intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo nguồn nhân lực để ngành dệt may Việt Nam đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam đã là thành viên của WTO

Chia sẻ: PHAN VŨ NGUYÊN TRÀ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

129
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngành Dệt May hiện nay thu hút gần 2 triệu lao động. Để đáp ứng với mục tiêu phát triển của ngành, đến 2010 số lao động này sẽ tăng lên 2,5 triệu, và dự kiến đạt 3 triệu vào năm 2020. Trong khi đó hiện tại lao động ngành Dệt May đang rất thiếu và yếu cả lao động trực tiếp, quản lý, kinh doanh và chuyên môn nghiệp vụ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo nguồn nhân lực để ngành dệt may Việt Nam đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam đã là thành viên của WTO

  1. ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐỦ SỨC CẠNH TRANH KHI VIỆT NAM ĐÃ LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO AS A MEMBER OF THE WTO VIETNAM SHOULD TRAIN HUMAIN RESOURCES TO CREATE THE COMPETING ADVANTAGES FOR THE TEXTILE & GARMENT INDUSTRY NGUYỄN THỊ BÍCH THU Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Ngành Dệt May hiện nay thu hút gần 2 triệu lao động. Để đáp ứng với mục tiêu phát triển của ngành, đến 2010 số lao động này sẽ tăng lên 2,5 triệu, và dự kiến đạt 3 triệu vào năm 2020. Trong khi đó hiện tại lao động ngành Dệt May đang rất thiếu và yếu cả lao động trực tiếp, quản lý, kinh doanh và chuyên môn nghiệp vụ. Nếu không nhanh chóng giải bài toán nguồn nhân lực thì khả năng cạnh tranh của ngành khi Việt Nam đã gia nhập WTO sẽ không thể đảm bảo được. Ngành Dệt May cần đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng với yêu cầu của ngành trong giai đoạn mới. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may sẽ cân nhắc các đặc điểm của ngành và của người lao động để dễ dàng tiếp cận và có được hiệu quả đào tạo cao. ABSTRACT Textile and Garment Industry attracts about two millions labours today. In order to meet the demand of industry’s development in the period of international integration, therequirement is that the number of labors will increase by 2,5 millions in 2010 and expected to obtain 3 millions in 2020. This industry is actually in lack of labor. Moreover, the labour force is still weak not only at professional level but also at management one. If we do not solve this problem rapidly, it will be hard to compete and win on the market. So, it is really necessary for the industry to train human resource for a new period. Training human resource aims to meet this demand but it will have to be in accordance with the characteristic of labour. This training will require the harmony between characteristics of the industry and labour to bring about a better effect in these companies. 1. Đặc điểm chung của ngành Dệt May Việt nam Ngành Dệt May hiện nay được coi là ngành kinh tế chủ chốt, thu hút một lượng lớn   lực lượng lao động trong xã hội, là ngành có doanh thu xuất khẩu đứng thứ hai chỉ sau dầu   thô. Ngành Dệt May vừa góp phần tăng tích lũy tư bản cho quá trình CNH, HĐH nền kinh   tế của đất nước vừa tạo cơ hội cho Việt Nam hòa nhập kinh tế  với khu vực và thế  giới.   Xét từ  góc độ  thương mại quốc tế, dệt may được đánh giá là ngành mà Việt Nam có lợi  thế so sánh do tận dụng được nguồn nhân công rẻ và có tay nghề. Tuy nhiên, hiện nay sản   phẩm may xuất khẩu của Việt nam có đến gần 70% được xuất theo hình thức gia công và   30% theo hình thức bán gia công.3 Năm 2005, mặc dù là năm khó khăn nhưng xuất khẩu của dệt may Việt Nam   vẫn đạt 4,8 tỷ USD, và năm 2006 là năm thể hiện sự phát triển vượt bậc của xuất   khẩu dệt may­ Kim ngạch xuất khẩu đạt 5,8 tỷ  USD trong đó xuất khẩu vào thị  trường Mỹ là 3,1 tỷ USD, thị trường EU là 1,2 tỷ USD và thị trường Nhật gần 640 
  2. triệu USD. Các chuyên gia đều dự báo là dệt may Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng  tốt trong thời gian tới. Năm 2007 ngành Dệt May đặt mục tiêu là xuất khẩu 7 tỷ  USD.4 5000 4500 4000 3500 Tổng GT 3000 Nhật 2500 EU 2000 Mỹ 1500 TT khác 1000 500 0 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Xuất khẩu của ngành Dệt May (Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê) Trong qui hoạch  phát  triển  ngành  Dệt  May Việt  Nam  đến  năm 2015 ­ tầm  nhìn  2020, mục tiêu đặt ra cho toàn ngành là phải đảm bảo nhu cầu của hơn  100 triệu dân vào  năm 2010. Toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân trên 14 % / năm. Về  công nghệ  đến  năm 2010 toàn ngành sẽ  đạt mức tiên tiến trong khu vực, tương đương với Hồng Kông,   Thái Lan hiện nay.3  2. Đặc điểm của nguồn nhân lực ngành Dệt May Lao động của ngành Dệt May Việt Nam không tập trung, do có hơn 70% các doanh  nghiệp Dệt May là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có số  lao động dưới 300 người. Gần 20%   doanh nghiệp có số lao động trên 300 người và dưới 1000 người, số doanh nghiệp từ 1000  người trở lên chỉ có 6%. Với độ phân tán như vậy, nếu không liên kết lại thì hoạt động đào  tạo sẽ khó triển khai hiệu quả.
  3. Lao động theo loại hình DN 700000 100% NN 600000 LD khac 500000 400000 Ngoài QD 300000 200000 Nhà nước ĐP 100000 Nhà nước TW 0 Nam Nam Nam Nam Nam Tổng chung 2000 2001 2002 2003 2004 toàn quốc (Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê) Lao động trong ngành Dệt May hiện nay tăng nhanh và tập trung chủ yếu trong các  doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hai loại  hình   doanh  nghiệp   này   hiện  nay   đang   thu   hút   2/3  lao   động  của   toàn   ngành  Dệt   May.  Thường đa số các doanh nghiệp này hiện nay lại có khuynh hướng đầu tư cho việc thu hút  lao động, chứ không có khuynh hướng đầu tư mạnh cho hoạt động đào tạo. Do yêu cầu về lao động của ngành Dệt May tăng rất nhanh nên khả  năng đáp ứng  của cơ sở đào tạo không theo kịp. Dẫn đến tính trạng tranh giành lao động giữa các doanh   nghiệp trong ngành tăng lên đã đến mức báo động. Khi tình trạng đó xảy ra, các doanh   nghiệp ngại đào tạo người lao động vì khả năng họ rời bỏ công ty sau khi được đào tạo là   quá lớn. Doanh nghiệp không đào tạo, nhân viên cảm thấy không thỏa mãn nhu cầu được  học tập của mình lại muốn ra đi tìm nơi khác nhiều hơn. Bảng 3. Tỷ lệ biến động lao động trong ngành Dệt May 2002 2003 2004 Tổng số lao động 496154 589246 652689 Tuyển mới trong năm 202671 41% 209514 36% 229168 35% Giảm trong năm 88828 18% 107858 18% 175851 27% (Tổng hợp từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê) Tỷ lệ biến động lao động cao nhất thuộc các doanh nghiệp liên doanh, sau đó đến  doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bảng 4. Tăng giảm lao động theo loại hình doanh nghiệp 2004  Lao  Tuyển mới (TM) Lao động giảm Lao  động  động  cuối  đầu  năm Loại hình doanh  năm (LĐCN) nghiệp     Tổng số TM/LĐCN Tổng số giảm/LĐCN DN Nhà nước  TW 93285 93462 20899 22% 20722 22%
  4. DN Nhà nước địa  phương 54393 54020 10371 19% 10744 20% Ngoài quốc  doanh 244530 266535 90747 34% 69517 26% 100% vốn nước  ngoài 179859 211382 97175 46% 65652 31% Liên doanh khác 26530 27290 9976 37% 9216 34% (Tổng hợp từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê) Theo tỷ lệ định chuẩn của ngành Dệt May, tỷ lệ lao động gián tiếp trên tổng số lao   động yêu cầu khoảng 10%. Trong khi đó theo số liệu thống kê cho thấy lao động có trình   độ  cao đẳng trở  lên trong ngành mới chỉ  có tỷ  lệ  dao động từ  3,5% đến 3,9%. Điều đó  cảnh báo trình độ của cán bộ quản lý ngành Dệt May Việt Nam chưa cao.  Theo đánh giá chung, cán bộ  thiết kế  mẫu mốt, cán bộ  marketing trong các doanh  nghiệp dệt may đang rất thiếu và yếu, đặc biệt trong lĩnh vực sử dụng internet để  tạo lợi   thế  trong tiếp cận khách hàng  ở  các nước và marketing cho công ty và sản phẩm. Công  nhân trong ngành dệt may không có tay nghề còn cao (20,4%) nên năng suất lao động thấp,  chẳng hạn cùng một ca làm việc ­ năng suất lao động bình quân của một lao động ngành  may Việt Nam chỉ  đạt 12 áo sơ  mi ngắn tay hoặc 10 quần thì một lao động Hồng Kông  năng suất lao động là 30 áo hoặc 15 ­ 20 quần.[5] Công nhân dệt may nói chung tuổi đời còn trẻ, tỷ lệ độc thân là khá cao.  Lao động  trong ngành dệt may chủ yếu là lao động di cư  từ  các vùng khác đến và đa phần trong số  họ phải sống nhờ ở nhà người quen hoặc tự thuê nhà để ở. Công nhân dệt may có trình độ  học vấn khá cao, phần lớn công nhân dệt may xuất thân từ  các hộ  làm nông nghiệp. Do   thiếu hụt lao động trầm trọng trong ngành nên công nhân dệt may hiện tại phải làm việc   với thời gian dài, kiệt sức và không còn thời gian và sức lực để  tụ  tập vui với bạn bè, tìm  bạn trai hoặc mở rộng quan hệ xã hội, phải làm việc muộn đến khuya [6]. Theo qui hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 ­ tầm nhìn 2020,  năm 2010 ngành sẽ  thu hút  2,5 triệu lao động và đến năm 2020 là 3 triệu lao động. Như  vậy bình quân hàng năm ngành dệt may cần thêm khoảng 160 ngàn lao động chưa kể phải  bổ sung cho số lao động đến tuổi nghỉ hưu và rời bỏ ngành. Thêm nữa, Việt Nam gia nhập   WTO, để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, ngành Dệt May đang cần nhanh  chóng đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có của ngành. Đây thực sự là một áp lực rất lớn cho   hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt May nói chung và các doanh nghiệp Dệt  May nói riêng. 3. Phương hướng cho đào tạo nguồn nhân lực của dệt may Việt Nam đáp  ứng yêu   cầu của ngành và đặc điểm của người lao động Cần thống nhất trong toàn ngành quan điểm đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt   May là: 1. Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển   của các doanh nghiệp dệt may cũng như của ngành dệt may. Đào tạo giữ vị trí ảnh hưởng   quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực; 2. Nguồn nhân lực là một trong những nguồn  
  5. lực quan trọng nhất tạo nên sự  phát triển của kinh tế  xã hội cũng như  của một doanh  nghiệp. Doanh nghiệp dệt may Việt Nam có cạnh tranh được trên thương trường hay  không, có đảm đương được nhiệm vụ  là ngành công nghiệp mũi nhọn hay không là phụ  thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực; 3. Đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt  May cần gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, của ngành, gắn với tiến bộ  của khoa   học ­ công nghệ; 4. Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May là công việc chung của   chính quyền, của các cơ  sở  đào tạo, của doanh nghiệp và của chính bản thân người lao  động: 4. Trên cơ sở thống nhất quan điểm các hoạt động triển khai thực hiện như  sau Các hoạt động cần hướng đến tạo mối liên kết bền vững giữa doanh nghiệp và cơ  sở  đào tạo theo nguyên tắc: cở  sở  đào tạo có được hoạt động đào tạo bền vững, doanh  nghiệp có hoạt động kinh doanh bền vững nhờ có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, người   lao động thoả  mãn nên gắn bó lâu dài với nghề  và xã hội có được sự   ổn định. Để  làm   được điều đó:  ­ Các doanh nghiệp cần rà soát và đánh giá lại hoạt động của bộ  phận đào tạo   nguồn nhân lực, đánh giá lại năng lực của cán bộ làm công tác đào tạo của doanh nghiệp.   Tiến hành đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ  phụ  trách hoạt động đào tạo theo những lý   thuyết mới của quản trị nguồn nhân lực. Giai đoạn này vai trò của hiệp hội Dệt May Việt  Nam là rất quan trọng trong tập hợp thông tin đào tạo và làm cầu nối giữa cơ sở đào tạo và   các doanh nghiệp để  mở  được các lớp huấn luyện cho cán bộ  làm công tác đào tạo thật  hiệu quả. ­ Từng doanh nghiệp Dệt May chủ  động xây dựng kế  hoạch đào tạo. Các doanh   nghiệp trên cơ sở xem xét chỉ tiêu sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư của doanh nghiệp   trong thời gian sắp tới, kế hoạch mở rộng thị trường và tình hình tài chính của công ty, bộ  phận phụ trách đào tạo của phòng tổ chức sẽ lập kế hoạch đào tạo theo các bước:  1. Dự  báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của doanh nghiệp, dự  báo cần cụ  thể  cho công nhân dệt may trực tiếp, công nhân phục vụ và cán bộ quản lý các lĩnh vực;  2. Xác định kế  hoạch đào tạo bao gồm lựa chọn đối tượng đào tạo, hình thức,  phương pháp và cơ sở đào tạo nhằm: Khắc phục những yếu kém do quá khứ  để  lại; Đào  tạo về  năng lực quản lý, bồi dưỡng về  tư  tưởng nhận thức cho đội ngũ cán bộ  quản lý,   đảm bảo đủ khả năng cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt nam đã gia nhập WTO, nâng cao trình   độ chuyên môn và tin học để đáp ứng xu thế mở cửa hội nhập với bên ngoài. Đối với công   nhân trực tiếp sản xuất xác định xóa bỏ  công nhân tay nghề  bậc 1, tăng số  lượng công   nhân tay nghề bậc cao tối thiểu công nhân bậc 4 trở lên phải chiếm 20%, tăng gấp rưỡi so   với hiện nay; công nhân bậc 3 chiếm 30­35%.  3. Tổ  chức thực hiện. Hướng đến nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao   động, đào tạo có thể  di chuyển về  các vùng nông thôn người lao động di cư  có những  khoảng thời gian được ở gần nhà, giải toả tinh thần để sau đó họ có thể làm việc tốt hơn 
  6. nữa. Ngoài ra tăng cường sử  dụng phương tiện nghe nhìn trong đào tạo để  sử  dụng thời   gian công nhân nghỉ giải lao tạo sự học tập không chủ định. Đối với cán bộ quản lý doanh  nghiệp đưa đi đào tạo  ở các trường lớp chính qui theo thời gian của các trường, tạo điều   kiện về thời gian để  cán bộ  đi học. Ngoài ra doanh nghiệp khuyến khích cán bộ tự  đi học  thêm ngoài giờ, nhất là ngoại ngữ và vi tính, có chế độ động viên khuyến khích hợp lý.  4. Cần dành nguồn kinh phí phù hợp cho đào tạo, xem xét chi phí đầu tư cho đào tạo  như  một khoản chi phí đầu tư, các doanh nghiệp cần qui định tỷ  lệ  phần trăm lợi nhuận   trích lại đầu tư  cho đào tạo giống như  đầu tư  xây dựng cơ  bản.Tăng cường hình thức   doanh nghiệp và người lao động cùng đào tạo. 5. Kiểm tra chất lượng đào tạo. Cần thường xuyên đánh giá, sử dụng hệ thống bản   hỏi, phỏng vấn... được xây dựng chuyên nghiệp để  đánh giá. Đánh giá nên tuân thủ  qui  trình đánh giá một dự án đầu tư. ­ Các doanh nghiệp thông tin rõ ràng cụ thể về các nhu cầu, mong muốn của doanh   nghiệp để cơ sở đào tạo có căn cứ điều chỉnh các chương trình đào tạo của mình phù hợp   với doanh nghiệp. Các cơ  sở đào tạo, phải tích cực, chủ động trong việc tiếp nhận thông  tin, tìm kiếm thông tin từ các doanh nghiệp về nhu cầu đào tạo và truyền thông cho doanh   nghiệp biết rõ về các chương trình đào tạo của mình. Hiệp hội Dệt May cần đóng vai trò   tập hợp thông tin và làm cầu nối nối thông tin giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. ­ Các cơ  sở  đào tạo xây dựng các chương trình đào tạo phù   hợp với doanh nghiệp và người học. Phương châm đào tạo là kết  hợp ngắn hạn với dài hạn, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở  nước ngoài, kết hợp đào tạo chính qui, tại chức, bằng 2... với các lớp  không chính qui như các lớp cập nhật lại, đào tạo lại, chuyên đề... ­ Ngoài ra cần có các chính sách hỗ trợ để kích thích công nhân tự nâng cao tay nghề  như Chế độ tiền lương, tiền thưởng vượt định mức phải thiết kế công bằng và hợp lý phù   hợp với sự đóng góp của công nhân viên. Các doanh nghiệp nghiên cứu đưa ra chính sách   lương khuyến khích lao động, để  kích thích mạnh mẽ  việc nâng cao chất lượng và năng   suất lao động của từng cá nhân. Các doanh nghiệp thiết lập một chính sách khen thưởng   mang tính chất động viên kích thích người lao động. được nguyên phụ  liệu, thời gian và   vẫn đáp ứng yêu cầu kỹ thuật... Nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển dụng đầu vào. ­ Đẩy mạnh hoạt động của Hiệp hội và các chi hội Dệt May, phòng thương mại và  các hiệp hội liên quan trong việclàm cầu nối giữa cơ  sở  đào tạo và doanh nghiệp, cũng   như  đóng vai trò giám sát các liên kết giữa doanh nghiệp và cơ  sở  đào tạo đảm bảo cho   tính bền vững của liên kết được giữa gìn. Kiến nghị với chính phủ đề ra các chính sách hỗ  trợ cho hoạt động đào tạo, đưa qui định tỷ lệ phần trăm tái đầu tư cho đào tạo.    TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. [1] Báo cáo đào tạo và phát triển, Dự án thí điểm Tái cơ cấu ba Tổng công ty Vinatex, Vinacafe   và Seaprodex, Tài trợ của Ngân hàng Thế giới, 2005. [2] Báo điện tử ­ Thời báo kinh tế Sài gòn, ngày 27­06­2006, ( http://www.vneconomy.com.vn),  Lao động ngành Dệt May: Thiếu về lượng, yếu về chất. [3] Bộ Công nghiệp, Tập đoàn Dệt May Việt Nam,  Quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt   Nam đến năm 2015 ­ tầm nhìn 2020, 2005. [4] Trần Vũ Nghi, Dệt may 2007: xuất khẩu 7 tỷ USD có khả thi? http://www.tuoitre.com.vn [5] ThS. Trần Thị Thuý Lan, Trường TH Thương mại và Du lịch Hà Nội,  Phát triển thị trường  hàng dệt may nội địa trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập   quốc tế, trang web của Bộ Thương mại. [6] UNDP, “Toàn cầu hóa, vấn đề  giới và việc làm trong nền kinh tế  chuyển đổi – Trường   hợp Việt Nam”, Văn kiện đối thoại chính sách của UNDP, số 2006/2.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1