DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ ĐINH HÙNG<br />
HỒ VĂN QUỐC<br />
Trường Đại học Dân lập Phú Xuân, Huế<br />
Tóm tắt: Thơ Đinh Hùng đã đi trọn hành trình thơ tượng trưng. Bằng cái<br />
nhìn “thấu thị” và tương ứng cảm quan, nhà thơ đã kiến tạo nên một thế giới<br />
thi ca dị biệt, kết liên đường dây giao cảm giữa con người và vũ trụ, thực tại<br />
và mộng ảo, hữu hạn và vô cùng, hiện tại và quá khứ... Tất cả phải hư lên vì<br />
thực. Để đạt được điều này, Đinh Hùng sáng tạo ra những biểu tượng tươi<br />
mới, độc đáo mang ý nghĩa tượng trưng cho cái Đẹp, Tình Yêu và Sự Sống<br />
bất tử ở cõi địa ngục và địa đàng. Bên cạnh đó, âm nhạc và ngôn ngữ tượng<br />
trưng cũng góp phần đưa thơ Đinh Hùng đạt đến tính chất của vô biên, đồng<br />
thời giúp người thơ tìm thấy bản lai diện mục của mình, tìm ra những hệ quả<br />
hiện thực đầy bí ẩn, tươi nguyên của thế giới và tâm hồn con người.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Bằng một cuộc cách mạng, Thơ mới (1932-1945) đã đi vào quỹ đạo hiện đại, làm thay<br />
đổi sắc diện cả một nền thơ ca truyền thống. Chưa bao giờ, người ta thấy nở rộ nhiều<br />
khuynh hướng, trường phái thơ như lúc này. Đặc biệt, từ sau năm 1936, khi “ảnh hưởng<br />
của thơ Pháp lại thấm thêm một tầng nữa” – “tầng” chủ nghĩa tượng trưng – Thơ mới<br />
càng chứng tỏ ưu thế của mình trong việc khám phá thế giới, cuộc sống và con người<br />
hiện đại ở một chiều kích mới: vô biên, bí ẩn, linh động và huyền nhiệm. Trong xu<br />
hướng đó, Thơ mới lại tiếp tục “trình chánh giữa làng thơ” một bản đại hoà tấu mang<br />
phong cách hiện đại. Trong đó, mỗi thi sĩ mang một chủ âm riêng: Xuân Diệu thiết tha<br />
với khúc hát yêu đương, ham sống đến cuồng nhiệt; Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên mê<br />
man với những thanh âm kinh dị mà có sức ám ảnh lạ thường; Bích Khê thắp sáng thế<br />
giới tâm linh bằng nhạc, lệ và hoa; Vũ Hoàng Chương ngả nghiêng trong men khói với<br />
“điệu kèn biếc quay cuồng”... Và trước lúc bản hoà tấu kết thúc, Đinh Hùng bỗng xuất<br />
hiện và ngân lên những giai điệu “man rợ”, “mê hồn” bởi một thế giới thi ca dị biệt<br />
được kiến tạo từ những giấc “chiêm bao thần bí” in đậm dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng.<br />
1. THƠ ĐINH HÙNG - CẤU TẠO BẰNG TÍNH CHẤT CỦA VÔ BIÊN<br />
Phải nói ngay rằng, các nhà thơ tượng trưng đã mở ra một cách nhìn mới về thế giới,<br />
đời sống và tâm hồn con người hiện đại. Họ không bằng lòng với cách phô diễn tình<br />
cảm lồ lộ, “dễ dãi như một kĩ nữ, ai ve vãn cũng được” của thơ lãng mạn mà chủ trương<br />
sáng tạo một lối thơ thuần khiết, ẩn chứa những rung động sâu xa của vô thức, tâm linh.<br />
Đồng thời, họ phản ứng với phái Thi sơn quá câu nệ hình thức, nặng tinh thần thực<br />
chứng mà bỏ qua những rung cảm tinh tế, bí ẩn của tâm hồn. Hơn nữa, các nhà thơ<br />
tượng trưng cũng không tán thành chủ nghĩa hiện thực, đặc biệt là chủ nghĩa tự nhiên<br />
trong việc ứng dụng phương pháp khoa học thực nghiệm vào sáng tác văn chương.<br />
Baudelaire tuyên bố: “Thơ ca là cái gì đó hiện thực hơn, cái gì đó chỉ hoàn toàn thật<br />
trong một thế giới khác”, còn J. Moréas trong Tuyên ngôn tượng trưng cho rằng: thơ<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 02(18)/2011: tr. 65-74<br />
<br />
66<br />
<br />
HỒ VĂN QUỐC<br />
<br />
ca tượng trưng biểu hiện trước hết “những tư tưởng nguyên uỷ”, nó là kẻ thù của “sự<br />
mô tả khách quan”. Chính lẽ đó, khám phá sự bí ẩn, tương hợp của thế giới và nội tâm<br />
con người trở thành mục đích và bản chất của thơ tượng trưng.<br />
Chẳng ai nói khác, thơ Đinh Hùng chịu ảnh hưởng rõ nét thơ ca tượng trưng Pháp. Ngay<br />
từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, Đinh Hùng đã tỏ ra say mê Baudelaire,<br />
Mallarmé, Verlaine và đặc biệt Rimbaud không chỉ ở thơ ca mà ngay cả trong lối sống.<br />
Chàng trai ấy sớm mang dòng máu “nổi loạn”, “suy đồi” của Rimbaud, lại thêm bị chấn<br />
thương tâm lý do ám ảnh bởi những cái chết dồn dập của người thân khiến nhà thơ cảm<br />
thấy cuộc đời trở nên u ám, vô thường, mong manh, dễ vỡ. Hơn nữa, thế giới thực tại<br />
mà thi nhân đang sống chất chứa đầy cạm bẫy với những quan hệ thực dụng, mọi giá trị<br />
tinh thần, đạo đức đang bị băng hoại. Thế nên, ông quyết rũ bỏ thực tại để dấn thân vào<br />
con đường đam mê, nổi loạn mong tìm thấy sự tự do tuyệt đối trong tinh thần ngay từ<br />
thời cắp sách đến trường: “Ta ném bút, dẫm lên sầu một buổi/ Xa vở bài, mở rộng sách<br />
ham mê/ Đã nhiều phen trèo cổng bỏ trường về / Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo<br />
mạn” (Khi mới nhớn). Trong bóng tối dày đặc của tương lai, trong nỗi đau ê chề của<br />
tuổi trẻ, Đinh Hùng đã ngoảnh mặt với đời, cho tâm linh trôi theo dòng mộng ảo đưa<br />
ông vượt thoát hiện thực đời thường đến những miền xa thẳm, tươi nguyên, bí ẩn “mà ta<br />
mến yêu và chưa hề biết đến bao giờ” (Baudelaire) đó là thuở hồng hoang, huyền sử; là<br />
chốn địa ngục, địa đàng làm cho tất cả phải hư lên vì sự thật. Do đó, khám phá thi giới<br />
Đinh Hùng, độc giả sẽ được phiêu du vào một thế giới huyền ảo, hư cấu đầy tinh thần<br />
sáng tạo bởi cái nhìn “thấu thị” của nhà thơ.<br />
Phủ nhận thực tại, Đinh Hùng quay về thời nguyên thuỷ, thuở hồng hoang của loài<br />
người, nơi ngự trị của vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, cổ sơ với những “loài hoang thảo”,<br />
“hoa man dại”, “dòng suối ngọt”, “bóng non xanh”; nơi con người giao hoà cùng vũ trụ,<br />
nơi cái tôi hoà vào cái ta, ý thức dị biệt, đối kháng chưa hình thành; nơi con người sống<br />
hoà đồng, bình đẳng với cỏ cây, muôn thú: “Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ / Ta nằm<br />
trên cỏ lắng tai nghe... / Thèm ăn một chút hoa man dại/ Và ngủ như loài muông thú<br />
kia” (Những hướng sao rơi). Đi về “những hướng sao rơi” là cách thi nhân chối bỏ<br />
cuộc sống văn minh đô thị chất chứa đầy bất trắc, biến thiên và làm cho con người tha<br />
hoá, thậm chí “lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà”. Cho nên, khi phải đối mặt với thực<br />
tế đầy rẫy cạm bẫy đó, Đinh Hùng vỡ mộng, đau khổ, hoảng loạn. Nhà thơ chỉ còn cách<br />
tạo ra một thực tại ảo để lẫn trốn sự chống đối, đó là chốn địa đàng nhưng không có<br />
“trái cấm” làm nơi trú ngụ cho “đôi người cô độc thuở sơ khai”. Chính tại đây, người<br />
thơ đã dệt nên “mối kỳ tình” với Người gái thiên nhiên. Nàng là hiện thân của vẻ đẹp<br />
trinh nguyên, hoang dã:<br />
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ,<br />
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh.<br />
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ,<br />
Nàng yêu ta huyền hoặc mối kỳ tình.<br />
(Người gái thiên nhiên)<br />
<br />
DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ ĐINH HÙNG<br />
<br />
67<br />
<br />
Tình yêu trong đời thực dù đắm say, mãnh liệt đến đâu cũng bị rào cản của giới hạn<br />
trong đó cản trở lớn nhất là sự hữu hạn của đời người. Đinh Hùng đã chứng nghiệm và<br />
thấm thía điều đó từ cái chết của “người đẹp ngày xưa tên giống hoa”: Liên - một loài<br />
hoa mùa hạ. Nàng là mối tình đầu cuồng si, diễm lệ của nhà thơ. Nàng chợt đến rồi ra đi<br />
như hư ảnh để suốt đời thi nhân cứ mãi kiếm tìm. Chính vì không thoả mãn khát vọng<br />
yêu đương trong kiếp nhân sinh, Đinh Hùng đã dồn tất cả đam mê, cuồng vọng vào<br />
trong một tình yêu hư cấu, hòng giải phóng con người thoát khỏi những mối dây ràng rịt<br />
cũng như bản thể con người. Và chỉ với tình yêu ấy, nhà thơ mới đi đến tận cùng miền<br />
hoan lạc, cõi vĩnh hằng của tinh thần và tình yêu bất tử:<br />
Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc,<br />
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da.<br />
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa,<br />
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết.<br />
(Kỳ nữ)<br />
Đứng trước vẻ đẹp hoang dã và trinh khiết của người con gái mà nhà thơ xưng tụng là<br />
Người gái thiên nhiên, Kỳ nữ, Gái – Muôn - Đời... trái tim Đinh Hùng luôn bị cám dỗ,<br />
mê hoặc. Thi nhân đặt họ lên “ngai thờ Nữ Sắc” với tấm lòng sùng kính như con chiên<br />
ngoan đạo đứng trước Chúa Giêsu. Tuy nhiên, “người ta thấy bất kỳ một tình cảm mãnh<br />
liệt nào cũng đều xuất phát từ một gốc rễ của một tình cảm đối lập. Một tình yêu cuồng<br />
nhiệt bao giờ cũng đi kèm với oán hờn căm giận” [3, tr. 172]: “Lòng tín ngưỡng cả mùi<br />
hương phản trắc” (Hương trinh bạch), “Cây từ bi hiện đoá Ác hoa đầu” (Tìm bóng tử<br />
thần), “Tất cả em đều bắt ta khổ não / Và oán hờn căm giận tới đau thương / Và yêu<br />
say, mê mệt tới hung cuồng / Và khát vọng đến vô tình vô giác” (Kỳ nữ). Ở đây, tác giả<br />
Mê hồn ca đã gặp gỡ tác giả Những bông hoa Ác trong quan niệm nhị nguyên về cái<br />
thiện và cái ác, cao cả và thấp hèn... Đinh Hùng đi vào khám phá vẻ đẹp hai mặt ở con<br />
người và dù ở mặt nào thiên thần hay ác quỹ, thi sĩ cũng đẩy đến tuyệt đỉnh trong sự<br />
mách bảo của vô thức, bản năng.<br />
Phải nói rằng lầu thơ Đinh Hùng không xây trên mảnh đất trần gian mà “kiến trúc” từ<br />
những giấc “chiêm bao thần bí” tạo nên một thế giới siêu hiện thực. Ở đó, cái thực hoà<br />
vào cái ảo: “Ngày xưa Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính... vẽ mộng để tô điểm thực<br />
tại, làm cho thực tại thơ mộng hơn; trái lại Đinh Hùng vẽ sự thật lên mộng, để mộng có<br />
vẻ gần thực tại hơn” [4, tr. 399]. Từ những nỗi khổ đau rất thật về cuộc đời và thân phận<br />
con người, Đinh Hùng đã đi tìm sự giải thoát cho kiếp người ở những miền ngoài cõi<br />
nhân gian: chốn địa đàng và địa ngục - một thế giới ảo – nơi không còn có tử biệt sinh<br />
ly, nơi mà Đinh Hùng sẽ gặp lại người con gái ngày xưa:<br />
Trời ơi! đây nguyệt vô biên<br />
Trong lòng người đẹp nằm quên dưới mồ!<br />
Ta cười suốt một trang thơ,<br />
Gặp hồn em đó còn ngờ yêu ma<br />
(Tìm bóng tử thần)<br />
<br />
68<br />
<br />
HỒ VĂN QUỐC<br />
<br />
Và “trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ”, người thơ lạc vào từng bước đắm say “mê<br />
muội giữa một bầy yêu quái” với khúc hát vong tình bay chót vót trên núi non mở hội<br />
oan hồn và khát khao cuồng loạn giữa đêm khuya cái chết sẽ tái sinh, kết giao cho<br />
những tình yêu kỳ dị: “Giữa đêm đời sẽ hồi sinh / Nhân gian hát khúc vong tình lên non<br />
/ Đôi ta vào hội oan hồn / Nhân gian tái hợp / Ồ! Đây là cuộc tân hôn dị kỳ!” (Cầu<br />
hồn). Chốn địa ngục trong thơ Đinh Hùng không gợi lên cảm giác ghê rợn, bi thảm của<br />
sự chết chóc, nhục hình. Trái lại, đó là một thế giới sống động có trăng, hoa, nhạc,<br />
hương, có Mê Cung, Biển Giác, Non Thần, có “Xuân phương thảo cũng như Xuân tùng<br />
bách”. Mọi thứ đều tuyệt diễm như chốn thần tiên làm thi nhân lạc bước:<br />
Ta đi, lạc xứ thần tiên.<br />
Hồn trùng dương hiện bóng thuyền U Minh.<br />
(Gửi người dưới mộ)<br />
Sáng tạo nghệ thuật trong trạng thái siêu thăng, Đinh Hùng để linh hồn mình trôi đến<br />
những miền xa thẳm. Và “Khi mặt trời đẫm máu phía sau lưng” - biểu tượng cái chết<br />
của xã hội văn minh – nhà thơ làm cuộc hành hương trở về “thời xa vắng” khởi đầu từ<br />
Buổi – Sơ – Khai, Hồng hoang, Tiền sử đến thời Huyền sử. Tất cả đi vào thơ, ngụp lặn<br />
trong tiềm thức thi sĩ: “Ôi! giữa trời Thơ, những đêm hiền hậu / Con chim nào kêu vẳng<br />
tiếng trần ai ? / Mấy thu xanh dòng thác lệ u hoài ? / Thời xa vắng mở hương lòng trái<br />
đất” (Người gái thiên nhiên). Cảm thâu, thống đoạt thời gian bằng linh giác, Đinh<br />
Hùng sáng tạo ra những hình ảnh ước lệ, ẩn chứa một quan niệm nghệ thuật về thời<br />
gian: “đêm hiền hậu”, “thu xanh”, “thời xa vắng mở hương lòng trái đất”. Nhà thơ đã<br />
biến cái thoáng chốc thành cái vĩnh cửu, cái khoảnh khắc thành cái bất diệt, thời gian<br />
hoà tan vào không gian, hay nói như Đỗ Lai Thuý: “không gian hoá thời gian”:<br />
Xưa mạch đất dấu nghìn xuân vũ trụ,<br />
Ta lãng du, chợt gặp cỏ hoa tình.<br />
Mừng phong cảnh bốn mùa về hội ngộ,<br />
Em gọi tên hồn non nước sơ sinh.<br />
(Hoa sử)<br />
Trở về thời Thái cổ, thi nhân lạc bước vào Hoa sử, nơi lưu giữ sự sống sơ khai, nơi bốn<br />
mùa xuân, hạ, thu, đông cùng hội tụ trong cái thiên nhiên bất biến. Chính sự nỗ lực phi<br />
thời gian hoá đó, Đinh Hùng nhanh chóng đưa con người đạt tới sự vĩnh cữu, trút bỏ<br />
mọi gánh nặng âu lo, khắc khoải về thời gian hữu hạn đời người dù trong chốc lát.<br />
Bằng cảm quan tượng trưng, thơ Đinh Hùng đã mở ra một cách nhìn mới về thế giới và<br />
cuộc sống con người trong tính hai mặt. Thi nhân đã “kiến trúc” lầu thơ trên chất liệu<br />
hỗn hợp của thực thể và hư vô tạo nên một siêu hiện thực về thế giới đưa thơ đạt<br />
đến tính chất của vô biên. Chính cách nhìn ấy đã chi phối thi giới Đinh Hùng từ lối tư<br />
duy thơ đến phương thức biểu đạt.<br />
<br />
DẤU ẤN CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ ĐINH HÙNG<br />
<br />
69<br />
<br />
2. THƠ ĐINH HÙNG - MỘT CẢM QUAN THẨM MĨ MỚI<br />
Khám phá thế giới ở chiều bí ẩn, huyền nhiệm và trong những mối liên hệ siêu việt giữa<br />
cái hữu hình và vô hình, giữa con người và thế giới, Đinh Hùng đã đem đến một lối tư<br />
duy, cảm quan thẩm mĩ mới cho thơ, góp phần đưa thơ Việt Nam nhanh chóng hoà vào<br />
dòng chảy của thi ca hiện đại thế giới.<br />
Cái làm nên cảm quan thẩm mĩ mới ở thơ Đinh Hùng trước hết là tư duy tương hợp,<br />
một trong những sáng tạo nghệ thuật có ý nghĩa lớn nhất của thơ tượng trưng, mà cha đẻ<br />
của nó là Baudelaire. Trong bài Tương hợp, nhà thơ đặt ra một vấn đề vừa mang ý<br />
nghĩa phát hiện vừa là tuyên ngôn thơ tượng trưng: “Hương thơm, màu sắc và âm thanh<br />
tương hợp với nhau”. Điều này không chỉ ám ảnh, định hướng tư duy nghệ thuật<br />
Baudelaire mà còn nhiều nhà thơ tượng trưng khác trong đó có Đinh Hùng.<br />
Bước vào lầu thơ Đinh Hùng, ta như được phiêu du trong một thế giới nhiệm màu. Tất<br />
cả hoà hợp, tương giao trong một thể thống nhất sâu thẳm giữa con người và thiên<br />
nhiên: “Rừng buổi đó vang tiếng cười mang rợ / Quả tơ duyên đỏ thắm sắc trên cành /<br />
Chúng ta đi lặng ngắm núi đồi xanh / Bước trên cỏ để nghìn sau in dấu” (Người gái<br />
thiên nhiên); giữa hữu hình và vô hình, thực và ảo: “Điệu nhạc nghiêng mình, anh sẽ<br />
nghe / Nghìn xưa âm hưởng bước Em về / Bông hoa áo tím trôi vào mộng / Anh sẽ tìm<br />
Em nhập giấc mê” (Nhập mộng); giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh: “Sóng mắt<br />
trôi dòng nhạc khởi nguyên / Em từ bao kiếp dựng lời nguyền? / Màu xanh ý niệm chưa<br />
thành bướm / Nhịp bước Em vào tiết điệu Quên” (Trái tim hồng ngọc).<br />
Giải mã thế giới, con người bằng cái nhìn “thấu thị” và tương ứng cảm quan, Đinh<br />
Hùng đã tạo ra những liên tưởng bất ngờ, độc đáo và đem đến cho người đọc những trực<br />
cảm mới lạ. Từ đó, nhà thơ dẫn dụ độc giả xa dần cái thực tại hiện hữu để phiêu linh<br />
vào địa hạt hư ảo hòng tìm ra bản chất bí ẩn bên trong của sự vật:<br />
Mộng viết lên từng bản điếu tàng dài<br />
Lời văn thư kinh dị - Nghệ Thuật cười một tiếng bi ai.<br />
(Thoát duyên trần cấu)<br />
Quả thực, thơ Đinh Hùng là thơ “kinh dị”, “chiêm bao thần bí”, “mê hồn”, nó đưa thi<br />
nhân đến miền hư thực, đồng thời tìm thấy mối liên hệ huyền bí, mơ hồ giữa con người<br />
và thế giới thông qua hệ thống biểu tượng. Bởi theo các nhà thơ tượng trưng, biểu tượng<br />
gắn liền với quan niệm về tính thống nhất “thâm u và sâu xa” của vũ trụ:<br />
Vũ trụ là một ngôi đền mà trụ cột thiên nhiên<br />
Thỉnh thoảng nói lên những lời mơ hồ, bí ẩn<br />
Con người đi qua, cả một rừng biểu tượng<br />
Nhìn chúng ta với những con mắt thân quen<br />
(Tương hợp – Baudelaire)<br />
<br />