ĐẶT VẤN ĐỀ

Muốn duy trì sự sống, tế bào cần oxy để biến năng lượng hóa học của

thức ăn thành các dạng năng lượng khác như cơ năng, nhiệt năng .. dùng vào

mọi hoạt động sống. Đồng thời Carbon dioxid (CO2) sinh ra trong quá trình sống

cần phải thải ra ngoài. Cung cấp oxy và thải CO2 là chức năng chính của bộ máy

hô hấp.

Khí quản là một cơ quan tham gia vào bộ máy hô hấp, do vị trí đặc biệt

nên khí quản chiếm một vị trí quan trọng. Không khí từ mũi hoặc miệng xuống

đi qua khí quản tới phổi, chia nhánh vào hai phế quản gốc, phế quản thùy, phân

thùy rồi chia nhánh nhiều lần tới các tiểu phế quản và phế nang và thực hiện quá

trình trao đổi khí [2]. Khí quản có đặc điểm là cơ quan duy nhất không có hoạt

động hỗ trợ từ bộ phận tương tự và phải đảm bảo thông thoáng thực hiện trao

đổi khí liên tục.

Bên cạnh đó khí quản còn có chức năng bảo vệ phổi khỏi dị vật (do hệ

thống lông chuyển), sưởi không khí, phát âm, tham gia thể hiện tình cảm [5].

Cấu trúc hình trụ của khí quản là một tổ chức hỗn hợp gồm các vòng sụn được

ghép và định hình với nhau bằng các sợi cơ trơn, sợi chun hiện tại chưa có bộ

phận nhân tạo thay thế. Do đó các phẫu thuật tạo hình khí quản rất phức tạp, đòi

hỏi sự chính xác và đặc biệt phải luôn đảm bảo thông khí cung cấp oxy cho nhu

cầu cơ thể. Hiện nay phẫu thuật này được thực hiện tại một số trung tâm hoặc

bệnh viện lớn, trong đó có bệnh viện TƯQĐ 108.

Kinh nghiệm và kế hoạch chăm sóc của điều dưỡng chưa thấy đề cập

trong tài liệu giảng dạy và ít thấy có báo cáo tiếng việt nào đề cập tới việc chăm

sóc bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tân-tận [1].

Đây cũng là giai đoạn quan trọng góp phần vào thành công của kết quả

điều trị phẫu thuật cắt nối khí quản tận-tận điều trị hẹp khí quản:

1

Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu:

 Đánh giá kết quả chăm sóc hô hấp bệnh nhân sau phẫu thuật cắt nối

khí quản tận – tận tại Bệnh viện TƯQĐ 108

 Mô tả mức độ khó thở lâm sàng sau phẫu thuật cắt nối khí quản tận-

tận

2

I. TỔNG QUAN

1.1 Đại cƣơng

1.1.1 Giải phẫu khí quản [2]

Khí quản (Tracheal) tiếp theo thanh quản bắt đầu từ cổ (đốt sống cổ VI) và tận

hết trong lồng ngực (đốt sống cổ IV) bằng cách chia đôi thành 2 phế quản

Hình 1: Vị trí của khí quản

a. Hình dáng, kích thước và cấu tạo

 Khí quản là một ống hình trụ dẹt ở phía sau, phồng tròn ở phía trước. Sở

dĩ như vậy là do khí quản được cấu tạo bởi khoảng 16 đến 20 vòng sụn và

ở phía sau mỗi vòng sụn là tổ chức sợi. Ở giữa các vòng sụn cũng có các

rãnh ngang cũng là tổ chức sợi. Khí quản chạy từ trên xuống hơi bị lệch

sang phải (do quai động mạch chủ đè lên ở bên trái) và để hở một phần

mặt trước thực quản. Càng xuống dưới càng chếch về phía sau, cho nên ở

đoạn cổ khí quản nằm rất nông ở phía trước và ở trên (cách da khoảng

18mm). Có thể sờ thấy ngay dưới da nhữn vòng sụn của khí quản, nên

thường mở khí quản giữa vòng sụn 1-4, khi vào ngực thì lại nằm rất sâu.

 Khí quản dài độ 10cm chia hai phần đoạn cổ và đoạn ngực. Tuy nhiên độ

dài chung và mỗi đoạn thay đổi tùy theo tuổi và tùy từng người, nam hay

nữ. Khí quản có đường kính ngang khoảng 15-18mm, nhưng có thể chỉ

3

khoảng 10-12mm do có cơ co khí quản kéo lại, do đó khi có dị vật nằm

trong khí quản, kết hợp với phản xạ ho dị vật sẽ được đẩy lên tới thanh

môn

 Khí quản di động dễ dàng, được đưa lên cùng thanh quản khi ta bắt đầu

nuốt hoặc bị đẩy sang bên bởi các u ở cổ.

 Khí quản được cấu tạo bởi hai lớp: lớp ngoài gồm các nửa vòng sụn được

nối với nhau bởi các thớ sợi và ở phía sau có các cơ trơn khí quản. Lớp

trong là niêm mạc. Khi soi phế quản ta thấy phía trong có các vòng đỏ

sáng (vòng sụn) và vòng đỏ nâu (vòng thớ liên sụn). Ở đầu dưới có hai lỗ

thông với hai phế quản, ngăn cách nhau bởi một gờ được gọi là cựa khí

quản (carina tracheal).

Hình 2: Giải phẫu khí quản

(a) Mặt trước khí quản (b) Cắt ngang khí quản

4

b. Liên quan giải phẫu

 Đoạn cổ: Khí quản nằm ở khu dưới móng, nằm phía trong da và cân cổ

nông, các cơ nông vùng cổ trước, một phần có tuyến giáp vắt ngang qua ở

đoạn cổ. Khí quản đè lên thực quản ở phía sau và liên quan với hai bên bó

mạch cảnh gốc. Khoang tế bào trước khí quản rộng nhất là trên cán ức

trong đó có thể có hạch bạch huyết, tĩnh mạch giáp dưới, có thể có thân

tĩnh mạch cách tay đầu trái, trẻ em có thể thấy cả tuyến ức lấn cao lên cổ.

 Đoạn ngực: Phía trước liên quan từ nông vào sâu và qua lớp xương ức

sườn đòn với thân tĩnh mạch cánh tay đầu trái, thân động mạch cánh tay

đầu và động mạch cảnh gốc trái. Ở dưới hai động mạch này và ở chỗ mà

khí quản phân chia làm hai phế quản là quai động mạch chủ và ngành

phải của thân động mạch phổi. Phía sau vẫn là thực quản. Bên trái liên

quan với quai động mạch chủ, động mạch cảnh gốc trái, dây thần kinh X

trái với dây quặt ngược trái. Bên phải liên quan với quai tĩnh mạch đơn

lớn thân động mạch cánh tay đầu và dây thần kinh X phải.

1.1.2 Nguyên nhân gây hẹp khí quản

Hẹp khí quản có thể gặp ở cả người lớn và trẻ em. Trong đó trẻ em

thường là hẹp khí quản bẩm sinh còn hẹp khí quản người lớn thường là do mắc

phải. Cả hai nhóm tuổi đều có nguyên nhân hẹp khí quản sau đặt ống nội khí

quản kéo dài chiếm tỉ lệ lớn.

Gồm các nhóm nguyên nhân sau:

- Hẹp khí quản do điều trị

o Đặt ống nội khí quản kéo dài

o Mở khí quản

o Điều trị xạ khí quản

o Phẫu thuật khí quản trước đó

- Hẹp khí quản bẩm sinh

- Tổn thương khí quản do chấn thương, vết thương

- Hẹp khí quản do u

- Bệnh tự miễn

5

o Viêm đa sụn

o Sarcoidosis

o Tăng sinh tổ chức hạt Wegener

- Bệnh nhiễm trùng

o Lao khí quản

o Xơ cứng mũi thanh quản

Nguyên nhân thường gặp nhất của khí quản thường là hậu quả của một chấn

thương có thể từ bên trong như: đặt ống nội khí quản kéo dài, hậu quả của mở

khí quản, phẫu thuật khí quản, xạ, bỏng nội soi khí quản, hoặc các tổn thương cổ

từ bên ngoài bởi vật tù hoặc sắc nhọn. Tỉ lệ hẹp khí quản sau đặt ống kéo dài

chiếm 1-20% các trường hợp đặt ống dài ngày

Nguyên nhân khác tiếp theo là bệnh lí viêm mãn tính: như thoái hóa tinh

bột, sarcoidosis, viêm đa sụn, tăng sinh tổ chức hạt mãn tính, tăng sinh tổ chức

hạt Wegener …

Các nguyên nhân do khối đè đẩy từ bên ngoài vùng cổ hoặc trung thất cũng

gây hẹp khí quản. Trong một số trường hợp có thể gặp hẹp khí quản tự phát

không tìm được nguyên nhân.

1.1.3 Phân độ hẹp khí quản

Có nhiều cách phân độ hẹp khí quản [13] theo các tác giả khác nhau trong đó

bao gồm:

- Phân độ hẹp của Myer – Cotton dựa trên sự giảm đường kính ngang,

đặc biệt dễ đo bằng các ống nội khí quản kích thước khác nhau và tổn

thương sau đặt ống

o Độ 1: Tổn thương làm hẹp <50%

o Độ 2: Tổn thương làm hẹp từ 50-70%

o Độ 3: Tổn thương làm hẹp từ 71-99%

o Độ 4: Tổn thương làm hẹp toàn bộ

- Phân độ hẹp của Mc Caffrey dựa trên liên quan phía trên và độ dài

đoạn hẹp

o Độ 1: Hẹp khí quản dưới thanh môn và dài <1cm

6

o Độ 2: Hẹp khí quản gần thanh môn và dài >1cm

o Độ 3: hẹp khí quản hoặc dưới thanh môn nhưng không liên quan

tới thanh môn

o Độ 4: Hẹp khí quản liên quan tới thanh môn

1.1.4 Các phương pháp điều trị hẹp khí quản

Có rất nhiều lựa chọn như phẫu thuật và không phẫu thuật để điều trị hẹp khí

quản. Tuy nhiên lựa chọn phương pháp nào cũng cần xem xét sự phức tạp của

tổn thương và hạn chế của phương pháp.

1.1.4.1 Điều trị bảo tồn

Biện pháp này có thể được chỉ định điều trị ở bệnh nhân bắt đầu hẹp khí

quản khi mà rối loạn thông khí còn ít. Các biện pháp này cho phép theo dõi sát

sự tiến triển của bệnh và can thiệp khi cần thiết. Trong một số trường hợp thì

điều trị bảo tồn có thể làm ngừng tiến triển hẹp khí quản và khi đó tránh cho

bệnh nhân phải chịu một can thiệp ngoại khoa.

Oxy liệu pháp, kháng sinh, corticoid và long đờm có thể làm ngừng sự

phát triển của bệnh, tuy nhiên việc theo dõi sát là bắt buộc và phải được khảo sát

và đánh giá đúng tình trạng và tiến triển của bệnh.

Điều trị bảo tồn hẹp khí quản có nhiều biện pháp phụ thuộc vào mức độ

hẹp của khí quản, tính chất hẹp, nguyên nhân gây hẹp … Khi đó căn cứ vào mỗi

bệnh nhân cụ thể chúng ta sẽ có phương án điều trị cụ thể: điều trị hẹp khí quản

bằng ánh sáng lạnh (dao lạnh, lase CO2 , argon plasma…), nong cơ học, nong

bóng.. và duy trì sau đó bằng thuốc Mitomycin C, steroid, xạ áp sát hoặc đặt

stent[13]

1.1.4.2 Điều trị phẫu thuật

Phẫu thuật được coi là tiêu chuẩn điều trị hẹp khí quản tại nhiều trung tâm và

cơ sở y tế. Điều trị phẫu thuật tạo hình đối với khí quản bị hẹp là một biện pháp

đem lại hiệu quả cao và lâu dài [8]

7

Hình 3: Các đường rạch da phẫu thuật khí quản

(1) Đường rạch ở cổ cho khí quản đoạn cổ (thường gặp)

(2) Đường rạch ở cổ và cắt xương ức vào khí quản đoạn trung thất khi cần có

thể vào rốn phổi

(3) Đường rạch ngang cổ, khoang gian sườn 4, khi cần có thể cắt cầu da mở

ngực (hiếm khi đi đường này)

(4) Đường rạch phía sau vào khí quản đoạn thấp và cựa khí quản

Hình 4: Đường rạch da ở bệnh nhân mổ cắt nối khí quản tận –tận

a. Các phương pháp mổ

Mổ tạo hình khí quản có nhiều phương pháp:

 Cắt nối khí quản tận –tận

 Tạo hình thanh khí quản

 Tạo hình ống khí quản bằng màng tim

 Tạo hình trượt đoạn khí quản

8

 Ghép khí quản đồng loại

Hình 5: Mô hình cắt khí quản nối tận – tận

b. Phương pháp mổ cắt nối khí quản tận-tận

Dựa vào vị trí của tổn thương hẹp khí quản trên hình ảnh CT scan ngực,

phẫu thuật viên sẽ xác định đường rạch da tương ứng. Theo nhiều tác giả khi

tổn thương khí quản không quá dài thì phẫu thuật viên tiếp cận khí quản theo

đường cổ. Phẫu tích khí quản tách rời khỏi thực quản, tạo điều kiện kéo dãn

cho 2 miệng nối kéo gần lại với nhau sau khi cắt.

Hình 6: Phẫu tích bộc lộ tổn thương khí quản

9

Hình 7: Các thì phẫu thuật

(1) Cắt bỏ phần khí quản tổn thương, thông khí liên tục trong vùng mổ

(2) Khâu nối thành sau khí quản

(3) Thông khí lại đường miệng và nối khí quản thành trước

(4) Hoàn thiện miệng nối khí quản tận-tận

Sau khi tiến hành cắt phía trên và dưới đoạn tổn thương (đoạn hẹp)

thường không dài quá 5cm, vì nếu cắt dài quá phần khí quản còn lại sẽ không

có khả năng bù trừ và miệng nối sẽ căng không liền được (Hình 5 - 1).

Tiến hành thông khí đầu dưới của khí quản qua trường mổ

Cắt hết tổn thương gây hẹp khí quản và làm sạch miệng nối, khâu nối

từng phần thành sau khí quản (Hình 5-2).

Sau đó tháo bỏ thông khí qua trường mổ, thông khí lại qua đường miệng

(Hình 5-3). Khâu kín miệng nối khí quản, đặt dẫn lưu, phục hồi vết mổ

(Hình 5-4).

c. Biến chứng sau mổ cắt nối khí quản tận – tận

- Biến chứng ngay sau mổ

o Phù nề tại miệng nối khí quản

o Thở hụt hơi do liệt dây thanh quản

o Tràn khí dưới da cổ hoặc trung thất

- Biến chứng sớm

o Nói khàn (khó phát âm) do liệt dây thần kinh quặt ngược 1 bên

10

o Rối loạn phản xạ nuốt do thanh quản bị kéo thấp

o Đường khâu bị hở do nhiễm khuẩn tại chỗ

o Chọc thủng thân động mạch cánh tay đầu

- Biến chứng muộn

o Mô hạt hình thành khe hẹp

o Tái hẹp

1.1.4.3 Tình hình phẫu thuật cắt nối khí quản tại Việt Nam

Tại Việt Nam thì phẫu thuật khí quản còn khá mới mẻ, chỉ thực hiện được tại

một số bệnh viện lớn có chuyên khoa sâu về lồng ngực như: Bệnh viện Việt

Đức, Bệnh viện Chợ rẫy, Bệnh viện đa khoa Bình dân, Bệnh viện trung ương

quân đội 108 … Tại bệnh viện Nhi đồng 1 tạo hình khí quản cho bệnh nhân nhi

đầu tiên 7/2008. Bệnh viện Chợ rẫy thực hiện những ca tạo hình khí quản đầu

tiên cho bệnh nhân từ năm 2007. Cùng với sự tiến bộ của y học hiện nay điều trị

hẹp khí quản đang được ứng dụng đặt Stent nong và đặt tại chỗ hẹp, kĩ thuật này

đang bước đầu được nghiên cứu và thực hiện tại bệnh viện Việt Đức và Bệnh

viện Chợ rẫy. Tuy nhiên kĩ thuật này vẫn đang còn trong giai đoạn kiểm tra hiệu

quả, bên cạnh đó đặt một stent vào khí quản sẽ gây ra những tác dụng phụ: dị

ứng, tăng tiết đờm rãi, tụt ống stent, tổn thương mềm khí quản lan rộng hơn …

Phẫu thuật tạo hình cắt nối khí quản tận-tận này ngoài yêu cầu về kĩ thuật cần

phải có sự phối hợp đồng bộ của hệ thống máy móc hỗ trợ và bác sĩ gây mê có

kinh nghiệm. Sau phẫu thuật thì công tác chăm sóc theo dõi, đảm bảo cho quá

trình liền vết thương hay đảm bảo cho ca mổ thành công là một giai đoạn không

thể bỏ qua. Các tài liệu về chăm sóc bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tại Việt

Nam hầu như chưa thấy công bố.

1.1.4.4 Tình hình phẫu thuật cắt nối khí quản trên thế giới

Phẫu thuật cắt nối khí quản là một kĩ thuật phát triển muộn trong thế kỉ 20

mà đứng đầu trong lĩnh vực phẫu thuật khí quản là tác giả Hermes C. Grillo

(1923-2006) người Mĩ. Ông đã thực hiện thành công nhiều trường hợp tổn

thương khí phế quản, sáng tạo ra nhiều dụng cụ và phương pháp mổ khí quản

đồng thời ông cũng cho xuất bản cuốn Phẫu thuật khí – phế quản ( Surgery of

11

tracheal and bronchi) năm 2004. Hiện tại phẫu thuật khí quản được thực hiện

nhiều nơi trên thế giới và đã có nhiều bài báo viết về kết quả điều trị của phẫu

thuật [7]

1.2 Chăm sóc bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tận-tận

1.2.1 Chăm sóc tại phòng mổ

 Theo tác giả Helmes C Grilo (2007) và [9,12] thì quá trình phẫu thuật phối

hợp với đặt ống nội khí quản, gây mê chính xác thì hầu hết bệnh nhân cắt nối

khí quản tận-tận có thể rút ống tại phòng mổ sau khi kết thúc phẫu thuật.

Điều này yêu cầu bệnh nhân phải được duy trì hô hấp tự động liên tục suốt

quá trình phẫu thuật hoặc có thở máy hỗ trợ cho đến khi bệnh nhân tự thở trở

lại.

 Trong đó hút đờm rãi là yêu cần cần thiết trong suốt quá trình phẫu thuật và

sau khi nối khí quản. Ngay sau mổ thì điều dưỡng hoặc bác sĩ phải theo dõi

hút đờm rãi thường xuyên qua ống nội khí quản, đặc biệt phải hút đờm rãi tốt

bên không phẫu thuật (đối với ống nội khí quản 2 nòng) khi mổ ngay tại cựa

khí quản (carina).

 Bệnh nhân phải được theo dõi sát trong phòng mổ hoặc phòng hậu phẫu cho

đến khi rút ống nội khí quản. Trước khi rút ống nội khí quản bệnh nhân nên

được soi khí phế quản ống mềm để đánh giá miệng nối, dấu hiệu tắc nghẽn

đường thở hoặc phù niêm thanh quản. Bệnh nhân thường được dùng

corticoid trước khi rút ống để giảm hiện tượng phù nề thanh quản khi rút ống,

nếu có hiện tượng tắc nghẽn đường thở phải đặt ống lại thì nên đặt ống nội

khí quản có cỡ nhỏ, không có cuff (bóng khí đầu ống nội khí quản) hoặc xả

hết khí cuff.

1.2.2 Chăm sóc hậu phẫu ban đầu

 Hầu hết bệnh nhân phẫu thuật cắt nối khí quản tiếp cận bằng đường cổ thì

không cần mức độ chăm sóc đặc biệt cao nhất nhưng họ phải được quan sát

đặc biệt bởi nhân viên nắm rõ vấn đề của phẫu thuật khôi phục đường thở.

Vấn đề là khi có biến chứng sau mổ thường sảy ra rất nhanh và yêu cầu hành

12

động ngay lập tức để làm thông đường thở hoặc đặt ống nhanh chóng. Ngay

tại bệnh viện chúng tôi, bệnh nhân sau khi rời phòng mổ sẽ được chuyển về

phòng chăm sóc hậu phẫu đặc biệt và sau đó chuyển về khu vực điều dưỡng

chuyên khoa chăm sóc

 Đặc biệt điều dưỡng phải theo dõi cổ bệnh nhân luôn được duy trì ở tình

trạng hơi gấp, được định hình bởi chỉ khâu cằm – ngực và sự hỗ trợ của gối

cao. Mục đích là không để hiện tượng căng quá mức hơn là gập quá mức tại

miệng nối khí quản. Duy trì chỉ cố định cằm – ngực khoảng 1 tuần hoàn toàn

là do kinh nghiệm cơ bản.

Hình 8: Tư thế bệnh nhân (A) trước mổ (B) sau mổ (C) bệnh nhân cụ thể

 Điều dưỡng thường xuyên theo dõi và hút đờm rãi nhẹ nhàng. Nội soi khí

quản ống mềm được sử dụng khi có tắc nghẽn đờm hoặc xẹp thùy, phân thùy

phổi. Nói chung, khi miệng nối khí quản thấp thì bệnh nhân sẽ khó khăn để

tự ho khạc những chất bài tiết trong ngày đầu sau mổ. Ho khạc được sẽ tốt

hơn cho bệnh nhân.

13

 Trước mổ điều dưỡng phải hướng dẫn cho bệnh nhân cách thực hiện động tác

và mục đích yêu cầu của động tác vật lí trị liệu hô hấp. Sau khi thoát mê thì

bệnh nhân nên được thực hành các động tác vật lí trị liệu hô hấp từng bước

và thường xuyên, đúng kĩ thuật tại phòng chăm sóc ban đầu.

 Bệnh nhân được rút ống nội khí quản sớm sẽ sớm hồi phục hoạt động hô hấp

và nồng độ khí máu ổn định. Bệnh nhân nên được rút ống trong ngày đầu tiên

vì vậy phải theo dõi sát và đặc biệt theo dõi nếu có phù nề do đặt ống. Thông

khí kéo dài sau mổ 24-28h có thể là cần thiết nếu phẫu thuật mở ngực kéo

dài. Khi đó đầu ống nội khí quản hoặc bóng cuff ống nội khí quản không

được để ở vị trí miệng nối khí quản, để chắc chắn điều đó bác sĩ phải kiểm

tra bằng nội soi khí quản ống mềm.

 Sau khi rút ống tại phòng chăm sóc hậu phẫu thì cần có sự chuẩn bị khi có

dấu hiệu hẹp lại khí quản cần đặt lại ống. Nếu khi rút ống thất bại phải đặt lại

do phù nề thanh quản và dưới thanh môn thì nên để lưu ống nội khí quản kéo

dài 4-5 ngày. Nếu rút ống thành công thì có thể chuyển bệnh nhân về phòng

điều trị. Nếu sau 5 ngày lưu ống rút không thành công thì phải đặt ống lại,

gây mê, mở khí quản vùng đã mở trước đó. Nên gây mê ngắn vì mở khí quản

sau 4-5 ngày đặt ống thường khó khăn hơn, thậm chí cả khi vị trí mở khí

quản đã được đánh dấu trước đó.

 Bệnh nhân thường xuyên được theo dõi monitor như một quy định. Điều

dưỡng quan sát độ bão hòa oxi SpO2, điện tim, tần số thở, có một đường lấy

máu động mạch đặt trong thời gian phẫu thuật cho phép lấy máu kiểm tra khí

máu thường xuyên (sau khi bệnh nhân tự thở tốt thì rút). Monitor được cài

đặt theo chế độ bệnh nhân đặc biệt theo dõi về hô hấp. Xquang phổi chụp

thường quy hàng ngày đặc biệt những bệnh nhân phải mở ngực bên. Nếu

Xquang phổi trong ngày đầu bình thường thì chỉ lặp lại khi có chỉ định. Bệnh

nhân mổ cắt nối khí quản mở ngực phía trước cũng được kiểm tra Xquang

phổi để đánh giá tình trạng xẹp phổi, viêm phổi hoặc tràn khí màng phổi.

 Corticoid thường được sử dụng sau 24-48 giờ sau mổ nhưng không dùng

hàng ngày. Corticoid có tác dụng tốt hạn chế phù nề khí quản và làm chậm 14

quá trình liền vết thương. Ngoài corticoid đường tiêm có thể dùng ở dạng khí

dung để làm giảm phù nề thanh quản.

 Bệnh nhân được khí dung và thở oxi bằng mask, hoặc nếu bệnh nhân về với

ống nội khí quản thì phải cho thở qua mask lắp với ống nội khí quản. Khi thở

oxi trực tiếp qua ống nội khí quản thì phải làm cho không khí ẩm trước khi

vào đường thở bệnh nhân.

 Kháng sinh dự phòng được tiêm khi bệnh nhân được gọi lên phòng mổ hoặc

được dùng trước lúc gây mê, tiếp tục trong quá trình phẫu thuật hoặc dùng

thêm nữa nếu vết mổ phơi nhiễm lâu với chất bẩn từ đường thở hoặc mô hạt.

Nhiễm khuẩn có một tỉ lệ khá cao ở bệnh nhân cắt nối khí quản.

1.2.3 Chăm sóc tại buồng điều trị

 Không được cho bệnh nhân ăn trong 24- 48h sau phẫu thuật và ngay cả với

nước. Có nhiều yếu tố kích thích khi hút nước vào, khi đó khí quản đã bị

ngắn đi đáng kể có thể gây trở ngại cho việc nâng khí quản và đóng nắp

thanh môn trong quá trình nuốt, đặc biệt ở người già. Phẫu thuật gần mức

dưới thanh môn và thanh quản cũng có thể gây khó nuốt trong thời gian đầu

sau mổ. Chức năng thanh môn có thể không bình thường từ trước mổ ở một

vài bệnh nhân và sau mổ thì càng rõ. Bệnh nhân có thể liệt dây thanh do u

xâm lấn vào thần kinh quặt ngược và phải cắt khi phẫu thuật, biến đổi dây

thanh do nhiễm khuẩn trước mổ, hoặc tổn thương do phẫu thuật, khó khăn

trong phản xạ đóng nắp thanh môn khi nuốt. Giải phóng thanh quản được

thực hiện thêm khi bệnh nhân cắt nối khí quản căng quá mức. Thanh quản

được giải phóng bằng với bờ trên xương móng có thể dẫn tới rối loạn phản

xạ hít vào mặc dù đã tránh tổn thương thần kinh thanh quản trên.

 Khi cần có thể cho bệnh nhân hút ít nước sạch và tốt hơn là nên đợi vài ngày

sau đó mới cho uống lại. Nếu phản xạ nuốt vào vẫn còn có thể cho uống một

ít gelatin. Gelatin không gây kích thích nhiều tới phản xạ nuốt vào và thường

là dễ nuốt hơn nước. Đặc biệt với bệnh nhân có giải phóng thanh quản thì cần

theo dõi từng bước quá trình nuôi dưỡng, trước tiên nên cho uống gelatin, sau

đó là trứng sữa và thức ăn mềm, sau đó là các thức ăn dạng lỏng, rồi thức ăn 15

mềm bình thường, cuối cùng là dung dịch như nước hoặc rượu. Sự hồi phục

thanh quản có lẽ do sự dính sẹo của cơ tới xương móng, quá trình này có thể

mất vài tuần hoặc vài tháng vì vậy trong một vài bệnh nhân thì nuôi dưỡng

qua đường dạ dày là cần thiết.

 Bệnh nhân vẫn được duy trì trạng thái đầu gập cho đến khi đánh giá tình

trạng tại chỗ của vết thương tiến triển tốt, quá trình liền sẹo diễn ra bình

thường, không có dấu hiệu khó thở

 Đây cũng là thời gian bắt đầu hướng dẫn bệnh nhân đi lại, vật lí trị liệu hô

hấp được thực hiện trong suốt quá trình nằm viện

 Nếu như có sự thay đổi phát sinh trong đường hô hấp như khó thở, tiếng

wheezing, tiếng Stridor hoặc ho có đờm không bình thường hoặc máu. Khi

đó cần thực hiện nội soi khí quản ống mềm. Nếu không có chuyện gì sảy ra

thì nội soi phế quản được thực hiện sau mổ 6 ngày dưới sự hỗ trợ gây tê vùng

và corticoid. Một vài bệnh nhân cần phải hỗ trợ bởi gây mê toàn thân khi nội

soi khí quản. Quan sát nhanh miệng nối đủ để đánh giá quá trình liền vết

thương tốt thì bệnh nhân có thể xuất viện. Những bệnh nhân kiểm tra miệng

nối nội soi khí quản tốt thì không cần theo dõi bằng chụp xquang khí quản.

 Vết mổ phải được theo dõi và thay băng hàng ngày, đảm bảo đánh giá đúng

tình trạng liền vết thương tốt hay có biến chứng. Nếu có dấu hiệu nhiễm

khuẩn vết thương thì điều dưỡng cần cấy khuẩn vết mổ, báo bác sĩ dùng

kháng sinh liều cao hoặc thay thế.

 Theo dõi bệnh kết hợp như: tăng huyết áp, đái tháo đường, thể trạng, đạm

máu ….đảm bảo an toàn giảm tác động bất lợi tới quá trình điều trị. Đặc biệt

cần theo dõi chỉ số đường máu.

 Bệnh nhân ra viện được hướng dẫn vận động đầu và cổ nhẹ nhàng nhưng

phải tránh động tác làm căng vùng cổ trong vài tuần sau đó. Sau đó bệnh

nhân có thể hoạt động đầu và cổ bình thường. Bệnh nhân không hoạt động

nặng trong 1 tháng đầu sau ra viện

 Hướng dẫn bệnh nhân tái khám sau ra viện 1 tháng và 2 tháng.

16

II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Gồm 35 bệnh nhân được phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận do mọi nguyên

nhân tại khoa Ngoại lồng ngực Bệnh viện TƯQĐ 108

2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

 Các bệnh nhân được phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận

2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ

 Không chọn bệnh nhân mổ khâu khí quản bị rách

2.1.3 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

 Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Ngoại lồng ngực Bệnh viện trung ương

quân đội 108

 Thời gian từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 8 năm 2012

2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu

2.2.1 Thiết kế nghiên cứu

 Nghiên cứu tiến hành theo phương pháp mô tả

2.2.2 Cách chọn mẫu

 Chọn mẫu thuận tiện

2.2.3 Các biến số nghiên cứu

 Tuổi, giới

 Nguyên nhân hẹp khí quản

 Thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ

 Biến chứng

 Chăm sóc hô hấp:

o Theo dõi mức độ khó thở

o Theo dõi khả năng ho khạc

o Theo dõi SpO2

o Tần số thở

 Thời gian cố định cằm – ngực

 Thời gian nằm viện sau mổ

17

2.3 Phƣơng pháp thu thập số liệu

2.3.1 Công cụ

 Số liệu được thu thập theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất

2.3.2 Phương pháp thu thập số liệu

 Chọn bệnh nhân nghiên cứu: những bệnh nhân có chỉ định mổ cắt nối khí

quản tận-tận do mọi nguyên nhân

 Theo dõi bệnh nhân từ khi sau mổ, lập kế hoạch chăm sóc, theo dõi hô

hấp

 Ghi các chỉ tiêu theo dõi bệnh nhân

2.4 Phƣơng pháp chăm sóc bệnh nhân sau mổ khí quản

2.4.1 Quy trình chăm sóc bệnh nhân sau mổ có ống nội khí quản [1]

Sau mổ chuyển bệnh nhân về phòng hậu phẫu chuyên khoa

 Điều dưỡng nắm thông tin hành chính, vị trí phẫu thuật, tính chất phẫu

thuật, tai biến – biến chứng sau mổ cần phải theo dõi, bên cạnh đó phải

tìm hiểu bệnh nhân có bệnh kết hợp không.

 Để bệnh nhân tư thế đầu cao cổ gập, giữ cho dây cố định cằm – ngực

không bị căng đồng nghĩa với việc làm trùng miệng nối khí quản

 Lắp monitor theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, SpO2 , tần số thở và ý thức

của bệnh nhân

 Thở oxi hỗ trợ 2 l/ phút, đi qua bình làm ẩm và đưa vào mask thở với ống

nội khí quản

 Chuẩn bị hút đờm rãi qua ống nội khí quản, theo dõi băng vết mổ và dẫn

lưu

 Dùng thuốc Corticoid, giảm đau, kháng sinh, khí dung theo mệnh lệnh

của bác sĩ

 Hướng dẫn bệnh nhân hít sâu thở đúng cách, khạc đờm rãi, không hốt

hoảng khi có khó thở, báo hiệu với nhân viên y tế như thế nào khi vẫn còn

ống nội khí quản.

18

 Thực hiện công tác chăm sóc điều dưỡng ngoại khoa thông thường, ghi

chép diễn biến, chụp Xquang phổi khi có y lệnh.

2.4.2 Quy trình chăm sóc bệnh nhân sau mổ khi đã rút ống nội khí quản

 Tiếp tục theo dõi các chỉ số sinh tồn mạch, nhiệt độ, huyết áp, SpO2 trên

monitor và tần số thở

 Ngay sau khi rút ống nội khí quản là giai đoạn theo dõi sát các biến chứng

có thể gây hẹp khí quản để xử trí kịp thời.

 Kết hợp hướng dẫn thở và ho khạc cho bệnh nhân thực hiện, tránh ứ đọng

đờm rãi, phòng biến chứng viêm phổi.

 Khi chăm sóc hô hấp nếu các dấu hiệu lâm sàng theo dõi có xu hướng

xấu, điều dưỡng lượng giá và báo bác sĩ xử trí kịp thời. Chuẩn bị dụng cụ

để sẵn sàng đặt lại ống nội khí quản hoặc mở khí quản

 Thay băng đánh giá tình trạng vết mổ, dấu hiệu nhiễm khuẩn vết mổ.

2.5 Các khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá

 Phân loại nguyên nhân hẹp khí quản trong nghiên cứu

o Sau đặt ống nội khí quản kéo dài

o Mở khí quản

o Điều trị xạ khí quản

o Phẫu thuật khí quản trước đó

o Hẹp khí quản bẩm sinh

o Hẹp sau tổn thương khí quản do chấn thương, vết thương

o Hẹp khí quản do u

o Do bệnh tự miễn (Viêm đa sụn, Sarcoidosis, Tăng sinh tổ chức hạt

Wegener)

o Do bệnh nhiễm trùng (Lao khí quản, Xơ cứng mũi thanh quản)

 Thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ:

o 12-24 giờ sau mổ

o 24-48 giờ sau mổ

o Sau 48 giờ

19

 Phân loại mức độ khó thở với bệnh nhân hẹp khí quản [3,4]

Với đặc trưng khó thở thì hít vào có tiếng rít thanh khí quản

o Độ 1: khó thở khi hoạt động nặng

o Độ 2a: khó thở nhẹ khi nghỉ ngơi

o Độ 2b: khó thở có tiếng rít khí quản, kèm theo thiếu oxi não, bứt

dứt kích động

o Độ 3: triệu chứng suy hô hấp: giảm co kéo các cơ hh phụ, mất tiếng

rít thanh quản, thở nhanh nông, lả người, mắt lờ đờ, da tái

 Khả năng ho khạc

o Ho khạc tốt: Không ứ đọng đờm rãi, không có tiếng lọc xọc trong

khí quản khi thở, nghe phổi không có ran ứ đọng

o Ho khạc kém: Ứ đọng đờm rãi, có tiếng lọc xọc khi thở, nghe phổi

nhiều ran ứ đọng

 Theo dõi độ bão hòa oxi SpO2 trên monitor (British thoracic guideline)

o Bình thường ≥ 95%

o Khó thở nhẹ từ 94 – 90%

o Khó thở vừa từ 89 – 81%

o Khó thở nặng ≤ 80%

 Tần số thở

o ≤ 10 lần/phút: giảm thở (nguy hiểm)

o 11 – 18 lần/phút: bình thường

o 19-23 lần/phút: khó thở nhẹ

o ≥ 24 lần/phút: khó thở nặng (phải thở oxi hỗ trợ)

 Biến chứng ngay sau mổ

o Phù nề tại miệng nối khí quản

o Thở hụt hơi do liệt dây thanh quản

o Tràn khí dưới da cổ hoặc trung thất

 Biến chứng sớm

o Nói khàn (khó phát âm) do liệt dây thần kinh quặt ngược 1 bên

o Rối loạn phản xạ nuốt do thanh quản bị kéo thấp

20

o Đường khâu bị hở do nhiễm khuẩn tại chỗ

o Chọc thủng thân động mạch cánh tay đầu

o Khó thở phải đặt ống lại

 Thời gian cố định cằm - ngực đánh giá dựa trên: thời gian liền vết thương,

toàn thân không có dấu hiệu nhiễm trùng, vết mổ liền tốt, không có biểu

hiện khó thở, nội soi khí quản ống mềm thấy đường khâu liền tốt

 Thời gian nằm viện sau mổ: tính từ ngày mổ tới ngày bệnh nhân xuất viện

2.6 Xử lí số liệu

 Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê y học

2.7 Đạo đức nghiên cứu

- Kế hoạch chăm sóc sau mổ cắt nối khí quản tận –tận được xây dựng bởi

các bác sĩ và lãnh đạo khoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện TƯQĐ 108

- Thực hiện nghiên cứu không ảnh hưởng đến chất lượng điều trị và tính

mạng bệnh nhân

- Kết quả nghiên cứu nhằm mục đích thống nhất và nâng cao chất lượng

điều trị bệnh nhân

21

III. KẾT QUẢ

Nhóm nghiên cứu 35 bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tận-tận

3.1 Kết quả chăm sóc hô hấp sau mổ

3.1.1 Tuổi và giới

Nhóm nghiên cứu với 35 bệnh nhân tuổi đời từ 19 – 68 tuổi trung bình là

41,34±11,6

 Bảng 3.1: Phân bố tỉ lệ giới

Giới tính Nam Nữ Tổng

Số lượng 24 11 35

Tỉ lệ % 68,6 31,4 100

Nhận xét: Trong nhóm nghiên cứu thì nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn, tỉ lệ

Nam/Nữ = 1.2,2

3.1.2 Nguyên nhân gây hẹp khí quản

 Bảng 3.2: Nguyên nhân gây hẹp khí quản

Nguyên nhân

Số lƣợng 20 7 1 2 0 1 Tỉ lệ % 57,14 20 2,8 5,7 0 2,8

8,6 0 2,8 100 3 0 1 35

Sau đặt ống nội khí quản kéo dài Mở khí quản Điều trị xạ khí quản Phẫu thuật khí quản trước đó Hẹp khí quản bẩm sinh Hẹp sau tổn thương khí quản do chấn thương, vết thương Hẹp khí quản do u Do bệnh tự miễn Do bệnh nhiễm trùng Tổng Nhận xét: Kết quả thu được cho thấy nguyên nhân hẹp khí quản do đặt ống nội

khí quản kéo dài chiếm đa số 57,14% thứ hai là sau mở khí quản 20%, còn lại

cho các nguyên nhân khác.

22

3.1.3 Thời gian lƣu ống nội khí quản sau mổ

 Bảng 3.3: Thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ

Số lƣợng Tỉ lệ % Thời gian

Sau mổ ≤ 12 giờ 2 5,7

Sau mổ 12-24 giờ 29 82,9

Sau mổ 24-48 giờ 4 11,4

Sau mổ ≥ 48 giờ 0 0

Tổng 35 100

Nhận xét: Bệnh nhân trong nghiên cứu hầu hết được rút ống nội khí quản trong

khoảng 12-24 giờ sau mổ chiếm tỉ lệ 82,9%

3.1.4 Biến chứng

 Bảng 3.4: Biến chứng sau mổ

Giai đoạn

Số lƣợng 3 Tỉ lệ % 8,6

2 5,7

Biến chứng sau mổ

0 0

1 2,8

0 0

5,7 2 Biến chứng sớm

0 0 Biến chứng Phù nề tại miệng nối khí quản Thở hụt hơi do liệt dây thanh quản Tràn khí dưới da cổ hoặc trung thất Nói khàn do liệt dây TK quặt ngược Rối loạn phản xạ nuốt do thanh quản bị kéo thấp Đường khâu bị hở do nhiễm khuẩn tại chỗ Chọc thủng thân động mạch cánh tay đầu

2,8 Khó thở phải đặt ống lại 1

74,3 Không biến chứng 26

100 Tổng 35

Nhận xét: Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu có 9 bệnh nhân có biểu hiện biến

chứng đa số là biến chứng nhẹ, trong đó có 1 biến chứng rút ống không thành

công phải đặt lại ống, có 5,7% có nhiễm khuẩn tại vết mổ, 8,6% bệnh nhân có

23

phù nề miệng nối khí quản. Đây là những biến chứng phải quan tâm đối với

bệnh nhân sau cắt nối khí quản, vì những biến chứng này ảnh hưởng trực tiếp tới

khả năng thông khí.

3.1.5 Thời gian cố định cằm ngực

 Bảng 3.5: Thời gian cố định cằm ngực

Số lƣợng Tỉ lệ % Thời gian

7 ngày 8,6 3

8 ngày 51,4 18

9 ngày 17,1 6

10 ngày 8,6 3

11 ngày 5,7 2

≥ 12 ngày 5,7 2

Nhận xét: Nhóm nghiên cứu có kết quả vết thương khí quản liền tốt trong thời

gian 7 đến 9 ngày, khi đó vết thương đã liền tương đối, hết giai đoạn nguy cơ

nhiễm khuẩn. Đa số bệnh nhân rút ống vào ngày thứ 8 sau mổ chiếm tỉ lệ 51,4%.

3.1.6 Thời gian nằm viện sau mổ

 Thời gian nằm viện sau mổ ngắn nhất là 7 ngày dài là 16 ngày, trung bình

là 10±1,8

3.2 Kết quả theo dõi mức độ khó thở sau mổ

3.2.1 Theo dõi tần số thở

 Bảng 3.6: Tần số thở của bệnh nhân

Số lƣợng bệnh nhân Tỉ lệ % Tần số thở

Giảm thở 0 0

Bình thường 77,1 27

Khó thở nhẹ 20 7

Khó thở nặng 2,8 1

Tổng 100 35

24

Nhận xét: Bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản không có tình trạng giảm thở, hầu

hết bệnh nhân cảm thấy dễ thở hơn hay thở bình thường với 77,1% và khó thở

nhẹ chỉ có 20%, bệnh nhân cảm thấy hài lòng với việc thở tự nhiên qua đường

mũi sau một thời gian khó thở do hẹp hoặc thở qua Joberg khí quản, chữ T, ống

nội khí quản … Có 1 bệnh nhân có tần số thở tăng do tình trạng tái hẹp sau mổ,

bệnh nhân này có biến chứng nhiễm khuẩn và bệnh đái tháo đường type 2 kết

hợp

3.2.2 Mức độ khó thở của bệnh nhân sau mổ

 Bảng 3.7: Theo dõi mức độ khó thở sau rút ống nội khí quản

Số lƣợng Tỉ lệ % Mức độ

Không khó thở 80 28

5,7 Độ 1 2

8,6 Độ 2a 3

2,8 Độ 2b 1

0 Độ 3 0

100 Tổng 35

Nhận xét: Bệnh nhân sau mổ hầu hết là không khó thở hoặc khó thở nhẹ, có 1

bệnh nhân khó thở độ 2b thì phải đặt ống nội khí quản lại

3.2.3 Khả năng ho khạc

 Bảng 3.8: Khả năng ho khạc

Khả năng Số lƣợng Tỉ lệ %

88,6 Ho khạc tốt 31

11,4 Ho khạc kém 04

100 Tổng 35

Nhận xét: Khả năng ho khạc tốt, không có ứ đọng đờm rãi giúp bệnh nhân dễ

thở hơn. Có 11.4% bệnh nhân ho khạc kém ứ đọng đờm rãi, cũng là bệnh nhân

có biến chứng: nhiễm khuẩn hoặc đặt lại ống nội khí quản.

25

3.2.4 Độ bão hòa oxi SpO2 trên monitor

 Bảng 3.9: Theo dõi độ bão hòa oxi SpO2 trên monitor

Số lƣợng Tỉ lệ % Mức độ

71,4 Bình thường 25

14,3 Khó thở nhẹ 5

8,6 Khó thở vừa 3

2,8 Khó thở nặng 1

100 Tổng 35

Nhận xét: Ngoài các chỉ số sinh tồn: mạch, nhiệt độ, huyết áp, tần số thở theo lí

thuyết thì theo dõi SpO2 được coi là dấu hiệu sinh tồn nữa một yêu cầu cần theo

dõi đối với bệnh nhân mổ khí quản để có báo động xử trí cấp cứu kịp thời.

Trong nghiên cứu đa số bệnh nhân có chỉ số SpO2 bình thường 71,4%

26

IV. BÀN LUẬN

4.1 Bàn luận về chăm sóc hô hấp sau mổ cắt nối khí quản tận – tận

- Bàn luận về tuổi và giới

Ngày nay, hẹp khí quản sau đặt nội khí quản và hẹp khí quản sau phẫu thuật

mở khí quản được công nhận là các trường hợp lâm sàng với một tỷ lệ ước tính

là 4,9 trường hợp trên một triệu dân mỗi năm trong dân số chung. Trong nhóm

nghiên cứu chúng tôi ghi nhận, nhóm tuổi của bệnh nhân bị hẹp khí quản thường

xuất hiện ở độ tuổi 30 – 50 tuổi, với đa số là nam giới. Đặc điểm này tương đối

khác khá xa với các đồng nghiệp khác trên thế giới. Theo các tác giả McCaffrey

(1992) [10] và Mehta (1993) [11], bệnh nhân bị hẹp khí quản thường xuất hiện ở

nữ giới, với đặc điểm béo phì, hút thuốc lá, có đái tháo đường týp 2, độ tuổi

trung bình là 60 tuổi. Sự khác biệt này có thể giải thích do đặc điểm nghiên cứu

của nhóm bệnh nhân có liên quan đến nguyên nhân của hẹp khí quản. Đa số

bệnh nhân bị hẹp khí quản (ngay cả tại Việt Nam ) thường là sau đặt nội khí

quản lâu ngày hay tình trạng mở khí quản, nhưng nguồn gốc từ lưu ống nội khí

quản và mở khí quản tại Việt Nam và trên thế giới có khác nhau. Theo Nguyễn

Thị Mỹ Thắm và cộng sự (2010) [4] khảo sát 38 ca hẹp thanh khí quản sau đặt nội

khí quản tuổi trung bình nhóm nghiên cứu của tác giả là 34,4 tuổi, tỉ lệ nam gấp 2,5

lần nữ. Nhóm bệnh nhân này thường xuất hiện ở nam giới, đa số là tuổi lao

động, hút thuốc lá nhiều, viêm phổi kéo dài và suy dinh dưỡng. Ngược lại với

các nước phát triển, nguyên nhân của thở máy kéo dài và mở khí quản thường

xuất hiện ưu thế nữ với nhóm bệnh lý hẹp thực quản do nguyên nhân tự miễn

toàn thân đặc biệt hẹp khí quản dưới thanh môn hoặc viêm phổi kèm tiểu đường

mãn tính phải lưu ống nội khí quản lâu ngày.

- Bàn luận về nguyên nhân của hẹp khí quản

Như đã nói, hầu hết nguyên nhân chính của nhóm bệnh hẹp khí quản của

chúng tôi chủ yếu do đặt nội khí quản lâu ngày hay do mở khí quản. Theo nhiều

tác giả giải thích rằng: do khi đặt nội khí quản, áp suất tạo ra do các bóng nội khí

quản chèn vào các vòng sụn của khí quản gây chèn ép các vi mạch máu và trầy

xước niêm mạc khí quản gây hoại tử vòng sụn, điều này cũng tương tự như

27

trong mở khí quản lâu ngày. Kết quả là, trong phần lớn các trường hợp, hẹp khí

quản xảy ra ở những nơi có các ống sonde nội khí quản tiếp xúc trực tiếp với

thành khí quản. Các tổn thương thiếu máu cục bộ xuất hiện một vài giờ sau khi

đặt nội khí quản và sự lành hóa ở những khu vực bị tổn thương có thể gây xơ

hóa trong vòng 3 - 6 tuần. Các nguyên nhân khác ít gặp hơn như hẹp khí quản

do u hoặc sau phẫu thuật khí quản thì chúng tôi ít gặp hơn, khá tương đồng so

với các nghiên cứu khác. Theo Nguyễn Thị Mỹ Thắm và cộng sự (2010) [4] bệnh

nhân hẹp khí quản có tiền sử viêm phổi chiếm tỉ lệ cao nhất (29%) và nguyên nhân

chính dẫn đến đặt nội khí quản lâu ngày do chấn thương sọ não (63,2%).

- Bàn luận về thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ.

Quá trình lành vết thương ở ngay vùng tham gia hô hấp vô cùng quan trọng,

có liên quan chặc chẽ đến thời gian đặt ống nội khí quản sau mổ. Có quan điểm

cho rằng nên rút ống nội khí quản ngay tránh nguy cơ tổn thương khí quản tái

phát do cùng với nguyên lý gây ra bệnh hẹp khí quản do đặt ống kéo dài, rút ống

ngay làm giảm tăng tiết do ống nội khí quản kích thích vào niêm mạc. Tuy nhiên

có quan điểm cho rằng nên lưu ống nội khí quản một thời gian ngắn, với ống nội

khí quản không có bóng chèn hoặc bóng chèn đã tháo hết khí để tránh kích thích

của dịch tiết, đờm và không khí theo phản xạ ho tác động trực tiếp vào đường

khâu khí quản, tạo điều kiện vết thương cầm máu và ổn định. Theo Hermes C

Grillo (2004)[7], việc lưu ống nội khí quản sau mổ cắt nối khí quản tận tận

nhằm mục tiêu cố định và che giữ cho vết mổ không bị xâm phạm và tổn

thương, đồng thời bảo đảm thông khí sau mổ thuận lợi cũng như cho việc soi

phế quản kiểm tra sau mổ hoặc hút đờm rãi, vốn là yếu tố nguy cơ của nhiễm

trùng vết mổ và suy hô hấp sau mổ. Việc rút ống sớm quá có khả năng làm tăng

nguy cơ xì bục miệng nối, nhưng nếu lưu ống nội khí quản muộn lại là yếu tố

thúc đẩy nhiễm trùng cũng như góp phần trong vấn đề hình thành quá trình hô

hấp thụ động cho bệnh nhân và gây ra thiếu máu nuôi vùng niêm mạc khí quản

vốn đã bị tổn thương trong quá trình phẫu thuật. Vai trò của điều dưỡng chăm

sóc hậu phẫu và theo dõi nội khí quản sau mổ vô cùng quan trọng nhằm tránh

biến chứng tắc đờm rãi phối hợp tập thở sớm cho bệnh nhân.Trong nhóm nghiên

28

cứu của chúng tôi có 29 bệnh nhân (82.9%) được lưu ống nội khí quản trong

khoảng thời gian 12 – 24 giờ, chỉ có 2 bệnh nhân rút ống nội khí quản sớm, kết

quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu y văn kinh điển.

- Bàn luận về biến chứng sau mổ

Trong nhóm nghiên cứu, tỉ lệ biến chứng của chúng tôi là 25,7% tuy nhiên

biến chứng thường gặp nhất là sưng nề miệng nối khí quản thường gặp nhất, các

biến chứng nặng như: chảy các mạch máu lớn, biến chứng tử vong hay thủng

thực quản chúng tôi không ghi nhận. So với một số tác giả như Wright CD và

cộng sự (2004) [15] nghiên cứu hồi cứu các biến chứng sau mổ, tỉ lệ biến chứng

là 19% và ông cũng nhận định tỉ lệ biến chứng thường gia tăng theo tuổi, bệnh

đái tháo đường type 2 kèm theo và đặc biệt là chiều dài của đoạn hẹp. Khi đoạn

hẹp > 4cm làm gia tăng tỉ lệ biến chứng, gây thất bại cho cuộc phẫu thuật. Theo

tác giả Helmes C Grillo (2007)[8] thì biến chứng nhiễm khuẩn vết mổ sau phẫu

thuật cắt nối khí quản rất nguy hiểm vì gây rò dịch nhiễm khuẩn ra ngoài ra và

vào trong lồng ngực gây áp xe trung thất. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi

có 5,7% nhiễm khuẩn vết mổ, bệnh nhân được chăm sóc liên tục và dùng kháng

sinh mạnh phối hợp, sau điều trị có 1 bệnh nhân có triệu chứng tái hẹp nhẹ khí

quản. Biến chứng nhiễm khuẩn cũng là một nội dung điều dưỡng chăm sóc hàng

ngày cần phát hiện và báo cáo kịp thời.

- Bàn luận về thời gian cắt chỉ cố định cằm – ngực

Hình 9: Cố định cằm ngực sau mổ

29

Theo kinh nghiệm phẫu thuật và chăm sóc thì bệnh nhân phải được khâu chỉ cố

định cằm- ngực đảm bảo cho vị trí đường khâu khí quản không bị căng dãn, tạo

điều kiện cho quá trình liền sẹo. Theo lí thuyết về quá trình liền vết thương thì:

khi vết thương gọn sạch, được xử trí sớm và đúng nguyên tắc, đúng kỹ thuật,

được khâu kín kỳ đầu, hai bờ miệng vết thương áp sát vào nhau, không bị viêm

nhiễm, không có hoại tử tổ chức. Chất tơ huyết đọng ở 2 mép vết thương có tác

dụng như keo kết dính. Các mô bào, nguyên bào sợi, bạch cầu tập trung lấp đầy

khe giữa 2 mép vết thương và mô hạt được hình thành. Quá trình tổng hợp chất

collagen do nguyên bào sợi được tiến hành từ ngày thứ hai sau khi bị thương,

đạt cao điểm ở ngày thứ năm, thứ bảy sau khi bị thương. Quá trình mô hoá ở lớp

biểu bì hoặc ở lớp niêm mạc hoàn thành trong 6 đến 8 ngày, như vậy vết thương

liền ngay ở kỳ đầu. Mức độ liền chắc của 2 mép và vết thương cũng đạt kết quả

cao ở ngày thứ 5, thứ 7. Dựa theo nguyên tắc đó và rút kinh nghiệm với những

trường hợp sau mổ tiến triển tốt cả về toàn thân và tại chỗ, chúng tôi đánh giá

quá trình liền vết thương khí quản và tiến hành cắt chỉ cố định cằm-ngực sớm

nhất là 7 ngày sau mổ 8,6%, không có trường hợp nào cắt chỉ trước 7 ngày,

thường là 8 ngày sau mổ chiếm tỉ lệ 51,4% và 9 ngày sau mổ chiếm 17,1%. Như

vậy theo lý luận thì chỉ cố định để càng lâu, sự ổn định miệng nối kéo dài thì

càng tạo điều kiện cho vết thương khí quản liền sẹo. Nhưng bên cạnh đó khi

chăm sóc bệnh nhân cũng phải theo dõi đến vấn đề tâm lý và khó khăn của bệnh

nhân khi phải cúi cằm liên tục nhiều ngày liền, việc thay băng khó khăn. Hơn

thế nữa trước khi cắt chỉ cố định cằm ngực bệnh nhân được kiểm tra miệng nối

bằng nội soi khí quản ống mềm đánh giá nhanh tình trạng liền sẹo và đường

kính khí quản tại chỗ hẹp. Vấn đề lựa chọn thời điểm cắt chỉ cố định cằm-ngực

sớm nhất có thể mà vẫn đảm bảo quá trình liền sẹo an toàn là sự quan tâm của

nhân viên y tế và bệnh nhân.

- Bàn luận về thời gian nằm viện sau mổ

Thông thường thì sau khi đánh giá ổn định về quá trình liền sẹo, các triệu

chứng lâm sàng về khó thở, các yếu tố đe dọa tới đường thở không còn thì bệnh

nhân được cho ra viện, kết quả của nghiên cứu là 10±1,8 ngày. Sau khi phẫu

30

thuật thành công thì vấn đề chăm sóc đối với bệnh nhân sau cắt nối khí quản

không kém phần quan trọng. Tổ chức khí quản gồm các vòng sụn được xen kẽ

bởi các sợi cơ trơn khí quản, nguồn máu nuôi dưỡng hạn chế, nên vấn đề chăm

sóc, đảm bảo ổn định vết thương không bị căng kéo, tránh viêm nhiễm phù nề,

không ứ đọng đờm rãi gây ho kéo dài, dinh dưỡng tốt là những yếu tố góp phần

lớn vào thành công của phẫu thuật. Thời gian nằm viện sau mổ đánh giá hiệu

quả của phẫu thuật và công tác hồi phục chăm sóc sau mổ.

4.2 Bàn luận về các chỉ tiêu theo dõi mức độ khó thở

Bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản thường không có tình trạng giảm thở, hầu

hết bệnh nhân cảm thấy dễ thở hơn hay thở với tần số bình thường với 77,1% và

khó thở nhẹ chỉ có 20%, bệnh nhân cảm thấy hài lòng với việc thở tự nhiên qua

đường mũi sau một thời gian khó thở do hẹp hoặc thở qua Joberg khí quản, chữ

T, ống nội khí quản … Có 1 bệnh nhân có tần số thở tăng biểu hiện của tình

trạng khó thở nặng do tình trạng tái hẹp sau mổ, xuất hiện sau khi có biến chứng

nhiễm khuẩn và bệnh đái tháo đường type 2 kết hợp.

Phẫu thuật cắt nối khí quản cần phẫu tích dọc khí quản, có nguy cơ gây tổn

thương thần kinh thanh quản, gây rối loạn phản xạ nuốt, kết hợp với cảm giác

đau sau mổ và tâm lý lo lắng làm phản xạ ho khạc của bệnh nhân kém đi. Vì vậy

công tác điều dưỡng đánh giá bệnh nhân ho khạc tốt hay kém là rất quan trọng.

Nếu để tình trạng ứ đọng đờm rãi sảy ra nhiều ngày có nguy cơ gây viêm phổi,

nặng có thể áp xe phổi và khi kích thích ho nhiều sẽ gây chậm liền miệng nối

khí quản. Công việc hướng dẫn bệnh nhân thở và ho khạc sau mổ là rất quan

trọng, kết hợp với kĩ thuật mổ tốt tạo điều kiện thuận lợi cho việc liền miệng nối.

Điều dưỡng theo dõi dựa trên triệu chứng lâm sàng, không ứ đọng đờm rãi, có

tiếng lọc xọc khi thở, nghe phổi không có rale ứ đọng. Trong nhóm nghiên cứu

chúng tôi tỉ lệ bệnh nhân được hướng dẫn và ho khạc tốt chiếm tỉ lệ 88,6%. Bên

cạnh việc theo dõi trên hình ảnh Xquang phổi thường quy thì bác sĩ điều trị cùng

điều dưỡng chăm sóc theo dõi khả năng ho khạc của bệnh nhân có ý nghĩa tiên

lượng sớm nguy cơ viêm phổi.

31

Bên cạnh theo dõi tần số thở, khả năng ho khạc thì một dấu hiệu quan trọng

để theo dõi biến chứng, đánh giá tình trạng bệnh nhân sau mổ là độ khó thở

bảng 3.7 . Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có kết quả tốt không khó

thở 80%, và khó thở độ 2a là 8,6%, khi khó thở độ 2b thì bệnh nhân phải được

đặt ống nội khí quản, trong nghiên cứu chúng tôi có 1 trường hợp biến chứng

dẫn đến khó thở độ 2b. Hiện nay các tài liệu khảo sát dấu hiệu lâm sàng triệu

chứng khó thở liên quan tới khả năng tiên lượng tổn thương sau mổ cắt nối khí

quản tận –tận chúng tôi chưa tìm được nên khó so sánh.

Hình 10: Hướng dẫn ho khạc, vỗ rung

Ngoài các dấu hiệu lâm sàng thì điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân cần theo

dõi chỉ số độ bão hòa oxi trong máu SpO2 . Bệnh nhân sau mổ thường được theo

dõi bằng monitor các chỉ số mạch, nhịp tim, huyết áp và SpO2. Theo dõi tình

trạng SpO2 cho phép đánh giá sát tình trạng oxi máu, đây là chỉ số đánh giá thực

chất tình trạng oxi trong máu mà điều dưỡng có thể theo dõi. Bình thường thì ≥

97% nhưng trong trường hợp bệnh lí thì có thể ≥ 95%, và dưới 94% được xem

như có dấu hiệu đe dọa thiếu oxi do mọi nguyên nhân. Nếu độ bão hòa oxi SpO2

< 80% ở mức đe dọa suy hô hấp, thì thường kèm theo các dấu hiệu lâm sàng có

xu hướng nặng nề [14]. Điều dưỡng theo dõi độ bão hòa oxi khi tụt thấp dưới

94% thì cần cho báo cho bác sĩ, cho bệnh nhân thở oxi hỗ trợ và thực hiện mệnh

lệnh điều trị.

32

Theo dõi và chăm sóc hô hấp bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tận – tận thì

đánh giá các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng đơn giản có thể được thực hiện bởi

điều dưỡng. Các dấu hiêu lâm sàng không quá phức tạp nhưng có ý nghĩa tiên

lượng và lượng giá tình trạng bệnh, điều dưỡng báo kịp thời cho bác sĩ khi có

thay đổi xấu.

33

V. KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy chăm sóc hô hấp là trọng tâm của điều dưỡng chăm sóc

bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản

 Nguyên nhân chủ yếu gây hẹp khí quản là sau đặt ống nội khí quản chiếm tỉ

lệ 57,14%

 Thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ 12-24 giờ chiếm chủ yếu 82,9%

 Biến chứng sau mổ cắt nối khí quản gặp: phù nề miệng nối 8,6%, nhiễm

khuẩn vết mổ 5,7%

 Điều dưỡng phải hướng dẫn, chăm sóc đảm bảo bệnh nhân ở tư thế đầu gập

cho đến khi có chỉ định cắt chỉ cố định cằm-ngực. Thời gian cắt chỉ cố định

cằm – ngực là một mốc quan trọng đánh giá sự tiến triển liền miệng nối khí

quản thường là ngày thứ 8 sau mổ 51,4%.

 Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 10±1,8 ngày

Bên cạnh đó thì điều dưỡng theo dõi mức độ khó thở bằng cách lượng hóa 4 chỉ

tiêu lâm sàng giúp theo dõi và tiên lượng tình trạng bệnh nhân chính xác và

thống nhất

 Tần số thở: bình thường chiếm 77,1%, khó thở nặng 2,8%

 Mức độ khó thở khi có hẹp khí quản: sau mổ thì 80% thở bình thường

 Khả năng ho khạc tốt 88,6% và kém là 11,4%

 Độ bão hòa ôxi bình thường là 71,4%, khó thở nhẹ 11,3% , khó thở vừa 8,6%

và nặng là 2,8%

34

VI. KIẾN NGHỊ

Ngoài công tác điều dưỡng ngoại khoa chung thì điều dưỡng khi nhận nhiệm vụ

chăm sóc bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tận- tận cần thực hiện quy trình sau

Chăm sóc bệnh nhân sau mổ còn ống nội khí quản

Sau mổ chuyển bệnh nhân về phòng hậu phẫu chuyên khoa

 Điều dưỡng nắm thông tin hành chính, vị trí phẫu thuật, tính chất phẫu thuật,

tai biến – biến chứng sau mổ cần phải theo dõi, bên cạnh đó phải tìm hiểu

bệnh nhân có bệnh kết hợp không.

 Để bệnh nhân tư thế đầu cao cổ gập, giữ cho dây cố định cằm – ngực không

bị căng với mục đích làm trùng miệng nối khí quản

 Lắp monitor theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, SpO2 , tần số thở và ý thức

của bệnh nhân

 Thở oxi hỗ trợ 2 l/ phút, đi qua bình làm ẩm và đưa vào mask thở với ống nội

khí quản (tùy thuộc mức độ khó thở)

 Chuẩn bị hút đờm rãi qua ống nội khí quản, theo dõi băng vết mổ và dẫn lưu

 Dùng thuốc Corticoid, giảm đau, kháng sinh, khí dung theo mệnh lệnh của

bác sĩ

 Hướng dẫn bệnh nhân hít sâu thở đúng cách, khạc đờm rãi, không hốt hoảng

khi có khó thở, báo hiệu với nhân viên y tế như thế nào khi vẫn còn ống nội

khí quản.

 Thực hiện công tác chăm sóc điều dưỡng ngoại khoa thông thường, ghi chép

diễn biến, chụp Xquang phổi khi có y lệnh.

Chăm sóc bệnh nhân sau mổ khi đã rút ống nội khí quản

 Tiếp tục theo dõi các chỉ số sinh tồn mạch, nhiệt độ, huyết áp, SpO2 trên

monitor và tần số thở

 Ngay sau khi rút ống nội khí quản là giai đoạn theo dõi sát các biến chứng có

thể gây hẹp khí quản để xử trí kịp thời.

 Kết hợp hướng dẫn thở và ho khạc cho bệnh nhân thực hiện, tránh ứ đọng

đờm rãi, phòng biến chứng viêm phổi.

35

 Khi chăm sóc hô hấp nếu các dấu hiệu lâm sàng theo dõi có xu hướng xấu,

điều dưỡng lượng giá và báo bác sĩ xử trí kịp thời. Chuẩn bị dụng cụ để sẵn

sàng đặt lại ống nội khí quản hoặc mở khí quản

 Thay băng đánh giá tình trạng vết mổ, dấu hiệu nhiễm khuẩn vết mổ.

36

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ y tế (2007), “Chăm sóc bệnh nhân mở khí quản” và “Chăm sóc bệnh

nhân có ống nội khí quản”, Điều dưỡng cơ bản, Nhà xuất bản y học, Hà

Nội, tr 34-38

2. Đỗ Xuân Hợp (1978), “Giải phẫu đầu mặt cổ”, Nhà xuất bản y học -

Thành phố Hồ Chí Minh, tr 443-446

3. Hoàng Đình Hạnh, Lê Thị Tuyết Lan (2008), “Mối liên quan giữa độ khó

thở và các chỉ số hô hấp kí ở bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính”, Tạp chí Y

Học TP.Hồ Chí Minh, Tập 12, số 1 năm 2008, tr 96-99

4. Nguyễn Thị Mỹ Thắm, Lâm Huyền Trân, Trần Minh Trường (2010), “Khảo

sát đặc điểm tổn thương hẹp thanh khí quản sau đặt nội khí quản lâu ngày”

Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 14, số 1 năm 2010, tr 277 - 283

5. Trần Đăng Dong (2002), “Sinh lí hô hấp”, Sinh lí học (Giáo trình giảng

dạy đại học của học viện quân y), Tập 1, tr 159-198

Tiếng Anh

6. Couraud L, Bruneteau A, Martigne C, Meriot S (1982), “Prevention and

treatment of complications and sequelae of tracheal resection

anastomosis”, Int Surg, 1982 Jul-Sep;67(3), pp.235-239.

7. Hermes C Grillo (2004), “Postoperative Management”, Chapter 20, In

Surgery of the trachea and Bronchi , pp. 497-499

8. Hermes C. Grillo (2007), “Complication of tracheal reconstruction”, In

General thoracic surgery 7th edition. Vol 1, pp.483-497

9. Hermes C. Grillo (2007), “Postoperative management”, In General

thoracic surgery 7thedition. Vol 1, pp.479-482

10. McCaffrey TV(1992), “Classification of laryngotracheal stenosis”, The

Laryngoscope 1992, 102(12 Pt 1), pp.1335-1340.

11. Mehta AC, Lee FY, Cordasco EM, Kirby T, Eliachar I, De Boer G(1993),

“Concentric tracheal and subglottic stenosis. Management using the Nd-

37

YAG laser for mucosal sparing followed by gentle dilatation”, Chest

1993, 104(3), pp.673-677

12. Moishe Liberman, Doglas J, Mathisen (2007), “Surgical anatomy of the

tracheal and technicques of resection and reconstruction”, In General thoracic surgery 7thedition, Vol 1, pp.956-468

13. Mostafa Badr E, Chaoch Mbarek Chiraz, Halafawi Ahmed El (2012), “

Managerment of tracheal stenosis”, Tracheal stenosis: diagnosis and

management. Cairo-Egypt, pp.35-52

14. O’Driscoll B.R, Howard L.S, Davison A.G (2008), “Bristish thoracic

guideline for emergency oxygen use in adult patients”, Thorax 2008, Vol

63, Issue Suppl 6, pp.1-68

15. Wright CD, Grillo HC, Wain JC, Wong DR, Donahue DM, Gaissert

HA, Mathisen DJ(2004), “Anastomotic complications after tracheal

resection: prognostic factors and management”, J Thorac Cardiovasc

Surg, Nov;128(5), pp.731-739.

16. Zias N, Chroneou A, Tabba MK, Gonzalez AV, Gray AW, Lamb

CR, Riker DR, Beamis JF Jr(2008), “Post tracheostomy and post

intubation tracheal stenosis: Report of 31 cases and review of the

literature”, BMC Pulmonary Medicine 2008 Sep 21, Vol 8, 18, pp.1-9

38

BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU Theo dõi chăm sóc hô hấp bệnh nhân sau mổ cắt nối khí quản tận– tận tại Khoa phẫu thuật lồng ngực - Bệnh viện TƢQĐ 108

HÀNH CHÍNH

I. Họ tên bệnh nhân:…………………………………………Số bệnh án:……… Tuổi:…….Giới: Nam/ Nữ Địa chỉ: ……………………………………………………………………….. Chẩn đoán: ……………………………………………………………………. Ngày vào viện:…./.…/……Ngày mổ:…./.…/…...Ngày ra viện:.…/.…/……. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU  Phân loại nguyên nhân hẹp khí quản trong nghiên cứu

o Sau đặt ống nội khí quản kéo dài o Mở khí quản o Điều trị xạ khí quản o Phẫu thuật khí quản trước đó o Hẹp khí quản bẩm sinh o Hẹp sau tổn thương khí quản do chấn thương, vết thương o Hẹp khí quản do u o Do bệnh tự miễn (Viêm đa sụn, Sarcoidosis, Tăng sinh tổ chức hạt

Wegener)

o Do bệnh nhiễm trùng (Lao khí quản, Xơ cứng mũi thanh quản)

 Thời gian lưu ống nội khí quản sau mổ:…. ..giờ

o 12-24 giờ sau mổ o 24-48 giờ sau mổ o Sau 48 giờ

Thông số theo dõi chăm sóc hô hấp tính theo trị số trung bình 3 lần/ ngày hoặc lần khó thở nhất của bệnh nhân

 Phân loại mức độ khó thở với bệnh nhân hẹp khí quản

Với đặc trưng khó thở thì hít vào có tiếng rít thanh khí quản o Độ 1: khó thở khi hoạt động nặng o Độ 2a: khó thở nhẹ khi nghỉ ngơi o Độ 2b: khó thở có tiếng rít khí quản, kèm theo thiếu oxi não, bứt

dứt kích động

o Độ 3: triệu chứng suy hô hấp: giảm co kéo các cơ hh phụ, mất tiếng

rít thanh quản, thở nhanh nông, lả người, mắt lờ đờ, da tái

 Theo dõi độ bão hòa oxi SpO2 trên monitor (British thoracic surgery

guidline)

39

o Bình thường ≥ 95% o Khó thở nhẹ từ 94 – 90% o Khó thở vừa từ 89 – 81% o Khó thở nặng ≤ 80%

 Tần số thở

o ≤ 10 lần/phút: giảm thở (nguy hiểm) o 11 – 18 lần/phút: bình thường o 19-23 lần/phút: khó thở nhẹ o ≥ 24 lần/phút: khó thở nặng (phải thở oxi hỗ trợ)

 Khả năng ho khạc

o Ho khạc tốt: Không ứ đọng đờm rãi, không có tiếng lọc xọc trong

khí quản khi thở, nghe phổi không có ran ứ đọng

o Ho khạc kém: Ứ đọng đờm rãi, có tiếng lọc xọc khi thở, nghe phổi

nhiều ran ứ đọng

 Biến chứng ngay sau mổ

o Phù nề tại miệng nối khí quản o Thở hụt hơi do liệt dây thanh quản o Tràn khí dưới da cổ hoặc trung thất

 Biến chứng sớm

o Nói khàn (khó phát âm) do liệt dây thần kinh quặt ngược 1 bên o Rối loạn phản xạ nuốt do thanh quản bị kéo thấp o Đường khâu bị hở do nhiễm khuẩn tại chỗ o Chọc thủng thân động mạch cánh tay đầu o Khó thở phải đặt ống lại

 Thời gian cố định cằm - ngực: ………….ngày

(đánh giá thời điểm cắt chỉ cố định dựa trên: thời gian liền vết thương, toàn thân không có dấu hiệu nhiễm trùng, vết mổ liền tốt, không có biểu hiện khó thở, nội soi khí quản ống mềm thấy đường khâu liền tốt)

Ngày lấy số liệu: ………………………. Người lấy số liệu:……………………….

40