intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá khả năng biến động tăng sản lượng gạo xuất khẩu – trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

76
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mặc dù là một cường quốc về xuất khẩu gạo nhưng giá trị xuất khẩu gạo tại Việt Nam lại giảm. Thêm vào đó, nguy cơ cạnh tranh về xuất khẩu gạo ngày càng gia tăng vì sản lượng cung ứng gạo của các nước trong khu vực ngày càng cao. Chính vì thế nghiên cứu này được thực hiện thông qua kiểm định Binary Logistic nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng gạo xuất khẩu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá khả năng biến động tăng sản lượng gạo xuất khẩu – trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 50 (5) 2016<br /> <br /> 99<br /> <br /> ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG BIẾN ĐỘNG TĂNG SẢN LƯỢNG GẠO<br /> XUẤT KHẨU – TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT<br /> KHẨU GẠO VIỆT NAM<br /> NGUYỄN TRẦN CẨM LINH<br /> Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh - linh.nguyen4@oude.edu.vn<br /> PHAN THỊ YÊN<br /> Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh - yenphan020293@gmail.com<br /> (Ngày nhận: 27/04/2015; Ngày nhận lại: 25/04/2016; Ngày duyệt đăng: 18/08/2016)<br /> TÓM TẮT<br /> Mặc dù là một cường quốc về xuất khẩu gạo nhưng giá trị xuất khẩu gạo tại Việt Nam lại giảm. Thêm vào đó,<br /> nguy cơ cạnh tranh về xuất khẩu gạo ngày càng gia tăng vì sản lượng cung ứng gạo của các nước trong khu vực<br /> ngày càng cao. Chính vì thế nghiên cứu này được thực hiện thông qua kiểm định Binary Logistic nhằm tìm ra các<br /> yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng gạo xuất khẩu. Kết quả nghiên cứu tìm thấy 3 yếu tố có ý nghĩa thống kê ảnh hưởng<br /> đến sản lượng gạo xuất khẩu là việc Xây dựng mối quan hệ, Giá xuất khẩu và Chính sách vĩ mô. Trong đó, yếu tố<br /> Xây dựng mối quan hệ có tương quan thuận chiều mạnh nhất (β0 MQH = 1.846), hai yếu tố còn lại tác động nghịch<br /> chiều (β0 Gia = -0.991 và β0 VM = -1.278). Hai yếu tố không có ảnh hưởng đến sản lượng gạo xuất khẩu là Chất lượng<br /> gạo và Năng lực marketing. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa chiến lược đối với các nhà quản trị của một số doanh<br /> nghiệp xuất khẩu gạo nói riêng và xuất khẩu nông sản nói chung. Các nhà quản trị có thế dựa vào mức độ ảnh<br /> hưởng của các yếu tố để thực hiện các điều tiết trong việc quản lý xuất khẩu và điều tiết biến động sản lượng xuất<br /> khẩu gạo.<br /> Từ khóa: xuất khẩu gạo; biến động sản lượng gạo; hồi quy binary logistic.<br /> <br /> Evaluating the ability of increasing volatility of rice export output - In case of<br /> Vietnam’s Rice Export Enterprises<br /> ABSTRACT<br /> Vietnam’s rice export value has dropped though the country has been known as one of the rice exporting<br /> powers. In addition, the competition among rice-exporting countries is rising because of an increase in the rice<br /> output of regional countries. Therefore, using the quantitative research method of Binary Logistic Regression, this<br /> study is conducted to figure out what factors affecting rice export output. The study found 3 statistically significant<br /> factors which have impact on rice export output. They are Relationship building, Rice export price and<br /> Macroeconomic policies, of which, relationship building has the strongest positive correlation (β 0 Building relationships =<br /> 1.846), the other 2 factors have negative correlation (β0 Price = -0.991 and β0 Macroeconomic policies = -1.278). 2 factors have<br /> no correlation with export rice output are Rice grain quality and Marketing capability. The research findings are<br /> strategically meaningful to managers of some rice export enterprises in particular and agricultural export enterprises<br /> in general. The managers can rely on the impact level of these factors to moderate the export management and<br /> regulate the volatility of rice export output.<br /> Keywords: volatility of rice export output; rice export; binary logistic regression.<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> Mặc dù là một cường quốc về xuất khẩu<br /> gạo trong những năm gần đây nhưng trị giá<br /> xuất khẩu của Việt Nam những năm qua có<br /> lúc giảm hoặc có lúc tăng nhưng mức tăng<br /> <br /> không tương xứng so với sản lượng gạo xuất<br /> khẩu và vị thế của Việt Nam trên thế giới vẫn<br /> còn cách hai đối thủ Thái Lan và Ấn Độ một<br /> khoảng rất xa (Nguyễn Văn Sơn, 2013). Năm<br /> 2015 được dự đoán là năm khá khó khăn cho<br /> <br /> 100<br /> <br /> KINH TẾ<br /> <br /> các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt khi mà<br /> sản lượng cung ứng của hầu hết các đối thủ<br /> trong khu vực tăng trong khi nhu cầu nhập<br /> khẩu tại một số thị trường lại giảm do chính<br /> sách hạn chế nhập khẩu của Philippines<br /> (Vietnam+, 2014) và chính sách tự túc lương<br /> thực của Indonesia (TTXVN, 2014). Tình<br /> hình cạnh tranh diễn ra ngày càng mạnh mẽ<br /> và sâu rộng hơn do sự tham gia của một số<br /> quốc gia mới nổi như Campuchia hay<br /> Myanmar (An Nhien, 2015). Ngoài ra, xuất<br /> khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc (thị trường<br /> nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam hai năm<br /> qua) đang dần bị siết chặt (Trường Giang,<br /> 2014). Tuy nhiên, việc tìm hiểu các nghiên<br /> cứu trước đây đã cho thấy số công trình<br /> nghiên cứu tại Việt Nam cho đến nay còn<br /> tương đối hạn chế và đa phần đi sâu vào phân<br /> tích định tính như nghiên cứu của hai tác giả<br /> Nguyễn Đình Luận (2013) hay Trần Huỳnh<br /> Thúy Phượng (2013). Hai bài viết này đánh<br /> giá tình hình cung – cầu thế giới, phân tích<br /> thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam mùa<br /> vụ 2011/2012 và đưa ra một số kiến nghị về<br /> mặt giải pháp. Ngoài ra, cũng có một số ít các<br /> nghiên cứu điển hình như nghiên cứu của tác<br /> giả Nguyễn Văn Phúc (2014) đánh giá chiến<br /> lược xuất khẩu gạo của Việt Nam qua phân<br /> tích hiệu ứng giá và lượng xuất khẩu. Việc<br /> tìm hiểu các nghiên cứu trước đây đã cho thấy<br /> vẫn còn ít các nghiên cứu định lượng trong<br /> ngành gạo. Do đó, nghiên cứu được chọn<br /> thông qua phân tích định lượng bằng kiểm<br /> định hồi quy Binary Logistic để đánh giá khả<br /> năng biến động sản lượng gạo xuất khẩu đã<br /> thể hiện được tầm quan trọng của nó trong<br /> ngành gạo Việt Nam hiện nay.<br /> 2. Cơ sở lý thuyết<br /> Sản lượng gạo xuất khẩu<br /> Từ trước đến nay, hoạt động xuất khẩu<br /> gạo của Việt Nam đi theo một chuỗi cung ứng<br /> ngược. Trong đó, các doanh nghiệp xuất khẩu<br /> căn cứ trên giá hợp đồng, dự kiến mức lợi<br /> nhuận sau khi trừ đi các khoản chi phí và thuế<br /> sẽ định giá mua gạo từ các doanh nghiệp cung<br /> ứng (Trần Tiến Khai, 2010). Khi có sự chênh<br /> lệch lớn giữa giá quốc tế và giá nội địa thì đối<br /> <br /> tượng hưởng lợi chính là doanh nghiệp (Võ<br /> Thị Thanh Lộc và Nguyễn Đoan Khôi, 2011).<br /> Do đó trong hầu hết các trường hợp, họ luôn<br /> thu được lợi nhuận vì họ là người định giá đầu<br /> vào dựa trên cơ sở giá xuất khẩu. Tuy nhiên,<br /> cũng có những trường hợp các doanh nghiệp<br /> này không đạt được lợi nhuận vì mục đích thu<br /> hút các khách hàng mới hay giữ chân các<br /> khách hàng quan trọng thông qua việc hạ giá<br /> gạo xuất khẩu trong bối cảnh giá đầu vào<br /> không đổi. Về mặt lâu dài, tần suất xuất hiện<br /> của những trường hợp này không nhiều vì xét<br /> cho cùng thì mục tiêu quan trọng nhất của<br /> doanh nghiệp là lợi nhuận (Porter, 2009a). Do<br /> đó, doanh nghiệp sẽ tìm cách gia tăng khối<br /> lượng gạo xuất khẩu trong mức giới hạn cho<br /> phép của Chính phủ để gia tăng mức lợi<br /> nhuận. Chính vì thế, sản lượng xuất khẩu gạo<br /> tăng qua các năm sẽ thể hiện được hiệu quả<br /> hoạt động kinh doanh về mặt lâu dài của<br /> doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, mức<br /> biến động của sản lượng được đo lường dựa<br /> trên sự đánh giá của nhân viên xuất khẩu<br /> trong doanh nghiệp về những đơn hàng xuất<br /> khẩu trong ba năm gần đây. Biến phụ thuộc<br /> (biến động tăng của sản lượng gạo) nhận giá<br /> trị là 1 nếu sản lượng tăng và 0 nếu sản lượng<br /> không tăng. Sự đánh giá tăng giảm của sản<br /> lượng xuất khẩu gạo dựa vào đánh giá biến<br /> động của sản lượng gạo của các đơn hàng<br /> xuất khẩu sau so với các đơn hàng cùng kì của<br /> những năm trước cũng như dựa vào kinh<br /> nghiệm của nhân viên xuất khẩu.<br /> Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động<br /> xuất khẩu gạo<br /> Theo tác giả Nguyễn Văn Thọ (2003),<br /> hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam chịu<br /> ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như chính sách<br /> vĩ mô (cơ chế điều hành xuất khẩu gạo, môi<br /> trường pháp lý, môi trường hành chính), nội<br /> lực doanh nghiệp (trang thiết bị, máy móc,<br /> nguồn vốn hoạt động), chất lượng và thương<br /> hiệu hạt gạo, cung - cầu thị trường thế giới và<br /> giá gạo (giá thế giới, cơ chế quản lý giá xuất<br /> khẩu và quan hệ cung - cầu trong nước).<br /> Nghiên cứu này sẽ đánh giá hiệu quả hoạt<br /> động xuất khẩu gạo thông qua bốn yếu tố là<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 50 (5) 2016<br /> <br /> Giá xuất khẩu (1), Chính sách vĩ mô (2), Năng<br /> lực cạnh tranh của doanh nghiệp (3) và Chất<br /> lượng gạo (4).<br /> Giá xuất khẩu<br /> Giá xuất khẩu là giá bán sản phẩm từ<br /> nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu mà tại<br /> mức giá đó người mua hay nhà nhập khẩu<br /> phải cảm nhận rằng họ đã nhận được toàn bộ<br /> giá trị tương xứng với số tiền mà họ bỏ ra,<br /> đồng thời người bán hay nhà xuất khẩu phải<br /> thu được lợi nhuận ngắn hạn hay dài hạn tùy<br /> theo mục tiêu tổng thể của họ (Trần Minh Đạo<br /> và Vũ Trí Dũng, 2011). Đối với mặt hàng gạo,<br /> giá gạo xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi nhiều<br /> yếu tố khác nhau như yếu tố tỷ giá, nhu cầu<br /> thế giới (Sawaengkun, 2014) hay các yếu tố<br /> biến đổi khí hậu, sản lượng cung ứng của các<br /> quốc gia và sự biến động của chỉ số giá cả<br /> (Subramanian, 2010). Các doanh nghiệp kinh<br /> doanh trong ngành có thể nâng cao năng lực<br /> cạnh tranh về giá bằng cách tác động lên các<br /> yếu tố có ảnh hưởng được nêu ở trên. Nếu có<br /> thể kiểm soát giá và bán chúng ở mức thấp<br /> hơn các đối thủ cạnh tranh khác thì doanh<br /> nghiệp sẽ kinh doanh tốt hơn vì suy cho cùng,<br /> các đối tác nhập khẩu thường không phải là<br /> khách hàng tiêu dùng cuối cùng, nên các đối<br /> tác này sẽ không tiêu dùng nhiều hơn khi giá<br /> gạo giảm vì đây là nhu yếu phẩm. Nhưng xét<br /> về mặt kinh tế, khi giá gạo xuất khẩu thấp<br /> hơn, xét trên cùng một loại gạo có chất lượng<br /> như nhau thì nhà nhập khẩu hay các khách<br /> hàng sỉ sẽ mua nhiều gạo hơn, doanh nghiệp<br /> cũng sẽ đạt được nhiều lợi ích hơn khi sản<br /> lượng xuất khẩu tăng và thị trường được mở<br /> rộng (Unnevehr và cộng sự, 1992). Vì vậy,<br /> giả thuyết được đề xuất như sau:<br /> H1: Giá gạo xuất khẩu tác động nghịch<br /> chiều với biến động tăng của sản lượng gạo<br /> xuất khẩu<br /> Chính sách vĩ mô<br /> Nhà nước dùng các chính sách kinh tế<br /> làm công cụ để điều tiết hoạt động vĩ mô. Các<br /> chính sách quan trọng là chính sách tài khóa,<br /> chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và<br /> chính sách ngoại thương (Nguyễn Như Ý và<br /> cộng sự, 2005). Trong đó, chính sách ngoại<br /> <br /> 101<br /> <br /> thương là công cụ chính để điều tiết hoạt động<br /> xuất nhập khẩu của một quốc gia. Các chính<br /> sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu gạo là<br /> chính sách điều hành xuất khẩu gạo, hạn<br /> ngạch xuất khẩu và chính sách dự trữ lương<br /> thực quốc gia (Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn<br /> Đoan Khôi, 2011). Đồng quan điểm trên, tác<br /> giả Trần Tiến Khai (2011) đi sâu vào phân<br /> tích cơ chế điều hành xuất khẩu gạo, cơ chế<br /> xuất khẩu, cơ chế thu mua gạo xuất khẩu và<br /> cơ chế bình ổn giá thị trường thông qua hoạt<br /> động dự trữ cấp quốc gia và cấp doanh<br /> nghiệp. Các chính sách mà Chính phủ đưa ra<br /> có thể là cơ hội, là sự hỗ trợ đối với doanh<br /> nghiệp này, nhưng lại là những thách thức, là<br /> sự hạn chế đối với các doanh nghiệp khác.<br /> Nhìn chung, mức độ ảnh hưởng của chính<br /> sách vĩ mô lên doanh nghiệp như thế nào còn<br /> tùy thuộc vào tính chất của chính sách đó, loại<br /> hình, quy mô của doanh nghiệp và cơ chế<br /> quản lý của các cơ quan, bộ ngành có liên<br /> quan. Theo nhóm tác giả Meenaphant và<br /> Sorrayuth (1981), các chính sách thương mại<br /> của Chính phủ làm giảm khối lượng gạo xuất<br /> khẩu thông qua cơ chế hạn ngạch xuất khẩu<br /> với mục đích điều chỉnh giá gạo nội địa, đảm<br /> bảo an ninh lương thực trong nước và tránh<br /> các cuộc khủng hoảng thiếu đối với mặt hàng<br /> an ninh lương thực quốc gia này. Vì vậy, giả<br /> thuyết được đề xuất như sau:<br /> H2: Chính sách vĩ mô tác động nghịch<br /> chiều đến biến động tăng của sản lượng gạo<br /> xuất khẩu<br /> Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp<br /> Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là<br /> khả năng mà doanh nghiệp có thể đứng vững<br /> trên thị trường cạnh tranh, mở rộng thị phần<br /> và tăng lợi nhuận. Năng lực cạnh tranh có thể<br /> được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như<br /> năng suất, chất lượng, công nghệ, sự khác biệt<br /> về hàng hóa hay dịch vụ được cung cấp, giá<br /> trị tăng thêm, chi phí sản xuất. Ngoài ra, năng<br /> lực cạnh tranh còn được hiểu là khả năng mà<br /> doanh nghiệp thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh<br /> tranh trong việc đạt được mục tiêu quan trọng<br /> nhất là lợi nhuận (Porter, 2009a). Theo<br /> Dunfold và cộng sự (2001), doanh nghiệp có<br /> <br /> 102<br /> <br /> KINH TẾ<br /> <br /> sức cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt<br /> được mức độ cải tiến chất lượng của sản phẩm<br /> hay dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh hoặc là<br /> họ có khả năng giảm các chi phí có liên quan<br /> để gia tăng lợi nhuận. Càng giảm được giá<br /> thành, gia tăng chất lượng sản phẩm thì sức<br /> cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.<br /> Theo tác giả Nguyễn Viết Lâm (2014),<br /> năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được<br /> xác định qua hai nhóm, nhóm thứ nhất là các<br /> chỉ tiêu liên quan đến kết quả sản xuất kinh<br /> doanh, nhóm thứ hai là các chỉ tiêu liên quan<br /> đến năng lực cạnh tranh. Hai tác giả Trần Thế<br /> Hoàng (2010) và Trần Hữu Ái (2013) nhìn<br /> nhận năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp<br /> bao gồm 10 yếu tố. Đó là năng lực nghiên<br /> cứu, phát triển quan hệ kinh doanh, tổ chức<br /> sản xuất, tài chính, nguồn nhân lực,<br /> marketing, cạnh tranh thương hiệu, cạnh tranh<br /> về giá, quản trị và khả năng tranh chấp thương<br /> mại. Để tồn tại và đứng vững trong thị trường<br /> xuất khẩu gạo thì doanh nghiệp phải cạnh<br /> tranh gay gắt với không chỉ các doanh nghiệp<br /> khác trong nước mà còn với các đối thủ cạnh<br /> tranh từ các quốc gia xuất khẩu gạo khác. Do<br /> đó, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều<br /> kiện hội nhập là điều cần thiết cho sự tồn tại<br /> và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp<br /> nào có năng lực cạnh tranh tốt sẽ chiếm ưu thế<br /> trong ngành hơn các đối thủ cạnh tranh trong<br /> việc thu được nhiều lợi nhuận hơn, có được<br /> nhiều khách hàng và chiếm thị phần cao hơn<br /> cả trong nước lẫn ngoài nước. Vì vậy, giả<br /> thuyết được đề xuất như sau:<br /> H3: Năng lực cạnh tranh tương quan<br /> thuận chiều với biến động tăng của sản lượng<br /> gạo xuất khẩu<br /> Chất lượng gạo<br /> Chất lượng gạo bao gồm những thuộc<br /> tính về mặt vật lý ảnh hưởng đến hình dạng<br /> hạt gạo như kích cỡ và độ bóng, mức độ xay<br /> xát, tỷ lệ hạt nguyên, hạt bể, tạp chất và các<br /> thuộc tính về mặt hóa học ảnh hưởng đến chất<br /> lượng món ăn khi chế biến như hàm lượng<br /> tinh bột, hương vị, độ kết dính và nhiệt độ hóa<br /> hồ (Unnevehr cùng cộng sự, 1992). Webb<br /> (1985) cho rằng gạo thành phẩm được phân<br /> <br /> loại dựa vào kích thước, hình dạng và độ<br /> bóng. Cruz & Khush (2000) bổ sung thêm yếu<br /> tố tỷ lệ xay xát và các thuộc tính khác khi nấu.<br /> Nhu cầu thế giới về chất lượng gạo rất<br /> khác nhau ở mỗi khu vực và vì thị hiếu người<br /> tiêu dùng có xu hướng thay đổi theo thời gian<br /> nhưng không giống nhau trên toàn thế giới<br /> nên các doanh nghiệp phải thường xuyên cải<br /> tiến chất lượng gạo để đáp ứng kịp thời sự<br /> thay đổi đó. Để làm được điều đó, việc tìm<br /> hiểu các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng<br /> hạt gạo là điều tất yếu mà các doanh nghiệp<br /> kinh doanh xuất khẩu gạo nên thực hiện. Một<br /> số tác giả trong những nghiên cứu trước đây<br /> đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về các<br /> yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng gạo. Theo<br /> Unnevehr và cộng sự (1992), chất lượng hạt<br /> gạo chịu ảnh hưởng bởi giống lúa, điều kiện<br /> sản xuất và thu hoạch, công nghệ xay xát và<br /> chế biến. Trong đó giống lúa gieo trồng là<br /> nhân tố quyết định trực tiếp một số đặc tính và<br /> thông qua sự tương tác với môi trường cũng<br /> như quy trình chế biến mà nó có ảnh hưởng<br /> gián tiếp tới những đặc tính khác. Kunze cùng<br /> cộng sự (1985) nhìn nhận các yếu tố ảnh<br /> hưởng dưới góc độ môi trường, tức là chúng<br /> bao gồm các khía cạnh kỹ thuật từ khâu thu<br /> hoạch, tách vỏ, sấy khô, bảo quản đến khâu<br /> xay xát và vận chuyển.<br /> Đối với những quốc gia tự cung tự cấp,<br /> chất lượng gạo không quá quan trọng (như<br /> Bangladesh). Nhưng đối với những nước có<br /> thế mạnh là xuất khẩu thì chất lượng gạo lại<br /> đặc biệt quan trọng như Thái Lan (Unnevehr<br /> và cộng sự, 1992). Việc cải tiến chất lượng<br /> gạo đối với nhóm các quốc gia này không chỉ<br /> để đáp ứng sự thay đổi trong thị hiếu của<br /> người tiêu dùng mà còn để tạo ra sức cạnh<br /> tranh tốt hơn trên thị trường toàn cầu vì khi thị<br /> trường thế giới bội cung cộng với nhu cầu<br /> nhập khẩu giảm ở một số quốc gia nhập khẩu<br /> chính thì giá gạo sẽ giảm, đây là điều tất yếu<br /> không thể tránh khỏi. Theo tác giả Unnevehr<br /> cùng cộng sự (1992), giá giảm làm cho khách<br /> hàng có xu hướng tiêu dùng gạo có chất lượng<br /> cao hơn. Vì vậy, giả thuyết được đề xuất<br /> như sau:<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 50 (5) 2016<br /> <br /> H4: Chất lượng gạo tương quan thuận<br /> chiều với biến động tăng của sản lượng gạo<br /> xuất khẩu<br /> 3. Dữ liệu, mô hình nghiên cứu và<br /> kết quả<br /> 3.1. Dữ liệu nghiên cứu<br /> Đối tượng nghiên cứu là 110 doanh<br /> nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn Việt Nam.<br /> Dữ liệu được thu thập theo phương pháp lấy<br /> mẫu thuận tiện, thu thập qua hai hình thức:<br /> một là gửi bảng khảo sát trực tiếp các công ty<br /> xuất khẩu (thu được 42 quan sát) hai là khảo<br /> sát trực tuyến bằng cách gửi qua email (thu<br /> được 83 quan sát). Tổng mẫu thu được là 125<br /> quan sát, số quan sát hợp lệ là 110. Trong đó<br /> số doanh nghiệp có quy mô nhỏ (dưới 50 nhân<br /> viên) chiếm tỷ lệ 17.3%, doanh nghiệp có quy<br /> mô trung bình (từ 50 đến 100 nhân viên)<br /> chiếm tỷ lệ 40% và 42.7% còn lại là doanh<br /> nghiệp có quy mô lớn (hơn 100 nhân viên).<br /> Mẫu được thu thập theo tỷ lệ 5:1, cho thấy<br /> mức độ phù hợp của mô hình tổng thể<br /> (Bollen, 1989).<br /> 3.2. Xây dựng thang đo<br /> Thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu<br /> quả hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh<br /> nghiệp được xây dựng thành 22 biến quan sát.<br /> Các biến độc lập được sử dụng trong nghiên<br /> cứu này là năng lực cạnh tranh, chất lượng<br /> gạo xuất khẩu, giá xuất khẩu và chính sách vĩ<br /> mô. Tất cả các biến độc lập đều sử dụng thang<br /> đo Likert được đo lường trên thang điểm từ 1<br /> đến 5 (1- hoàn toàn không đồng ý; 2 - không<br /> đồng ý; 3 - trung dung; 4 - đồng ý; 5 - hoàn<br /> toàn đồng ý).<br /> Thang đo năng lực xây dựng mối quan hệ<br /> của doanh nghiệp được kí hiệu là MQH và<br /> được đo lường bằng 4 biến quan sát. Năng lực<br /> xây dựng mối quan hệ với khách hàng bao<br /> gồm các mối quan hệ cấu trúc (doanh nghiệp<br /> trao đổi thông tin với đối tác) và các mối quan<br /> hệ xã hội thông qua việc tiếp xúc chính thức<br /> và phi chính thức (doanh nghiệp dành thời<br /> gian để tiếp xúc và xây dựng mối quan hệ với<br /> đối tác), thang đo này được kế thừa từ tác giả<br /> Hoàng Thị Phương Thảo (2012).<br /> o Thang đo Năng lực marketing mix<br /> <br /> 103<br /> <br /> được hiểu là các hoạt động quảng bá hình ảnh,<br /> thương hiệu sản phẩm và công ty đến các đối<br /> tượng của mình thông qua website công ty,<br /> các chương trình giảm giá, các chính sách cho<br /> khách hàng thân thuộc, các hoạt động mà<br /> doanh nghiệp tham gia tại hội chợ thương<br /> mại, triễn lãm…. Các biến NLM_1 đến<br /> NLM_4 được dùng để đo lường yếu tố năng<br /> lực marketing mix được kế thừa từ hai nghiên<br /> cứu của các tác giả Trần Thế Hoàng (2010) và<br /> Võ Thị Quý và Nguyễn Thị Mai Thy (2012).<br /> o Thang đo Chất lượng gạo xuất khẩu<br /> được đo lường thông qua bốn yếu tố gồm<br /> giống lúa gieo trồng (thể hiện qua chủng loại<br /> gạo xuất khẩu), hệ thống xay xát, hệ thống<br /> bảo quản và hệ thống vận chuyển. Do đó, các<br /> biến từ CL_1 đến CL_4 được dùng để đo<br /> lường chất lượng gạo xuất khẩu và kế thừa từ<br /> nghiên cứu của Unnevehr và cộng sự (1992),<br /> và Huỳnh Quý Mão (2011).<br /> o Thang đo Giá gạo xuất khẩu được đo<br /> lường bằng 4 biến quan sát, kí hiệu từ Gia_1<br /> đến Gia_4. Các biến này dùng để đo lường<br /> các yếu tố tác động đến giá gạo xuất khẩu.<br /> Giá xuất khẩu chịu tác động bởi yếu tố tỷ giá,<br /> yếu tố thời vụ, sản lượng sản xuất trong nước<br /> cũng như tác động cạnh tranh của sản lượng<br /> cung ứng của các quốc gia khác được kế thừa<br /> từ nghiên cứu của Sawaengkun (2014) và<br /> Subramanian (2010).<br /> o Thang đo chính sách vĩ mô được đo<br /> lường bằng ba biến quan sát bao gồm các<br /> chính sách hỗ trợ vay vốn của doanh nghiệp,<br /> chính sách điều hành xuất khẩu gạo (thể hiện<br /> qua việc doanh nghiệp đảm bảo lợi nhuận cho<br /> nông dân) và cuối cùng là chính sách về điều<br /> kiện để các doanh nghiệp kinh doanh xuất<br /> khẩu gạo. Thang đo này được kế thừa từ Trần<br /> Tiến Khai (2010) và Võ Thị Thanh Lộc và<br /> Nguyễn Đoan Khôi (2011).<br /> o Từ trước đến nay, hoạt động xuất khẩu<br /> gạo Việt Nam đi theo một chuỗi cung ứng<br /> ngược. Trong đó, các doanh nghiệp xuất khẩu<br /> căn cứ trên giá hợp đồng, dự kiến mức lợi<br /> nhuận sau khi trừ đi các khoản chi phí và thuế<br /> sẽ định giá mua gạo từ các doanh nghiệp cung<br /> ứng (Trần Tiến Khai, 2010). Khi thị trường<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1