intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân parkinson

Chia sẻ: Hạnh Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

61
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết với mục tiêu xác định tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân parkinson dựa trên các test; quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh parkinson.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân parkinson

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG THẦN KINH TỰ CHỦ<br /> TRÊN BỆNH NHÂN PARKINSON<br /> Võ Nguyễn Ngọc Trang*, Nguyễn Hữu Công<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson dựa<br /> trên các test; quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson.<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 60 bệnh nhân Parkinson tại<br /> bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế, từ 9-2013 đến 6-2014. Chẩn đoán bệnh Parkinson dựa vào<br /> tiêu chuẩn chẩn đoán Ngân Hàng Não của Hội Bệnh Parkinson Anh Quốc. Trong nghiên cứu, chức năng đối<br /> giao cảm được đánh giá bằng test biến thiên nhịp tim theo tư thế và theo hít thở sâu. Chức năng giao cảm được<br /> đánh giá bằng các test ghi đáp ứng giao cảm da, biến thiên huyết áp theo tư thế, sau vận động thể lực đẳng<br /> trường và kích thích lạnh.<br /> Kết quả: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson là 8,3 – 55% tùy theo test thực hiện,<br /> trong đó bất thường cao nhất là ở test biến thiên huyết áp với vận động thể lực đẳng trường (55%). Tổn thương<br /> thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson ở mức độ nhẹ, 63,4% trường hợp bất thường từ 2 test trở xuống. Tổn<br /> thương ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm (53,8%). Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần<br /> kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi (p = 0,001), cũng như theo thang điểm<br /> UPDRS phần III (hệ số tương quan Pearson r = 0,537, p < 0,001).<br /> Kết luận: Tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson ở mức độ nhẹ, ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm<br /> và đối giao cảm. Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh.<br /> Từ khoá: bệnh Parkinson, test thần kinh tự chủ, chức năng giao cảm,chức năng đối giao cảm.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> EVALUATION OF AUTONOMIC DYSFUNCTION IN PATIENTS WITH PARKINSON’S DISEASE<br /> Vo Nguyen Ngoc Trang, Nguyen Huu Cong<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 271 - 277<br /> Background: Nearly all parkinsonian patients experience some degree of autonomic disturbances during the<br /> course of their illness. Dysautonomic symptom influences safety and quality of life, and it also burdens not only to<br /> patients but also to caregivers. Autonomic function tests can evaluate the severity and distribution of autonomic<br /> failure, as well as detect subclinical autonomic deficits with sufficient sensitivity. However, autonomic function<br /> tests in Parkinson’s disease have not been properly evaluated in Vietnam until now.<br /> Objective: To characterise the frequency and severity of autonomic dysfunction in patients with Parkinson’s<br /> disease; to find the correlation between the degree of autonomic deficits and the severity of Parkinson’s disease.<br /> Methods: This was a cross-sectional study, including 60 patients with Parkinson’s disease in International<br /> Neurosurgery Hospital, from Sep 2013 to Jun 2014. The diagnosis of Parkinson’s disease was verified using the<br /> UK Parkinson’s Disease Society Brain Bank clinical criteria. In this study, parasympathetic autonomic function<br /> was evaluated by the heart rate response to standing (30:15 ratio) and heart rate variability with deep breathing.<br /> Sympathetic autonomic function was evaluated by the sympathetic skin response, blood pressure response to<br /> *<br /> <br /> Bệnh viện Chuyên khoa Ngoại Thần kinh Quốc tế<br /> Tác giả liên lạc: BS. Võ Nguyễn Ngọc Trang<br /> ĐT: 0919900541<br /> <br /> Thần Kinh<br /> <br /> Email: vnntrang309@yahoo.com<br /> <br /> 271<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> standing, blood pressure response to isometric exercise (sustained handgrip) and cold pressor test.<br /> Results: Abnormal autonomic function tests were found in the range of 8.3% – 55%, the highest frequency<br /> of abnormality was observed in blood pressure response to isometric exercise. 54.7% of the Parkinson’s disease<br /> patients showed dysfunction of both sympathetic and parasympathetic system. There was mild dysautonomia in<br /> Parkinson’s disease, abnormalities of less than 2 tests were found in 63.4%. The severity of autonomic dysfunction<br /> showed significant correlation with Hoen & Yahr stage (p = 0.001) and part III of UPDRS (Pearson’s correlation<br /> coefficient = 0.537, p < 0.001).<br /> Conclusions: The results of this study showed mild abnormalities of both sympathetic and parasympathetic<br /> function in patients with Parkinson’s disease. Autonomic dysfunction increased in severity with disease<br /> progression.<br /> Key words: Parkinson’s disease, autonomic function test, sympathetic function, parasympathetic function.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br /> <br /> Bệnh Parkinson là một bệnh thoái hóa thần<br /> kinh và triệu chứng thần kinh tự chủ rất thường<br /> gặp trong bệnh này, ảnh hưởng đến chất lượng<br /> cuộc sống người bệnh(1). Trong giai đoạn sớm,<br /> rối loạn thần kinh tự chủ thường không có triệu<br /> chứng và có thể phát hiện được bằng các test<br /> khảo sát(8). Khảo sát chức năng thần kinh tự chủ<br /> là một phương pháp không xâm lấn, có thể đánh<br /> giá độ nặng và đặc điểm rối loạn thần kinh tự<br /> chủ. Hơn nữa, các test thần kinh tự chủ có đủ độ<br /> nhạy trong việc phát hiện các bất thường trước<br /> khi triệu chứng lâm sàng xuất hiện(11).<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> <br /> Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu khảo<br /> sát các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ<br /> trên bệnh nhân Parkinson. Tuy nhiên, cho tới<br /> nay tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu đi sâu vào<br /> nhóm bệnh Parkinson, cũng như chưa thấy có<br /> công trình nghiên cứu nào đề cập đến các test<br /> đánh giá thần kinh tự chủ trên tất cả các loại<br /> bệnh lý thần kinh nói chung, cũng như trong<br /> bệnh Parkinson. Do vậy, chúng tôi đã tiến hành<br /> nghiên cứu này.<br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu<br /> - Xác định tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn<br /> thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân<br /> Parkinson dựa trên các test.<br /> - Quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn<br /> thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh<br /> Parkinson.<br /> <br /> 272<br /> <br /> Bệnh nhân Parkinson điều trị nội trú và<br /> ngoại trú tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại<br /> Thần Kinh Quốc Tế, được chẩn đoán bệnh<br /> Parkinson trên lâm sàng bằng tiêu chuẩn chẩn<br /> đoán Ngân Hàng Não của Hội bệnh Parkinson<br /> Anh Quốc. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: hội<br /> chứng Parkinson thứ phát (do thuốc, độc chất,<br /> bệnh nhiễm, bệnh chuyển hóa, bệnh mạch<br /> máu não), hội chứng Parkinson trong các bệnh<br /> thoái hóa (teo đa hệ thống, liệt trên nhân tiến<br /> triển, sa sút trí tuệ thể Lewy, thoái hóa vỏ não<br /> – hạch nền), có bệnh lý tim mạch kèm theo<br /> (suy tim, loạn nhịp tim, đặt máy tạo nhịp tim),<br /> đang sử dụng các thuốc có thể ảnh hưởng đến<br /> tần số tim (nhóm Digitalis, các thuốc chống<br /> loạn nhịp tim, thuốc kháng cholinergic, thuốc<br /> ức chế thụ thể beta).<br /> Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ của<br /> dân số, với biến số quan tâm chủ yếu là tỷ lệ rối<br /> loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson dựa<br /> trên các test khảo sát.<br /> <br /> n<br /> <br /> Z12 / 2 p(1  p)<br /> d2<br /> <br /> Trong đó: α = 0,05 (sai lầm loại 1); Z(0,975) = 1,96; p =<br /> 0,81; d = 0,1 (sai số cho phép).<br /> <br /> Áp dụng vào công thức, chúng tôi tính được<br /> cỡ mẫu tối thiểu là 60 bệnh nhân.<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Nghiên cứu cắt ngang mô tả, với các biến<br /> độc lập là các đặc điểm mẫu nghiên cứu, đặc<br /> điểm bệnh Parkinson (triệu chứng lâm sàng và<br /> mức độ nặng của bệnh), biến phụ thuộc là mức<br /> độ tổn thương chức năng thần kinh tự chủ.<br /> Thu thập và xử lý số liệu nghiên cứu bằng<br /> phần mềm SPSS 20.0. Sự tương quan giữa các<br /> biến số nếu có được khảo sát bằng phép kiểm chi<br /> bình phương và phép kiểm chính xác Fisher cho<br /> các biến định tính; phép kiểm t-student và hồi<br /> qui tuyến tính cho các biến định lượng. Về hệ số<br /> tương quan Pearson: |r| > 0,9: mức tương quan<br /> gần như hoàn toàn; 0,7 – 0,9: rất cao; 0,5 – 0,7:<br /> cao/ chặt chẽ; 0,3 – 0,5: trung bình; 0,1 – 0,3: thấp;<br /> < 0,1: không đáng kể(3).<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu<br /> Tổng số có 60 bệnh nhân Parkinson thỏa tiêu<br /> chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu từ 92013 đến 6-2014. Tỷ lệ nữ: nam = 1,14: 1 (p > 0,05).<br /> Tuổi khởi bệnh Parkinson trung bình là 56,8 ± 10,<br /> thường gặp nhất ở độ tuổi 50 – 60.<br /> Lý do chính làm bệnh nhân đến khám hoặc<br /> nhập viện nhiều nhất là run, chiếm 66,7%, kế<br /> đến là cử động chậm và đi dễ ngã. Có 5% đến<br /> khám vì các lý do khác như đau khớp, tê hoặc<br /> yếu tay chân. Tất cả bệnh nhân đều có triệu<br /> chứng cử động chậm (100%), có 16 trường hợp<br /> biểu hiện mất ổn định tư thế, chiếm 26,7%. Phân<br /> độ Hoehn & Yahr sửa đổi trung bình là 2,1 ± 0,9,<br /> thường gặp nhất là bệnh nhân ở giai đoạn 1.<br /> Điểm UPDRS phần III trung bình là 17,7 ± 8,6.<br /> Triệu chứng rối loạn thần kinh tự chủ trên<br /> lâm sàng thường gặp nhất là táo bón, chiếm 35%,<br /> kế đến là triệu chứng của hạ huyết áp tư thế,<br /> chiếm 25%. Có 20% biểu hiện triệu chứng rối<br /> loạn đi tiểu, bao gồm tiểu gấp, tiểu không hết,<br /> <br /> Thần Kinh<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> tiểu lắt nhắt, tiểu đêm; có 2 trường hợp tiểu<br /> không kiểm soát.<br /> <br /> Tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương<br /> thần kinh tự chủ<br /> Bảng 1: Phân bố theo đặc điểm bất thường test thần<br /> kinh tự chủ<br /> Đặc điểm bất thường<br /> Giao cảm<br /> Đối giao cảm<br /> Giao cảm và đối giao cảm<br /> <br /> Tần số<br /> 22<br /> 2<br /> 29<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> 41,5%<br /> 3,8%<br /> 54,7%<br /> <br /> Nhận xét: bất thường chủ yếu ảnh hưởng<br /> trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm (53,8%).<br /> Bảng 2: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ dựa trên<br /> các test<br /> Test khảo sát<br /> Chỉ số 30:15<br /> Biến thiên huyết áp theo tư thế<br /> Biến thiên nhịp tim theo hít thở sâu<br /> Vận động thể lực đẳng trường<br /> Kích thích lạnh<br /> Ghi đáp ứng giao cảm da<br /> <br /> Tần số<br /> 18<br /> 5<br /> 20<br /> 33<br /> 32<br /> 18<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> 30%<br /> 8,3%<br /> 33,3%<br /> 55%<br /> 53,3%<br /> 30%<br /> <br /> Nhận xét: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ<br /> thay đổi tùy theo các test. Tỷ lệ bất thường cao<br /> nhất là ở test biến thiên huyết áp khi vận động<br /> thể lực đẳng trường (55%).<br /> Bảng 3: Phân loại mức độ tổn thương thần kinh tự<br /> chủ<br /> Số test bất thường<br /> <br /> Tần số<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> <br /> 0 test<br /> <br /> 7<br /> <br /> 11,7%<br /> <br /> 1 test<br /> <br /> 18<br /> <br /> 30%<br /> <br /> 2 test<br /> <br /> 13<br /> <br /> 21,7%<br /> <br /> 3 test<br /> <br /> 12<br /> <br /> 20%<br /> <br /> 4 test<br /> <br /> 7<br /> <br /> 11,7%<br /> <br /> 5 test<br /> <br /> 3<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 6 test<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0%<br /> <br /> Nhận xét: Tỷ lệ cao nhất là bất thường chỉ ở 1<br /> test, 18 trường hợp, chiếm 30%. 63,4% bất<br /> thường từ 2 test trở xuống.<br /> <br /> 273<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> <br /> Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson<br /> <br /> Biểu đồ 1: Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi theo nhóm<br /> nghĩa so với nhóm giai đoạn sớm (thang điểm<br /> Nhận xét: Nhóm giai đoạn muộn (thang<br /> Hoehn & Yahr sửa đồi < 2) (p = 0,001).<br /> điểm Hoehn & Yahr sửa đồi ≥ 2) có mức độ tổn<br /> thương thần kinh tự chủ trung bình cao hơn có ý<br /> <br /> Biểu đồ 2: Biểu đồ phân tán (scatter plot) biểu hiện mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và<br /> điểm UPDRS phần III (vận động)<br /> <br /> 274<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br /> Nhận xét: Quan sát thấy có mối liên quan<br /> giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và<br /> mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS<br /> phần III, với hệ số tương quan Pearson r = 0,537<br /> (mức độ tương quan cao) (p < 0,001).<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu<br /> Chúng tôi nghiên cứu 60 trường hợp<br /> Parkinson, nam chiếm 46,7% , nữ chiếm 53,3%,<br /> tỷ lệ nữ: nam là 1,14: 1, sự khác biệt về số người<br /> mắc bệnh giữa giới nam và giới nữ không có ý<br /> nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuổi khởi bệnh trung<br /> bình là 56,8 ± 10. Như vậy, nghiên cứu của chúng<br /> tôi tương đối phù hợp với y văn, bệnh Parkinson<br /> thường khởi phát ở độ tuổi 50 – 60, những<br /> trường hợp dưới 50 tuổi chỉ chiếm khoảng 4%.<br /> Tại Mỹ tuổi khởi bệnh trung bình là 58 – 60 tuổi,<br /> cho nên bệnh Parkinson được xem là bệnh của<br /> người già(17).<br /> Qua hỏi bệnh sử và tiền căn 60 trường hợp,<br /> chúng tôi tìm thấy triệu chứng rối loạn thần kinh<br /> tự chủ trên lâm sàng thường gặp nhất là táo bón,<br /> chiếm 35%, kế đến là triệu chứng của hạ huyết<br /> áp tư thế, chiếm 25%. Có 20% biểu hiện triệu<br /> chứng rối loạn đi tiểu, bao gồm tiểu gấp, tiểu<br /> không hết, tiểu nhiều lần, tiểu đêm; trong đó 2<br /> trường hợp tiểu không kiểm soát. Tần suất các<br /> triệu chứng tổn thương thần kinh tự chủ của<br /> chúng tôi thấp hơn so với các tác giả trên thế<br /> giới, có thể do cỡ mẫu của chúng tôi còn hạn chế<br /> và chúng tôi không sử dụng bảng câu hỏi hoặc<br /> thang điểm đánh giá (SCOPA-AUT - thang điểm<br /> đánh giá rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh<br /> Parkinson). Tuy nhiên, chúng tôi và các tác giả<br /> đều tìm thấy sự giống nhau ở thứ tự thường gặp<br /> của các triệu chứng rối loạn thần kinh tự chủ<br /> trong bệnh Parkinson, với 3 triệu chứng thường<br /> gặp nhất là: táo bón, rối loạn đi tiểu và cảm giác<br /> choáng váng khi thay đổi tư thế(1,14).<br /> <br /> Tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương<br /> thần kinh tự chủ<br /> Tại Việt Nam, Lê Văn Bổn đã nghiên cứu<br /> <br /> Thần Kinh<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> biến chứng thần kinh tự chủ bằng các test trên<br /> bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Tuy nhiên<br /> nghiên cứu này chỉ khảo sát các test đánh giá<br /> chức năng thần kinh tự chủ tim mạch, gồm biến<br /> thiên nhịp tim với các kích thích khác nhau và<br /> biến thiên huyết áp từ nằm sang đứng(2). Ở đây,<br /> ngoài các test về thần kinh tự chủ của tim mạch,<br /> chúng tôi còn khảo sát thêm các test đánh giá<br /> chức năng hệ giao cảm, bao gồm: test ghi đáp<br /> ứng giao cảm da, test thay đổi huyết áp khi vận<br /> động thể lực đẳng trường và khi kích thích lạnh.<br /> Tại phòng điện cơ của bệnh viện chúng tôi, có<br /> thể thực hiện được gần đầy đủ các test khảo sát<br /> chức năng thần kinh tự chủ, tương tự như ở các<br /> phòng điện cơ tại các nước tiên tiến(9,8). Tuy<br /> nhiên, chúng tôi không có đủ phương tiện để<br /> thực hiện một số test chuyên biệt như: test mồ<br /> hôi điều nhiệt (Thermoregulatory sweat test),<br /> test phản xạ sợi trục tiết mồ hôi định tính<br /> (Quantitative sudomotor axon reflex test –<br /> QSART) và test cảm giác định lượng<br /> (Quantitative sensory test – QST). Chúng tôi<br /> không thực hiện nghiệm pháp Valsalva, vì có<br /> nguy cơ rối loạn huyết động học, gây choáng,<br /> ngất hoặc rối loạn nhịp, đặc biệt là trên nhóm đối<br /> tượng đã có bệnh lý về tim mạch, dù các biến<br /> chứng này rất hiếm gặp(13).<br /> Trong các trường hợp test thần kinh tự chủ<br /> bất thường, có 54,7% ảnh hưởng trên cả hệ giao<br /> cảm và đối giao cảm. Kết quả này phù hợp với<br /> nhiều nghiên cứu đã được báo cáo, bệnh<br /> Parkinson gây tổn thương thần kinh tự chủ trên<br /> cả hệ giao cảm và đối giao cảm(6). Có 6 test thần<br /> kinh tự chủ được thực hiện, và kết quả cho thấy,<br /> tỷ lệ bất thường thay đổi trong khoảng 8,3 – 55%<br /> tùy theo các test, tỷ lệ bất thường cao nhất là ở<br /> test biến thiên huyết áp khi vận động thể lực<br /> đẳng trường (55%).<br /> Có nhiều bảng phân loại mức độ nặng dựa<br /> trên các test đánh giá chức năng thần kinh tự<br /> chủ. Trong đó, sử dụng phổ biến nhất hiện nay<br /> là bảng phân loại của tác giả Ewing. Tác giả khảo<br /> sát 5 test, bao gồm: 3 test khảo sát biến thiên nhịp<br /> tim (theo tư thế, hít thở sâu, Valsalva) và 2 test<br /> <br /> 275<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
24=>0