Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời kỳ đổi mới: Nhận thức và thực tiễn
lượt xem 3
download
Bài viết Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời kỳ đổi mới trình bày quá trình nhận thức của Đảng về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đổi mới; Đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước khẳng định vai trò, vị trí trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời kỳ đổi mới: Nhận thức và thực tiễn
- ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI: NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN ThS. Hoàng Xuân Sơn Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh ThS. Phùng Thế Anh Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh Tóm tắt Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời khu vực này cũng tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua. Từ khóa: đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Quan điểm về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (KTĐTNN) dần được hình thành và phát triển từ Đại hội VI của Đảng (1986) cho đến nay và thuật ngữ “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được Đảng xác nhận tại Đại hội IX (2001), tiếp tục khẳng định tại Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011) và Đại hội XII (2016). Theo đó, khái niệm kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được hiểu là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh dịch vụ. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn Việt Nam cũng cho thấy, việc phát triển thành phần kinh tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. 368
- Lý luận này càng trở nên đúng đắn với Việt Nam khi mà trong thời gian qua FDI là một trong những động lực thúc đẩy quá trình phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả hết sức khả quan. 2. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THỜI KỲ ĐỔI MỚI Tại Đại hội VI (1986), Đảng khẳng định: “công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật Đầu tư, cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”68. Tuy nhiên, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Đảng cũng lưu ý: “việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ làm nảy sinh những vấn đề phức tạp, cần có biện pháp hạn chế và ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực, song không vì thế mà đóng cửa lại”69. Đại hội VII của Đảng (1991) chủ trương: “tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn ngoài nước” nhằm mục đích “phá thế bao vây, cấm vận về kinh tế đối với nước ta” và “chú trọng hình thức công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta, gắn với chuyển giao công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh xuất khẩu”70. Để thực hiện chủ trương này, Đảng khẳng định cần phải: tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh. Xây dựng thể chế đồng bộ, ổn định, thuận tiện và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh; thống nhất đầu mối giải quyết các thủ tục và yêu cầu đầu tư của nước ngoài. Bảo đảm những điều kiện thiết yếu về cơ sở hạ tầng, phương tiện làm việc và sinh hoạt cho người nước ngoài, trước hết là các khu chế xuất và những địa bàn đầu mối trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Tổ chức tốt thông tin kinh tế và chủ động chuẩn bị các dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh tế đối ngoại theo cơ chế mới, với các đối tượng mới71. Song, Đảng cũng lưu ý: việc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải đặt trong chiến lược phát triển và cơ chế quản lý đồng bộ, bảo đảm chủ quyền, khả năng kiểm soát và định hướng của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ chế quản lý nhà nước đối với việc thực hiện các dự án đầu tư có vốn nước ngoài và các công trình hoàn thành xây dựng đi vào hoạt động, đi đôi với việc mở rộng nhiều hình thức đầu tư, cần tăng dần tỷ trọng tham gia của phía Việt Nam vào công trình hợp tác liên doanh72. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng tiếp tục chủ trương “tăng khả năng tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài” bằng các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể: đầu tư trực 68 ĐCSVN (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, HN, tr.89 69 Sđd, tr.90 70 Sđd, tr.362 71 Sđd, tr.364 72 Sđd, tr.537 369
- tiếp của nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đối với những ngành không đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ cao, có thể sinh lợi nhanh thì phải dùng nhiều hình thức để huy động vốn trong nước đầu tư toàn bộ hoặc chiếm tỷ lệ góp vốn cao nếu cần liên doanh. Về địa bàn đầu tư, cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn. Hình thức đầu tư cần tiếp tục đa dạng hóa, chú ý thêm những hình thức mới, như đầu tư tài chính (bên ngoài góp vốn, mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như xí nghiệp liên doanh). Về đối tác đầu tư, cần tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận cách quản lý hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng được thị trường mới73. Với chủ trương này, Đảng đã bước đầu thử nghiệm việc cho phép công ty và người nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty cổ phần trong nước kể cả các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trong hạn mức quy định theo ngành nghề kinh doanh. Đại hội IX của Đảng (2001) - Đại hội đầu tiên của Đảng tiến hành trong thiên niên kỷ mới - xác định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”74. Trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với KTĐTNN, Đảng xác định: “KTĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”75, trên cơ sở đó Đảng chủ trương: “tạo điều kiện để KTĐTNN phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”76. Như vậy, đến đây thành phần KTĐTNN đã được tách ra khỏi thành phần kinh tế tư bản nhà nước để trở thành một thành phần kinh tế độc lập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đối với thành phần KTĐTNN, Đại hội X của Đảng (2006) đánh giá: “KTĐTNN có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế”77, với đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, Đảng tiếp tục khẳng định: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng 73Sđd, tr.571-572 74Sđd, tr.635-636 75Sđd, tr.724 76Sđd, tr.646 77 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.146 370
- như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta78. Với những đóng góp quan trọng và vị trí của thành phần KTĐTNN từ khi được xác định (2001), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “KTĐTNN được khuyến khích phát triển”79 và tại Đại hội XI (2011), Đảng xác định: phải “thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài” bằng hình thức “cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng”80 và “thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước”81. Sau hơn 30 năm Luật Đầu tư nước ngoài chính thức được thông qua (1987), với những kết quả khả quan từ FDI, Đại hội XII của Đảng (2016) đã có những chủ trương nhằm tiếp tục thu hút FDI trong thời gian tới: “Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nhân lực và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao,… Có cơ chế ưu đãi linh hoạt đối với các dự án đặc thù. Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”82. 3. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪNG BƯỚC KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ, VỊ TRÍ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Dưới tác động của chính sách mở cửa đã trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Trong những nhân tố góp phần tạo nên tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua, FDI là một trong những nhân tố quan trọng. Mặt khác, FDI cũng chính là nhân tố quan trọng gần đây đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. 78 Sđd, tr. 238 79 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. CTQG-ST, Hà Nội, tr. 17 80 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG - ST, Hà Nội, tr. 87 81 Sđd, tr. 111 82 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB. CTQG - ST, Hà Nội, tr. 292 - 293 371
- Thời gian qua, vai trò, vị trí của FDI trong nền kinh tế Việt Nam ngày càng được khẳng định. Cụ thể: Giai đoạn 2006 - 2011, theo Tổng cục Thống kê, đến ngày 31/12/2011, có 9.010 doanh nghiệp FDI đang hoạt động. Trong đó, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là 7.516 doanh nghiệp (chiếm 83,4% toàn bộ doanh nghiệp FDI), doanh nghiệp liên doanh là 1.494 doanh nghiệp (chiếm 16,6% toàn bộ doanh nghiệp FDI) với tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI là hơn 2,5 triệu người, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 89,7%, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là 10,3%, bình quân mỗi năm thu hút thêm 221 nghìn lao động, góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động83. Đến hết năm 2011, đầu tư nước ngoài vẫn là khu vực phát triển mạnh nhất trong các khu vực kinh tế với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng GDP của toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP năm 2011 so với năm 2010 của khu vực FDI tăng 6,30% trong khi GDP toàn nền kinh tế tăng 5,89%. Như vậy, tính đến năm 2011, sau hơn 20 năm hoạt động, các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam, chiếm 16,1% vốn sản xuất kinh doanh; 18,3% tài sản cố định; 19,7% tổng doanh thu; 31,5% lợi nhuận trước thuế; 32,2% đóng góp vào ngân sách Nhà nước84. Như vậy, giai đoạn 2006 - 2011, đầu tư nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực FDI ngành công nghiệp đạt bình quân gần 18%/năm85, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Giai đoạn này, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, đồng thời góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; sản xuất các sản phẩm điện tử; công nghệ thông tin; sản xuất thép, xi măng.... Đối với thu nhập bình quân một lao động một tháng năm 2011 của các doanh nghiệp FDI là 4,94 triệu đồng, gấp 2,3 lần năm 2006. Theo hình thức đầu tư, doanh nghiệp liên doanh có thu nhập cao hơn, đạt 6,8 triệu đồng, gấp xấp xỉ 2 lần năm 2006, trong khi thu nhập bình quân lao động của khu vực 100% vốn nước ngoài là 4,78 triệu đồng. Theo khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ đạt mức thu nhập bình quân cao nhất với 12,8 triệu đồng, gấp 2,3 lần năm 2006. Tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng 4,4 triệu đồng và thấp nhất là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 4,3 triệu đồng86. Giai đoạn 2011 - 2016, FDI tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của nó trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Cụ thể: 83 Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2011, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 11 84 Sđd, tr.9 - 10 85 Sđd, tr.9 - 10 86 Sđd, tr. 18 372
- Khu vực FDI có đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) với mức độ đóng góp tăng dần qua các năm87, luôn là khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế88, là một bộ phận quan trọng của toàn bộ khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Tính đến hết năm 2016, mặc dù số lượng doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 2,8% tổng số doanh nghiệp của cả nước nhưng lại chiếm đến 18,1% vốn sản xuất kinh doanh; 18,5% tài sản cố định và đầu tư dài hạn; 27,4% doanh thu thuần; 45,9% lợi nhuận trước thuế và 29,1% đóng góp vào ngân sách Nhà nước89. Khu vực FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển nhiều ngành công nghiệp, sản phẩm mới, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như: dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, xi măng, thép…, làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam, FDI đã tạo ra nhiều dịch vụ có chất lượng cao, như: ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, vận tải biển, logistic, khách sạn…, từng bước tạo điều kiện cho thị trường dịch vụ phát triển và tăng khả năng hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua FDI, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới để phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ hiện đại, như: công nghệ sinh học, bưu chính viễn thông, công nghiệp phần mềm, điện tử… Nhiều công nghệ mới đã được chuyển giao, tạo bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước như: dầu khí; viễn thông; điện tử; dệt may; da giày. Trong những năm qua, khu vực FDI đã góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, trở thành cầu nối, điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và hợp tác với nhiều quốc gia, góp phần từng bước nâng cao thế và lực của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Xuất khẩu từ khu vực FDI chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam bình quân đạt trên 66% trong giai đoạn 2011 -201690. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do các doanh nghiệp trong nước sản xuất. Khu vực FDI cũng góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động. Năm 2016 tạo được gần 4,2 triệu việc làm, gấp 1,6 lần so với năm 2011. Việc đào tạo tại chỗ và 87 Tỷ trọng của khu vực FDI đóng góp vào GDP, năm 2011: 15,66%; năm 2012: 16,04%; năm 2013: 17,36%; năm 2014: 17,89%, năm 2015: 18,07%, năm 2016: 18,59%. 88 Tốc độ tăng GDP của khu vực FDI luôn cao hơn tốc độ tăng GDP cả nước, năm 2011: GDP của khu vực FDI tăng trưởng 7,69% trong khi GDP cả nước tăng trưởng 6,24%; năm 2012: tốc độ này tương ứng là 7,42% và 5,25%; năm 2013 là 7,86% và 5,42%; năm 2014 là 8,45% và 5,98%; năm 2015 là 10,71% và 6,68%; năm 2016 là 9,55% và 6,21%. 89 Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011 - 2016, Nxb. Thống kê, HN, tr. 11 90 Năm 2011 chiếm 56,9%; năm 2012 chiếm 63,1%; năm 2013 chiếm 66,8%; năm 2014 chiếm 67,4%; năm 2015 chiếm 70,6%; năm 2016 chiếm 71,5%. 373
- đào tạo bên ngoài của khu vực FDI được đặc biệt chú trọng, nhằm nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ. Một bộ phận lao động được đào tạo đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài, đây là những hạt nhân để phát triển lực lượng lao động có trình độ, tay nghề cao của Việt Nam. Có thể nói, nhờ có sự đóng góp quan trọng của khu vực FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua, được biết đến là một quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, minh chứng rõ ràng vai trò quan trọng của FDI đối với sự thành công về chính sách đổi mới của Việt Nam. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI tăng rõ rệt qua các năm. Tỷ suất lợi nhuận của phần lớn các doanh nghiệp đều được cải thiện đáng kể. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của toàn khu vực FDI tăng nhanh hơn so với các khu vực khác. Những kết quả này đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Tóm lại, kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thông qua (1987), dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong suốt hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt trong giai đoạn gần đây, Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong môi trường toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực doanh nghiệp FDI thời gian qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là: Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao, điển hình là các hoạt động lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong khi Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp FDI vào nông nghiệp rất thấp và tăng rất chậm91. Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam, đồng thời phát triển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, bất cập. Tỷ lệ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đến thời điểm 31/12/2016 là 11.974 doanh nghiệp, chiếm 85,5%92 (còn lại 14,5% là doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài), trong khi các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi phí nhân công thấp. Mặc dù Năm 2014 vốn FDI vào nông nghiệp là 0,5%, năm 2015 là 1%, năm 2016 là 0,4% và năm 2017 là 1,1% 91 Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 92 2011 -2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 18 374
- đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được trên 30 năm, đầu tư của các nước hiện chủ yếu vẫn tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khai thác dầu khí, nhưng đến nay hầu như công nghiệp Việt Nam vẫn chưa có được ngành sản xuất, chế biến nào mang tầm công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động có trình độ, tay nghề cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp hoạt động gia công, lắp ráp với các trang thiết bị, dây chuyền bình thường hoặc đã lạc hậu. Thứ ba, tỷ lệ doanh nghiệp FDI kinh doanh lỗ có xu hướng tăng lên93, số lượng việc làm tạo ra chưa nhiều94, đời sống người lao động trong các doanh nghiệp FDI chưa tương xứng. Thu nhập bình quân tháng năm 2016 của người lao động ở khu vực FDI là 8,5 triệu đồng/tháng chỉ cao hơn thu nhập khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (6,4 triệu đồng/tháng) nhưng lại thấp hơn nhiều so với thu nhập bình quân người lao động của khu vực doanh nghiệp Nhà nước (11,4 triệu đồng/tháng)95. Thứ tư, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc phòng. Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực. Không ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng đầu tư nước ngoài tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên. Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng nhiều lao động phổ thông nước ngoài. Thứ năm, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền…), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn… tạo nên tình trạng “lỗ giả, lãi thật”, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài. 93 Năm 2006 là 47,7%, năm 2011 là 45%, năm 2016 là 47,9% 94 Đến thời điểm 31/12/2016 có gần 4,2 triệu lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI, chiếm 29,6% tổng số lao động đang làm việc trong các loại hình doanh nghiệp 95 Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011 - 2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 27 375
- 4. KẾT LUẬN Với các đóng góp cụ thể vào tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu ngân sách, tạo việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế, đã cho thấy rõ vai trò quan trọng của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò tích cực, FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực cho nền kinh tế, như gây ô nhiễm môi trường, khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên, nhập khẩu công nghệ lạc hậu, trốn tránh nghĩa vụ tài chính... Những hạn chế này đã làm cho hiệu quả sử dụng FDI đối với nền kinh tế chưa cao và thiếu bền vững. Trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, FDI vẫn đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vai trò của FDI chỉ thực sự được nâng lên nếu được sử dụng có hiệu quả và tạo được sự phát triển bền vững. Do đó, việc thu hút, sử dụng FDI một cách có lựa chọn, khuyến khích đầu tư vào những ngành mà nền kinh tế thực sự cần và phát triển phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo tính bền vững dài hạn cần được quan tâm trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. GS.TS. Phùng Hữu Phú - PGS.TSKH. Nguyễn Văn Đặng - PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (đcb) (2016), Tìm hiểu một số thuận ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2011, Nxb. Thống kê, Hà Nội. 8. Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011 - 2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội. 9. ThS. Hoàng Xuân Sơn, ThS. Hồ Thị Thanh Trúc (2016), “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn”, Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, số 13. 376
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng và giải pháp Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Phần 2
154 p | 129 | 17
-
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế vùng Đông Nam bộ
8 p | 136 | 15
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại ASEAN và Trung Quốc
3 p | 121 | 9
-
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam
8 p | 105 | 8
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Cần Thơ
10 p | 85 | 8
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Tổng quan và triển vọng - Phạm Huy Hoàng
11 p | 102 | 6
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại ASEAN: Thực trạng và những gợi ý chính sách
7 p | 99 | 6
-
Một số khoảng cách trong thực trạng hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài và của các khu công nghiệp ở Việt Nam - Nguyễn Trọng Xuân
8 p | 112 | 5
-
Lý do Đồng Băng sông cửu Long không thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
12 p | 67 | 5
-
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế tỉnh Thanh Hóa
7 p | 20 | 5
-
Quản trị địa phương đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bình Dương
6 p | 17 | 5
-
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
20 p | 19 | 5
-
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
18 p | 94 | 4
-
Thực trạng và đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
8 p | 15 | 4
-
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam
9 p | 97 | 3
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Thành tựu và những vấn đề đặt ra
5 p | 86 | 3
-
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam
7 p | 11 | 2
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội - Hai mươi năm nhìn lại (1986-2006)
13 p | 43 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn