinh con trùng với việc định hướng<br />
lại yêu cầu nghề nghiệp cùa cặp vợ chồng. Nhu cầu hoạt động<br />
nghề nghiệp của những phụ nữ đang làm việc bị xếp sang hàng<br />
thứ hai, tạm thời nhường chỗ cho yêu cầu chăm sóc con và<br />
giao tiếp với con cái. Người ta thấy có những thay đổi nhất<br />
định trong cấu trúc cùa nhu cầu nghề nghiệp ở người cha. Nhu<br />
cầu nâng cao trình độ chuyên môn trở thành bức bách hơn, nó<br />
là một điều kiện để nâng cao tiền lương. Các kế hoạch về nghề<br />
nghiệp cùa người bô' trẻ cũng có thể được thay đổi. Ví dụ, nảy<br />
sinh khả năng chuyển sang một ngành sản xuất khác, mà ở đó<br />
các cơ hội đảm bảo cho đứa con được nhận vào nhà trẻ nhiều<br />
hơn (14).<br />
Một nghiên cứu khác đã chỉ ra mối liên hệ ngược cùa các<br />
nhân tố- ảnh hưởng của các điều kiện sống đến hành vi sinh<br />
đỏ. Có ba kiểu gia đình căn cứ theo tính chất sử dụng thời gian<br />
rỗi: kiểu thứ nhất, sử dụng thời gian rỗi ở nhà (64%), kiểu thứ<br />
hai- ngoài gia đình (7%), kiểu thứ ba- kết hợp cả hai kiểu trên<br />
(29%). Các chỉ số về hành vi sinh đỏ gia đình và tâm thế sinh<br />
đỏ cùa các cặp vợ chỏng thuộc kiểu thứ nhất là cao hơn cả.<br />
Những nghiên cứu phản ánh mối liên hệ của tỉ lệ sinh đẻ<br />
và các điều kiện ỉống cùa gia đình ở các giai đoạn phát triển<br />
<br />
TRẤN TRỌNGTHỦY<br />
<br />
khác nhau của nó cung cấp cho ta nhiều thông tin có giá trị. Ví<br />
dụ, một công trình nghiên cứu ở Matxcơva đã cho thấy: Việc<br />
sinh đứa con thứ hai đã làm cho gia đình trở nên kém sung túc<br />
hơn về phương diện vật chất so với các gia đình một con,<br />
Sự vận hành cùa gia đình ở một giai đoạn phát triển cụ thể<br />
của nó, tất nhiên, sẽ tiền định cả những khả năng, lẫn ý định của<br />
vợ chồng trong việc thực hiện hành vi sinh đẻ. Điều này có<br />
nghĩa là, tỉ lệ sinh đẻ nói chung phụ thuộc không phải vào số<br />
lượng các cuộc hôn nhân, không chỉ vào tương quan giữa đàn<br />
ông và đàn bà ở tuổi sinh đẻ trong dân cư, mà trước hết vào số<br />
lượng các gia đình ở một giai đoạn phát triển nhất định cùa<br />
mình, và những tâm trạng kèm theo. Không phải ngẫu nhiên mà<br />
những năm gần đây trong dân số học đã phát triển một hướng<br />
mới, theo đó gia đình được xem xét trong sô những điều kiện<br />
của tỉ lệ sinh đẻ tiềm tàng và hiện thực. Liên quan tới điều dó,<br />
mối tương quan của gia đình với sỏ' lượng con khác nhau, ảnh<br />
hưởng đến việc sinh đẻ, của các đặc tính văn hoá và kinh tế- xã<br />
hội của bố mẹ, cùa tính tích cực kinh tế của họ, của việc tổ chức<br />
công việc nội trợ, các mức độ đô thị hoá gia đình (nghĩa là mức<br />
độ trang bị cho gia đình bằng kĩ thuật hiện đại), của sự hiện<br />
diện các chuẩn mực hành vi đặc trưng cho dân thành thị., đã<br />
được phân tích. Kết quả rất quan trọng là, người ta xác định<br />
được tỉ trọng của gia đình thuộc kiểu này hay kiểu kia trong cấu<br />
trúc dân cư và đưa ra dự báo về sự phát triển của chúng.<br />
Thời gian gần đây, các nhà xã hội học và dân sô' học đã cô<br />
gắng vạch ra mối liên hệ giữa sô' lượng con và vị trí xã hội của<br />
bố mẹ, trình độ học vấn của họ, tính chất và nội dung lao<br />
động, thu nhập, điều kiện về nhà ở, sự phân công lao động<br />
<br />
TÂMLÝHỌC DÂN số<br />
<br />
trong gia đình, Chảng hạn, những nhà xã hội học Extôni đã<br />
nghiên cứu sự tự xác định cuộc đời của thanh niên sinh ra<br />
trong những năm 1948-1949. Họ đã vạch ra rằng, việc xây<br />
(lựng gia đinh ở tất cả những thanh niên này đều trùng hợp với<br />
thời kì tự xác định về mặt xã hội, và diễn ra ở lứa tuổi 21,126,2 tuổi. Trong đó ở các chuyên gia có trình độ học vấn cao<br />
thì việc xây dựng gia đình được bắt đầu chính ở lứa tuổi này; ở<br />
các công nhân chuyên nghiệp- ở lứa tuổi sớm hơn (20,5 tuổi)<br />
và bước vào giai đoạn kết thúc trước 25,8 tuổi. Ở hơn một nừa<br />
sô công nhân được nghiên cứu, người ta thấy có một khoảng<br />
thời gian xác định giữa khi kết thúc con đường học hành, khi<br />
có một vị trí xã hội và xây dựng gia đinh.<br />
Cũng theo kết quả của những nghiên cứu này thì, ở một bộ<br />
phận thanh niên việc tốt nghiệp và việc có con trùng hợp với<br />
nhau, điều đó làm cho quá trình tự xác định cuộc đời trở nên<br />
phức tạp. Nhưng nếu gia đình được xây dựng ở lứa tuổi trưởng<br />
thành hơn, thì sẽ có con muộn hơn, sau khi mà hai vợ chồng đã<br />
chung sông trong một thòri gian không bận bịu về con cái. Điều<br />
này có nghĩa là, việc kê' hoạch hoá sinh đẻ phần lớn xảy ra ở lứa<br />
tuổi trưởng thành. Xu thế chung là như vậy. Nhưng những khác<br />
biệt cơ bản được thấy rõ tuỳ thuộc vào vị trí xã hội.<br />
Ở những công nhân chuyên nghiệp thì sự chênh lệch giữa<br />
lúc kết hôn và khi có con là 1,1 -1,6 năm, ở các chuyên gia có<br />
trình độ học vấn cao là 2,1-2,3 năm. Cho nên, phần lớn các<br />
chuyên gia có trình độ học vấn cao đều kế hoạch hoá việc sinh<br />
đẻ. Các chuyên gia làm việc trong các xí nghiệp cưới vợ và lấy<br />
chồng muộn hơn những người khác và kế hoạch hoá thời gian<br />
sinh con đầu lòng rõ rệt hơn. Nhưng ở đâu đó, ở lứa tuổi 26 thì<br />
<br />