TAP CHI KHOA HOC, Đai hoc Huê, Sô 46, 2008<br />
̣ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ́<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA BÃ SẮN CÔNG NGHIỆP Ủ CHUA <br />
VỚI CÁC PHỤ GIA ĐỂ LÀM THỨC ĂN CHO GIA SÚC NHAI LẠI<br />
Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Xuân Bả <br />
Trường Đại học Nông nghiệp, Đại học Huế <br />
Bùi Văn Lợi<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
TÓM TẮT<br />
Bã sắn công nghiệp được ủ chua với các phụ gia khác nhau trong túi ny lon. Các phụ <br />
gia đựợc sử dụng là: cám gạo 3% + muối ăn 0.5% (tính theo khối lượng tươi) (BSC); rỉ mật <br />
3% + muối ăn 0,5% (BSMa); và muối ăn 0.5% (BSMu). Bã sắn được trộn đều theo các công <br />
thức và ủ yếm khí trong 15 túi riêng biệt cho mỗi công thức. Mẫu thức ăn ở 3 túi ny lon trong <br />
mỗi công thức ủ được lấy ngẫu nhiên ở các thời điểm 0, 7, 14, 21 và 42 ngày sau khi ủ để <br />
phân tích thành phần hóa học. Giá trị pH và hàm lượng HCN ở các công thức giảm nhanh <br />
chóng sau khi ủ. Giá trị pH thấp dưới 3,8 sau 21 ngày ủ và hàm lượng HCN sau 14 và 21 ngày <br />
ủ lần lượt giảm xuống dưới mức 100 và 80 mg/kg DM. Hàm lượng protein thô khá thấp (3,5 <br />
đến 5,3% DM) ở các khối ủ. Từ các kết quả phân tích cho thấy bã sắn công nghiệp có thể <br />
được bảo quản bằng phương pháp ủ chua để làm thức ăn cho gia súc nhai lại trong điều kiện <br />
nông hộ.<br />
<br />
Từ khóa: Bã sắn, gia súc nhai lại, giá trị dinh dưỡng, ủ chua.<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực có sản lượng lớn thứ hai, chỉ sau cây lúa và <br />
đang có xu hướng tiếp tục tăng về diện tích và sản lượng. Theo số liệu của Tổng cục <br />
thống kê, năm 2005 diện tích trồng sắn của cả nước khoảng 424 nghìn ha, với sản <br />
lượng 6,6 triệu tấn củ thì năm 2006 đã tăng lên 475 nghìn ha, với sản lượng 7,7 triệu <br />
tấn củ. Hiện nay, sắn chủ yếu được dùng làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến <br />
tinh bột. Bã sắn công nghiệp là phụ phẩm của quá trình sản xuất tinh bột, nó chiếm <br />
khoảng 45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Trong bã sắn chứa khoảng 8% tinh bột, <br />
15 20% xơ thô (Bùi Quang Tuấn, 2005). Ở khu vực miền Trung, hầu như tỉnh nào <br />
cũng có một nhà máy tinh bột sắn với công suất lớn. Nhà máy tinh bột sắn Phong An <br />
(Thừa Thiên Huế) cho biết vào vụ thu hoạch có khoảng 100 – 150 tấn bã sắn thải ra <br />
hàng ngày. Tuy vậy, người chăn nuôi bò chưa tiếp cận được nhiều với nguồn này do <br />
chưa biết giá trị dinh dưỡng, sợ độc tố HCN đối với gia súc và vấn đề bảo quản, chế <br />
biến trong điều kiện nông hộ. Sự tồn đọng bã sắn tại các nhà máy cũng là nguyên <br />
nhân gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ủ chua để dự trữ bã sắn làm thức ăn cho <br />
gia súc nhai lại là giải pháp có thể khắc phục được những vấn đề nêu trên. Các tác giả <br />
Đặng Thị Thu (1995), Nguyễn Thị Xuân Sâm và Đặng Thị Thu (1996), Lê Văn Hoàng <br />
(1998), có thử nghiệm các qui trình xử lý bã sắn bằng phương pháp lên men vi sinh vật <br />
để ủ làm thức ăn gia súc với qui mô nhỏ ở phòng thí nghiệm nhưng khó áp dụng trong <br />
thực tế sản xuất. Kết quả bước đầu của Nguyễn Quang Tuấn (2005) cho biết bã sắn <br />
chế biến thủ công đem ủ chua với muối và rỉ mật có thể bảo quản được lâu để làm <br />
thức ăn dự trữ cho trâu bò. Xuất phát từ tình hình nói trên chúng tôi tiến hành đề tài <br />
này với mục đích: (1) Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất phụ gia đến động thái lên <br />
men của bã sắn trong quá trình ủ; (2) Đánh giá chất lượng làm thức ăn cho gia súc nhai <br />
lại của bã sắn đã được ủ chua; (3) Tìm ra công thức ủ chua bã sắn phù hợp với thực <br />
tiễn sản xuất.<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Bã sắn từ Nhà máy Tinh bột sắn Phong An, Thừa Thiên Huế được ủ chua với <br />
các phụ gia khác nhau. Túi ny lon kích thước 20 x 30 cm (chứa khoảng 3 kg) được sử <br />
dụng để làm túi ủ. Các phụ gia đựợc sử dụng là: cám gạo 3% + muối ăn 0,5% (theo <br />
khối lượng tươi) (BSC); rỉ mật 3% + muối ăn 0,5% (BSMa); và muối ăn 0,5% (BSMu). <br />
Bã sắn được trộn đều theo các công thức và ủ yếm khí trong 15 túi riêng biệt cho mỗi <br />
công thức. Túi ủ được bảo quản nhiệt độ phòng trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 <br />
năm 2006. Mẫu thức ăn ở 3 túi ny lon trong mỗi công thức ủ được lấy ngẫu nhiên ở <br />
các thời điểm 0, 7, 14, 21 và 42 ngày sau khi ủ để phân tích thành phần hóa học. <br />
Phương pháp phân tích vật chất khô (DM), vật chất hữu cơ (OM), protein thô <br />
(CP), mỡ thô (EE), và khoáng tổng số (Ash) theo AOAC (1990). Xơ không hòa tan <br />
trong chất tẩy trung tính (NDF) được xác định theo Van Soest và cộng sự (1991). Năng <br />
lượng tổng số (GE) được xác định bằng Bomb Calorimeter (Bomb Calorimeter 6300, <br />
Parr Instrument Company), pH được đo bằng pH meter (Sension 3, HACH Company, <br />
USA), HCN được phân tích theo phương pháp của Easley và cộng sự (1970).<br />
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Exel và Minitab 13.0 theo phương pháp <br />
phân tích phương sai (ANOVA) trên hàm GLM.<br />
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Thành phần dinh dưỡng của bã sắn tươi<br />
Kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng của bã sắn tươi được trình bày ở <br />
bảng 1.<br />
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của bã sắn tươi<br />
<br />
Giá trị<br />
Thành phần<br />
pH 4,21<br />
HCN (mg/kg DM) 240<br />
HCN (mg/kg vật chất tươi) 26,9<br />
DM (% vật chất tươi) 11,2<br />
OM (% DM) 97,2<br />
CP (% DM) 3,6<br />
EE (% DM) 0,3<br />
NDF (% DM) 31,2<br />
Ash (% DM) 2,8<br />
GE (Kcal/kgDM) 4180<br />
Số liệu ở bảng 1 cho thấy ẩm độ của bã sắn tươi rất cao nên rất dễ bị hư <br />
hỏng. Nếu áp dụng phương pháp phơi khô để bảo quản sẽ mất nhiều thời gian, công <br />
lao động và nấm mốc dễ phát triển trong quá trình phơi. Mặt khác, việc phơi khô lại <br />
phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Mùa thu hoạch và chế biến sắn thường tiến hành vào <br />
mùa mưa ở khu vực miền Trung. Do vậy, việc bảo quản bã sắn bằng cách ủ chua là <br />
phù hợp. pH của bã sắn tươi là 4,21, hàm lượng HCN là 26,5 mg/kg. Các chỉ số này <br />
thấp hơn nhiều so với công bố của Bùi Quang Tuấn (2005) khi xác định ở bã sắn chế <br />
biến thủ công (tương ứng pH = 6, HCN = 162,4 mg/kg). Sự khác biệt này có thể là do <br />
bã sắn công nghiệp đã được xử lý hóa chất trong quá trình chế biến. Tỷ lệ NDF là <br />
31,2 %, bã sắn lại được nghiền nhỏ do đó có thể ảnh hưởng tới hoạt động nhai lại <br />
của trâu bò. Giá trị protein thô, lipid, khoáng tổng số và năng lượng thô trong bã sắn <br />
tương ứng là 3,6%, 0,3%, 2,8% (tính theo DM) và 4198 kcal/kg DM. Kết quả phân tích <br />
này cho thấy hàm lượng protein thô trong bã sắn rất thấp và giá trị năng lượng tương <br />
đối cao, vì vậy khi làm thức ăn cho gia súc nhai lại cần thiết phải bổ sung nguồn thức <br />
ăn giàu protein để cân đối năng lượng và protein cho nhu cầu dinh dưỡng của vi sinh <br />
vật dạ cỏ và cho sản xuất. <br />
3.2. Diễn biến hàm lượng DM, pH và HCN <br />
Hàm lượng DM ở công thức ủ BSC (trung bình 14,5%) cao hơn (P