ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------
NGUYỄN THUỲ LINH
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á
Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 603101
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------
NGUYỄN THUỲ LINH
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á
Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 603101
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: P.G.S, T.S PHAN HUY ĐƯỜNG
HÀ NỘI - 2006
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ FDI
1.1 Đặc điểm và vai trò của FDI
1.1.1 Đặc điểm của FDI và một số lý thuyết cơ bản về FDI
1.1.2 Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
1.2 Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nƣớc trong khu vực
1.2.1 Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á và những ảnh hưởng đến dòng
FDI đối với một số nước ASEAN
1.2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Kết luận chƣơng 1
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG FDI Ở VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á 1997 ĐẾN NAY
2.1 Tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1997 và tình
hình thu hút FDI trong giai đoạn này
2.1.1 Sơ lược kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
2.1.2 Kinh tế Việt Nam và chính sách thu hút FDI của Việt Nam trong
giai đoạn 1987-1996
2.1.2.1 Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1996
2.1.2.2 Chủ trương mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam kể
từ khi đổi mới
2.1.2.3 Chính sách thu hút FDI của Việt nam giai đoạn 1987-1996
2.1.3 Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 1987-1996
2.2 Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam từ 1997 đến nay
2.2.1 Những thay đổi trong chính sách thu hút FDI và động thái FDI ở
Việt Nam kể từ năm 1997
2.2.2 Cơ cấu FDI của Việt Nam từ năm 1997 đến nay phân theo
ngành, vùng, lĩnh vực đầu tư
2.2.3 Cơ cấu FDI của Việt Nam từ năm 1997 đến nay phân theo nước
đầu tư
2.3 Đánh giá chung về hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam từ
1997 đến nay
2.3.1 Thành công
2.3.2 Hạn chế
2.3.3 Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết
Kết luận chƣơng 2
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG THU HÚT FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Bối cảnh và quan điểm, định hƣớng về thu hút FDI tại Việt
Nam đến năm 2010
Bối cảnh mới trong thu hút FDI 3.1.1
3.1.2 Quan điểm, mục tiêu, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới
3.2 Các giải pháp tăng cƣờng thu hút FDI ở Việt Nam trong
thời gian tới
3.2.1 Giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư
3.2.2 Giải pháp về cơ cấu đầu tư
3.2.3 Giải pháp về tạo luồng vốn đầu tư
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN CHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Việt nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đã thực sự trở thành một trong những nguồn vốn quan
trọng phục vụ cho đường lối mở cửa kinh tế và chiến lược công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nhờ những chính sách ưu đãi và hấp dẫn của Chính phủ đối với các nhà
đầu tư nước ngoài mà dòng vốn vào Việt Nam liên tục tăng cả về vốn đăng ký và
số dự án, đạt mức kỷ lục là 8,6 tỷ đô la Mỹ năm 1996. Nếu tính cả số vốn tăng
thêm thì năm 1996, Việt Nam thu hút được 10,164 tỷ USD.
Tuy nhiên, kể từ năm 1997, dòng vốn FDI vào Việt nam liên tục giảm. Nếu
lấy năm 1996 làm mốc đánh dấu nhịp độ tăng trưởng FDI vào Việt Nam, thì năm
1997, nhịp độ này giảm 45%, đạt 5,59 tỷ USD vốn đăng ký; năm 1998 nhịp độ
này tiếp tục giảm và đạt 5,09 tỷ USD. Những năm 1999-2000, FDI vào Việt Nam
giảm mạnh hơn, chỉ đạt 2,56 tỷ USD và 2,83 tỷ USD tương ứng.
Sự suy giảm dòng vốn FDI vào Việt nam trong những năm gần đây cho thấy
môi trường đầu tư của Việt Nam đang xuống cấp nghiêm trọng, và kém sức hút
đối với các nhà đầu tư. Sau khủng hoảng tiền tệ Châu Á năm 1997, hàng loạt
nước Châu Á đã tiến hành các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư mang tính
hấp dẫn và ưu đãi hơn để ngăn chặn sự thoái lui dòng FDI ra khỏi đất nước và thu
hút sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó ở Việt Nam, mặc dù
Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung 2 lần năm 1990 và 1992, sau đó
được thay bằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1996 và được sửa đổi
bổ sung ngày 09 tháng 6 năm 2000, được thay thế bằng Luật đầu tư năm 2005,
nhưng các nhà đầu tư vẫn gặp rất nhiều khó khăn do những rào cản luật pháp, các
thủ tục hành chính, chi phí cao, rủi ro cao. Chính những bất cập trong các chính
sách đã khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam liên tục giảm, đòi hỏi chính phủ phải
có những biện pháp điều chỉnh thích hợp hơn để thu hút mạnh dòng FDI của thế
giới vào nước ta.
Thực tiễn ở Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy FDI đang có xu
hướng phục hồi trở lại và có xu hướng tăng trưởng mạnh. Cụ thể năm 2005, FDI
1
vào Việt nam là 6,8 tỷ USD thì đến tháng 11 năm 2006 đã đạt gần 9 tỷ USD. FDI
ngày càng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh
tế, tạo nên mức tăng GDP cao hơn, thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhanh hơn và giải quyết tốt hơn các vấn đề về công ăn việc làm,
nghèo đói, thất nghiệp… Do vậy, sự suy giảm dòng vốn FDI sau khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu Á năm 1997 và sự hồi phục của dòng vốn FDI trong vài năm
trở lại đây đòi hỏi Chính phủ phải có những giải pháp, chính sách hiệu quả hơn
nữa để thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn FDI, để dòng vốn này thực sự đóng góp
vai trò quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
của Việt Nam.
Chính vì vậy, luận văn với đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á” góp phần đánh giá thực trạng suy giảm
FDI vào Việt Nam kể từ năm 1997; những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm đó;
và đưa ra một số khuyến nghị nhằm thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện Đại
hội đảng Cộng sản Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu đã khai thác vấn đề vốn đầu
tư nước ngoài dưới nhiều góc độ khác nhau, với các công trình nghiên cứu cụ thể
sau:
- TS Phùng Xuân Nhạ: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ Công nghiệp
hoá ở Malaixia, kinh nghiệm đối với Việt nam. Nhà Xuất bản nghiên cứu
kinh tế và xã hội (2000)
- PGS. TS. Mai Ngọc Cường: Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
(2001)
- TS. Vũ Trường Sơn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở
Việt nam. Nhà xuất bản thống kê (2001)
- TS. Nguyễn Trọng Xuân: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá ở Việt nam. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội
(2002)
Ngoài ra còn có một số bài đăng tải trên các tạp chí đề cập đến tình hình và
2
chính sách thu hút FDI tại Việt Nam. Song những công trình trên chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và cập nhật được thực trạng
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam sau những tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Do đó đề tài: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam sau khủng hoảng tiền tệ tiền tệ Châu Á” hy vọng sẽ
là một công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện và cập nhập về đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
năm 1997.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, luận văn tập trung phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt nam, đi sâu phân tích những nhân tố tác động đến thực trạng
thu hút FDI vào Việt Nam kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
năm 1997, từ đó luận văn đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: chính sách và thực trạng thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á
và những tác động của vấn đề này đối với nền kinh tế Việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam kể từ
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng việc sử dụng phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp chặt chẽ với phương pháp khái quát hoá, trìu
tượng hoá và cụ thể hoá trong quá trình phân tích.
Các phương pháp cụ thể sử dụng là: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, đối chiếu, so sánh, logic lịch sử.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
o Làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
o Phân tích các nguyên nhân gây ra sự suy giảm dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam kể từ năm 1997 và sự phục hồi của dòng FDI
3
từ năm 2001.
o Đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về FDI
Chương 2: Thực trạng FDI ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á 1997 đến nay
Chương 3: Quan điểm định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút
FDI ở Việt Nam trong thời gian tới.
4
Kết luận
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ FDI
1.1. Đặc điểm và vai trò của FDI
1.1.1. Đặc điểm của FDI và một số lý thuyết cơ bản về FDI
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài xuất hiện từ thế kỷ XVII khi các công ty
của Anh đầu tư vào Ấn Độ. Tuy nhiên, cho đến tận thế kỷ XIX, thế giới mới bắt
đầu chú ý đến hoạt động quốc tế này. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã
làm gián đoạn hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như
sự nghiên cứu về nó. Những số liệu về FDI và các công trình nghiên cứu về FDI
trong thời gian trước năm 1945 còn sót lại không đáng kể. Có lẽ một phần là như
vậy, nên mặc dù FDI diễn ra tương đối lâu, nhưng hầu như không có một lý
thuyết hoàn chỉnh nào về nó.
Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, các công ty lớn không
ngừng mở rộng phạm vi hoạt động. Để mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi biên
giới quốc gia, họ đã thực hiện FDI bằng việc xây dựng các chi nhánh, cơ sở sản
xuất mới, mua hoặc sát nhập với các công ty nước ngoài đang tồn tại. FDI tăng
lên nhanh chóng đã thực sự thu hút được sự chú ý của các nhà kinh tế học. Từ đó,
các lý thuyết FDI bắt đầu xuất hiện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là các lý thuyết
theo mô hình Heckcher – Ohlin - Samuelson, mô hình Macdougall – Kempt, lý
thuyết “chu kỳ sản phẩm” của Raymond Vernon, lý thuyết “chu kỳ sản phẩm bắt
kịp” của Akamatsu...
Các nghiên cứu về FDI trên thế giới đã đưa ra rất nhiều những khái niệm và
quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ bản
về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó là: “đầu tư là việc sử dụng một lượng
tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai... vào một hoạt động kinh tế cụ thể
nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận”. Người bỏ ra
một lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Đối tượng được bỏ tài
sản vào đầu tư thuộc quyền sở hữu của người đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các tổ
chức, cá nhân (đầu tư tư nhân) và cũng có thể là nhà nước (đầu tư chính phủ) [23,
5
tr.28].
Đặc điểm chính của FDI là chủ đầu tư tiến hành cuộc đầu tư dưới nhiều hình
thức như bỏ vốn đầu tư để lập cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại các cơ sở sản xuất
hiện có và trực tiếp quản lý tài sản đó. Thời gian đầu tư thường là trung hạn và
dài hạn. FDI khác với đầu tư gián tiếp bởi đầu tư gián tiếp là hình thức chủ đầu tư
bỏ ra tài sản (chủ yếu là vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái
phiếu... nhằm hưởng lợi tức, mà không quản lý trực tiếp tài sản của mình. Giữa
hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp có mối quan hệ bổ sung lẫn
nhau. Đầu tư trực tiếp rất cần nguồn vốn để mở rộng hoặc nâng cấp cơ sở hiện có,
vì thế đầu tư gián tiếp là nguồn vốn quan trọng để đáp ứng vốn cho nhu cầu này.
Mặt khác, việc phát triển của đầu tư trực tiếp sẽ tăng cường nhu cầu về vốn để
khuyến khích đầu tư gián tiếp phát triển. Bởi vậy, muốn đầu tư tăng trưởng thực
sự thì phải đồng thời phát triển cả hai hình thức này.
Ngoài đặc điểm trên, FDI còn có các đặc điểm quan trọng khác như sau:
+ Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến
khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán... Nói chung, đây
là yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ đầu tư ở nước
ngoài.
+ Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên quan
chủ yếu đến các khía cạnh về chính sách, luật pháp, hải quan và cước phí vận
chuyển.
+ Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ (thường là đồng USD). Đặc điểm này
có liên quan đến vấn đề tỷ giá hối đoái và các chính sách tài chính tiền tệ của các
nước tham gia đầu tư.
Khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường xem xét rất kỹ
các đặc điểm trên và chính từ các đặc điểm khác biệt này thường nảy sinh nhiều
vấn đề cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư ở nước ngoài.
Với những đặc điểm trên, trong suốt mấy thập kỷ qua, lý thuyết về FDI đã
là một vấn đề được nghiên cứu rất kỹ. Với các phương pháp tiếp cận và các mục
tiêu nghiên cứu khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều mô hình và quan điểm lý
thuyết về nguyên nhân hình thành, ảnh hưởng của FDI đối với nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Những quan điểm này đã có ảnh
hưởng quan trọng đến việc hoạch định chính sách FDI của nước đầu tư và nước
6
chủ nhà.
* Mô hình Heckcher – Ohlin – Samuelson (HOS)
Lý thuyết di chuyển vốn quốc tế hoặc FDI là một phần của lý thuyết
thương mại quốc tế. Lý thuyết này chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích mô hình
HOS để đưa ra các nhận định về nguyên nhân của di chuyển vốn là có sự chênh
lệch về tỷ suất lợi nhuận so sánh giữa các nước và sự di chuyển đó tạo ra tăng sản
lượng cho nền kinh tế thế giới và nước tham gia đầu tư.
Để đơn giản cho sự phân tích, mô hình HOS được xây dựng dựa trên các
giả định: hai nước tham gia trao đổi hàng hoá hoặc đầu tư (nước I và nước II –
phần còn lại của thế giới), hai yếu tố sản xuất (lao động – L và vốn – K), hai hàng
hoá (X và Y), trình độ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu và hiệu quả kinh tế theo quy mô
ở hai nước như nhau, không có chi phí vận tải, can thiệp của chính sách, hoạt
động của thị trường hai nước là hoàn hảo và không có sự di chuyển các yếu tố sản
xuất giữa các nước. Với những giả định này, mô hình HOS phân tích tỷ lệ chi phí
của các yếu tố sản xuất (L và K) ở hai nước I và II.
Mô hình HOS đã chỉ ra rằng, sản lượng của hai nước sẽ tăng lên nếu mỗi
nước tập trung sản xuất để xuất khẩu những hàng hoá sử dụng yếu tố sản xuất dư
thừa và tiết kiệm yếu tố sản xuất khan hiếm. Ngược lại, nhập khẩu những hàng
hoá dùng nhiều yếu tố khan hiếm và ít hàm lượng yếu tố dư thừa. Như vậy, sự
khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hoá và lợi thế so sánh giữa các nước được lý
thuyết HOS phân tích từ sự khác biệt giữa tính dư thừa và khan hiếm của các yếu
tố sản xuất, vì thế mô hình này còn được gọi là lý thuyết các yếu tố sản xuất.
Trong khi những giả định không có sự lưu chuyển các yếu tố sản xuất qua
biên giới và hiệu quả kinh tế theo quy mô giữa các nước không đổi là điểm xuất
phát của lý thuyết thương mại quốc tế, thì mô hình HOS được sử dụng để phân
tích cơ sở hình thành của FDI qua việc loại bỏ hai giả định này. Theo giả định của
các tác giả, năng suất cận biên của vốn có sự khác nhau giữa các nước và theo
quy mô kinh tế. Thông thường, năng suất cận biên của vốn thấp ở nước dư thừa
vốn đầu tư, và cao ở nước khan hiếm vốn đầu tư. Tình trạng này dẫn đến xuất
hiện di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa đến nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi
nhuận.
Từ sự phân tích nguyên nhân hình thành FDI, các tác giả đã cho thấy tính
tương đồng về cơ sở hình thành thương mại quốc tế và FDI. Theo các tác giả,
7
thương mại quốc tế dựa trên nguyên tắc chi phí so sánh, còn FDI dựa trên nguyên
tắc lợi nhuận so sánh và hai nguyên tắc này có thể tương đương với nhau. Vì vậy,
lý thuyết FDI và lý thuyết thương mại quốc tế cùng dựa trên cơ sở của hai nguyên
tắc này. Trong thực tế, thương mại quốc tế và FDI có mối quan hệ chặt chẽ mang
tính bổ sung cho nhau, tức là FDI sẽ bổ sung cho thương mại quốc tế để sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu khi hàng rào thuế quan và hạn ngạch giữa các nước gia
tăng. Vì thế, thương mại quốc tế có thể đựoc coi như là sự dịch chuyển gián tiếp
các nguồn lực sản xuất quốc tế.
* Mô hình Macdougall – Kemp
Khác với mô hình HOS, điểm nổi bật của ký thuyết di chuyển vốn quốc tế
theo mô hình của Macdougall – Kemp là phân tích ảnh hưởng kinh tế vĩ mô của
FDI đối với nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư. Mô hình này được
xây dựng trên cơ sở những giả thuyết sau: 1) nền kinh tế thế giới bao gồm hai
nhóm nước: nước chủ đầu tư (dư thừa vốn) và nước nhận đầu tư (thiếu vốn); 2)
Năng suất cận biên của vốn tại nước chủ đầu tư thấp hơn tại nước nhận đầu tư; 3)
Năng suất cận biên của vốn tại hai nhóm nước đều tuân theo quy luật giảm dần;
4) Nền kinh tế thế giới cạnh tranh hoàn hảo.
Từ những giả định trên, các tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân hình
thành FDI là do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn đầu tư giữa các
nước và ảnh hưởng của nó làm tăng sản lượng thế giới (nhờ vào tăng sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực sản xuất) và các nước tham gia đầu tư đều có lợi. Mô hình
cũng phân tích FDI tạo ra ảnh hưởng rất khác nhau tại nước đầu tư và nước chủ
nhà. Đối với nước đầu tư, thu nhập từ sử dụng vốn tăng lên do sử dụng năng suất
cận biên của vốn tăng khi vốn đầu tư chuyển sang nước nhận đầu tư, trong khi đó
thu nhập từ lao động lại giảm đi vì mất lượng vốn đầu tư đã chuyển sang nước
nhận đầu tư. Đối với nước nhận đầu tư, thu nhập từ vốn và lao động diễn ra theo
chiều hướng ngược lại với nước đầu tư.
Qua việc xây dựng mô hình này, các tác giả đã rút ra kết luận: khi thực
hiện FDI, năng suất cận biên của vốn giữa hai nhóm nước đầu tư và nhận đầu tư
có xu hướng cân bằng. Các nguồn lực kinh tế của hai nhóm nước này được sử
dụng một cách hiệu quả hơn, điều này đã trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm của
thế giới.
8
* Lý thuyết Chu kỳ sản phẩm của Raymond Vernon
Lý thuyết chu kỳ sản phẩm của Vernon giải thích sự phát triển của các
công ty xuyên quốc gia (TNCs) theo 3 giai đoạn phát triển của sản phẩm: đổi
mới, tăng trưởng và bão hoà. Trong mô hình đầu tiên của tác giả (năm 1966) đã
phân tích giai đoạn đổi mới sản phẩm chỉ diễn ra ở các nước phát triển (chẳng
hạn như Mỹ), vì thu nhập cao có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản
phẩm mới. Cũng chỉ ở các nước phát triển, kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc
trưng sử dụng nhiều vốn và các điều kiện sản xuất (tương đương với các nước
đầu tư) mới phát huy được hiệu suất cao. Kết quả là tăng nhanh sản xuất theo quy
mô lớn, năng suất lao động cao và các sản phẩm mới đã đạt đến mức bão hoà.
Để sản xuất tiếp tục được phát triển, công ty phải mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm ở nước ngoài, nhưng việc bán sản phẩm ra nước ngoài đã nhanh
chóng bị hạn chế bởi hàng rào thuế quan hoặc hạn ngạch. Thêm vào đó, cước phí
vận tải và chi phí nguyên vật liệu, lao động rẻ ở các nước đang phát triển đã là
động lực quan trọng thúc đẩy TNCs đầu tư ra nước ngoài.
Cũng theo Vernon (1971), hầu hết các TNCs như là các tổ chức độc quyền
bán và chia ra làm 3 giai đoạn phát triển: độc quyền trên cơ sở đổi mới, độc
quyền bão hoà và độc quyền suy yếu. Giai đoạn 1 với đặc trưng là dựa vào ưu thế
về kỹ thuật tiên tiến để tạo ra các sản phẩm mới và thu được lợi nhuận độc quyền.
Giai đoạn tiếp theo là đạt đến mức độc quyền tối đa so với các đối thủ về quy mô
sản xuất, tiếp thị, nghiên cứu và triển khai (R & D). Giai đoạn cuối cùng là các
yếu tố đổi mới và quy mô kinh tế đã mất vị trí độc quyền. Từ đó các tác giả đi
đến kết luận về nguyên nhân hình thành FDI như là kết quả của quá trình bảo vệ
thị trường độc quyền của TNCs.
* Lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp của Akamatsu
Theo Akamatsu, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư,
sau đó được xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Tại nước nhập khẩu, do ưu điểm của
sản phẩm mới và nhu cầu của thị trường nội địa tăng lên, chính phủ nước nhập
khẩu đã tăng cường sản xuất thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu
dựa vào vốn, kỹ thuật... của nước ngoài. Đến khi nhu cầu thị trường nội địa về
sản phẩm mới được sản xuất trong nước đạt đến sự bão hoà, nhu cầu xuất khẩu
lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ như vậy mà dẫn đến hình thành FDI.
Akamatsu cũng đã xây dựng nên mô hình “đàn nhạn bay” (flying geese).
9
Mô hình này diễn tả sự lặp đi lặp lại của sự phát triển xét trên phạm vi toàn cầu,
trong đó sự phát triển kinh tế của một nước kém phát triển hơn (lạc hậu hơn) lặp
lại quá trình phát triển cảu một nước phát triển hơn thông qua thương mại, FDI và
các quan hệ kinh tế khác. Akamatsu cho rằng: “Ngày nay chúng ta không thể
nghiên cứu sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển nếu không xem xét
đến sự tác động lẫn nhau giữa nó với nền kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển”.
Akamatsu chỉ ra lộ trình phát triển của một ngành công nghiệp cụ thể (ví
dụ như ngành dệt) ở một nước như sau (như Nhật Bản đầu thế kỷ XX). Lúc đầu,
sản phẩm được nhập khẩu, tiếp theo là sự sản xuất được tiến hành trong nước, và
sau đó là việc xuất khẩu sản phẩm. Cả ba quá trình đó lần lượt xuất hiện, phát
triển đến đỉnh cao, rồi giảm dần. Quá trình phát triển đó tạo nên 3 hình sóng kế
tiếp nhau (như đàn nhạn bay). Lúc đầu quá trình đó chỉ xảy ra đối với các ngành
sản xuất các sản phẩm tiêu dùng, sau đó xảy ra với các ngành sản xuất tư liệu sản
xuất.
Đối với hoạt động FDI, quá trình diễn ra cũng tương tự như vậy. Lúc đầu,
nước ngoài đầu tư vào và quá trình sản xuất được hình thành, phát triển cùng với
sự tăng lên của FDI. Đến một giai đoạn nhất định, FDI vào giảm dần, bắt đầu
xuất hiện FDI ra nước ngoài. Các quá trình đó xuất hiện, phát triển và suy thoái,
cũng tạo ra mô hình làn sóng. Mô hình này đã phần nào làm nổi bật vai trò của
FDI của các quốc gia phát triển đối với những quốc gia kém phát triển hơn.
1.1.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hƣởng đến FDI
* Vai trò của FDI
Trong nghiên cứu của Ngân hàng thế giới năm 1997 về tác động của dòng
vốn nước ngoài đối với các nước nhận đầu tư, Magnus Blomstrom có viết: một
chiến lược công nghiệp hoá thích hợp đối với nước đang phát triển trong giai
đoạn hiện nay chính là công nghiệp hoá gắn với FDI chứ không đơn giản là công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, càng không phải là một chiến lược công nghiệp
hóa dựa trên vay nợ nước ngoài. So với các hình thức kinh tế đối ngoại khác, FDI
có những vai trò ưu việt sau:
+ Nó cho phép khai thác tất cả các lợi thế của một đất nước trong hội nhập
kinh tế quốc tế. Mặc dù toàn cầu hoá bao hàm cả tự do hoá thương mại, FDI sẽ
cho phép khai thác các yếu tố này và đưa chúng vào chu trình kinh tế thế giới qua
10
việc mở rộng sản xuất quốc tế.
+ FDI là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu (cả về mặt
lượng và cơ cấu, đặc biệt chuyển biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp
hoá). FDI đóng vai trò quyết định trong xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
+ FDI là kênh tốt nhất để huy động vốn và công nghệ trên thị trường thế
giới cho công nghiệp hoá mà không gây ra tình trạng phụ thuộc một chiều vào
bên ngoài.
+ Thông qua hiệu ứng lan toả, FDI tạo ra sự liên kết bên trong và bên ngoài
hiệu quả nhất.
Nhìn chung, FDI không chỉ mang lại vốn mà còn cả công nghệ tiên tiến và
khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. FDI đóng vai trò quan trọng đối với các
nước đang phát triển tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế. Nhiều công trình
nghiên cứu đã nhận thấy FDI có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trường, trong khi
tổng số vốn đầu tư nói chung lại không có ảnh hưởng mấy đối với tăng trưởng,
nghĩa là các nhân tố khác như công nghệ, kinh nghiệm quản lý và các hiệu ứng
lan toả đóng vai trò quan trọng, chứ không chỉ đơn thuần là vốn đóng vai trò quan
trọng.
Mặc dù FDI có những vai trò ưu việt như trên, nhưng không phải cứ thu
hút nhiều FDI là khai thác được những vai trò đó. Trong nhiều trường hợp, FDI
có hiệu ứng ngược lại đối với nước chủ nhà, chẳng hạn gia tăng xu hướng thay
thế nhập khẩu hoặc không tạo ra các mối liên kết bên trong và bên ngoài, thậm
chí gây tổn hại các nguồn tài nguyên. Đó là hệ quả của một chính sách thu hút
FDI thiếu định hướng hội nhập, nói cách khác là có sự sai lệch trong quan hệ toàn
cầu hoá - FDI – công nghiệp hoá: xem FDI chỉ là một giải pháp hỗ trợ cho công
nghiệp hoá, còn công nghiệp hoá không là nhằm hình thành mạng lưới sản xuất
quốc tế thông qua FDI. FDI chỉ phát huy được những tác dụng tích cực của nó
khi hướng vào khai thác lợi thế của một quốc gia trong quá trình công nghiệp
hoá.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
- Đối với những nước nhận đầu tư:
Đối với nước nhận đầu tư, khi xem xét các nhân tố thu hút FDI, ta cần phải
xem xét các nhóm yếu tố: tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lý –
điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, đặc điểm văn hoá xã hội. Cụ thể là:
11
+ Tình hình chính trị
Tình hình chính trị của nước nhận đầu tư có liên quan chặt chẽ đến sự ổn
định của kinh tế xã hội. Đây là yếu tố tác động trực tiếp và có tính toàn diện làm
tăng hoặc giảm khả năng rủi ro trong đầu tư. Các nhà đầu tư không thể quyết định
chuyển vốn đầu tư vào thị trường có nền kinh tế bị khủng hoảng hoặc đang chứa
đựng nhiều tiềm năng bùng phát khủng hoảng vì ở đó có độ mạo hiểm cao. Sự ổn
định chính trị không chỉ là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn vốn đầu tư mà
còn có vai trò to lớn để đảm bảo sự ổn định nền kinh tế xã hội, nhờ đó giảm được
khả năng rủi ro đầu tư. Đây là những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư
nước ngoài.
+ Chính sách – pháp luật
Vì quá trình đầu tư có liên quan đến rất nhiều các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân và được tiến hành trong một khoảng thời gian rất dài, ở nơi xa lạ
nên các nhà đầu tư nước ngoài rất cần môi trường pháp lý vững chắc, có hiệu quả.
Môi trường này bao gồm một hệ thống đầy đủ các chính sách, quy định cần thiết,
đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn chồng chéo với nhau và có hiệu lực
trong thực tiễn.
Các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm nhiều đến mức độ đầy đủ,
hiệu quả và tính minh bạch của các chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động
đầu tư như: quy định về lĩnh vực được đầu tư, mức sở hữu của người nước ngoài,
miễn giảm thuế đầu tư, quy định tỷ lệ xuất khẩu, tư nhân hoá, cạnh tranh, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; các chính sách gây ảnh hưởng gián tiếp như chính sách tài
chính tiền tệ, thương mại, văn hoá xã hội, an ninh, đối ngoại... Nếu các chính
sách này không thống nhất, chồng chéo, sẽ là những nhân tố cản trở các nhà đầu
tư nước ngoài vì họ không yên tâm làm ăn dài hạn ở nước nhận đầu tư, do đó
không thu hút được lượng vốn FDI vào phục vụ sự phát triển của đất nước.
+ Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa
điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số... Đây là những yếu tố tác động
quan trọng đến tính sinh lợi hoặc rủi ro của các hoạt động đàu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá và dịch
vụ giữa địa điểm sản xuất và tiêu thụ. Nếu vị trí địa lý thuận lợi, không xa xôi
12
cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế rủi ro.
Ngược lại, nếu vị trí địa lý giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư xa xôi, giao
thông không thuận lợi, các rào cản này sẽ lớn hơn, làm nản lòng các nhà đầu tư.
Khí hậu của nước chủ nhà cũng là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Yếu tố này bao gồm các đặc
điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ... Chẳng hạn, ở những nước có khí hậu nhiệt đới
gió mùa thường phù hợp với các dự án nông nghiệp hơn là các dự án công
nghiệp, vì khí hậu này thường có độ ẩm cao nên tác động xấu đến độ bền công
nghệ và điều kiện sống của các nhà dầu tư, nhất là các nhà đầu tư từ phương Tây.
Mặt khác, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu
vào phong phú và giá rẻ cho các hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư thường rất
quan tâm đến nguồn cung cấp nguyên liệu tự nhiên và lao động ở nước chủ nhà.
Một nước sẽ không mang tính hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nếu không có
nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, dân
số đông... Quy mô dân số đông không chỉ có lợi thế về cung cấp nguồn lao động
mà có khả năng tiêu thụ rất lớn. Tất nhiên, mức độ hấp dẫn này còn phụ thuộc
vào chất lượng của thị trường lao động và sức mua của đa số tầng lớp dân cư.
+ Trình độ phát triển của nền kinh tế
Trình độ phát triển của nền kinh tế là mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ
mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của
các nhà đầu tư nước ngoài, mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Các
yếu tố này có tác động mạnh hơn hẳn so với các chính sách khuyến khích ưu đãi
về tài chính của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước đã đưa đến một kết luận
rằng: những yếu tố như hệ thống giáo dục tốt, trình độ công nghệ cao, cơ sở hạ
tầng đầy đủ của một nước sẽ tạo sức cạnh tranh lớn hơn trong thu hút FDI. Còn ở
những nước có hệ thống giáo dục và y tế kém, trình độ công nghệ thấp, mức độ
mở cửa thương mại thấp, cạnh tranh yếu, thể chế không vững mạnh, mất ổn định
chính trị xã hội...., thì sức cạnh tranh trong thu hút FDI sẽ giảm. Những yếu tố
này đã được chính phủ nhiều nước Châu Á thực hiện tốt trong suốt quá trình công
nghiệp hoá. Tuy nhiên, trong khu vực Châu Á, mức độ nâng cao nội lực của các
nước cũng khác nhau. Trong khi Hàn Quốc, Singapo, Malaixia được coi là những
nước có cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại, nguồn nhân lực được đào tạo bài bản,
13
thì ở một số nước như Inđônêxia, Việt Nam, Ấn Độ...chất lượng nguồn nhân lực
và cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Bên cạnh
đó, những nước có xung đột tôn giáo, chính trị triền miên, nguồn nhân lực trình
độ thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, đói nghèo và dịch bệnh tràn lan như Châu Phi,
những yếu tố tĩnh mang tính hấp dẫn đầu tư không được phát huy. Có thể nhận
thấy FDI bao giờ cũng có hiệu suất cao hơn ở những nước có lực lượng lao động
được đào tạo tốt, dân chúng có thu nhập cao và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế –
xã hội hiện đại.
+ Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều quan tâm đến nhóm yếu tố văn
hoá xã hội như: phong tục tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ phát triển văn
hoá, khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ tăng dân số... vì nó quyết định đến thái độ tiêu
dùng và khả năng thanh toán của khách hàng tại các thị trường mục tiêu. Các yếu
tố này có thể thúc đẩy đầu tư, nhưng cũng có thể cản trở, kìm hãm các hoạt động
đầu tư nước ngoài.
- Các yếu tố thúc đẩy FDI
Đối với các nước chủ đầu tư, lượng FDI lớn hay nhỏ ra nước ngoài phụ
thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
+ Nhân tố quốc tế:
Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, những nhân tố mới quyết định sự dịch
chuyển dòng FDI trên thực tế là:
+ Tự do hoá thương mại, nghĩa là xoá bỏ các hàng rào thương mại, đang
đẩy lùi nhân tố lẩn tránh hàng rào thuế quan của dòng FDI và tập trung hơn vào
việc nâng cao sức cạnh tranh trong các hoạt động đầu tư hiện tại. Điều này cũng
làm tăng quy mô tiếp cận thị trường, chẳng hạn như đẩy mạnh xuất khẩu. Tất cả
các doanh nghiệp đều buộc phải nâng cao hiệu quả kỹ thuật và phản ứng tốt hơn
đối với các lực lượng thị trường không chỉ trong lĩnh vực thương mại, mà còn
trong các lĩnh vực dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Các công ty xuyên quốc gia TNCs
cần phải tái thiết lại cơ cấu kinh doanh của họ, tận dụng tất cả các tài sản của họ
để đạt được mức độ hoạt động tốt nhất (best practice), giảm sự xuất hiện của họ
trong các ngành không có lợi thế cạnh tranh nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy,
hoạt động của các TNCs ở nước ngoài thường kéo theo các chức năng liên kết
14
khác như R&D, quản lý tài chính, thu mua...với các nước nhận đầu tư để nâng
cao hiệu quả cho công ty. Tự do hoá thương mại đang đặt ra rất nhiều thách thức
mới đối với những nước đang phát triển để thích ứng với tình hình mới.
+ Cùng với tự do hoá thương mại, tự do hoá FDI cũng đang là nhân tố thúc
đẩy dòng FDI vào các khu vực và các nước. Ngày càng có nhiều những thoả
thuận ưu đãi đầu tư song phương giữa các nước. Nhờ đó, các TNCs được tự do
hơn trong vấn đề ra quyết định đầu tư, lựa chọn cách thức đầu tư và tăng nhanh
lợi nhuận. Nhờ có các hiệp định đầu tư song phương (BITs), các nước nhận đầu
tư đã thu hút được nhiều hơn nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý ... từ
phía đối tác đầu tư, thúc đẩy sự liên kết sâu rộng hơn giữa các công ty địa phương
với các chi nhánh của TNCs. Tuy nhiên, tự do hoá FDI đang tạo nên môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các quốc gia, các khu vực để cùng thu hút FDI.
Những nước không có những nỗ lực vượt bậc trong việc cải thiện môi trường đầu
tư sẽ bị đẩy ra ngoài dòng FDI đang được tự do hoá mạnh mẽ trên thế giới.
+ Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng đang là một yếu tố mới thúc đẩy
FDI. Toàn cầu hoá tạo nên mạng lưới sản xuất quốc tế rộng khắp. Khái niệm toàn
cầu hoá được phát triển cao hơn khái niệm quốc tế hoá. Chính tốc độ phát triển
nhanh chóng của toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy xu hướng tự do hoá thương mại, từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho các TNCs mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn cầu.
Trong xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học công nghệ đóng vai
trò quan trọng. Trên thực tế, động lực của quá trình sản xuất quốc tế ngày nay
phần lớn đều phản ánh bản chất, tốc độ và tính thâm nhập của tiến bộ công nghệ.
Các lĩnh vực công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông,
công nghệ vận tải mới... đang cho phép các TNCs mở rộng quy mô và quản lý
các hoạt động đầu tư quốc tế của mình một cách hiệu quả hơn. Vai trò chuyển
giao công nghệ của FDI đối với các nước nhận đầu tư cũng lớn hơn. Tuy nhiên,
để có thể tiếp cận nguồn công nghệ mới do toàn cầu hoá mang lại, các nứoc đang
phát triển cũng cần phải cải cách và nâng cấp các nguồn lực hiện có. Nếu không
có những nỗ lực như vậy, toàn cầu hoá kinh tế sẽ là rào cản cực lớn khiến các
nước bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển.
+ Nhân tố trong nước của nước đầu tư
- Tình trạng thiếu lao động trong nước, đặc biệt là lao động phổ thông vẫn
là nỗi lo thường nhật của chính phủ các nước công nghiệp phát triển. Vấn đề này
15
có thể giải quyết bằng hai cách: nhập khẩu lao động hoặc chuyển dịch cơ sở sản
xuất sang các nước đang dư thừa lao động. Tuy nhiên, hầu hết các nước phát triển
đều có xu hướng chọn cách thứ hai, bởi việc nhập khẩu lao động có thể gây ra
nhiều phí tổn và chấn động xã hội không tốt cho nền kinh tế trong nước.
- Tình trạng khan hiếm tài nguyên do đã khai thác triệt để thời kỳ công
nghiệp hoá hoặc nghèo tài nguyên. Do vậy, các nền kinh tế phát triển hầu hết đều
phụ thuộc vào các nguồn nguyên nhiên liệu nhập khẩu. Tuy nhiên, việc nhập
khẩu các nguồn tài nguyên này cũng gặp nhiều hạn chế từ phía chính phủ của họ
cũng như của những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Do vậy, FDI là cách
tốt nhất để khai thác và tận dụng triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ
nước ngoài.
- Chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của các chính phủ
Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của nước chủ đầu tư chủ yếu
bao gồm: các hiệp định đầu tư song phương (BITs), hiệp định tránh đánh thuế hai
lần (DTTs), trợ giúp tài chính trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, cung cấp các
thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài và chính sách đối ngoại của nước
đầu tư. Các hoạt động này tạo ra các cơ sở pháp lý và tiền đề cần thiết cho các
nhà đầu tư ở nước ngoài. Đây là các yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng
thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.
- Tiềm lực kinh tế, khoa học – công nghệ của nước đầu tư
Một nước chưa thể có đầu tư ra nước ngoài khi khả năng tích luỹ trong nội
địa còn quá thấp. Khi nền kinh tế có khả năng tích luỹ cao, mức dự trũ ngoại tệ
lớn thì lúc đó sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để khai thác hiệu quả của nguồn
vốn đầu tư dư thừa này. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, công nghệ luôn là
lợi thế quan trọng của nước đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài luôn gắn liền với
chuyển giao công nghệ nên nước đầu tư có tiềm năng công nghệ lớn sẽ khuyến
khích các công ty của họ đầu tư ra nước ngoài để tiêu thụ nguồn công nghệ này.
Thực tế cho thấy, những nước đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước
chiếm tỷ trọng cung cấp công nghệ cao trên thị trường công nghệ thế giới.
1.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước trong khu vực
1.2.1. Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á và những ảnh hƣởng đến
dòng FDI đối với một số nƣớc ASEAN
Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á bắt nguồn từ Thái Lan kể từ tháng 7
16
năm 1997 và lan ra một cách nhanh chóng sang các nước Đông Á khác có bối
cảnh và cơ cấu tương tự ở các nước này. Những khía cạnh giống nhau được quy
cho là mô hình chung về tăng trưởng kinh tế và phát triển ở Đông Á, đã bắt đầu
trở nên rõ nét kể từ sau nửa cuối thập kỷ 1980. Mô hình này, phổ biến ở cả Đông
Bắc Á và Đông Nam Á, được xếp vào loại tăng trưởng hướng vào xuất khẩu.
Chiến lược hướng vào xuất khẩu đã đạt được nhiều thành công ở các nền kinh tế
công nghiệp mới (NIEs) Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Hồng
Kông vào nửa cuối thập kỷ 1960, sau đó áp dụng rộng rãi ở Đông Nam Á như
Malaixia, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia từ nửa cuối thập kỷ 1980, đã mang lại
tăng trưởng kinh tế nhanh cho khu vực này. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế 2 con số kể từ cuối thập kỷ 1980 do có sự
bùng nổ của FDI và sự phát triển mạnh của xuất khẩu. Tuy nhiên, vào giữa những
năm 1990, mặc dù tăng trưởng kinh tế nhanh vẫn tiếp tục được duy trì nhưng đã
bắt đầu xuất hiện những khó khăn và thay đổi quan trọng. Trong số đó phải kể
đến những vấn đề nổi bật như tỷ giá hối đoái thực tế tăng, sự hình thành một nền
kinh tế bong bóng, tăng tỷ lệ đầu tư nước ngoài sử dụng vào các dự án nhằm thoả
mãn nhu cầu trong nước. Một vấn đề nghiêm trọng khác là khủng hoảng tài chính
tiền tệ đã lan khắp các nước Đông Nam Á, thậm chí sang cả các nước Đông Bắc
Á. Điều này có liên quan đến những vấn đề có tính chất cơ cấu kinh tế, do hầu hết
các nước này đều áp dụng mô hình kinh tế “đàn nhạn bay” theo quan điểm của
Akamatsu (đã đề cập ở trên), trong đó Nhật Bản là con nhạn đầu đàn, NIEs là
những con nhạn kế tiếp, sau đó đến các nước ASEAN... Sự phát triển phụ thuộc
và mang tính chất cơ cấu này đã dẫn đến tính tổn thương rất lớn của các nền kinh
tế. Khi một con nhạn bị ốm yếu và khủng hoảng, lập tức sẽ tạo ra một làn sóng
khủng hoảng và sụp đổ nền kinh tế dây chuyền và nhanh tới mức không thể
chống đỡ được.
1.2.1.1. Diễn biến khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997
Ngay từ năm 1996 đã xuất hiện những dấu hiệu về một cuộc khủng hoảng
tiền tệ, tài chính ở các nước Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin. Những dấu
hiệu này là: mức tăng xuất khẩu đã giảm mạnh trong năm 1996, ở Thái Lan chỉ
còn 8% so với mức 20%/năm của thời kỳ 1994-1995. Nợ bằng USD của ngân
hàng nước ngoài ở 4 nước trên chiếm tới 15-37% GDP vào cuối năm 1996, trong
đó số nợ phải đáo hạn trong 12 tháng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 50-70%. Dư nợ
17
ngân hàng đã tăng khá cao chiếm tới 50-110% GDP, do các ngân hàng của 4
nước trên vay USD với lãi suất thấp và tái cho vay bằng nội tệ với lãi suất cao, ăn
chênh lệch v.v... Nhiều chuyên gia đã cảnh báo chiều hướng xấu đi này của nền
kinh tế. Nhưng vì trong năm 1996 tốc độ tăng trưởng còn cao, dự trữ ngoại tệ
chưa suy giảm..., nên chính phủ các nước đã chưa tính tới việc áp dụng các biện
pháp đủ mạnh để ngăn chặn chiều hướng xấu đi trên đây.
Đến năm 1997 tình hình kinh tế xấu đi nhanh chóng hơn. Mức xuất khẩu
giảm mạnh hơn, cán cân thương mại thiếu hụt nghiêm trọng hơn, các chỉ số về
tiền tệ và tài chính xấu đi rõ rệt hơn. Cơn bão tiền tệ, tài chính đã bùng nổ đầu
tiên ở Thái Lan với việc chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Bath vào ngày
2/7/1997. Điều đó có nghĩa là chính phủ Thái Lan đã tung gần hết dự trữ ngoại tệ
để cứu đồng Bath, nhưng đã không cứu nổi, buộc phải thả nổi. Từ đó đồng Bath
mất giá liên tục, chỉ trong tháng 7 đã mất giá 24%, đến 7/1/1998 mất giá 110%,
mức kỷ lục trong lịch sử của Thái Lan. Ngày 11/7/1997, con bão đã tràn tới
Philippin. Chính phủ Philippin đã phải tuyên bố thả nổi đồng Peso. Đến 7/1/1998
đồng Peso mất giá tới 73%. Đồng Ringit của Malaixia cũng đã buộc phải thả nổi
tiếp theo và đã mất giá nghiêm trọng, đến ngày 7/1/1998 mất giá tới 88%. Cơn
bão tiền tệ đổ vào Inđônêxia chậm hơn nhưng dữ dội hơn. Ngày 13/8/1997 đồng
Rupiad của Inđônêxia so với đồng USD là 2625, ở thời điểm cao nhất tỷ giá này
đã mất giá tới 500%. Đến tháng 11/1997, cơn bão tiền tệ đã tràn sang Hàn Quốc
và đồng Won mất giá tới 100% so với những ngày đầu tháng 6/1997. Cơn bão
này cũng làm cho các đồng đô la Hồng Kông, đô la Singapore, đô la Đài Loan
đều bị mất giá theo với mức độ thấp hơn khoảng 15%.
Cơn bão tiền tệ này đã kéo theo nó cơn bão về tài chính, làm bùng nổ
khủng hoảng nợ ở các nước trên. Khối lượng nợ bằng USD đã tăng lên, nhưng
nghiêm trọng hơn là số nợ này tính bằng nội tệ đã tăng dữ dội cùng với sự mất giá
của các đồng tiền. Số dư nợ xấu (con nợ không trả được lãi từ tháng 6 trở lên) đã
lên tới khoảng 10-20% GDP của các nước trên, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho
hệ thống ngân hàng của các nước này hoàn toàn tê liệt. Chính cuộc khủng hoảng
nợ và hệ thống ngân hàng đã đẩy nền kinh tế các nước này lâm vào tình trạng suy
thoái trong năm 1997 và nhiều năm tiếp theo.
Biểu hiện nổi bật nhất của cuộc khủng hoảng tiền tệ là sự phá giá đột biến
của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, chủ yếu so với đồng USD đã làm cho giá trị
18
tài sản bằng USD của đất nước tăng lên. Xu hướng mất giá liên tục của đồng nội
tệ đã làm cho những người giữ nội tệ, giữ các giấy tờ có giá trị bằng nội tệ lo sợ,
bán tống, bán tháo chúng đổi lấy USD. Các đồng tiền của các quốc gia này đã là
những đồng tiền chuyển đổi, thị trường chứng khoán của các nước này đã được
quốc tế hoá, do vậy các nhà kinh doanh nước ngoài giữ tiền và chứng khoán của
các nước Châu Á cũng vội bán chúng để đổi lấy đồng USD, dẫn tới sự hoảng loạn
trên thị trường tiền tệ và tài chính. Những căn bệnh cấp tính về tiền tệ, tài chính
bột phát nghiêm trọng đã làm cho các căn bệnh mãn tính khác như tham nhũng,
cơ cấu đầu tư sai, sự móc ngoặc giữa các ngân hàng, tài chính nhà nước và các
công ty, hệ thống ngân hàng yếu kém không minh bạch, sự điều tiết thái quá của
nhà nước, gia đình trị... tái phát, tạo nên tác động xấu lên toàn bộ tình hình kinh
tế xã hội.
1996 1997 1998
1999 2000 2001 2002
2003
2004
1. Tăng trƣởng GDP (%)
Inđônêxia
7,82 4,70
-13,13 0,79 4,92
3,45
3,69
4,10
4,32
Malaixia
10,0 7,32
-7,36
6,14 8,86
0,32
4,15
5,31
8.01
Philippin
5,85 5,19
-0,59
3,41 4,38
4,52
3,12
4,70
6,15
Singapo
7,71 8,51
-0,86
6,42 9,41
-2,37 3,29
1,09
12,55
Thái Lan
5,90
-1,37
-10,51 4,45 4,76
2,14
5,41
6,75
6,29
ASEAN-5
7,46 4,87
-6,49
4,25 6,47
1,62
4,74
4,39
7,47
2. Tỷ lệ lạm phát (%)
Inđônêxia
10,3
77,5
12,5
10,0
7,9
2,0
9,3
5,1
6,3
Malaixia
3,3
2,3
5,4
2,1
2,1
1,2
1,7
1,2
1,9
Philippin
7,1
7,2
10,4
4,3
6,6
4,1
2,6
3,1
3,9
Singapo
2,0
2,0
-1,4
0,7
2,1
-0,6
0,4
0,8
0,1
Thái Lan
4,8
7,6
4,3
0,7
1,4
0,8
1,6
1,8
3,0
3. Thâm hụt tài khoản hiện hành (% GDP)
Inđônêxia
-3,4
-2,2
4,2
4,1
5,3
4,8
4,5
3,7
2,9
Malaixia
-4,4
-6,2
13,2
15,9 15,9
8,3
8,4
12,9
12,4
Philippin
-4,8
-5,3
2,4
10,4 10,4
1,8
5,5
4,4
2,8
Singapo
15,2 15,7
22,6
18,7 18,7
19,0
21,4
30,8
25,7
Thái Lan
-7,9
-2,0
12,7
10,2 10,2
5,4
5,5
5,6
3,8
Bảng 1. 1.Các chỉ số kinh tế cơ bản của ASEAN-5 giai đoạn 1996-2004 (%)
Nguồn: [38]
Cuộc khủng hoảng này lúc đầu chỉ tác động trong phạm vi khu vực, nhưng
19
càng ngày người ta càng nhận thấy tầm cỡ toàn cầu của nó và tạo ra dấu hiệu
khủng hoảng toàn cầu. Sau những năm 1997-1998, nền kinh tế thế giới gặp
những dấu hiệu suy thoái nghiêm trọng, một phần do những ảnh hưởng tiêu cực
và lan truyền từ khủng hoảng tài chính châu Á.
Những tác động của khủng hoảng trong năm 1998 đối với tăng trưởng
GDP và các chỉ số kinh tế vĩ mô của một số nước được thể hiện khá rõ trong bảng
1.1. Vào năm 1998, GDP của Inđônêxia tăng trưởng -13,13%, Thái Lan là -
10,51%, Malaixia là - 7,36%... Trong những năm sau đó, khủng hoảng vẫn tồn
tại, tuy nhiên mức độ khủng hoảng đã giảm bớt dần. Một số nước đã bắt đầu có
sự phục hồi kinh tế kể từ năm 1999.
Tuy nhiên, trong sự phục hồi kinh tế nhanh chóng của các nước ASEAN,
vẫn còn tồn tại rất nhiều dấu hiệu bất ổn.
Thứ nhất, trong số các nước ASEAN, Inđônêxia và Philippin có sự phục hồi
kinh tế chậm chạp hơn cả. Trong giai đoạn 1999-2004, kinh tế Inđônêxia chỉ đạt
mức tăng trưởng 3,55%, thấp nhất trong số các nước ASEAN-5, tiếp theo là
Philippin 4,38%. Nước phục hồi tăng trưởng kinh tế nhanh chóng nhất là
Malaysia với GDP tăng 5,47% và Singapore tăng 5,07% trong cùng giai đoạn.
Mặc dù chính sách kinh tế của tổng thống mới Inđônêxia đang tạo môi tường
thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, nhưng những tồn tại trong hệ thống ngân hàng,
luật pháp .. vẫn là rào cản dòng vốn FDI vào đất nước này. Trong giai đoạn
1995-2003 Inđônêxia chỉ nhận được 3,838 tỷ USD vốn FDI, bằng 1/10 so với
Malaysia và Thái Lan và chỉ bằng 1/35 so với Singapore. Còn tại Philippin, đất
nước này đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ, do nợ công của
Philippin đã tăng hơn gấp đôi kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á xảy ra
năm 1997, lên tới 3.360 tỷ peso (60,32 tỷ USD), bằng 130% GDP của đất nước.
Đây là tỷ lệ nợ thuộc diện cao nhất Châu Á. Trong khi đó, nợ nước ngoài của
Philippin tính đến cuối năm 2003 là 56,3 tỷ USD, chiếm 77% GDP. Cùng với sự
gia tăng về thâm hụt ngân sách, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Philippin liên tục
giảm, trong khi ở các nước như Singapore, Malaysia và Thái Lan cũng chịu tác
động của khủng hoảng năm 1997, FDI đã có dấu hiệu phục hồi trở lại. Cán cân
thương mại của Philippin cũng có chiều hướng thâm hụt nặng nề hơn nhiều nước
Châu Á, do chính phủ Philippin áp dụng thuế nhập khẩu để bảo vệ sự tập trung
quyền lực chính trị trong khi các ngành công nghịêp xuất khẩu lại hoạt động
20
không hiệu quả. Tính đến tháng 5/2004, thâm hụt cán cân thương mại của
Philippin là - 1,3 tỷ USD, trong khi Malaysia + 19,5 tỷ USD, Thái Lan + 1,7 tỷ
USD và Inđônêxia + 27,9 tỷ USD. Tính đến tháng 6 năm 2004, dự trữ ngoại tệ
của Philippin là 12,8 tỷ USD, thấp nhất trong khu vực Châu Á, trong khi
Malaixia đạt 53,9 tỷ USD, Thái Lan 42,3 tỷ USD và Inđônêxia 33,7 tỷ USD.
Thứ hai, hiện vẫn tồn tại nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ đối với nền kinh tế các nước ASEAN. Cuộc khủng hoảng đã bộc lộ
tính dễ tổn thương của các nền kinh tế này, trong đó đặc biệt là sự yếu kém của
hệ thống tài chính ngân hàng, nợ nước ngoài, sự lệ thuộc vào thương mại, tình
trạng giảm phát kéo dài trong nhiều năm. So với tốc độ tăng trưởng GDP 7-8%
của những thập niên trước đó, khủng hoảng đã đem lại tốc độ tăng trưởng GDP
hiện nay cho các nước ASEAN thấp hơn nhiều. Thu nhập đầu người cũng giảm.
Năm 1996, thu nhập bình quân đầu người của Inđônêxia là 1.114 USD, năm 2001
giảm còn 688 USD và 2003 dừng ở mức 977 USD. Tương ứng với các năm trên,
thu nhập đầu người ở Malaysia là 4814 USD, 3689 USD, 4141; ở Singapore là
25.127 USD, 20.735 và 21.829; ở Thái Lan là 3035, 1837 và 2241; ở Philippin là
1184, 924 và 978[38]. Khủng hoảng cũng làm tăng sự lệ thuộc của các nước vào
các khoản viện trợ, giúp đỡ về tài chính từ bên ngoài, sự ảnh hưởng và can thiệp
của nhiều nước lớn và các tổ chức quốc tế vào khu vực làm cho tình hình phát
triển kinh tế thêm phức tạp và căng thẳng. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bị
giảm sút, bởi sự mất cân cân đối trong phát triển cơ cấu ngành. Sự bỏ bễ các khu
vực nông nghiệp, lâm nghiệp, các ngành công nghiệp nặng truyền thống.... đang
tạo ra sự tụt lùi, thậm chí là triệt tiêu sự phát triển, tạo ra sự mất an ninh nghiêm
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh lương thực, khiến Inđônêxia, phải nhập khẩu 3,5
triệu tấn lương thực vào năm 1998. Trong giai đoạn 2000-2003, sản lượng nông
nghiệp của Philippin đạt trung bình 3,6%, thấp vào loại bậc nhất khu vực Đông
Nam Á mặc dù Philippin có tiềm năng rất lớn về nông nghiệp...Những nỗ lực tái
cơ cấu kinh tế cũng đang làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trong giai đoạn 2000-2003,
tỷ lệ thất nghiệp ở Philippin là 9,8% so với 4,8% của năm 1980. Khủng hoảng
kinh tế và sự phá sản của hàng loạt công ty cũng đẩy hàng loạt lao động không
lành nghề trong các khu vực đô thị ở Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia, Philipin
quay trở lại khu vực nông thôn truyền thống. Tỷ lệ thất nghiệp ở Inđônêxia đã
tăng từ 5,1% trong tháng 2/1997 lên 14,8% trong năm 1998 và hơn 15% vào năm
21
1999. Trước những năm cuối thập kỷ 90, người ta thường nhắc đến Châu Á với
tư cách là một khu vực ổn định xã hội vì sự thịnh vượng chung về kinh tế. Nhưng
trong những năm gần đây, những xung đột sắc tộc, bất ổn định xã hội, thậm chí là
tình trạng chia rẽ đất nước, bạo lực đã thường xuyên nổ ra, nhất là ở các nước
như Inđônêxia, Thái Lan, Philippin. Bất ổn định chính trị nổ ra ở Philippin,
Inđônêxia, Malaysia và sự ra đời của đất nước Đông Timor là hậu quả của sự bất
ổn trầm trọng tại Inđônêxia. Xét theo Chỉ số tham nhũng năm 2003, những nước
có mức độ tham nhũng tồi tệ nhất Châu Á vẫn là Philippin (đứng thứ 92/133
nước), Việt Nam đứng thứ 100, và Inđônêxia đứng thứ 122...
1.2.1.2. Những tác động đến dòng FDI của một số nước
Xu hướng FDI trong giai đoạn 1997-2004 ở các nước ASEAN cũng bị tác
động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Năm 1996, FDI vào
ASEAN-5 đạt 26,7 tỷ USD, năm 1998 giảm xuống còn 19,1 tỷ USD do tác động
mạnh của khủng hoảng và năm 1999 bắt đầu tăng trở lại, tuy nhiên vẫn đạt mức
rất thấp so với thời kỳ trước 1997. Vào năm 2002 FDI vào ASEAN-5 đạt 11,1 tỷ
USD và năm 2003 đạt 15,4 tỷ USD. Sự sụt giảm mạnh mẽ dòng vốn FDI ở
ASEAN-5 xuất phát chủ yếu là từ Inđônêxia và Malaixia. Trong giai đoạn 1995-
1998, FDI vào Inđônêxia chiếm 12,9% tổng lượng FDI vào 10 nước ASEAN,
nhưng trong giai đoạn 1995-2003 tỷ lệ này giảm còn 1,7%. ở Malaixia, tỷ lệ
tương ứng là 19,3% và 16,4%, ở Philippin là 5,4% và 5,3%. Singapo là nước có
sự cải thiện môi truờng đầu tư hiệu quả nhất với tỷ lệ FDI của đất nước này trong
ASEAN tăng từ 36,3% lên 48,9%, tiếp theo là Thái Lan tăng từ 13,7% lên 14,5%.
Xếp thứ hạng thu hút FDI trong 140 nước trên thế giới, trong giai đoạn 1980-
1990, Singapo đứng thứ 1, Malaixia đứng thứ 8, Thái Lan đứng thứ 25, Philippin
đứng thứ 39, Inđônêxia đứng thứ 63. Trong giai đoạn 1990-2000, thứ hạng của cả
5 nước trên đều tụt mạnh: Singapo thứ 18, Malaixia đứng thứ 44, Thái Lan thứ
41, Philippin thứ 89, Inđônêxia thứ 138, gần đứng cuối bảng [39].
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Malaysia
5,815
7,297
6,323
2,714
3,895
3,788
0,554
3,203
2,473
Philippin
1,577
1,618
1,261
1,718
1,725
1,345
0,982
1,111
0,319
Singapore
11,503
9,303
13,533
7,594
16,067
17,128
15,038
5,730
11,431
Thái Lan
2,070
2,338
3,882
7,491
6,091
3,350
3,886
0,947
1,869
Inđônêxia
4,346
6,194
4,678
-0,356
-2,745
-4,550
-3,279
0,145
-596
ASEAN-5
25,311
26,750
29,676
19,161
25,033
21,151
17,181
11,136 15,496
22
Bảng 1.2. FDI vào ASEAN-5 giai đoạn 1995-2003 (tỷ USD)
ASEAN-10
30,209
34,099
22,405
27,853
23,379
19,373
13,733 20,304
28,231 Nguồn: [38]
Do chiều hướng ảm đạm của dòng FDI vào ASEAN, những tác động của
nó đối với nền kinh tế cũng không lấy gì sáng sủa. Mặc dù trong những năm gần
đây, chính phủ các nước ASEAN đã cố gắng dỡ bỏ những rào cản đối với đầu tư
nước ngoài, nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều trở ngại về luật pháp làm cản trở đến
môi trường đầu tư. Sau khủng hoảng, chính phủ các nước đã nới lỏng quyền sở
hữu của các nhà đầu tư nước ngoài lên 100% trong nhiều lĩnh vực, nhưng nhìn
chung các nhà đầu tư nước ngoài vẫn không được phép sở hữu đất đai trong các
nhà máy sản xuất mà họ xây dựng, bị hạn chế trong việc sở hữu cổ phần trong
ngành công nghiệp viễn thông. Ở một số ngành công nghiệp khác, như ngành
khai thác mỏ ở Philippin, quyền sở hữu tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài chỉ
là 40%. Những rào cản luật pháp đó, cộng thêm với những yếu tố bất ổn định
chính trị, nguồn nhân lực không được nâng cao trình độ, cơ sở hạ tầng yếu kém,
nạn tham nhũng tràn lan (ở Inđônêxia và Philippin), giá nhân công tăng cao và thị
trường điện tử bão hòa (ở Malaysia) đã khiến cho dòng vốn FDI quốc tế chệch
hướng khỏi ASEAN-4 (trừ Singapore) và đổ vào các nước láng giềng như Việt
Nam và Trung Quốc.
Cùng với sự sụt giảm nhanh dòng vốn FDI, tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá chế
tạo trong các dự án FDI cũng không có sự thay đổi đáng kể, thậm chí còn giảm ở
Malaysia. Năm 1996, xuất khẩu hàng hoá chế tạo trong các dự án FDI ở Malaysia
là 84,4%, năm 2003 còn 80,6%. Tại các nước khác, tỷ lệ này thay đổi rất chậm:
Inđônêxia 59,2% và 59,4%; Philippin 85,6% và 91,8%, Singapore 87,8% và
89,4% và Thái Lan là 76,2% và 80,1%. Sự thu hẹp và rút vốn FDI ra khỏi
Inđônêxia khiến tỷ lệ thất nghiệp của đất nước này đạt 9,5% năm 2003 và ở
Philippin đạt 10,2%, cao nhất khu vực ASEAN.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và sự sụt giảm nhanh chóng dòng vốn
FDI cũng buộc chính phủ các nước ASEAN phải xem xét lại chính sách và tác
động của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở trong nước. Trong số các nước
này, chỉ có Singapore và Malaysia được đánh giá là những nươc tiếp thu công
nghệ nước ngoài thông qua FDI hiệu quả nhất nhờ có sự gia tăng đầu tư cho giáo
dục và đào tạo, chi phí R&D để tiếp thu công nghệ nước ngoài một cách hiệu
23
quả. Tổng chi tiêu R & D cho khoa học công nghệ của Singapore tăng từ 0,86%
GDP năm 1990 lên 2,11% GDP năm 2001 và của Malaysia tăng từ 0,62% năm
1997-1998 lên 1% năm 2000 [T/c KTTG, số 2/2005, trang 54). Trong khi đó vẫn
còn nhiều nước ASEAN dựa trên những công nghệ truyền thống, năng suất thấp
và tập trung nhiều lao động không lành nghề. Những công nghệ này đang gây sức
ép về môi trường sinh thái và hiệu quả cạnh tranh thấp và nó đang là nguyên nhân
chính khiến dòng FDI tháo lui khỏi Inđônêxia và Philippin. Giải pháp về phát
triển công nghệ có nhiều, nhưng điều quan trọng là phải đào tạo được nguồn nhân
lực có năng lực nghiên cứu và triển khai, đẩy mạnh xây dựng được một số ngành
công nghiệp mới và đặc thù, và có những chiến lược thu hút FDI hiệu quả vào các
ngành công nghiệp mục tiêu.
1.2.1.3. Phản ứng chính sách để thu hút trở lại FDI sau khủng hoảng
của một số nước
- Sửa đổi luật đầu tư nước ngoài: Sau khủng hoảng, Thái Lan là nước
ASEAN duy nhất sửa đổi luật đầu tư nước ngoài. Luật sửa đổi năm 1998 đã nới
lỏng những hạn chế về sự tham gia của người nước ngoài trong một số lĩnh vực
như luật pháp, kế toán, tư vấn, hầu hết các loại hình xây dựng…, tiến hành thay
đổi danh sách từ ngăn cấm sang giới hạn những lĩnh vực kinh doanh mà chỉ có
người Thái được tham gia. Tuy nhiên, các lĩnh vực xuất bản sách báo, nông trại
lại được hạn chế hơn. Những hạn chế trước đây về bán lẻ, kinh doanh chứng
khoán cũng được nới lỏng hơn và không yêu cầu phải có sự phê chuẩn đặc biệt
của chính phủ về sở hữu nước ngoài.
- Sửa đổi Luật phá sản: Đây là giải pháp được Thái Lan và Inđônêxia thực
hiện sau khủng hoảng, nhằm tạo ra khung pháp lí thông thoáng hơn cho đầu tư
nước ngoài. Tại Thái Lan, chính phủ đã ban hành Luật phá sản vào năm 1999.
Luật phá sản có rất nhiều điều khoản quy định rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ
của công ty cũng như bên chủ nợ công ty, do vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xử lí các tổ chức kinh doanh sản xuất yếu kém. Inđônêxia cũng đã sửa đổi
Luật phá sản, theo đó cũng quy định hai thủ tục là thủ tục phá sản và thủ tục tạm
hoãn nghĩa vụ thanh toán nợ.
- Nới lỏng những hạn chế về sở hữu: đây là biện pháp được hầu hết các
nước ASEAN-5 áp dụng sau khủng hoảng. Tại Thái Lan, kể từ sau khủng hoảng
tài chính 1997, những quy định về sở hữu nước ngoài ở Thái Lan đã được nới
24
lỏng. Đến năm 1993, BOI bắt đầu cho phép sở hữu 100% nước ngoài trong một
số dự án chế tạo hoặc trong các dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm. Tại
Malaysia, các biện pháp tự do hoá đầu tư nước ngoài được áp dụng kể từ năm
1998, cho phép sở hữu 100% nước ngoài trong tất cả các ngành chế tạo mà không
kèm theo các điều kiện xuất khẩu nào cho tất cả các dự án đầu tư mới được phê
chuẩn đến ngày 31/12/2003. Việc mở cửa hoàn toàn ngành chế tạo cho FDI đã
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài trong ngành chế tạo được cạnh tranh
tự do trên thị trường trong nước. Tại Inđônêxia, sự thay đổi chính sách FDI của
Inđônêxia liên quan đến chương trình cải cách IMF bao gồm: thu hẹp danh mục
các ngành đang đóng cửa đối với FDI; Dỡ bỏ những hạn chế đối với FDI trong
các ngành thương mại bán buôn; Yêu cầu sửa đổi lại cơ cấu và quy định của Uỷ
ban đầu tư theo hướng thúc đẩy đầu tư hơn các hoạt động mang tính điều tiết và
quản lí. Nếu như trước khủng hoảng, các công ty nước ngoài muốn đầu tư vào
các ngành viễn thông, hàng không, thương mại chỉ được sở hữu tối đa 49% cổ
phần công ty, thì theo Nghị định 118 năm 2000 các công ty nước ngoài đã được
sở hữu 100% vốn trong các lĩnh vực trên.
- Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp mũi nhọn. Sau khủng hoảng, vấn
đề cơ cấu kinh tế được chính phủ các nước chú trọng hơn. Chiến dịch cải cách cơ
cấu kinh tế ở các nứoc ASEAN-5 diễn ra theo hướng: hỗ trợ sản xuất, khuyến
khích thuế, tăng chi tiêu R&D, ưu đãi đầu tư vào các ngành ưu tiên… như dệt
may, chế biến thực phẩm, nông sản, công nghiệp nhẹ, các ngành công nghiệp và
dịch vụ, chính phủ nỗ lực đầu tư khoa học công nghệ, tìm kiếm những sản phẩm
mới, tập trung phát triển công nghệ phần mềm và vi mạch điện tử. Tại Malaysia,
kể từ năm 1997, các ngành công nghiệp công nghệ cao được ưu tiên hàng đầu
trong tám ngành công nghiệp then chốt là điện và điện tử, dệt và đồ thêu ren, hoá
chất, các ngành công nghiệp dựa nhiều vào nguồn tài nguyên khoáng sản, các
ngành thực phẩm và công nghiệp dựa nhiều vào nguồn tài nguyên nông nghiệp,
giao thông, nguyên liệu và cơ khí.
- Phát triển cơ sở hạ tầng: sau khủng hoảng, các nước ASEAN đều có
những chính sách nâng cấp và cải tạo cơ sở hạ tầng hiện có, nhằm tạo ra môi
trường tốt hơn cho đầu tư nước ngoài. Tiêu biểu cho chính sách cải thiện cơ sở hạ
tầng sau khủng hoảng ở ASEAN-5 là Malaysia, Philippin và Singapore. Tại
25
Malaixia, ngay sau khủng hoảng, chính phủ đã chi 4,042 tỷ RM cho việc làm
đường xá, cầu cống, đường sắt, cảng, hàng không dân dụng nhằm tạo môi trường
thuận lợi hơn nữa cho đầu tư nước ngoài. Đặc biệt. chính phủ đã thành lập Quỹ
phát triển cơ sở hạ tầng với khoản vốn đầu tiên là 5 tỷ RM giành riêng để trợ giúp
tài chính cho các dự án cơ sở hạ tầng đang tiến hành và các dự án liên quan đến
các phương tiện công cộng lớn, tránh sự trì hoãn do thiếu vốn và do những khó
khăn do khủng hoảng tài chính tiền tệ trong nước gây nên. Trong lĩnh vực xây
dựng cơ sở hạ tầng thông tin, chính phủ Philippin đã đề ra Kế hoạch công nghệ
thông tin quốc gia năm 2002 (NITP2000), đẩy nhanh việc thực hiện kế hoạch
“thành phố số hoá” khởi động kể từ năm 1996, nhằm xây dựng trung tâm vùng
vịnh Subic trở thành một thành phố có cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại và có sự
kết mạng nhanh chóng nhất với hệ thống viễn thông toàn cầu.
- Tăng cường hợp tác và liên kết kinh tế khu vực: Trong chương trình hành
động Hà Nội năm 2000, các nước ASEAN-5 đã tích cực điều chỉnh hàng rào thuế
quan của mình theo đúng như lịch trình đã đặt ra của AFTA, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xây dựng một Cộng đồng kinh tế ASEAN trong thời gian sắp tới.
Điều này góp phần làm tăng tính hấp dẫn của thị trường ASEAN đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Ủng hộ quan điểm tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN,
Hịêp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được kí vào tháng 10 năm
1998 là nhằm cung cấp một môi trường đầu tư tự do và thuận lợi hơn cho các
nước thành viên. Trong AIA, các nước thành viên đã nhất trí phát triển và thực
hiện ba chương trình cơ bản sau:
+ Hợp tác và tạo điều kiện cho đầu tư, thông qua việc tăng tính trong sáng
của các thủ tục, luật pháp, chính sách đầu tư, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư, mở
rộng số lượng các đối xử ưu đãi thuế trong các nước thành viên ASEAN. Các
nước thành viên cũng đồng thiết lập các cơ sở dữ liệu về đầu tư, thúc đẩy mối
ilên kết công cộng – tư nhân, xác định các lĩnh vực mục tiêu cho hợp tác công
nghệ.
+ Thúc đẩy đầu tư bằng cách thành lập các chương trình đào tạo lao động
kỹ năng, đào tạo chuyên gia, công nghệ và các hoạt động liên kết giữa các nước
thành viên.
+ Tự do hoá đầu tư thông qua giảm và huỷ bỏ các biện pháp hạn chế đầu
26
tư, thúc đẩy dòng vốn chảy vào tự do hơn.
Ngòai ra còn có những nhân tố tích cực ảnh hưởng đến đầu tư vào ASEAN
là Kế hoạch hành động ASEAN – Nhật Bản, nhấn mạnh vào sự hợp tác để tăng
cường tính cạnh tranh kinh tế giữa các nước thành viên, bao gồm cả việc thúc đẩy
đầu tư; Thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc vào thành 11
năm 2001 nhằm tạo ra môi trường tự do và thông thoáng hơn cho FDI giữa các
nước ASEAN và Trung Quốc vào năm 2010; Các nước ASEAN cũng đã kí Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN – Ấn Độ vào tháng 10 năm
2004 nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại - đầu tư giữa
các nước thành viên ASEAN và Ấn Độ. Với các dự án ASEAN +1 (gồm ASEAN
– Nhật Bản; ASEAN – Ấn Độ, ASEAN – Trung Quốc) hay ASEAN +3 (gồm
ASEAN – Nhật Bản – Hàn Quốc –Trung Quốc), các nước ASEAN đang nỗ lực
xây dựng một cộng đồng kinh tế cho riêng mình, tích cực cải cách cơ cấu kinh tế,
tự do hoá thương mại và đầu tư để tạo nên một ASEAN có môi trường kinh
doanh hấp dẫn và năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong thế kỷ XXI.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu những cơ sở lý luận, đặc điểm, vai trò của FDI trong
nền kinh tế, cũng như tình hình thu hút FDI sau khủng hoảng tài chính tiền tệ của
một số nước ASEAN, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cơ bản
sau:
Một là, các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, FDI có một tầm
quan trọng đặc biệt trong chiến lược công nghiệp hoá và phát triển kinh tế ở các
nước đang phát triển. Xuất phát từ những quan điểm lý thuyết và các mô hình lý
thuyết về FDI, thực tế thu hút FDI của một số nước ASEAN sau khủng hoảng...
có thể thấy công nghiệp hoá thông qua FDI (hay còn gọi là nhấn mạnh đến FDI)
cho phép các nước phát huy những lợi thế so sánh vốn có để phát triển kinh tế.
Vấn đề là ở chỗ cần phát huy lợi thế so sánh đó như thế nào. Về mặt lý thuyết,
các yếu tố kinh tế quyết định FDI được phân làm 3 nhóm: thị trường (đầu tư để
mở rộng thị trường), nguồn lực (đầu tư khai thác các nguồn lực để tiết kiệm chi
phí) và hiệu quả (đầu tư tìm kiếm hiệu quả). Những lợi thế của một quốc gia về
các yếu tố trên sẽ quyết định khả năng thu hút FDI, thông qua đó quyết định vị trí
của nó trong phân công lao động quốc tế. Nếu một quốc gia có lợi thế dựa trên
nguồn lực con người thì chiến lược công nghiệp hoá phải dựa trên việc phát triển
27
lợi thế này và định hướng thu hút FDI là nhằm khai thác nguồn lực con người của
nước đó. Trong chiến lược thu hút FDI theo chiều hướng này, các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ là ưu tiên hàng đầu và các chính sách về phát
triển nguồn nhân lực và thị trường lao động sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hai là, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội là yếu tố quan trọng tạo
môi trường hấp dẫn để thu hút FDI. Cơn bão tiền tệ tài chính châu Á năm 1997-
1998 đã dẫn đến sự mất ổn định kinh tế vĩ mô ghê gớm, làm rối loạn xã hội, tham
nhũng, nghèo khổ..., và nhiều đánh giá khác nhau đã quy về những khiếm khuyết
cố hữu của mô hình đông á. Sự mất ổn định này đã khiến nhiều nước khó thu hút
trở lại dòng vốn FDI vào nước mình (chẳng hạn như Inđônêxia, Philipin), mặc dù
cuộc khủng hoảng đã đi qua và chính phủ các nước đang nỗ lực hết sức mình để
ổn định lại tình hình và cải thiện môi trường đầu tư.
Ba là, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã rút ra một vấn đề quan trọng:
nếu một nước không có đủ các thiết chế ngân hàng và tài chính lành mạnh, thông
thoáng, đủ rõ ràng, thì khả năng kiểm soát rủi ro sẽ không có và nhà đầu tư nước
ngoài kém tin tưởng hơn vào môi trường đầu tư của nước đó. Khủng hoảng ở
ASEAN cho thấy, tam giác lợi ích giữa chính phủ – ngân hàng – doanh nghiệp
làm cho thiết chế tài chính ngân hàng của các nước này trở nên hư hỏng. Các
quan hệ móc ngoặc, hối lộ, không minh bạch giấy tờ, thủ tục, những chỉ thị ngầm
để được vay vốn ưu đãi, để được đầu tư ưu đãi... trở nên ngày càng trầm trọng,
khiến môi trường pháp lý, thể chế, tài chính ngân hàng trở nên trì trệ, có nguy cơ
sụp đổ rất lớn khi gặp những biến động tài chính. Đây cũng là một trong các
nguyên nhân quan trọng làm cho hệ thống ngân hàng và tài chính đã không dễ đổi
mới để có thể phản ứng linh hoạt, nhạy bén trước những biến động thị trường
trong và ngoài nước. Sau khủng hoảng, những cải cách tài chính ngân hàng đã
được nhiều nước Châu Á tiến hành, nhằm khai thông các dòng vốn lưu chuyển từ
ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương khác, khiến các
nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi làm ăn tại nước sở tại. Tuy nhiên, không
phải mọi quốc gia Châu Á sau khủng hoảng đều thực hiện tốt được vấn đề đó, và
tất yếu dòng FDI sẽ dịch chuyển về những nước có thiết chế tài chính – ngân
hàng lành mạnh hơn.
Bốn là, có một mối liên hệ rất mật thiết, gắn bó giữa mở rộng thương mại
và FDI. Chiến lược công nghiệp hoá thông qua FDI chỉ có thể thành công khi nó
28
được đảm bảo lợi ích của chính sách thương mại tích cực, nói cụ thể hơn là nó
phải gắn với tự do hoá thương mại. Các cơ sở lý thuyết và thực tiễn đều cho rằng
thu hút FDI trong điều kiện hàng rào thương mại chưa được gỡ bỏ sẽ dẫn đến xu
hướng thay thế nhập khẩu và độc quyền. Tự do hoá thương mại sẽ tạo áp lực cạnh
tranh đối với chính các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó nâng cao hiệu quả và hiệu
ứng liên kết của FDI.
Khi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á xảy ra, cũng có nhiều ý kiến cho
rằng các nước châu Á bị khủng hoảng là do họ mở cửa và hội nhập quá sâu, đặc
biệt trong lĩnh vực tiền tệ và tài chính. Từ đó, họ cho rằng cần có biện pháp giảm
bớt mức độ mở cửa và hội nhập quốc tế. Đó là một quan điểm sai lầm. Trong khu
vực châu Á, Singapore và Hồng Kông đã chịu ảnh hưởng ít nhất từ cuộc khủng
hoảng vừa qua. Lý do là tại các nước này, nền kinh tế mở cửa tự do, cơ chế thị
trường đã hoàn thiện, nhà nước ít can thiệp vào nền kinh tế, cạnh tranh bình đẳng,
thể chế tài chính ngân hàng theo thông lệ quốc tế..., do vậy các dòng vốn chảy
vào (cả vốn gián tiếp và vốn trực tiếp) đều rất hiệu quả. Rõ ràng, một chính sách
tự do hoá thương mại và đầu tư có mối liên kết rất chặt chẽ với nhau, khiến lợi
thế của quốc gia được khai thác hiệu quả, quy mô của nền kinh tế được mở rộng.
Những chính sách mở cửa một chiều, không đồng bộ sẽ khiến cho các thiết chế
kinh tế trở nên lạc hậu hơn, công ty trong nước được bảo hộ cao hơn và kém hiệu
quả hơn..., và điều đó sẽ khiến nền kinh tế phải chịu nhiều rủi ro hơn khi hội nhập
quốc tế.
Năm là, trong khủng hoảng tài chính kinh tế năm 1997, những nước chịu
tổn thất nhiều nhất về thu hút FDI là những nước có trình độ phát triển không bền
vững. Điều đó thể thiện ở việc kết hợp không nhuần nhuyễn giữa nâng cao năng
lực công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng yếu kém, khả năng
quản lý không tốt của chính phủ, tình hình mất ổn định chính trị - xã hội và cơ
cấu thu hút FDI phân theo ngành kinh tế không hợp lý . Điển hình là một số nước
như Inđônêxia, Philippin.. Trong khi đó những nước như Hàn Quốc, Singapo,
Malaixia, Thái Lan tuy có chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng, dòng FDI vào các
nước này cũng giảm sút, nhưng môi trường đầu tư vẫn mang tính cạnh tranh cao
trong khu vực do có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và hệ thống cơ sở hạ
tầng hiện đại vào loại bậc nhất Châu Á, và những cơ chế chính sách thu hút FDI
có nhiều điểm thông thoáng nhất. Để thực hiện vững chắc chiến lược thu hút FDI
29
sau khủng hoảng, các nước đi sau trong khu vực Châu Á có rất nhiều vấn đề cần
phải bàn, trong đó có những vấn đề thuộc về nâng cao tính cạnh tranh của môi
30
trường đầu tư và điều chỉnh hợp lý cơ cấu kinh tế.
Kết luận chƣơng 1
Từ sự phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn thu hút FDI của 1 số
nước ASEAN sau khủng hoảng, có thể rút ra những kết luận quan trọng sau:
Thứ nhất, các lý thuyết cơ bản FDI chủ yếu tập trung giải thích tại sao có
hiện tượng đầu tư ra nước ngoài. Dựa vào các lý thuyết trên, chúng ta có thể rút
ra một điều quan trọng: để xây dựng chiến lược công nghiệp hoá và thu hút FDI
của một quốc gia, cần phải tiếp cận các quan điểm lý thuyết, lấy đó là cơ sở khoa
học, đồng thời phải đồng nhất với lịch sử của thị trường thế giới và toàn cầu hoá.
Thứ hai, Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thế giới khác nhau, đầu có những
mô hình công nghiệp hoá, mở rộng thương mại và thu hút FDI thích hợp. Mô
hình thu hút FDI hiện nay là nó phải gắn chặt với toàn cầu hoá và mạng lưới sản
xuất quốc tế, do vậy các quốc gia có thể lựa chọn những chiến lược mở cửa và
hội nhập khác nhau để thu hút vốn, nền tảng công nghệ thông qua FDI, nhưng
không nhất thiết là phải đi theo trình tự phát triển như những quốc gia những thập
kỷ trước đó đã làm, mà có thể tìm giải pháp phát triển “rút ngắn” trong thời đại
kinh tế tri thức và công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay.
Thứ ba, chiến lược thu hút FDI của mỗi quốc gia được quy định bởi lợi thế
quốc gia của nó. Vì vậy, cần phải xác định một cách nghiêm túc lợi thế cơ bản
hiện nay của chúng ta là gì và phải làm thế nào để phát huy lợi thế đó. Tự do hoá
thương mại, cải cách chính sách trong nước nhằm phát huy nội lực đang là những
31
điều kiện quan trọng bậc nhất để thu hút FDI thành công.
Chƣơng II
THỰC TRẠNG FDI Ở VIỆT NAM
SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TIỀN TỆ CHÂU Á 1997 ĐẾN NAY
2.1. Tổng quan kinh tế Việt Nam và chính sách thu hút FDI trong giai đoạn
1987-1996
2.1.1. Sơ lƣợc kinh tế Việt Nam trƣớc thời kỳ đổi mới
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, kinh tế Việt Nam phải đối mặt
với nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn, đó là tái thiết nền kinh tế thời kỳ hậu chiến.
Hệ thống quản lý kinh tế cũ kỹ thời kỳ chiến tranh đã gây ra khủng hoảng kinh tế
- xã hội vào cuối thập kỷ 70-80. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục suy giảm, đất nước
phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu
của người dân. Vào năm 1980, những chỉ tiêu cơ bản của Đại hội Đảng lần thứ
IV (1976) hầu hết đều không thực hiện được. Nền kinh tế ở trạng thái trì trệ, sa
sút, đời sống nhân dân có nhiều khó khăn và Việt Nam nằm trong tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội ở mức báo động.
Khủng hoảng kinh tế tiếp tục chưa được khắc phục trong những năm thực
hiện kế hoạch 5 năm (1981-1985) đã dẫn đến tình trạng đói nghèo lan rộng. Để
đảm bảo đủ việc làm và thu nhập của dân cư không giảm thì ít nhất nền kinh tế
phải tăng trưởng 7%/năm. Nhưng trên thực tế, tăng trưởng kinh tế là rất thấp do
sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu. Tích luỹ tuy
nhỏ bé, nhưng toàn bộ quỹ tích luỹ và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào
nguồn vốn bên ngoài. Do không phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường và mở
cửa ra thế giới, nên các nguồn lực trong nước được sử dụng kém hiệu quả và
không mở rộng được quy mô sản xuất. Xuất khẩu không được khuyến khích và
các kênh huy động vốn đầu tư nước ngoài hầu như không được sử dụng, do đó đã
không tạo ra nguồn ngoại tệ cần thiết để đầu tư mở rộng sản xuất, thị trường bị bó
hẹp, phần lớn phụ thuộc vào viện trợ và vay nợ nước ngoài. Các thành phần kinh
32
tế không được khuyến khích phát triển, vì vậy phần lớn hàng hoá sản xuất và tiêu
dùng trong nước đều do khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chi phối,
khiến thị trường kém sức năng động và cạnh tranh. Hơn nữa, do kinh tế nhà nước
mở rộng với quy mô lớn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu đội ngũ
công nhân có tay nghề và trình độ, trong điều kiện kinh tế tư nhân không được
khuyến khích đã dẫn đến tình trạng sản xuất trì trệ, không đủ đáp ứng nhu cầu tối
thiểu trong nước, không kích thích nhu cầu đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, đổi mới và
sáng tạo. Nền kinh tế vì thế thiếu đi tính năng động cần thiết và tiếp tục rơi vào
tình trạng suy thoái không có lối thoát.
2.1.2. Kinh tế Việt Nam và chính sách thu hút FDI của Việt Nam trong
giai đoạn 1987-1996
2.1.2.1. Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1996
Một trong những thành công đáng tự hào nhất của Việt Nam là sản xuất
lương thực tăng rất nhanh, đưa Việt Nam từ một đất nước luôn thiếu thốn lương
thực trở thành nước xuất khẩu lương thực lớn thứ 3 thế giới, với xuất khẩu từ 3-4
triệu/tấn gạo/năm vào cuối giai đoạn này. Bắt đầu thời kỳ đổi mới, lạm phát đã
giảm từ 800% năm 1986 xuống còn 67,5% năm 1990 và ở mức 1 số vào cuối
thập kỷ 1990.
Từ cuối thập kỷ 1980, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng từ 2- 4% trong thời kỳ cuối
thập kỷ 1980 lên 3,9% trong thời kỳ 1986-1990 và 8,2% trong thời kỳ 1990-1995,
vượt mức kế hoạch đề ra. Trong giai đoạn 1991-1995, công nghiệp tăng trưởng
bình quân 13,3%/năm, nông nghiệp 4,5%/năm và dịch vụ tăng 12%/năm. Đại hội
VIII đã kết luận: Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm
trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc nhưng đã tạo
được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do đạt được tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu ngành kinh tế đã thay đổi theo
hướng phản ánh tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Trong lĩnh vực quan
hệ kinh tế đối ngoại, thương mại được phát triển không chỉ thông qua sự tăng
trưởng khối lượng và giá trị thương mại, mà còn thông qua sự đa dạng hóa sản
phẩm và thị trường. Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Việt
Nam đã tạo điều kiện cho đất nước phát huy được những lợi thế so sánh vốn có
33
về tài nguyên và lao động, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn phục vụ cho tăng
trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 1991-1995, kim ngạch xuất nhập khẩu không
ngừng tăng lên, gấp hơn 2 lần so với mức của thời kỳ 1986-1990, trong đó xuất
khẩu tăng lên 2,8 lần và nhập khẩu tăng lên 1,8 lần. Tốc độ xuất khẩu giai đoạn
1991-1995 đạt 20%/năm. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng có sự chuyển dịch
nhanh chóng. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
gồm dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều.
Tính đến năm 1995, Việt Nam đã thu hút được 1604 dự án FDI với tổng số
vốn đầu tư đăng ký đạt 18,8 tỷ USD, chiếm tới 30% tổng số vốn đầu tư phát triển
của cả nước. Vào năm 1996 luật đầu tư nước ngoài có sự sửa đổi theo hướng
thông thoáng hơn, nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nuớc ngoài vào những
mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên phục vụ chiến lược công nghiệp
hoá đất nước bao gồm các lĩnh vực chế biến chế tạo hướng về xuất khẩu và các
vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 còn đa
dạng hoá các hình thức đầu tư. Ngoài 3 hình thức đầu tư như hợp tác kinh doanh
liên doanh, 100% vốn nước ngoài, luật lần này còn bổ sung thêm hình thức hợp
đồng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), nhằm khuyến khích FDI vào đầu tư các
cơ sở hạ tầng. Bộ luật này tiếp tục được sửa đổi nhiều lần sau đó nhằm tạo ra môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Những thành tựu kinh tế quan trọng trong giai đoạn 1987-1996 cho thấy
kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng phát triển trì trệ và suy thoái, đạt được
những tiến bộ trong rất nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng và bắt đầu bước vào giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá kể từ năm 1996.
2.1.2.2 Chủ trương mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam kể
từ khi đổi mới
Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, theo 3 hướng chủ yếu sau:
+ Chuyển đổi từ chính sách hạn chế tư nhân sang nền kinh tế nhiều thành
phần với sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu nhằm phát triển sản xuất và nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân được khuyến khích phát
triển.
+ Từ cơ chế nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế
34
bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn liền với chế độ bao cấp sang nền kinh tế thị trường
với sự quản lý của nhà nước ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của
từng doanh nghiệp.
+ Từ cơ cấu kinh tế khép kín, mang nặng tính tự cấp tự túc, tách biệt với
kinh tế khu vực, kinh tế quốc tế, chuyển sang kinh tế phát triển với hệ thống kinh
tế mở đối với trong nước và ngoài nước.
Đại hội VII tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới do Đại hội VI đề ra,
hướng mạnh vào việc hình thành đồng bộ kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Đại hội VIII năm 1996 đã khẳng định mục tiêu “xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đạo, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội IX năm 2001 đã bổ sung nhiều quan điểm về công nghiệp hoá và
hiện đại hoá, với mục tiêu tổng quát là : “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; Thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”.
Đại hội X năm 2006 đưa ra mục tiêu tổng quát: đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và
tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, cải thiện rõ rệt đơì sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân tân. Tạo được
nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức,
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao vị thế của
Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Chiến lược mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng được
bắt đầu kể từ năm 1986, chú trọng đến phát triển đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ và rộng mở. Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định rõ đường lối độc lập tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại với phương châm: Việt Nam muốn là
35
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì hoà bình, độc lập và
phát triển. Đại hội lần thứ IX đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Văn
kiện Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng
cao vị thế nước ta trên trường quốc tế” . Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục nhấn mạnh: “ Phát huy cao nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững”...
Thực hiện đường lối và chủ trương trên của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
các kỳ đại hội, trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất
quan trọng trong việc mở rộng kinh tế đối ngoại. Tính đến nay, chúng ta đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với 169 nước, đã tham gia vào các tổ chức lớn như
ASEAN, APEC, ASEM, và chính thức là thành viên của WTO. Để phục vụ sự
nghiệp đổi mới đất nước và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu, nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là FDI, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Với
mục tiêu “nội lực là nhân tố quyết định nhưng ngoại lực cũng là nhân tố rất quan
trọng đối với sự phát triển đất nước...”, “kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước...”[62, p.27,29], chiến lược thu hút vốn
FDI của chính phủ Việt Nam là nhằm tranh thủ nguồn lực về vốn, công nghệ, kỹ
năng quản lý của nước ngoài để khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước,
mở rộng hợp tác quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.2.3. Chính sách thu hút FDI của Việt nam giai đoạn 1987-1996
Xuất phát từ chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế, ngày 29 tháng 12 năm 1987 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã
được ban hành. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 cam kết: đảm bảo không tịch
thu, quốc hữu hoá vốn và tài sản sở hữu hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài;
không quy định mức đóng góp vốn tối đa cho các nhà đầu tư nước ngoài nhưng
mức tối thiểu không được thấp hơn 30% của tổng vốn đầu tư. Luật năm 1987 đã
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư ở Việt nam theo các hình thức
đầu tư phổ biến trong khu vực và quốc tế (hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
36
đồng, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Mức thuế
cũng thấp, khoảng 15-25% tổng lợi nhuận thu được. Hơn nữa, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi có lãi và tiếp
tục được giảm 50% ở 2 năm tiếp theo. Trong một số trường hợp đặc biệt, mức
thuế lợi tức còn thấp hơn (10%) và thời gian miễn giảm thuế cũng dài hơn (4
năm). Ngoài ra, Luật còn cho phép các nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về nước với
mức thuế suất từ 5-10%.
Năm 1990, Luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung và sửa đổi, trong đó nổi
bật là: cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần chiếm đa
số vốn điều lệ được độc lập tham gia đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài (trừ
trường hợp có quy định cụ thể); góp vốn không bị hạn chế mức tối đa nhưng giới
hạn ở mức tối thiểu không thấp hơn 30% của vốn pháp định; các mức ưu đãi thuế
được đi kèm với các điều kiện cụ thể (chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu, số
lượng lao động...); cho phép tính lãi suất vay vào chi phí đầu tư... Luật đầu tư
nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã điều chỉnh mức thuế lợi tức phổ biến là từ 21%
đến 25%, mức ưu đãi là 15% đến 22% được dành cho các xí nghiệp có hai trong
các điều kiện sau: +)Vốn pháp định ít nhất 10 triệu USD; +) Công nghệ chuuyển
giao cho xí nghiệp đáp ứng được những yêu cầu về chuyển giao công nghệ nước
ngoài tại Việt Nam; +) Xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ
thu ít nhất 80% ngoại tệ; +) Tỷ suất lợi nhuận thấp so với tỷ suất lợi nhuận chung
của ngành; +) Đầu tư vào những vùng địa lý không thuận lợi; +) Đầu tư trong 5
năm đầu thực hiện luật đầu tư. Như vậy so với Luật của năm 1987, những quy
định về mức thuế lợi tức năm 1990 có vẻ rườm rà hơn, tỷ lệ đánh thuế cao hơn
đối với các doanh nghiệp FDI.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được sửa đổi lần thứ 2 vào năm
1992. Sau 4 năm thực hiện , Luật đầu tư nước ngoài lại được bổ sung sửa đổi lần
thứ 3 vào năm 1996 với các đặc điểm và sửa đổi cơ bản là: gắn các khuyến khích
ưu đãi đầu tư theo định hướng phát triển của nền kinh tế; cho phép người nước
ngoài góp vốn bằng VND có nguồn gốc từ ngoại tệ, đa dạng thêm các hình thức
đầu tư: xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), xây dựng – chuyển giao –
kinh doanh (BTO); Đây là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các
cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó
có nhà thầu bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian
37
nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận, sau đó chuyển giao công trình cho nhà
nước Việt Nam khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào.
Loại hình này thường được áp dụng cho các công trình giao thông vận tải, cầu
cống, cơ sở hạ tầng khác...; tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp; mở rộng
khuyến khích lĩnh vực đầu tư (bệnh viện, đào tạo); rút ngắn thời hạn thẩm định
giấy phép đầu tư; phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài và giảm nhẹ
các thủ tục hành chính khác. Vào năm 1996, Luật thuế lợi tức rút gọn lại còn 3
mức: 25%, 20%, và 10% tuỳ từng đối tượng khuyến khích. Thời hạn miễn thuế
lợi tức từ 2 đến 8 năm, giảm 50% thuế trong vòng hai năm tiếp theo tuỳ thuộc vào
lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư. Cùng với các sửa đổi bổ sung này đã có hàng
loạt các văn bản, nghị định ra đời để hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật.
Bên cạnh các chính sách cơ bản như đã phân tích ở trên, chính phủ Việt
Nam còn áp dụng nhiều chính sách quan trọng khác đối với đầu tư nước ngoài.
Cụ thể là: +) điều kiện thuận lợi bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp cho các
nhà đầu tư về chuyển giao công nghệ, khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên
tiến; +) Để đảm bảo quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà đầu tư, chính phủ
Việt nam cũng đã ban hành Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (1994), Pháp lệnh
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1995) với các đối tượng sau đây được bảo hộ:
sáng chế (thời hạn bảo hộ 15 năm), giải pháp hữu ích (6 năm), kiểu dáng công
nghiệp (5 năm), nhãn hiệu hàng hoá (10 năm), tên gọi xuất xứ hàng hoá, chứng
nhận chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14.000, .. ; +) Tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất nhập cảnh và được phép mang theo chuyên gia, kỹ thuật
viên nước ngoài vào Việt Nam. +) Chính phủ có những quy định về mức lương
tối thiểu của lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nâng
cao hơn mức độ tự do trong việc tuyển dụng người làm việc cho các công ty nuớc
ngoài. Được phép điều chỉnh lương cho người lao động khi chỉ số giá tiêu dùng
tăng 10% trở lên; +) Thực hiện việc giảm bớt thời hạn cấp giấy phép đầu tư và
thực hiện chính sách quản lý theo nguyên tắc “một cửa”, rút dần thời hạn cấp giấy
phép từ 90 ngày (1987) xuống 30 ngày (2000), thậm chí chỉ còn 15 ngày ở 1 số
khu công nghiệp, khu chế xuất; +) Chế độ phân cấp đầu tư ngày càng gọn nhẹ. Kể
từ quyết định 233/1998/ QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đã thực hiện việc
phân cấp toàn diện trong tất cả các khâu từ cấp mới giấy phép, điều chỉnh bổ sung
giấy phép, quản lý hoạt động của các dự án trên địa bàn cho rất cả các Uỷ ban
38
nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Theo quyết định này, các
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương được phân cấp tiếp nhận hồ sơ, thẩm
định và cấp phép dự án có quy mô không quá 5 triệu USD (riêng Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh là 10 triệu USD), trừ một số trường hợp như các dự án thuộc
nhóm A, các dự án thuộc lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất điện, xi
măng, xây dựng cảng biển, sân bay, đường quốc lộ. Quyền phân cấp dự án được
mở rộng cho Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo quy định, ban
quản lý KCN, KCX được quyền thẩm định và cấp phép đầu tư với các dự án quy
mô không vượt quá 40 triệu USD, được tự quyết định cấp giấy phép đầu tư cho
các dự án không vượt quá 5 triệu USD.
Ngoài các chính sách trên, ổn định chính trị là yếu tố hết sức quan trọng để
thúc đẩy FDI vào Việt Nam. Sự ổn định chính trị đã giúp các nhà đầu tư nước
ngoài tính toán và dự báo được xu thế đầu tư của họ trong thời gian lâu dài nhất,
tránh những xáo động gây tâm lý không an tâm và không dám đầu tư lớn, đầu tư
mạo hiểm vào Việt Nam.
2.1.3. Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 1987-1996
Trong giai đoạn 1986-1996, kinh tế Việt Nam được phân thành hai giai
đoạn chủ yếu: Giai đoạn 1986-1990 là thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới với rất
nhiều yếu kém cần phải khắc phục; giai đoạn 1991-1996: thời kỳ đất nước ta ra
khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt đỉnh cao về tốc độ tăng trưởng vào năm 1996.
Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam trong thời kỳ 1987-1996 dường như cũng đi
theo xu hướng phát triển của nền kinh tế, được phân thành hai giai đoạn chủ yếu:
- Giai đoạn 1: từ 1988 đến 1990: Đây được coi là giai đoạn khởi động của
dòng FDI. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam mới thực hiện chính sách đổi mới và
mở cửa kinh tế được 2 năm và ban hành luật đầu tư nước ngoài được 1 năm. Thế
giới chưa biết đến Việt Nam với tư cách là một đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh
tế và kết giao với các châu lục không phân biệt tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Trong giai đoạn này, người nước ngoài vào Việt Nam như đến với một
vùng đất mới, xa lạ, hấp dẫn nhưng họ lại thận trọng vì sợ mạo hiểm. Do vậy,
trong 3 năm 1988-1990, tổng vốn đăng ký mới đạt 1582 triệu USD, còn vốn thực
hiện thì không đáng kể, bởi trong giai đoạn này các doanh nghiệp FDI sau khi
được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiét mới đưa được vốn vào Việt
39
Nam.
- Giai đoạn 2: từ 1991 đến 1996: Đây là thời kỳ FDI tăng trưởng nhanh và
góp phần nhiều nhất vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của
Việt Nam. Trong thời kỳ này, tổng FDI vốn đăng ký đạt 24.884 triệu USD và
tổng vốn FDI thực hiện đạt 10076 triệu USD, bằng 40,5% vốn đăng ký trên cả
nước. Đặc biệt, FDI vào Việt Nam đã đạt đỉnh cao vào năm 1995 và 1996. Trong
hai năm này, số đăng ký đạt 7370,5 triệu USD và 8640 triệu USD tương ứng.
Hàng loạt các dự án mới có tính chất quan trọng đối với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Việt Nam và nhiều dự án quy mô lớn đã ra đời trong thời điểm này,
điển hình là các dự án liên doanh chế tạo điện tử, sinh học, chế tạo xe máy, ô tô,
khai thác dầu khí, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp....Trong thời kỳ này,
cũng phải kể đến sự đóng góp của Diễn đàn quốc tế về đầu tư nước ngoài tổ chức
tại Việt Nam năm 1991, thu hút sự tham gia quy mô lớn của hơn 650 khách quốc
tế và đại diện của một số tổ chức quốc tế như UNIDO, IMF, WB, ADB, ESCAF,
UNDP...Đây là sự kiện quan trọng để thế giới bên ngoài hiểu về quan điểm mở
cửa và hội nhập kinh tế và những chính sách thu hút FDI của chính phủ Việt
Nam.
Nhiều đánh giá khác nhau đã nhìn nhận năm 1996 là mốc quan trọng đánh
dấu một giai đoạn tăng trưởng kinh tế và gia tăng dòng vốn FDI với khối lượng
lớn. Đầu tư nước ngoài liên tục gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, đạt mức kỷ
lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký vào năm 1996 (nếu tính cả vốn đăng ký
tăng thêm của năm trước đó thì năm 1996 vốn đăng ký vào Việt Nam lên tới 10,
164 tỷ USD (bảng 2.2.). Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là khoảng 50%/năm. Trong các giai
đoạn sau đó, Việt Nam chưa khi nào lấy lại tốc độ tăng trưởng tăng vốn FDI kỷ
lục như vậy.
Bảng 2.1. Tổng hợp thực hiện FDI vào Việt Nam
giai đoạn 1991-1996 (triệu USD)
Chỉ tiêu
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn
Vốn đăng ký
1275
2027
2589
3746
6607
8640
Tăng vốn
50
240
516
1318
788
9
Giải thể
402
79
292
509
1141
240
Hết hạn
13,9
38
0,1
45,5
146,1
1
40
Vốn còn hiệu lực
1043 1661,1
2712 3969,9 7370,5 8140,9
Luỹ kế vốn còn hiệu lực
2599
4260
6972
10942
18313 26453
Vốn thực hiện
427
557
1116
2237
2792
2795
Vốn từ nước ngoài
375
492
931
1946
2343
2518
Vốn của doanh nghiệp VN
52
65
185
291
449
277
Doanh thu
152
232
595
1074
2053
2771
KN xuất nhập khẩu
Xuất khẩu
52
112
269
445
920
352
Nhập khẩu
35
56
223
1468
2042
600
Tỷ trọng của FDI/GDP (%)
2,6
2,6
6,5
8,8
7,4
6,8
Nộp ngân sách
128,0
195,0
363,0
Tốc độ tăng GDP của khu vực
15
19,4
FDI (%)
Lao động trực tiếp (1000 ngƣời)
200
220
Nguồn: [36]
Trong giai đoạn 1987-1996, FDI đã có những tác động tích cực tới sự phát
triển kinh tế của Việt Nam trên một số mặt chủ yếu sau:
- FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế của
Việt Nam. Mặc dù sự phân bổ các dự án không đồng đều, phần lớn tập trung ở
các tỉnh thành phố lớn như TP Hồ CHí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, Bình Dương, Hải Phòng..., nhưng nó cũng là nguồn vốn đáng kể giúp các
địa phương này phát triển kinh tế thuận lợi hơn so với các tỉnh, thành phố và các
địa phương khác. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài thuần tuý chiếm tới 7,4% GDP
vào năm 1996, tăng so với 2,6% GDP năm 1991. Nó đã góp phần hình thành, mở
rộng, hiện đại hoá các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí,
hoá dầu, điện tử, ô tô, xe máy, giày dép, hoá chất, phân bón, dệt may, chế biến
nông sản, thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, khách sạn... Năng lực tăng thêm
của những ngành, lĩnh vực có vốn FDI đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy
nhanh định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua FDI, nhiều nguồn lực
trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên... được khai thác và sử dụng tương
đối hiệu quả.
- Hoạt động của FDI góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng GDP của Việt
41
Nam trong thời kỳ 1991-1996. Vào năm 1995, tốc độ tăng GDP của khu vực FDI
là 15%/năm, năm 1996 là 19,4%/năm, cao gấp 2-2,5 lần tốc độ tăng GDP của nền
kinh tế. Từ năm 1994 trở đi, khu vực FDI đã bắt đầu có những đóng góp ngày
càng tăng cho ngân sách nhà nước và xuất khẩu hàng hoá, góp phần cải thiện cán
cân vãng lai, cán cân thanh toán và mở rộng nguồn thu ngoại tệ.
- Hoạt động FDI đã dần chuyển sang các ngành công nghiệp nặng, công
nghiệp chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng. Tỷ trọng vốn thực hiện trong ngành
công nghiệp (trừ dầu khí) và xây dựng trên tổng số vốn thực hiện đã tăng tương
ứng từ 13,8% và 0,5% năm 1991 lên 20,1% và 8,2% vào năm 1995. Điều này đã
góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều ngành nghề, sản
phẩm mới, hình thành và làm tăng năng lực của các ngành công nghiệp đặc biệt
như dầu khí, bưu chính viễn thông, hoá chất, hoá dầu, điện tử, tin học, ô tô, xe
máy, dệt may, giày dép. Đồng thời, FDI còn góp phần phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao kỹ năng và trình độ quản lý, thúc đẩy chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam.
2.2. Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam từ năm 1997 đến nay
2.2.1. Những thay đổi trong chính sách FDI và động thái thu hút FDI
ở Việt Nam kể từ năm 1997
2.2.1.1. Sự thay đổi chính sách FDI của Việt Nam kể từ năm 1997
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kể từ năm 1997 bắt đầu có sự suy giảm
mạnh mẽ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết, phải nói đến cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ châu Á bắt đầu từ năm 1997. Cuộc khủng hoảng này đã tác
động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư của nhiều nước Châu
Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước ASEAN... Trong khi đó, đối tác
đầu tư chủ yếu của Việt Nam lại là các bạn hàng Châu á này. Do vậy, khủng
hoảng và suy thoái trong nước khiến các nhà đầu tư Châu á lần lượt rút vốn về
nước, làm cho FDI của Việt Nam suy giảm. Hơn nữa, khủng hoảng cũng làm cho
xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp FDI giảm, chi phí tăng cao..., do vậy
việc rút giấy phép đầu tư và giải thể doanh nghiệp FDI ở Việt Nam là điều không
thể tránh khỏi.
Thứ hai, trong khi đồng tiền các nước NIEs, ASEAN, giảm giá trong
khủng hoảng và các nước này đang tích cực cải cách kinh tế để khắc phụ khủng
42
hoảng bằng các biện pháp như cải cách hệ thống ngân hàng, tư nhân hoá, cắt
giảm chi phí kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, điều chỉnh cơ cấu xuất
khẩu, phát triển công nghệ..., thì Việt Nam vẫn là nước có môi trường đầu tư dần
trở nên kém hấp dẫn sau 7-8 năm đạt được tốc độ tăng trưởng kinh té và FDI rất
mạnh. Thủ tục hành chính trở nên phiền hà, cơ sở hạ tầng xuống cấp, chi phí kinh
doanh cao, nguồn nhân lực còn gặp nhiều vấn đề, quản lý nhà nước chưa hiệu
quả... Việc sửa đổi Luật đầu tư nuớc ngoài năm 1996 có nhiều điểm còn làm cho
các nhà đầu tư nước ngoài e ngại và chưa thực sự hấp dẫn. Chẳng hạn như vấn đề
thuế doanh thu chồng chéo, thuế thu nhập cá nhân không sửa đổi kịp khi hầu hết
các nhà đầu tư nước ngoài đều gặp khó khăn kinh tế do khủng hoảng... Hầu hết
các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia nghiên cứu kinh tế trong và ngoài
nước đều đánh giá: trong khủng hoảng môi trường đầu tư nước ngoài của Việt
Nam mới bộc lộ rõ sự xuống cấp nghiêm trọng.
Trước tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới có nhiều biến động
bất lợi, cùng với môi trường đầu tư xuống cấp như trên, năm 2000 Việt Nam tiếp
tục sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài theo hướng cởi mở hơn, minh bạch và có tính
cạnh tranh cao hơn, từng bước xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài. Nội dung của lần sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 như
sau:
+ Nới lỏng tỷ lệ sở hữu nước ngoài: Cho phép sở hữu 100% vốn nước
ngoài trong các ngành như trồng rừng (rừng phòng hộ do nhà đầu tư hỗ trợ vốn,
giống, kỹ thuật, phân bón, thu mua sản phẩm theo hợp đồng), du lịch, cơ khí,
thép, công nghệ thông tin và xuất bản mang tính kỹ thuật (in tài liệu kỹ thuật, bao
bì, nhãn mác hàng hoá...).
+ Mở rộng thời hạn hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi: Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án và địa bàn khuyến khích đầu tư
được hưởng các mức thuế ưu đãi trong suốt thời gian thực hiện dự án đầu tư.
+ Huỷ bỏ việc đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
+ Hoàn trả thuế thu nhập doanh nghiệp: Hoàn trả một phần hoặc toàn bộ
thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư nếu tái đầu tư vào
các dự án được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; và vốn tái đầu tư
được sử dụng từ 3 năm trở lên.
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định
43
và đối với nguyên liệu phụ tùng thay thế; miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản
xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với các dự án thuộc danh mục dự
án đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn.
+ Nới lỏng tỷ lệ tham gia góp vốn cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua tối đa là 30% (trước kia là 20%) cổ
phần trong các công ty của Việt nam với số ngành nghề tham gia là 35 ngành
(trước kia là 12 ngành); cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được chuyển thành các công ty cổ phần, tạo điều kiện để các công ty này được
niêm yết trên thị trường chứng khoán.
+ Chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hợp đồng
hợp tác kinh doanh trong quá trình chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất doanh nghiệp.
Gần đây, trong Nghị định 27/2003/NĐ-CP ban hành ngày 19/3/2003, chính
phủ đã cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam được hợp tác với nhau hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam. Hoặc doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài đã được thành lập tại Việt Nam có thể được liên doanh với doanh
nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh và các cơ sở khám chữa bệnh, giáo
dục đào tạo, nghiên cứu khoa học để lập ra 1 liên doanh mới. Hay như các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài được phép hợp tác với tổ chức cá nhân nước ngoài
dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Ngày 29/11/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư mới nhằm
tạo môi trường ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư năm 2005
chính thức có hiệu lực từ 1/7/2006, thay thế Luật đầu tư nước ngoài năm 1996,
Luật đầu tư sửa đổi năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998,
áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đây là một bước tiến
quan trọng về cải thiện hành lang pháp lý để thu hút đầu tư. Những lĩnh vực ưu
đãi đầu tư trong luật 2005 mở rộng hơn, gồm: sản xuất vật liệu mới, năng lượng
mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ khí
chế tạo; nuôi trồng, chế biến nông lâm thuỷ sản, làm muối, sản xuất giống nhân
tạo, giống cây trồng, giống vật nuôi; sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại,
44
bảo vệ môi trường sinh thái, nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao; sử
dụng nhiều lao động; xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án quan trọng
có quy mô lớn; phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao, văn hoá dân
tộc; phát triển ngành nghề truyền thống...; Các địa bàn ưu đãi đầu tư và các vùng
có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế, khu công nghệ cao. Những quyền ưu đãi về thuế, hỗ trợ chuyển giao công
nghệ cũng đựơc khuyến khích hơn nữa. Điều quan trọng là sự phân cấp đầu tư kể
từ tháng 7/2006 được phân về cho các địa phương quản lý; không phải qua Bộ kế
hoạch và đầu tư. Chủ trương tối ưu hoá việc quản lý, phân cấp đầu tư như trên
nhằm tạo ra tính minh bạch, đơn giản, gọn nhẹ cho công tác quy hoạch và cấp
phép đầu tư.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng sửa đổi, bổ sung một loạt các bộ luật khác để
tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng nhà
nước, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật thuỷ sản...
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực
từ 1/1/2004 đã quy định danh mục lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng
như thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một số tiêu chí áp dụng ưu đãi mới nhằm
khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao và sử dụng
nhiều lao động.
Cùng với việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngoài, Việt
Nam cũng đã có các biện pháp khuyến khích FDI quay trở lại sau năm 1997, cụ
thể là:
+ Từng bước giảm và điều chỉnh giá, phí thống nhất đối với đầu tư nước
ngoài xuống mức có thể cạnh tranh được với khu vực và thế giới. Hiện nay giá
bưu chính viễn thông và giá nước sạch đã thống nhất một giá. Mức chênh lệch về
một số giá, phí khác giữa đầu tư trong nước và nước ngoài cũng đang giảm dần
và được xoá bỏ từ 1/7/2006.
+ Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư: năm 2002 chính phủ và các ngành,
các cấp đã tiếp tục duy trì đối thoại thường xuyên với các doanh nghiệp nước
ngoài để giải quyết những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp gặp phải
trong thực tế; tranh thủ ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài để hoàn thiện môi
trường FDI tại Việt Nam. Lãnh đạo chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư cũng đã tổ
45
chức nhiều đoàn vận động đầu tư tại các nước châu Âu, Mỹ, Nhật Bản..., thu hút
được sự quan tâm chú ý của cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài. Năm 2003
Sáng kiến Việt – Nhật về nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư
được khởi xướng; đề nghị liên kết 3 bên Xingapo- Nhật Bản – Việt Nam về tăng
cường đầu tư vào Việt Nam; Những cuộc hội thảo, bàn biện pháp thúc đẩy đầu tư
vào Việt Nam thông qua Chính sách hướng Nam của Đài Loan; chính sách tăng
cường đầu tư cảu Hàn Quốc... Năm 2006 chính phủ Việt Nam đã xúc tiến triển
khai nội dung kết nối 2 nền kinh tế về đầu tư giữa Việt nam – Xingapo; xây dựng
thêm đầu mối hợp tác xúc tiến đầu tư tại Mỹ; Tổ chức Đoàn khảo sát công nghiệp
ở Nhật Bản Tất cả những bước xúc tiến đầu tư như trên đang tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài hiểu biết hơn về môi trường đầu tư của Việt nam hiện
nay.
+ Các khung pháp lý song phương và đa phương về FDI cũng ngày càng
hoàn thiện. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ năm 2001 mở ra cơ hội mới cho
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường
Mỹ, tạo điều kiện để thu hút FDI vào các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu vào thị
trường này. Chính phủ Việt Nam cũng đã ký kết hiệp định song phương về đầu tư
với một số đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam như Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Cơ chế pháp lý đa phương ngày càng được củng cố, mở rộng với việc chính phủ
Việt Nam ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp đinh khung về khu vực đầu tư ASEAN,
tham gia Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN- Trung Quốc và
các Hiệp định tương tự với Nhật bản, Ấn Độ, đồng thời tích cực triển khai
Chương trình hành động về tự do hoá đầu tư và xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ
APEC, ASEM. Việc thực hiện các cam kết, thoả thuận song phương và đa
phương về đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận
rộng rãi hơn với thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt nam, đồng thời
góp phần thiết lập một khung pháp lý hữu hiệu nhằm bảo về quyền sở hữu trí tuệ
và cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
2.2.1.2. Động thái thu hút FDI kể từ năm 1997
Kể từ năm 1997 cho đến nay, dòng FDI vào Việt Nam vận động theo hai
giai đoạn chính như sau:
+ Giai đoạn 1997-2000: thời kỳ suy thoái, tụt dốc của dòng FDI vào Việt
Nam. Nếu lấy năm 1996 làm mốc đánh dấu nhịp độ tăng trưởng FDI vào Việt
46
Nam, thì năm 1997, nhịp độ này giảm 45%, đạt 5,59 tỷ USD vốn đăng ký; năm
1998 nhịp độ này tiếp tục giảm và đạt 5,09 tỷ USD. Những năm 1999-2000, FDI
vào Việt Nam giảm mạnh hơn, chỉ đạt 2,56 tỷ USD và 2,83 tỷ USD tương ứng.
Tính cho cả giai đoạn 1997-2000, FDI vào Việt Nam giảm trung bình 24%/năm
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Ngoài ra, trong giai
đoạn này còn có một xu hướng khác đáng lo ngại hơn là số dự án và vốn đầu tư
giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn đầu tư giải thể
của giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của 8 năm
trước cộng lại. Năm 1997, số vốn giải thể của các dự án FDI là 544 triệu USD,
năm 1998 lên tới mức 2,428 tỷ USD, năm 1999 là 624 triệu USD và năm 2000 là
1,666 tỷ USD. Trên thực tế, không phải dự án nào được cấp giấy phép trong giai
đoạn này cũng đều được triển khai. Những dự án FDI giải thể đã gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Luồng vốn FDI (kể cả vốn đăng ký và vốn thực hiện) vào nước ta đã giảm
đáng kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, mà lớn nhất là từ các
nước châu Á như Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. Đây
là những nước chiếm tỷ trọng lớn về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhưng lại
bị tác động ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, khiến
kinh tế suy thoái và dòng vốn FDI ra nước ngoài bị tháo lui.
+ Giai đoạn từ năm 2001 đến nay: Từ năm 2001 tình hình thu hút FDI vào
Việt Nam tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những chuyển biến tốt hơn.
Năm 2001, tổng vốn FDI đăng ký đạt 3,142 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2000.
Năm 2002, tuy tổng số vốn FDI vào VN giảm hơn năm 2001, đạt 2,998 tỷ USD,
nhưng đây lại là năm đạt mức đỉnh cao về số lượng dự án đăng ký đầu tư. Vốn
FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam chỉ bằng 29,4% của năm có mức vốn đăng ký
cao nhất (năm 1996). Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quân
của năm 2002 chỉ bằng với 7,6% mức bình quân của năm cao nhất (1996).
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD)*
Vốn thực
hiện (triệu
Tổng
Trong đó, vốn pháp định
USD)
Tổng số
Chia ra:
Phía nước
Phía VN
ngoài góp
góp
Bảng 2.2. FDI giai đoạn 1996-2005
1996-2000 1724
26259
10921,8
8714,5
2207,3
12948,8
47
1996 372
10164,1
3511,4
2906,3
605,1
2714
1997 349
5590,7
2649,1
2046
603,1
3115
1998 285
5099,9
2474,2
1939,9
534,3
2367,4
1999 327
2565,4
975,1
870,5
104,6
2334,9
2000 391
2838,9
1312
951,8
360,2
2413,5
2001-2005 3935
20720,2
7310,1
6898,1
432
13852,8
2001 555
3142,8
1708,6
1643
65,6
2450,5
2002 808
2998,8
1272
1191,4
80,6
2591
2003 791
3191,2
1138,9
1055,6
83,3
2650
2004 811
4547,6
1217,2
1112,6
104,6
2852,5
2005 970
6839,8
1973,4
1875,5
97,9
3308,8
Nguồn: [36]
Ghi chú: * Tính cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép
năm trước
Năm 2003, tình hình đã có chuyển biến khả quan hơn năm 2002 (tuy số dự
án có giảm đi, nhưng số vốn đầu tư đã tăng lên nên quy mô bình quân của dự án
cũng tăng lên, nhưng cũng chỉ tăng chút ít so với năm 2001 (năm 2003, vốn đăng
ký vào Việt Nam là 3,191 tỷ USD). Tuy nhiên, so với năm 1996, vốn đăng ký vào
Việt Nam mới chỉ bằng 40%.
Năm 2004 được đánh giá là năm thành công trong thu hút FDI vào Việt
Nam. Vốn đăng ký trong năm 2004 tăng cao so với các năm trước, đạt 4,547 tỷ
USD, đạt mức kỷ lục từ sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Vốn thực hiện
cũng đạt mức cao nhất trong vòng 7 năm qua (kể từ năm 1997), đạt 2,852 tỷ
USD. Đặc biệt, năm 2004 sự tăng trưởng đột biến về số lượng các doanh nghiệp
tăng vốn, mở rộng quy mô đầu tư với trên 400 dự án có tổng vốn đăng ký tăng
thêm gần 2 tỷ USD, tăng 82% so với năm trước. Số vốn tăng thêm này đã góp
phần đưa tổng số vốn đăng ký tăng cao, trên 4 tỷ USD, tăng trên 30% so với năm
2003. Nguyên nhân chủ yếu của việc phục hồi dòng vốn FDI vào Việt Nam trong
năm 2004 là nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng cao và ổn định, an ninh được
đảm bảo, công cuộc đổi mới được duy trì, kinh tế vĩ mô ổn định, không có sự xáo
trộn lớn, chính sự phát triển bền vững của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư.
Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam trên trường quốc tế
48
được tăng cao, đã củng cố lòng tin của các nhà đầu tư.
Năm 2005, cả nước thu hút được 6,839 tỷ USD vốn FDI đăng ký, tăng
50% so với mức của năm trước đó và bằng 67% của năm đạt mức cao kỷ lục
1996. Đây là năm vượt mức trên 30% so với mục tiêu ban đầu đề ra cho cả năm
2005, đạt mức cao nhất trong vòng 8 năm qua, trong đó vốn thực hiện đạt 3,308
tỷ USD, tăng 16% so với năm trước đó. Việt Nam vươn lên là một trong những
quốc gia có sức hút mạnh các nhà đầu tư quốc tế. Kết quả này là do Việt Nam
tiếp tục duy trì môi trường kinh tế – xã hội và chính trị ổn định, không ngừng cải
thiện môi trường đầu tư và kinh doanh (như việc triển khai thành công sáng kiến
Việt – Nhật về cải thiện môi trưòng đầu tư nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế Việt Nam; xây dựng và được Quốc hội thông qua nhiều bộ luật quan trọng,
trong đó phải kể đến Luật đầu tư chung và Luật doanh nghiệp thống nhất có hiệu
lực từ 1/7/2006)). Nhờ hệ thống luật pháp, chính sách đầu tư đã không ngừng
được cải thiện theo hướng ngày càng minh bạch, thông thoáng và thuận lợi cho
các nhà đầu tư.
Trong 6 tháng đầu năm 2006,, Việt Nam có 58 dự án được cấp giấy phép
đầu tư với tổng số vốn đăng kỳ là 245 triệu USD. Tính chung trong 6 thàng đầu
năm, chúng ta đã có thêm 339 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư
đăng ký là 2,26 tỷ USD, tăng 5% về số dự án và tăng 21% về số vốn đăng ký so
với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện đạt 50% so với mục tiêu đề ra cả
năm (3,7 tỷ USD), tăng 17,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Với việc Việt Nam sẽ
tổ chức hội nghị APEC vào nửa cuối tháng 11 năm nay và là thành viên của
WTO vào 07-11-2006 đây đang là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư tiềm năng. Cùng
với một số dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, cơ sở hạ tầng với quy mô
lớn đang trong quá trình đàm phán, tình hình thu hút FDI năm 2006 trở nên khả
quan hơn và hy vọng sẽ đạt hơn 6 tỷ USD cho cả năm.
2.2.2. Cơ cấu FDI của Việt Nam từ 1997 đến nay phân theo ngành,
vùng, lĩnh vực đầu tƣ
2.2.2.1. FDI phân theo ngành và lĩnh vực đầu tư:
Số liệu ở bảng 2.3. cho thấy phân bổ FDI theo ngành trong giai đoạn 1988-
2005 là như sau:
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất (3.983 dự án
với tổng vốn đầu tư 30,6 tỷ USD) chiếm 67,3% về số dự án và 60,7% tổng vốn
49
đầu tư đăng ký. Trong đó CN dầu khí chiếm 0.46% số dự án với 3.74% vốn đầu
tư, CN nhẹ chiếm 28,27% số dự án với 16,49% vốn đầu tư, CN thực nặng chiếm
29,01% số dự án với 26,35% vốn đầu tư, CN thực phẩm chiếm 4,41% với 6,2%
vốn đầu tư, Xây dựng chiếm 5,26% số dự án với 7,91% vốn đầu tư.
Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ (1.163 dự án với vốn cấp mới 16,1 tỷ USD),
chiếm 19,7% về số dự án và 32% về vốn đầu tư đăng ký. Trong đó GTVT-Bưu
điện chiếm 2,72% số dự án với 5,77% vốn đầu tư, Khách sạn-Du lịch chiếm
2,75% số dự án với 5,67% vốn đầu tư, Tài chính-Ngân hàng chiếm 1,01% số dự
án với 1,56% vốn đầu tư, Văn hoá-Y tế-Giáo dục chiếm 3,4% số dự án với 1,79%
vốn đầu tư, còn lại là xây dựng và dịch vụ khác chiếm 2,2% số dự án với 17,12%
vốn đầu tư.
(tính tới ngày 20/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định
Vốn thực hiện
I Công nghiệp
3,983
30,670,134,046
13,194,306,153
18,454,818,329
CN dầu khí
27 1,891,191,815 1,384,191,815 4,556,250,381
CN nhẹ
1,667 8,334,820,162 3,757,445,407 3,152,121,254
CN nặng
1,717 13,313,466,747 5,267,467,433 6,531,053,276
CN thực phẩm
261 3,135,296,403 1,357,851,161 1,894,416,334
Xây dựng
311 3,995,358,919 1,427,350,337 2,320,977,084
II Nông, lâm nghiệp
772
3,729,563,343
1,612,768,526
1,815,757,877
Nông-Lâm nghiệp
658 3,421,667,163 1,478,591,145 1,660,316,464
Thủy sản
114 307,896,180 134,177,381 155,441,413
III Dịch vụ
1,163
16,134,892,288
7,652,459,899
6,692,470,457
GTVT-Bưu điện
161 2,917,439,255 2,317,916,195 735,916,214
Khách sạn-Du lịch
163 2,863,768,774 1,247,338,654 2,335,371,047
Tài chính-Ngân hàng 60 788,150,000 738,895,000 642,870,077
Văn hóa-Ytế-Giáo dục 201 904,212,251 384,212,797 283,224,479
XD Khu đô thị mới
4 2,551,674,000 700,683,000 51,294,598
XD Văn phòng-Căn hộ 111 3,931,781,068 1,375,208,984 1,769,533,870
XD hạ tầng KCX-KCN 21 1,025,599,546 387,519,597 526,521,777
Dịch vụ khác
442 1,152,267,394 500,685,672 347,738,395
Tổng số
5,918
50,534,589,677
22,459,534,578
26,963,046,663
Bảng 2.3. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo ngành 1988-2005
Nguồn: [36]
50
Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (772 dự án với vốn cấp
mới 3,7 tỷ USD), chiếm 13,04% về số dự án và 7,4% về vốn đầu tư đăng ký.
Trong đó nông – lâm nghiệp chiếm 11,12% số dự án với 6,77% vốn đầu tư, Thuỷ
sản chiếm 1,93 số dự án với 0,61% vốn đầu tư.
Tình hình thu hút vốn FDI theo ngành trong thời gian gần đây có những
biến đổi như sau: Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện qua các năm 2000- 2003 không có
nhiều thay đổi. Công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn đầu tư
thực hiện (57,6% năm 2000 và 74,4% năm 2003), trong khi nông nghiệp và dịch
vụ có tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần (nông nghiệp chiếm 9,7% và 9%
trong 3 năm tương ứng). Vào năm 2005, vốn FDI vẫn chủ yếu tập trung trong 2
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 66% số dự
án cấp mới và chiếm 58,1% tổng số vốn đăng ký; lĩnh vực dịch vụ chiếm 24,3%
về số dự án và 35,5% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại là thuộc lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp (9,7% số dự án và 3,4% vốn đăng ký). Như vậy có thể thấy công
nghiệp và dịch vụ vẫn là những ngành chủ đạo trong thu hút FDI thời gian gần
đây và vai trò của hai khu vực này có chiều hướng gia tăng.
Trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản, đầu tư nước ngoài đổ vào rất ít. Thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn, nhưng tình hình thu hút FDI vào khu vực nông
nghiệp vẫn đạt mức thấp. Trước tình hình nêu trên, chính phủ và Bộ kế hoạch và
đầu tư cho rằng trong thời gian tới cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là vào lĩnh vực chế biến nông sản,
thuỷ sản, khai thác và chế biến khoáng sản ở các tỉnh miền núi, ven biển. Đặc
biệt, với chính sách đặc biệt ưu đãi mới đây của chính phủ và của chính quyền
các vùng địa phương nghèo, triển vọng thu hút FDI vào ngành nông – lâm – thuỷ
sản nói chung là khả quan.
2.2.2.2. FDI phân theo vùng đầu tư
Đặc điểm tương đối nổi bật và có lẽ giống với một số nước đang phát triển
khác là kể từ năm 1997 đến nay các dự án đầu tư nước ngoài vẫn chủ yếu tập
trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường
kinh tế xã hội. Mức độ chênh lệch giữa các vùng về thu hút FDI tương đối lớn và
đồng thuận với yếu tố thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Tính đến hết năm
2005, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh
51
tế trọng điểm vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút FDI theo thứ tự như sau:
1. TP. Hồ Chí Minh chiếm 31% về số dự án; 24,1% tổng vốn đăng ký và
22,5% tổng vốn thực hiện; quy mô vốn bình quân cho một dự án đạt 6, 66 triệu
USD/dự án.
2. Hà Nội chiếm 11% về số dự án; 18,3% tổng vốn đăng ký và 12,56%
tổng vốn thực hiện; quy mô vốn bình quân cho một dự án đạt 14,2 triệu USD/dự
án.
3. Đồng Nai chiếm 11,76% về số dự án; 16,7% tổng vốn đăng ký và
14,2% tổng vốn thực hiện; quy mô vốn bình quân cho một dự án đạt 12, 1 triệu
USD/dự án.
4. Bình Dương chiếm 17,9% về số dự án; 9,8% tổng vốn đăng ký và 6,7%
tổng vốn thực hiện; quy mô vốn bình quân cho một dự án đạt 4, 68 triệu USD/dự
án.
5. Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 2,03% về số dự án; 5,72% tổng vốn đăng ký và
4,6% tổng vốn thực hiện; quy mô vốn bình quân cho một dự án đạt 24, 1 triệu
USD/dự án.
10 địa phƣơng dẫn đầu về thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
giai đoạn 1988-2005
(tính tới ngày 20/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: USD
STT Địa phƣơng
Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Vốn thực hiện
1
TP Hồ Chí Minh 1,834 12,208,326,708 5,856,811,284 6,058,481,428
2
Hà Nội
646 9,227,431,042 3,948,742,695 3,385,410,364
3
Đồng Nai
696 8,442,707,411 3,316,460,792 3,830,993,107
4
Bình Dương
1,055 4,933,559,700 2,057,411,901 1,855,110,721
5
Bà Rịa-Vũng Tàu 120 2,892,444,896 1,031,008,111 1,250,134,702
6
Hải Phòng
185 2,009,954,744 840,362,273 1,228,608,201
7
Dầu khí
27 1,891,191,815 1,384,191,815 4,556,250,381
8
Vĩnh Phúc
93 764,997,872 302,544,809 413,832,958
9
Long An
97 722,626,165 311,953,780 331,522,836
10
Thanh Hóa
16 710,925,606 217,284,328 410,351,460
Nguồn: [36]
Riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An) chiếm trên
52
58% tổng vốn FDI đăng ký và khoảng 50% vốn thực hiện của cả nước. Vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng
Ninh, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh) chiếm khoảng 26% tổng vốn FDI đăng ký
và 28,7% vốn thực hiện của cả nước.
Hiện tại các dự án FDI đầu tư vào các khu công nghiệp và các khu chế xuất
(không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp) còn hiệu lực,
chiếm 33,8% về số dự án và 33,4% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Tại những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vốn FDI đổ vào rất ít. Mặc
dù Nghị quyết 53/1999/ QĐ-TTg ngày 26/3/1999 và Luật đầu tư sửa đổi năm
2000 có nhiều chủ truơng, biện pháp khuyến khích FDI vào khu vực này, nhưng
cho đến nay chặng đường thu hút FDI của các địa phương miền núi, miền cát,
miền không có tài nguyên... vẫn rất khó khăn. Chính sách thì tương đối hấp dẫn,
tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn e ngại đầu tư vào các vùng này bởi
sự yếu kém của cơ sở hạ tầng cần thiết nhất như đường xá, điện nuớc, thông tin
liên lạc, lao động tại chỗ, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc. Tại những tỉnh
miền Trung như Bình Định, Quảng Trị, Quảng Nam, Phú yên, Ninh Thuận, Phan
Thiết,Bình Thuận..., cơ sở hạ tầng và lao động có chiều hướng thuận tiện hơn, tuy
nhiên đây lại là những địa phương hay gặp nhiều rủi ro về thời tiết, trong khi đó
chính sách thuê đất và đền bù cho nhà đầu tư khi gặp rủi ro từ phía chính phủ
chưa thoả đáng. Do vậy, các vùng này còn ở khoảng cách khá xa so với những
địa phương khác trong thu hút FDI.
Vào năm 2005, có 41 địa phương thu hút được vốn FDI, trong đó có 5 địa
phương dẫn đầu cả nước là:
+ Hà Nội, thu hút được 82 dự án mới, với tổng số vốn đăng ký 1,2 tỷ USD,
chiếm 11,6% số dự án và 33,6% tổng số vốn đăng ký của cả nước.
+ Bà Rịa – Vũng Tàu: có 12 dự án mới có tổng vốn đầu tư đăng ký 713,4
tỷ USD, chiếm 1,7% về số dự án và 19,7% tổng số vốn đăng ký của cả nước.
+ Đồng Nai có 78 dự án với tổng số vốn 410,8 triệu USD, chiếm 11,1% về
số dự án và 11,3% tổng vốn đăng ký.
+ Bình Dương có 126 dự án với tổng số vốn 265,56 triệu USD, chiếm
17,9% về số dự án và 7,3% tổng vốn đăng ký.
+ Thành phố Hồ Chí Minh có 207 dự án với tổng số vốn 249,8 triệu USD,
53
chiếm 29,4% về số dự án và chiếm 6,9% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Như vậy, 5 địa phương nói trên đã chiếm tới 78,8% tổng vốn đăng ký của
các dự án mới của cả nước. Trong số các dự án mới được cấp giấy phép trong
năm 2005, có 225 dự án đầu tư vào các KCN, KCX với tổng số vốn đăng ký đạt
1.525 triệu USD, chiếm 32% về số dự án và 42% tổng vốn đầu tư.
Những số liệu của năm 2005 và số liệu luỹ tiến về FDI trong giai đoạn
1988-2005 cho thấy về cơ bản sự phân bổ FDI theo vùng địa lý sau năm 1997 vẫn
tập trung chủ yếu ở 5 tỉnh, thành phố lớn trọng điểm và ở những vùng có điều
kiện thuận lợi và môi trường đầu tư hấp dẫn.
2.2.3. Cơ cấu FDI của Việt Nam từ 1997 đến nay phân theo nƣớc đầu
tƣ
Tính đến hết năm 2005, đã có 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
tại Việt Nam, trong đó các nước, vùng lãnh thổ châu Á chiếm 76,5% về số dự án
và 70,6% vốn đăng ký, các nước châu Âu chiếm 17,1% về số dự án và 21,7% vốn
đăng ký, các nước châu Mỹ chiếm 6% về số dự án và 6% vốn đăng ký, riêng Hoa
Kỳ chiếm 4,2% số dự án và 2,8% vốn đăng ký, số còn lại thuộc các nước ở khu
vực khác.
Năm quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á dẫn đầu về đầu tư theo thứ tự vốn
đăng ký đã chiếm 63,81% về số dự án, 60,75% tổng vốn đăng ký và 57,58% tổng
vốn thực hiện. Cụ thể như sau:
1. Đài Loan chiếm 23,8% về số dự án; 15,7% tổng vốn đăng ký và 11%
tổng vốn thực hiện; quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt 5,6 triệu
USD/dự án.
2. Singapore chiếm 6,6% về số dự án; 15% tổng vốn đăng ký và 13% tổng
vốn thực hiện; quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt 19, 2 triệu
USD/dự án.
3. Nhật Bản chiếm 10% về số dự án; 12,3% tổng vốn đăng ký và 16,7%
tổng vốn thực hiện; quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt 10, 5 triệu
USD/dự án.
4. Hàn Quốc chiếm 17,4% về số dự án; 10,4% tổng vốn đăng ký và 9,1%
tổng vốn thực hiện; quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt 5, 1 triệu
USD/dự án.
5. Hồng Kông chiếm 6% về số dự án; 7,3% tổng vốn đăng ký và 7,4% tổng
54
vốn thực hiện; quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt 10, 4 triệu
USD/dự án.
10 nƣớc và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO NƯỚC 1988-2005
(tính tới ngày 20/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: USD
Nước, vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu
Vốn pháp định Vốn thực hiện
STT
tư
Đài Loan
1,408
7,932,164,583 ,413,960,406 2,939,199,225
1
Singapore
395
7,598,907,977 ,821,268,937 3,619,731,994
2
Nhật Bản
590
6,193,585,990 2,810,332,547 4,512,723,353
3
Hàn Quốc
1,029
5,278,686,077 ,283,559,622 2,463,099,291
4
Hồng Kông
354
3,696,908,431 ,561,033,203 1,991,778,260
5
BritishVirginIslands 247
2,653,258,280 ,004,843,286 1,245,978,127
6
Pháp
163
2,171,128,593 ,347,100,280 1,181,479,323
7
Hà Lan
61
1,947,979,710 ,182,365,274 1,784,857,712
8
Malaysia
179
1,502,563,772 690,453,695 834,523,801
9
10 Hoa Kỳ
260
1,455,637,949 759,277,123 727,879,178
Việt Nam
Nguồn: [36]
Đông Á là khu vực có nhiều vốn FDI tại Việt Nam nhất. Đây là khu vực
đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng đến chiến lược công nghiệp hoá và tiếp thu
công nghệ nước ngoài của Việt Nam. Trước hết phải kể đến vai trò của Nhật Bản.
Tính đến cuối năm 2003, Nhật Bản có 369 dự án đầu tư tại Việt Nam, với số vốn
đầu tư là 4,284 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 3,662 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số
những nước có FDI lớn nhất tại Việt Nam. Năm 2005, Nhật Bản đứng thứ 5 với
77 dự án đầu tư, tổng số vốn đăng ký là 259,5 triệu USD, chiếm 10,9% về số dự
án và 7,1% tổng vốn đăng ký. FDI của Nhật Bản quan trọng bởi nó được thực
hiện trong hầu khắp các lĩnh vực của nền kinh tế. Ngành công nghiệp (gồm công
nghiệp nặng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp nhẹ và công nghiệp xây dựng)
chiếm tới 66% tổng số dự án và 55% tổng vốn FDI đăng ký của Nhật Bản; các
ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 13% tổng số dự án và 6% tổng vốn
đầu tư đăng ký; và các ngành dịch vụ chiếm 21% dự án và 39% vốn đăng ký...
Nhìn chung, nếu so sánh với các nước đầu tư vào Việt Nam, thì mức độ đầu tư
55
của Nhật Bản có tăng về số lượng dự án và vốn đầu tư đăng ký qua các năm,
thậm chí ngay cả khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra. Cụ thể, năm 1991
đứng thứ 15, năm 1992 đứng thứ 15, năm 1993 đứng thứ 6, năm 1994 và 1995
đứng thứ 5, năm 1996 đứng thứ 2; ba năm 1997-1999 đều đứng đầu, năm 2000 và
2001 đứng thứ 5 và năm 2002 đứng thứ 4, năm 2003-2004 đứng thứ 3 và năm
2005 đứng thứ 5.
Bên cạnh Nhật Bản, NIEs và các nước ASEAN cũng đóng vai trò tích cực
trong việc gia tăng FDI vào Việt Nam. Các nước này chiếm phần lớn trong tổng
vốn FDI và tổng dự án vào Việt Nam thời gian qua. Singapo là nước có số vốn
đầu tư lớn nhất tại Việt Nam và vị trí số 1 này được duy trì từ năm 1997 đến năm
2004. Năm 2005, Singapo đứng ở vị trí thứ 6. Các dự án của Singapo chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, chế biến nông
sản, lâm hải sản, khách sạn và du lịch. Đặc biệt kể từ năm 1997 trở lại đây, FDI
của Singapi tập trung vào nhiều lĩnh vực mới như sản xuất máy tính, hàng điện
tử, sản xuát ô tô và linh kiện phụ tùng ô tô. Đáng chú ý là các dự án của Singapo
phần lớn là có quy mô trung bình từ 5-50 triệu USD/dự án, trong khi đó các dự án
của các nước ASEAN khác, quy mô đầu tư 1 dự án ở Việt Nam thường rất nhỏ,
trung bình là 5 triệu USD/dự án.
Đài Loan và Hàn Quốc là những nền kinh tế có vốn đầu tư lớn ở Việt Nam.
Tính đến tháng 9/2003, Đài Loan có tất cả 1044 dự án còn hiệu lực ở Việt Nam,
tổng số vốn đăng ký trên 5,698 triệu USD, đứng thứ 2 trong số những nước và
lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam trong năm 2003. Năm 2005, Đài Loan vươn
lên vị trí số 1 với 132 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1.001,76 triệu USD,
chiếm 18,8% về số dự án và 27,7% số vốn đăng ký. Đầu tư của Đài Loan chủ yếu
là các dự án quy mô vừa và nhỏ, trong đó ngành công nghiệp và xây dựng chiếm
66,8% vốn đăng ký, 87,4% doanh thu và 82,9% lao động của các dự án FDI của
Đài Loan vào Việt Nam.
Cùng với Đài Loan, Hàn Quốc hiện cũng là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam.
Năm 2003, Hàn Quốc đứng thứ 4 với 600 dự án FDI còn hiệu lực ở Việt Nam với
tổng số vốn đăng ký trên 3,9 tỷ USD và thực hiện được 2,28 tỷ USD. Năm 2005,
Hàn Quốc vươn lên vị trí thứ 3 với 168 dự án, tổng số vốn đăng ký là 491,6 triệu
USD, chiếm 0,3% về số dự án và 13,6% về tổng vốn đăng ký. Nhiều tập đoàn nổi
tiếng của Hàn Quốc như Dăewoo, Posco, Samsung, LG, Korea Telecom, Korea
56
Petroleum, Hanjung... đã có mặt tại Việt Nam. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt
Nam thường tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng như sản xuất ô
tô, điện tử, thép, cơ khí chế tạo, sợi, vải, giày dép... chiếm khoảng 80% tổng dự
án và trên 60% vốn đầu tư, phần còn lại là các dự án viễn thông, xây dựng khách
sạn, du lịch, văn phòng căn hộ, chế biến nông lâm thuỷ sản...
Trong những năm gần đây, các nước ASEAN có tỷ trọng FDI vào Việt Nam
ngày càng giảm. Nếu như vào năm 1995, Malaixia đứng thứ 7, Thái Lan đứng
thứ 14 và Inđônêxia đứng thứ 17 trong số những nước có vốn FDI ở Việt Nam,
thì vị trí này của các nước vào năm 2001 là như sau: Malaixia đứng thứ 13, Thái
Lan đứng thứ 14, Inđônêxia đứng ngoài danh sách 20 nước có vốn FDI lớn nhất
vào Việt Nam. Khủng hoảng tài chính và cơ cấu kinh tế tương đồng giữa Việt
Nam và các nước ASEAN đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị trí xếp hạng của các
nước này trong danh sách các nưóc có vốn FDI vào Việt Nam. Năm 1996, tổng
FDI của toàn khối ASEAN vào Việt Nam đạt 8,497 tỷ USD, năm 1997 giảm còn
4,649 tỷ USD, 1998 còn 3,987 tỷ USD, 1999 còn 1,568 tỷ USD và 2001 là 2,503
tỷ USD.
Trong khu vực Châu Á, Trung Quốc cũng nổi lên là một nước có số vốn
FDI vào Việt Nam ngày càng tăng. Cho tới nay, Trung Quốc là nước đứng thứ 18
trong số những nước có vốn FDI vào Việt Nam, và dự đoán trong những năm tới
vị trí của Trung Quốc trong danh sách các nhà đầu tư vào Việt Nam sẽ được cải
thiện do nền kinh tế Trung Quốc liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao và chính sách
khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của chính phủ Trung Quốc. Quy mô đầu tư
của các dự án thường rất nhỏ (trung bình 2 triệu USD/dự án), tuy nhiên, hiệu quả
đầu tư tương đối cao.
Khu vực Châu Âu là khu vực lớn thứ hai trong đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Tính đến hết năm 2002, khu vực này chiếm tới 26,2% trong tổng FDI của
Việt Nam, tính đến hết năm 2005 châu Âu chiếm 17,1% về số dự án và 21,7%
tổng vốn đầu tư. Nếu trong giai đoạn 1988-94, EU có 144 dự án với tổng số vốn
là 1,712 tỷ USD, quy mô mỗi dự án là 11,9 triệu USD, thì trong 2 năm 1995-
1996, số dự án của EU tại Việt Nam là 67 dự án, với tổng vốn đầu tư là 1,056 tỷ
USD và quy mô trung bình 1 dự án tăng lên là 15,7 triệu USD. Trong 3 năm
1997-1999, FDI của EU vào Việt Nam tăng vọt, với 26 dự án, 1,617 tỷ USD và
quy mô mỗi dự án là 62,2 triệu USD. Đầu tư của EU chủ yếu có mặt trong lĩnh
57
vực công nghiệp (chiếm 55,3% số dự án), tiếp đó là dịch vụ (chiếm 34% số dự
án). Các dự án đầu tư của EU cũng tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam như
TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bến Tre,
Khánh Hoà...Đa phần đầu tư của EU tại Việt Nam được thực hiện dưới hình thức
100% vốn nuớc ngoài.
Bắc Mỹ là khu vực có số vốn FDI lớn thứ 3 vào Việt Nam. Điển hình của
khu vực này là Mỹ. Mối quan hệ thương mại đầu tư Mỹ – Việt Nam chỉ được
phát triển mạnh hơn ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ vào cuối năm 2001. Đầu
tư của Mỹ chủ yếu tập trung ở những ngành công nghiệp (chiếm 58,6% tổng vốn
FDI của Mỹ vào Việt Nam), trong đó công nghiệp nặng có số vốn đầu tư lớn nhất
(chiếm 29% tổng FDI của Mỹ), tiếp đó là dầu khí (chiếm 11,7%), công nghiệp
nhẹ (chiếm 8,2%)...Lĩnh vực nông lâm nghiệp và văn hoá giáo dục cũng được các
nhà đầu tư Mỹ quan tâm, chiếm 12% và 9,8% tương ứng. Hầu hết các dự án đầu
tư của Mỹ là dưới hình thức 100% vốn nước ngoài (chiếm 64,3% số dự án và
52,4% số vốn đầu tư), tiếp theo là liên doanh (chiếm 25,6% số dự án và 34,9% số
vốn đầu tư)...Năm 2005, Mỹ có 40 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt 98,7
triệu USD, chiếm 5,6% về số dự án và 2,7% tổng vốn đăng ký. Vốn đầu tư của
Mỹ tập trung chủ yếu ở khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và Hà Nội.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam từ 1997 đến nay
2.3.1. Thành công của thu hút FDI vào Việt nam
Thứ nhất, FDI vào Việt Nam đang có xu hướng phục hồi và tăng trưởng
nhanh. Sau khủng hoảng kinh tế tiền tệ khu vực châu Á năm 1997, từ năm 2001
đến nay FDI vào Việt Nam có xu hướng phục hồi. Tính đến hết năm 2005, cả
nước đã thu hút được 6.880 dự án đầu tư với tổng số vốn cấp mới là 64,6 tỷ USD,
trong đó 5.815 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 49,8 tỷ USD,
vốn thực hiện đạt 34,4 tỷ USD (tính cả các dự án đã hết hiệu lực). Tốc độ tăng
vốn FDI đăng ký so với năm trước đó cụ thể là như sau: năm 2003 tăng 10,6%,
năm 2004 tăng 14,2% và năm 2005 tăng 50,4%. Nếu lấy thời điểm năm 1999 làm
mốc đánh giá tác động của khủng hoảng đối với dòng vốn FDI của nước ta là
nặng nề nhất (năm 1999 FDI vào Việt Nam chỉ đạt 2,565 tỷ USD, thấp ở mức kỷ
lục), thì tốc độ tăng vốn của các năm là như sau: năm 2000 tăng 10,6%, năm
2001 tăng 22,4%, năm 2002 tăng 16,8%, năm 2003 tăng 24,5%, năm 2004 tăng
77,2% và năm 2005 tăng 166,6%. Tính theo số dự án, cũng có sự gia tăng rất lớn.
58
Trong giai đoạn 1996-2000, tổng số dự án FDI vào Việt Nam là 1724 dự án, giai
đoạn 2001-2005 đã tăng lên đạt 3935 dự án. Về quy mô, các dự án FDI đang có
xu hướng giảm dần. Thời kỳ 1991-1996, bình quân 1 dự án đạt khoảng gần 15
triệu USD; đến thời kỳ 1997-2000 còn khoảng 9,39 triệu USD trên 1 dự án; thời
kỳ 2001-2005 bình quân chỉ còn khoảng 2,9 triệu USD trên 1 dự án. Sau một thời
kỳ sa sút, FDI vào Việt Nam từ các năm 2002-2005 đang đi dần vào ổn định và
tăng lên.
Bảng 2.4. Tỷ trọng đầu tƣ và tỷ trọng GDP của các khu vực kinh tế
Năm Khu vực KT nhà nƣớc
Khu vực KT ngoài quốc
Khu vực đầu tƣ nƣớc
doanh
ngoài
% vốn đầu tư %GDP % vốn đầu tư % GDP
% vốn đầu tư % GDP
1990 40,2
31,76
46,7
13,1
0,00
68,24
1991 38,0
31,07
47,7
14,3
0,00
68,93
1992 35,1
34,29
43,9
21,0
1,21
65,70
1993 44,0
38,21
30,8
25,2
3,52
58,27
1994 38,3
40,12
31,3
30,4
6,41
53,47
1995 42,0
40,18
27,6
30,4
6,30
53,52
1996 49,1
39,93
24,9
26,0
7,39
52,68
1997 49,4
40,48
22,6
28,0
9,07
50,45
1998 55,5
40,00
23,7
20,7
10,03
49,97
1999 58,7
38,74
24,0
17,3
12,24
49,02
2000 57,5
38,98
23,8
18,7
13,26
47,76
2001 58,1
39,00
23,5
18,4
13,00
48,00
2002 56,2
38,10
25,3
18,5
13,9
48,00
2003 56,5
-
26,7
16,8
14,3
-
2004 53,6
-
30,9
15,5
-
-
2005 52,2
-
32,1
15,7
-
-
Nguồn: [36]
Thứ hai, FDI đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển,
góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo
ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Bảng 2.4 cho thấy, tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội
đã tăng từ 13,1% năm 1991 lên 30,4% trong những năm 1994-95 và 16,6% năm
2003 và đạt mức 15,5% năm 2004 và 15,7% năm 2005.Trong giai đoạn 2001-
59
2004, tổng vốn FDI đăng ký đạt 13,46 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10,5 tỷ USD,
chiếm 17% tổng vốn đầu tư phát triển. Còn nếu tính từ năm 1996 đến nay thì vốn
đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đóng
góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP cũng tăng dần qua các năm. Năm
1995 là 6,3%, năm 1997 là 9,07%, năm 1998 là 10,03%, năm 1999 là 12,24%,
năm 2000 là 13,26%, năm 2001 là 13%, năm 2002 là 13,9% và năm 2003 là
14,3%.
Thứ ba, việc tăng cường thu hút FDI hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi
cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu
của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng
nhanh. Trong thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu từ khu vực đầu tư nước ngoài đạt trên
20 tỷ USD (không tính xuất khẩu dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước đó;
Trong 3 năm 2001-2003, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 24,83 tỷ
USD, riêng năm 2003 đạt 10,161 tỷ USD, chiếm 50,4% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trong năm 2003. Tính trong giai đoạn 1997-2003, tỷ trọng
xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước đã tăng từ 35% lên 50,4%. Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chiếm tới 84% giá trị xuất khẩu mặt hàng điện tử, 42% đối với mặt
hàng giày dép và 25% đối với mặt hàng may mặc. Tỷ trọng xuất khẩu so với
doanh thu của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng đã tăng nhanh: bình quân
thời kỳ 1991-1995 đạt 30%, thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%, thời kỳ 2001-2003 đạt
khoảng 50%.
Ngoài ra, khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong
nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du
lịch, các dịch vụ ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ, tạo cầu nối cho các
doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị
trường quốc tế.
Bảng 2.5. Đóng góp của FDI trong xuất khẩu hàng hoá và sản xuất
công nghiệp
Năm
Xuất khẩu
Giá trị sản xuất công nghiệp
KV kinh tế trong
KV đầu tư nước
Ktế nhà
Ktế ngoài
Ktế có
nước
ngoài
nước
nhà nước
vốn đầu tư
nước
ngoài
60
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tỷ trọng
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(triệu
(triệu
USD)
USD)
1473,1
73,0
3975,8
1995
27,0
-
-
-
2155,0
70,3
5100,9
1996
29,7
49,6
23,9
26,5
3213,0
65,0
5972,0
1997
35,0
47,3
23,7
29,0
3215,0
75,7
6145,3
1998
34,3
45,4
21,4
33,2
4682,0
59,4
6859,4
1999
40,6
39,9
22,0
38,1
6810,3
53,0
7672,4
2000
47,0
34,2
24,5
41,3
6798,3
54,8
8230,9
2001
45,2
31,5
27,0
41,5
7871,8
52,9
8834,3
2002
47,1
31,5
27,0
41,5
9988,1
2003
49,6
10161,2
50,4
29,4
27,5
43,1
2004
-
-
-
-
27,4
29,0
43,6
Nguồn: [36]
Thứ tư, đầu tư nước ngoài đã ngày càng chuyển hướng theo hướng chú
trọng đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nguồn vốn FDI đã thực sự tạo lực mạnh mẽ cho nền
kinh tế Việt Nam. Các dự án FDI hiện chiếm tới 26,5% giá trị sản lượng công
nghiệp của Việt Nam trong năm 1996, sau đó tăng dần qua các năm và chiếm tới
43,6% giá trị sản lượng công nghiệp năm 2004 (bảng 2.4), góp phần nâng cao tốc
độ tăng trưởng công nghiệp trong cả nước. Hiện nay, FDI chiếm 100% trong các
dự án khai thác dầu thô, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết
bị văn phòng, máy tính; khoảng 60% sản lượng về thép cán, 28% về xi măng,
33% về sản xuất máy móc thiết bị điện, điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 55%
về sản lượng sợi các loại, 30% vải các loại, 49% về da giày dép, 18% sản phẩm
may, 25% về thực phẩm và đồ uống. Thông qua vốn FDI, nhiều nguồn lực trong
nước như lao động, đất đai, tài nguyên đã được khai thác và đưa vào sử dụng
tương đối có hiệu quả. Đồng thời, FDI đã thúc đẩy hình thành hệ thống các KCN,
KCX, góp phần phân phổ công nghiệp hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả đầu tư...
Ngoài ra, việc thu hút FDI đã chú trọng hơn đến kết hợp giữa các dự án công
nghiệp hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao động, tham gia phát triển nguồn
nhân lực.
Thứ năm, FDI tạo ra nguồn thu ngân sách tương đối với cho chính phủ.
61
Trong giai đoạn 1988-2001, khu vực FDI đóng góp 1,863 tỷ USD cho ngân sách
nhà nước và con số này tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 1996, khu
vực FDI nộp ngân sách 263 triệu USD, năm 2002 tăng lên đạt 459 triệu USD,
chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách của chính phủ Việt nam hàng năm (nếu tính cả
khu vực dầu khí thì ngân sách do khu vực FDI nộp chiếm 26-27% nguồn thu
ngân sách hàng năm của chính phủ). Năm 2003, FDI chiếm 6,53% nguồn thu
ngân sách của chính phủ.
Bảng 2.6. Đóng góp của khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong ngân
2000
2001
2002
2003
2004
2005
5,22
5,49
5,87
6,53
-
-
1. Ngân sách (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
2. Tạo việc làm (%)
9,3
9,3
9,5
9,9
9,8
9,7
a. KV nhà nước
90,1
87,9
89,4
88,8
88,7
88,8
b. KV ngoài nhà nước
0,6
0,9
1,1
1,3
1,5
1,6
c. KV có vốn ĐTNN
sách nhà nƣớc và tạo việc làm
Nguồn: [36]
Thứ sáu, FDI góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao
động. Bảng 2.6 cho thấy khu vực FDI tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người
lao động. Lao động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng lực
lượng lao động cả nước đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2001. Năm
1996, khu vực FDI tạo ra 220 nghìn việc làm, năm 2002 tạo ra 472 nghìn việc
làm và năm 2003 tạo ra 600 nghìn chỗ làm việc mới. Trong 5 năm 2001-2005,
khu vực FDI đã tạo ra việc làm cho hơn 800.000 lao động trực tiếp và gần 2 triệu
việc làm gián tiếp, trong đó có khoảng 73% lao động làm việc trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp. Cùng với đó, thu nhập của người lao động Việt Nam cũng cao
hơn nhiều so với thu nhập trung bình của cả nước, khoảng 70 USD/ người/ tháng,
cao hơn 30-50% thu nhập của người lao động cùng ngành nghề nhưng làm việc
cho các khu vực kinh tế trong nước.Tuy nhiên, FDI chủ yếu tập trung ở những
vùng đô thị, do vậy đây là một trong những nhân tố tạo ra thu nhập cao cho vùng
đô thị Việt Nam, và nới rộng khoảng cách thu nhập so với vùng nông thôn.
2.3.2. Hạn chế, tồn tại trong thu hút FDI vào Việt nam
Bên cạh những kết quả tích cực đã đạt được, kể từ năm 1997 đến nay hoạt
62
động FDI vào Việt Nam còn có những mặt hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là:
Thứ nhất, vốn FDI tuy tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp. Năm 2004, vốn
FDI vào Việt Nam là 4,547 tỷ USD, chưa đuổi kịp mức vốn đầu tư của năm 1997
khi khủng hoảng bắt đầu xảy ra (năm 1997 FDI vào Việt Nam đạt 5,590 tỷ USD)
và chỉ bằng 44,7% của mức vốn FDI năm 1996. Năm 2005, vốn FDI vào Việt
Nam đạt mức tăng kỷ lục trong vòng 8 năm sau khủng hoảng tài chính châu Á,
nhưng cũng mới bằng 67,3% mức của năm 1996. Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng
qua các năm, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng chậm hơn so
với vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm từ 24,2% trong giai đoạn 1991-1995
xuống 22,1% trong giai đoạn 1996-2000 và 16,9% trong giai đoạn 2001-2005
(bảng 2.4). Nếu như năm 1997, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội là 28%, năm 1998 đã giảm xuống còn 20,7% và đến năm 2005
giảm còn 15,7%.
Thứ hai, cơ cấu vốn FDI còn nhiều bất hợp lý. Trong chiến lược công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là vấn
đề chiến lược, cần huy động nhiều công sức và tiền của để đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Chiến lược
thu hút FDI cũng chú trọng đến vấn đề đó và chính phủ Việt Nam đã ban hành
nhiều chính sách, biện pháp để kêu gọi đầu tư vào những ngành nông nghiệp
nông thôn. Tuy nhiên, thực tế đã không làm đuợc điều đó. Đầu tư nước ngoài vẫn
tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi có tác
động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây
Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp,
mặc dù sau năm 1997 chính phủ đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng
FDI còn quá thấp và tỷ trọng vốn FDI đăng ký liên tục giảm. Khu vực nông
nghiệp nông thôn còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam
trong thời gian qua. Có nhiều nguyên nhân, song tựu chung lại có thể thấy cơ sở
hạ tầng thiếu và lạc hậu ở khu vực kinh tế này, cộng thêm với yếu tố bất ổn của
tình hình thời tiết đã khiến cho dòng FDI chảy rất hạn chế vào đây. Chính phủ
Việt Nam đã chưa đưa ra được những giải pháp mang tính đặc thù nhất, hấp dẫn
nhất để lôi kéo sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, Việt Nam vẫn còn bị vướng mắc giữa việc lựa chọn công nghệ khi
63
thu hút FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Trong những năm gần
đây, đầu tư từ những nước phát triển có thế mạnh về công nghệ nguồn như Nhật,
EU, Mỹ tăng chậm và chưa có những chuyển biến đáng kể. Mặc dù Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ dã được thực hiện trong gần 4 năm qua, đã thúc đẩy sự gia
tăng mạnh mẽ kim ngạch buôn bán giữa hai nước, nhưng đầu tư của Mỹ vào Việt
nam chưa có chuyển biến đáng kể. Trong khi đó, bài toán về mối quan hệ giữa
công nghệ và lao động đã và đang trở nên khó giải hơn không chỉ đối với riêng
Việt Nam mà có lẽ là đối với nhiều nước đang phát triển khác. Công nghệ tiên
tiến, việc làm đều là những nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam trong hoàn cảnh
hiện nay. Tuy vậy, trong thực tế, Việt Nam vẫn chưa có những điều chỉnh cần
thiết và hợp lý để mối quan hệ này đưa lại sự phát triển bền vững.
Thứ tư, mối quan hệ giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các ngành công
nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn rất yếu. Hiện nay, những ngành công nghiệp
phụ trợ của Việt Nam đều mới trong giai đoạn phát triển ban đầu, manh mún và
nhỏ lẻ. Một phần của thực tế này là Việt Nam đã quen cách thức sản xuất tích hợp
theo chiều dọc của các doanh nghiệp nhà nước – vốn là trụ cột của nền kinh tế –
là mọi linh kiện đều được sản xuất và chế tạo trong nội bộ doanh nghiệp đó. Một
nguyên nhân khác là do không có đầy đủ những khái niệm mang tính pháp lý đối
với ngành công nghiệp phụ trợ, nên việc thực thi các biện pháp thúc đẩy các
ngành này vẫn bị hạn chế. Hậu quả là, các doanh nghiệp trong nước không cung
cấp đủ nguyên liệu, phụ tùng cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, làm giảm
khả năng tham gia vào chương trình nội địa hoá và xuất khẩu của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài. Sự liên kết giữa khu vực đầu tư nước ngoài và kinh tế
trong nước còn lỏng lẻo, dẫn đến chi phí đầu tư ngày càng cao, khiến hiệu quả
phát triển của các dự án FDI ngày càng thấp và đang là một trong những nhân tố
cản trở dòng FDI đổ vào Việt Nam. Hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đang phải chịu rất nhiều các khoản chi phí như chi phí thuê nhà xưởng, chi
phí điện, nước, viễn thông, chi phí quảng cáo... Tất cả các khoản chi phí đó đều
có giá cao hơn các nước khác trong khu vực. Theo một khảo sát của Ngân hàng
thế giới vào tháng 11/2003, để thành lập một doanh nghiệp ở Việt Nam cần phải
mất 63 ngày và tốn một khoản phí tương đương 30% thu nhập GDP đầu người.
Như vậy, về mặt thời gian Việt Nam xếp thứ 3 từ dưới lên trong khu vực Đông
64
Nam Á, còn về mặt chi phí thì Việt Nam xếp thứ hạng cuối cùng.
Thứ năm, khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Mặc dù hiện nay, liên doanh là hình thức được ưa chuộng nhất ở Việt Nam
(chiếm tới 60% tổng số vốn FDI), tuy nhiên hầu hết các dự án liên doanh đều
được thực hiện thông qua hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam –
một khu vực được coi là có sự bảo hộ cao và kém hiệu quả nhất trong nền kinh tế
(các doanh nghiệp nhà nước chiếm 98% tổng số vốn và 92% tổng số dự án liên
doanh tính đến hết năm 2004). Liên doanh của Việt Nam chủ yếu là góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng đất nên tỷ lệ góp vốn của Việt Nam không đáng kể. Cho
đến nay Việt Nam vẫn còn thiếu các cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để
góp vốn liên doanh với nước ngoài.
Thứ sáu, tỷ lệ các dự án đổ bể, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số
dự án quy mô lớn chậm triển khai.
Giai đoạn
Số dự án
Số vốn đầu tư
Số dự án bị rút
Số vốn đầu tư bị
(triệu USD)
GPĐT
rút giấy phép
(triệu USD)
1996-2000
1.648
20.416
400
6.159
2001-2002
1.217
5.440
190
2.459
1988-2002
4.497
44.689
832
10.110
Bảng 2.7. Số dự án bị rút giấy phép đầu tƣ giai đoạn 1996-2002
Nguồn: [11]
Thông qua các con số về số dự án có vốn FDI bị rút giấy phép đầu tư trong
giai đoạn 1988-2002 (bảng 2.7), chứng tỏ hoạt động của các dự án này ở Việt
Nam luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro cao. Trong 3 năm đầu (1988-
1990), số dự án FDI bị rút giấy phép đầu tư mới chỉ có bình quân 2 dự án/năm.
Sang giai đoạn 2001-2002, số dự án bị rút giấy phép đầu tư bình quân đã tăng lên
tới 95 dự án/năm. Như vậy, không chỉ số dự án, mà còn số vốn đầu tư bị giải thể
trước thời hạn cũng không ngừng tăng lên qua các giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn
1988-1990, số vốn đầu tư bị rút giấy phép là 317 triệu USD và tăng lên 2.459
triệu USD trong giai đoạn 2001-2002. Tổng số vốn đầu tư bị rút giấy phép giai
đoạn 1988-2002 là hơn 10 tỷ USD. Tỷ lệ các dự án bị rút giấy phép trước thời
hạn còn cao hơn rất nhiều ở các địa phương, đặc biệt là các địa phương có địa bàn
65
khó khăn.
Trong số 832 dự án bị rút giấy phép đầu tư thì chỉ có 33 dự án là do hết
thời hạn đăng ký kinh doanh, một số ít dự án không triển khai theo hạn định đã
cam kết, còn lại hầu hết là các dự án kinh doanh thua lỗ dẫn đến tình trạng phá
sản, ngừng hoạt động. Bên cạnh đó, hiện nay cả nước còn có rất nhiều dự án FDI
đã cấp phép nhưng chưa giải ngân được. Ngoài các dự án FDI đã bị giải thể, rút
giấy phép trước thời hạn, thì còn rất nhiều dự án FDI mặc dù vẫn đang hoạt động
nhưng trong tình trạng phá sản, khả năng tồn tại thấp. Nhiều doanh nghiệp FDI
hiện đang trong tình trạng thua lỗ do chi phí kinh doanh cao. Trong giai đoạn
1988-2002, có tới khoảng 2.250 doanh nghiệp FDI kết thúc quá trình xây dựng cơ
bản, đi vào sản xuất kinh doanh, nhưng chỉ có khoảng 536 doanh nghiệp có lãi
(chiếm 28,9%) với tổng giá trị lãi khoảng 8.500 tỷ USD, còn lại các doanh nghiệp
bị lỗ với tổng số tiền lên tới 6.426 tỷ USD [15]. Nhiều liên doanh do quản lý và
sử dụng đồng vốn không hiệu quả đã xảy ra tình trạng thua lỗ, dẫn đến tính trạng
hoặc giải thể hoặc chuyển đổi sang hình thức 100% vốn FDI. Trong giai đoạn
1988-2001, số dự án bị giải thể ở Việt Nam là 776 dự án, chiếm 21% so với tổng
số dự án còn hiệu lực thi hành tính đến nay và số vốn FDI trong các dự án bị giải
thể lên tới 9,674 tỷ USD, chiếm tới 37% trong tổng số dự án đang thực hiện ở
Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực đầu tư, những ưu đãi từ phía chính phủ Việt
Nam còn tỏ ra quá tràn lan, không trọng điểm, không có chiến lược đầu tư tổng
thể và lâu dài đã tạo ra cơ cấu đầu tư kém hiệu quả, không phục vụ đúng mục tiêu
của chiến lược công nghiệp hoá, đôi khi còn tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng
giữa các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Vướng mắc lớn nhất
khiến các dự án quy mô lớn chậm triển khai là vấn đề quy hoạch. Theo thống kê,
có đến 80% các dự án lớn trong lĩnh vực dịch vụ đã và đang xin giấy phép thuộc
lĩnh vực xây dựng bất động sản, vui chơi giải trí.. vốn đang khá bất ổn bởi 2 lực
cản chính là thiếu mặt bằng và chưa có những chính sách cụ thể đảm bảo cho
kinh doanh. Đó là chưa kể đến các dự án xây dựng trường học và bệnh viện (là
hai lĩnh vực đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm) nhưng chưa có quy
hoạch hoặc chủ trương cụ thể.
2.3.3. Những vấn đề đặt ra và hƣớng giải quyết
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kể từ năm 2001 trở lại đây tuy có nhiều
66
biểu hiện phục hồi sau một thời gian gián đoạn và trì trệ (1997-2000), nhưng nhìn
qua bức tranh tổng thể vừa phân tích ở trên có thể thấy chúng ta chưa có những
tín hiệu bứt phá, có khả năng thoát khỏi động thái thiếu ổn định của quỹ đạo suy
giảm dòng vốn FDI. Nếu làm phép so sánh và đối chiếu với điều kiện và môi
trường đầu tư của các quốc gia năng động ở châu á, có thể thấy Việt Nam chưa
phải là nước có sự hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư. Một trong những vấn đề
nổi bật hiện nay đang được nhiều nhà đầu tư đánh giá là Việt Nam đang có được
một môi trường chính trị xã hội ổn định và đạt được nhiều thành quả kinh tế. Cụ
thể là:
+ Sau năm 1997, Việt Nam đã kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư.
+ Nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà
đầu tư quốc tế, nhất là khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước.
+ Môi trường đầu tư nước ta từng bước được cải thiện. Hệ thống luật pháp
chính sách về đầu tư nước ngoài đã được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý
đầy đủ, rõ ràng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Công tác chỉ đạo, điều hành của chính phủ, của các bộ, ngành và chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy mạnh lộ trình áp dụng cơ chế
một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách
hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ những khó khăn cho việc triển khai dự
án.
+ Công tác xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực. Thực hiện nghị
quyết 09 của chính phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng chính phủ, nhất là trong năm
2003 đến nay, công tác xúc tiến đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực, khiến hình
ảnh của Việt Nam được quảng bá rộng rãi hơn và môi trường đầu tư của Việt
Nam được nhiều người đầu tư nước ngoài hiểu rõ hơn.
Tuy nhiên, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn được cải thiện rất chậm
chạp, chắp vá và đang bị suy giảm sức hấp dẫn một cách tương đối so với các
nước khác trong khu vực. Theo đánh giá của Phó thủ tướng Vũ Khoan tại diễn
đàn đầu tư năm 2005 tháng 11/2005, “ba vấn đề được coi là thách thức đối với
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay là cải cách hành chính; thu hút công
nghệ cao và nâng cao chất lượng lao động”. Những vấn đề đặt ra hiện nay về môi
67
trường đầu tư của Việt Nam là:
+ Môi trường đầu tư nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn
chậm hơn so với các nước khác trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn
FDI tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư mới.
+ Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung,
nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó dự đoán trước. Một số bộ, ngành
chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của chính phủ (như nghị
định 06 về lĩnh vực giáo dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định
cấp phép đầu tư và thu hút các dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của
chính phủ đã được quy định trong nghị định của chính phủ như miễn thuế nhập
khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu
tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn, nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng. Nghị định 164 về thúê thu
nhập doanh nghiệp là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng một mặt bằng pháp
lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng quy định mới về
thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đã làm giảm ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài,
nhất là vào các KCN, KCX.
+ Đến nay, Việt nam vẫn thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút FDI một
cách khoa học, phù hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài
của chúng ta hiện nay vẫn chủ yếu căn cứ và những thế mạnh hiện có, hoặc đang
thiếu hụt về công nghệ và vốn, nhưng lại không được căn cứ vào thực tế quy
hoạch hiện tại của chính phủ. Công tác quy hoạch bất hợp lý, nhất là quy hoạch
ngành còn nặng xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh
để phù hợp với các cam kết quốc tế. Theo quy định của pháp luật, ngoài các dự
án không cấp giấy phép đầu tư, các nhà đầu tư có quyền lập các dự án xin cấp
giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo điều hành,
chính phủ đã ban hành thêm một số quy định tạm dừng hoặc không cấp giấy phép
đầu tư đối với các dự án thuộc lĩnh vực như: sản xuất thép, xi măng, cấp nước
theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp ráp xe gắn máy hai bánh,
nước giải khát có gas... Ngoài ra, các văn bản về một số ngành ban hành gần đây
cũng đã hạn chế đầu tư nước ngoài như điều kiện về kinh doanh dịch vụ hàng hải,
về địa lý vận tải hàng không, về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
68
Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho các nhà đầu tư
nước ngoài cho rằng chính sách của Việt nam không nhất quán, minh bạch, ảnh
hưởng đến môi trường đầu tư.
+ Thủ tục thẩm định, cấp giấy phép đầu tư tuy đã được cải thiện nhưng vẫn
còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án còn dài do phải thống nhất ý kiến
giữa các bộ, ngành. Theo báo cáo mới đây của Công ty tài chính quốc tế IFC thực
hiện về đánh giá môi trường kinh doanh của 133 nước trên thế giới cho thấy: chi
phí – cả về thời gian và tài chính của các công ty cho việc xin giấy phép kinh
doanh (bao gồm tất cả các công đoạn từ xin hồ sơ, công chứng giấy tờ, xác nhận
giấy tờ, phê duyệt của cấp thẩm quyền...) ở Việt Nam là cao nhất. Báo cáo này đã
đưa đến một dẫn chứng so sánh về thời gian cần thiết để hoàn tất các thủ tục và
có thể bắt đầu kinh doanh ở Úc chỉ là 2 ngày, Singapore 8 ngày, Malaixia 31
ngày, còn ở Việt Nam là 63 ngày....
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước diễn ra hiện nay, môi trường đầu tư
của Việt Nam đang gặp rất nhiều cơ hội cũng như khó khăn. Vấn đề đặt ra hiện
nay là Việt Nam cần phải có những giải pháp kịp thời để tận dụng những cơ hội
và khắc phục những khó khăn để thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI phục vụ
sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Các nhag đầu tư nước ngoài cho tằng,
hệ thống pháp luật của nước ta còn thiếu nhất quán, hay thay đổi, khó dự đoán
trước. Một số quy định chưa hợp lý như việc khống chế tỷ lệ lao động người
nước ngoài dưới 3%, quy định về giá chuyển giao côcng nghệ... Cơ sở hạn tầng
còn yếu kém. Chẳng hạn, chất lượng cung cấp điện ở một số địa phương chưa
đảm bảo, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh; việc cấp nước ở một số địa
phương còn chưa tốt. Về giao thông, chi phí vận tải đường bộ, chi phí lưu kho,
lưu bãi cao, chất lượng đường bộ không tốt... đã làm tăng chi phí vận chuyển.
Thủ tục hành chính còn rườm rà, khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định cấp phép còn
chậm do quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài còn rườm rà, đòi hỏi phải
thẩm định nhiều tiêu chí...Bên cạnh đó, những bất lợi gần đây như chi phí sản
xuất gia tăng đáng kể do giá tăng, chi phí tiền lương tăng sau khi nâng mức lương
tối thiểu; một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các
luật mới; một số nhà đầu tư vi phạm luật pháp Việt Nam, có hành vi lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản như dự án Trung tâm đào tạo Anh ngữ SITC... đã gây rác động
69
xấu đến dư luận và môi trường đầu tư nước ngoài.
Để giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trên, trứơc hết Việt nam
cần ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách theo hướng
thông thoáng hơn, minh bạch hơn, dễ dự đoán hơn. Nhằm cải thiện thủ tục hành
chính, Luật đầu tư năm 2005 đã phân cấp quản lý trong hoạt động đầu tư nước
ngoài một cách minh bạch hơn, nhằm giải quyết nhanh hơn việc cấp phép đầu tư.
Bên cạnh đó, sẽ mở rộng diện đăng ký đầu tư và tăng cường hậu kiểm; đồng thời
đơn giản hoá các quy định thẩm định, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng trung ương trong việc xử lý các vấn đề liên quan đối với đầu tư nước
ngoài và trong giám sát kiểm tra việc thực hiện phân cấp. Mặt khác, cần nới lỏng
quy định về tỷ lệ lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp, nhất là những
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù như y tế, giáo dục, sử dụng công
nghệ cao... Đối với việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, ngoài nguồn vốn ngân sách và
ODA sẽ khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, được hưởng những lợi thế từ
hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam, đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam trong thời gian tới chắc chắn sẽ gia tăng mạnh mẽ nếu như các vấn đề
70
đặt ra được giải quyết triệt để và hiệu quả.
Kết luận chƣơng 2
Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam sau năm
1997 đến nay, chúng ta đi đến những kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, sau một thời gian suy giảm mạnh trong giai đoạn 1997-2000,
dòng vốn FDI vào Việt Nam đã phục hồi trở lại và tiếp tục tăng trưởng nhanh
trong giai đoạn 2001-6 tháng đầu năm 2006. Khối lượng FDI vào Việt Nam gia
tăng mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn cho thấy môi trường đầu tư của Việt
Nam đã có những cải thiện rõ nét, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, FDI ngày càng có những đóng góp và tác động quan trọng đối với
nền kinh tế, thể hiện qua cơ cấu FDI trong tổng đầu tư toàn xã hội, trong giá trị
sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, tạo việc làm, tạo nguồn thu ngân sách... Những
đóng góp ngày càng lớn này chứng tỏ Việt Nam đã coi trọng FDI là một thành
phần không thể thiếu trong nền kinh tế.
Thứ ba, sau năm 1997, Việt Nam ngày càng coi trọng hơn đến chất lượng
thu hút FDI thông qua việc phân bổ cơ cấu vốn FDI ưu tiên cho phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; chú trọng các đối tác đầu tư có công nghệ nguồn và có
khả năng tạo việc làm cho người lao động; chú trọng nhiều hơn đến các vùng
kinh tế trọng điểm và các vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn. Mặc dù chưa có
những chuyển biến rõ nét về việc nâng cao chất lượng thu hút FDI, nhưng những
biểu hiện trên cũng khẳng định rằng Việt Nam đã chú trọng kết hợp thu hút FDI
theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Thứ tư, mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng động thái thu
hút FDI sau năm 1997 vẫn có dấu hiệu chưa bền vững. Dòng vốn FDI vẫn chưa
quay trở lại mức cao đỉnh điểm vào năm 1996, có những đóng góp vào vốn đầu
tư của toàn xã hội ngày càng thấp,cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý và khả năng
liên kết giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với nền kinh tế trong nước còn
hạn chế. Những hạn chế trên xuất phát chủ yếu từ môi trường chính sách thu hút
đầu tư của nước ta còn chưa hoàn thiện, cải cách thể chế và hệ thống pháp lý
chưa nhanh gọn, quy hoạch còn rườm rà và nhiều bất cập... FDI chưa thực sự đáp
ứng đầy đủ những mục đích và định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam...
Trong thời gian tới, Việt Nam có rất nhiều cơ hội cũng như khó khăn để
71
thu hút mạnh mẽ dòng vốn FDI phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước, đặc
biệt là sau hội nghị APEC và sự tham gia WTO của Việt Nam vào cuối năm
2006. Tình hình thu hút FDI kể từ năm 1997 đến nay khiến chúng ta phải nhìn
nhận và đánh giá lại nhiều vấn đề, để phát huy tiềm năng và khắc phục những
thiếu sót vốn cứ tồn tại dai dẳng nhiều năm qua, nhằm thu hút FDI nhiều hơn và
72
chất lượng hơn trong thời gian tới.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP
TĂNG CƢỜNG THU HÚT FDI Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
Những phân tích ở chương 2 cho ta thấy kể từ năm 1997, FDI đã có chiều
hướng phục hồi trở lại và có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế Việt
Nam. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều hạn chế trong việc thu hút FDI trong thời gian
qua. Có thể quy trách nhiệm của sự giảm sút dòng FDI này là do bối cảnh kinh tế
khu vực và quốc tế không thuận lợi, nhưng nguyên nhân nằm phần lớn từ môi
trường đầu tư trong nước. Trong thời gian tới, để dòng vốn FDI tiếp tục đổ vào
Việt Nam nhiều hơn, chất lượng hơn, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu
nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tận dụng cơ hội trong nước và thế giới
mang lại.
3.1. Bối cảnh và quan điểm, định hướng và mục tiêu thu hút FDI tại Việt
Nam đến năm 2010
3.1.1. Bối cảnh mới trong thu hút FDI
3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới có nhiều thời cơ lớn đan xen với nhiều
thách thức lớn. Những xu thế tác động trực tiếp đến việc thu hút FDI của nước ta
trong thời gian tới là:
Một là, toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các nước tham gia. Toàn cầu hoá vừa làm tăng sức ép cạnh
tranh, vừa làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Quan hệ đa phương,
quan hệ song phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng hơn trong tất cả các
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, bảo vệ môi trường... Toàn cầu hoá mở rộng khiến
các công ty xuyên quốc gia không ngừng cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn
khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế. Thế giới sẽ hình thành các siêu công ty
và thương mại điện tử trở thành một sân chơi mới. Khoảng cách giàu nghèo giữa
73
các quốc gia ngày càng tăng.
Toàn cầu hoá lan nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu khiến nền sản xuất
trên thế giới mang tính toàn cầu. Tự do hoá về thương mại, đầu tư, tài chính tiếp
tục mở rộng. Hội nhập kinh tế và vai trò của các tổ chức quốc tế trở thành một
nội dung của toàn cầu hoá. Hội nhập nhấn mạnh tính chủ động tham gia vào quá
trình toàn cầu. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình
vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
đòi hỏi phải được nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết
quốc tế, đòi hỏi phải nâng cao sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền
kinh tế để có thể tận dụng những cơ hội của phân công lao động quốc tế mới.
Xu thế khu vực hoá trong bối cảnh toàn cầu cũng đang gia tăng. Sự cạnh
tranh thương mại giữa các khối trong khu vực ngày càng gia tăng. Xu thế toàn
cầu hoá kinh tế với tốc độ nhanh đến chóng mặt đang làm tăng cơ hội lựa chọn
lớn cho các nước, nhưng cũng đòi hỏi các nước phải tham gia hội nhập khu vực,
coi đó là bước đi cơ bản để hội nhập toàn cầu và để tránh những rủi ro khi hội
nhập ra toàn thế giới.
Hai là, xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế tới nền kinh tế tri thức ngày càng
rõ nét. Khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu
kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ
ngày càng có vai trò quan trọng. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa
quyết định sự phát triển. Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản
phẩm ngày càng được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới
luôn thay đổi khiến các doanh nghiệp phải nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi. Các
nước đang phát triển, trong đó có nước ta đang có cơ hội thu hẹp khoảng cách với
các nước phát triển; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không
tranh thủ được cơ hội và khắc phục những yếu kém để vươn lên.
Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức trên thế giới buộc các nước phải nỗ lực cải
cách cơ cấu để tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong thời kỳ sắp tới. Việc cải cách
cơ cấu đó đòi hỏi Việt Nam phải có những chuyển biến mới về cơ cấu kinh tế để
có thể tiếp nhận hiệu quả sự chuyển giao công nghệ từ phía các nhà đầu tư nước
ngoài. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới không thể là sự chuyển
74
dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp mà phải có sự kết hợp đồng thời với sự
chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức. Có như vậy mới đón nhận được sự chuyển
hướng cơ cấu đầu tư của các nước công nghiệp phát triển khi mà hầu hết các
ngành kinh tế công nghiệp của các nước này đều có công nghệ hiện đại.
Ba là, trong thời gian tới Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát
triển năng động, trong đó Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Sau khủng hoảng
tài chính kinh tế, nhiều nước ASEAN và Đông Á tiếp tục trên đà phát triển với
khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo thuận lợi cho Việt Nam thu hút dòng
FDI từ khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời cũng gia tăng sức ép cạnh
tranh cả trong và ngoài khu vực. Mặc dù đã đạt đến trình độ phát triển kinh tế
cao hơn nhiều nước khác trong nhóm nước đang phát triển, nhưng Việt Nam
vẫn phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh ngay cả trên thị trường trong và
ngoài nước. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam là một ví dụ. Việt Nam đang
gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng hoá ở những nước có
trình độ phát triển tương đương như ASEAN và Trung Quốc. Chính sự cạnh
tranh bất lợi này thể hiện ở nhiều khía cạnh như giá cả cao, chất lượng chưa tốt,
mẫu mã chưa đẹp, tiêu chuẩn vệ sinh chưa đạt...và nó bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân như cơ cấu công nghệ, cơ sở hạ tầng, trình độ nguồn nhân lực, hiệu
quả của đồng vốn đầu tư....
Trong xu thế tự do hóa và toàn cầu hoá, các nước có tiềm năng về vốn,
công nghệ, thị trường...như Mỹ, EU, Nhật Bản, NIEs... sẽ có nhu cầu nhập khẩu
và đầu tư vào các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao hơn và có những lợi
thế sẵn có hơn. Hiện tại, Việt Nam được coi là nước có trình độ phát triển trung
bình trong khối ASEAN, có những lợi thế tương tự như các nước trong khu vực
và đang mất đi một số lợi thế về cải cách cơ cấu kinh tế, tính không minh bạch
của môi trường đầu tư, chế độ hai giá, tỷ giá đồng tiền nội tệ, cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội....Nếu những yếu điểm này không thay đổi, Việt Nam sẽ bỏ lỡ những cơ
hội trở thành điểm hấp dẫn đầu tư trong thời gian tới.
Hiện tại, nước ta nằm trong khu vực phát triển năng động nhất thế giới, là
thành viên của khối ASEAN, có điều kiện thúc đẩy mối quan hệ với các nước
trên thế giới sau khi bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ. Cùng với chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá của nước ta đang tạo nên các cơ hội
để khai thác, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
75
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều chương trình và dự án hợp tác quốc tế phát
triển vùng Đông Nam Á, khối ASEAN, tiểu vùng sông Mê Kông về thương mại,
du lịch, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng... đang tạo điều kiện để Việt Nam mở
rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, hợp tác toàn cầu và khu vực cũng đang làm gia tăng sự cạnh
tranh của nước ta đối với các nước khác trong thu hút FDI. Hiện tại, chúng ta
đang phải cạnh tranh gay gắt với các nước có trình độ phát triển cao hơn ở khu
vực Đông Nam Á như Trung Quốc và ASEAN. Những lợi thế mà Việt nam đang
có được cũng đồng dạng với các quốc gia này. Hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, đặc biệt là việc tham gia đầy đủ vào AFTA, WTO, APEC đòi hỏi nước ta
phải vươn lên, tăng cường và mở rộng hợp tác bình đẳng với các nước, mặt khác
phải chấp nhận và điều chỉnh những lĩnh vực và hoạt động có liên quan theo
những ràng buộc và các chuẩn mực quốc tế. Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư sẽ
diễn ra quyết liệt hơn giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
nhất là các nước có những hoàn cảnh tương tự, nhưng có những mặt lợi thế hơn
Việt Nam.
3.1.1.2. Bối cảnh trong nước
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã tạo dựng được thế và lực mới để bước
vào thời kỳ phát triển mới. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam cũng gặp phải những
thách thức không nhỏ. Những thuận lợi và thách thức cơ bản của Việt Nam trong
những năm tới là:
* Thuận lợi:
Thứ nhất, Việt Nam đã tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế xã
hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những tiền đề đó trước hết phải kể đến là sự ổn định chính trị và xã hội
trong suốt thời kỳ đổi mới; thiết lập các cơ chế chính sách ổn định kinh tế vĩ mô,
thu hút nguồn lực phát triển; tăng khả năng huy động các nguồn lực trong toàn xã
hội; cải thiện rõ rệt các cân đối lớn trong nền kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước
đã tăng từ 2,9% GDP năm 1990 lên 18,2% GDP năm 1995, 29,8% GDP năm
2005. Tỷ lệ huy động vốn ngân sách nhà nước so với GDP tăng từ 15,1% năm
1990 lên 20% năm 1995 và 25% năm 2005. Vốn đầu tư phát triển chiếm 17,3%
GDP năm 1990, tăng lên 28% GDP năm 2000 và 38,9% năm 2005. Nguồn vốn
trong nước đã được khai thác tốt hơn, vì vậy đã tăng khả năng tập trung đầu tư
76
vào khu vực nông nghiệp nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, phát
triển con người, phát triển khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng. Thể chế
kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành, hệ thống pháp luật về kinh tế
dần dần được hoàn thiện, đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Thứ hai, Việt Nam đã đạt được sự chuyển dịch cơ cấu nhanh chóng theo
hướng phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng, phát triển mạnh các
ngành công nghiệp và dịch vụ.
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,1% năm 1990
xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000 và 20,9% năm 2005. Công nghiệp và
xây dựng từ 22,7% năm 1990 lên 36,7% năm 2000 và 41,0% năm 2005; Dịch vụ
tăng từ 38,6% năm 1990 lên 44% năm 1995, 38,8% năm 2000 và 38,1% năm
2005. Từ một nước nông nghiệp nghèo đói, phải nhập khẩu gạo trong những năm
cuối thập niên 80, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước giải quyết tốt vấn đề
lương thực cho mọi người dân và còn là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp không nhanh bằng ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ (đạt 4,2% trong giai đoạn 1990-2000), nhưng năng
suất nông nghiệp đã đạt rất cao. Gạo, cà phê, chè, cao su đã trở thành những mặt
hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm vị trí quan trọng trên thị
trường thế giới. Trong ngành công nghiệp, Việt Nam đã hình thành được những
nền tảng công nghiệp cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước. Công nghiệp chế biến đã chiếm tới trên 80% giá trị sản xuất toàn ngành
công nghiệp và 20,2% GDP vào năm 2002. Nhiều ngành công nghiệp chủ lực đã
hình thành như khai thác dầu khí, chế biến thực phẩm, dệt may, giày da, sản xuất
hoá chất, chế biến cao su, chất dẻo... Bên cạnh đó, cũng bước đầu hình thành các
ngành công nghệ cao như sản xuất ô tô, thiết bị chính xác, máy móc điện tử và
viễn thông, máy tính, máy văn phòng... Nhờ có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng
hiện đại và những thành tựu về tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã thoát khỏi tình
trạng một nước nghèo, lạc hậu, trở thành một quốc gia có tốc độ công nghiệp hoá
đạt mức nhanh trong nhóm nước đang phát triển.
Bên cạnh việc chuyển dịch cơ cấu ngành, vai trò kinh tế vùng đã được coi
trọng, trong đó 3 vùng kinh tế trọng điểm đã bước đầu phát huy được tiềm năng,
lợi thế của mình, nhờ đó tăng trưởng khá, đóng góp tới 50% GDP của cả nước
77
trong thời kỳ 1996-2000 và 63,1% GDP của cả nước trong năm 2005; đóng góp
khoảng 70% giá trị gia tăng công nghiệp, 70% kim ngạch xuất khẩu và 73%
nguồn thu ngân sách.
Cơ cấu lao động cũng được chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động
sản xuất nông nghiệp từ 73% năm 1990 xuống 56,8% năm 2005, tăng tỷ lệ lao
động trong các ngành công nghiệp từ 11,2% năm 1990 lên 17,9% năm 2005; và
dịch vụ từ 17,5% năm 1990 lên 25,3% năm 2005. Các thành phần kinh tế được
khuyến khích phát triển và có những vai trò quan trọng không thể thiếu trong nền
kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam đã rất thành công trong việc mở cửa kinh tế, phá bỏ
được sự bao vây cấm vận kinh tế thương mại, từng bước hội nhập vững chắc vào
nền kinh tế thế giới.
Đường lối đối ngoại “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đã tạo
điều kiện cho Việt nam mở rộng quan hệ đối ngoại, thương mại và đầu tư với các
nước, các tổ chức khu vực và quốc tế. Từ sự bỡ ngỡ ban đầu, Việt Nam đã tích
luỹ được những kinh nghiệm và kiến thức trong đàm phán song phương, đa
phương và các vòng đàm phán quốc tế. Việt Nam cũng đã tranh thủ được những
lợi thế và uy tín của mình trong khu vực và trên thế giới để nâng cao vai trò và
sức cạnh tranh trong quan hệ quốc tế. Đây là một điều kiện thuận lợi mà không
phải bất cứ một nước đang phát triển nào khi mới hội nhập đều có. Đặc biệt, vào
năm 2006, sau 11 năm đàm phán, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC tổ chức vào tháng
11 vừa qua, đánh dấu bước hội nhập sâu hơn nữa của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới, tạo điều kiện mở rộng sân chơi cho các doanh nghiệp Việt Nam, nâng
cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế.
Thứ tư, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế đã giảm mạnh hơn trong một thập
kỷ qua, từ 58% năm 1993 xuống 37,4% năm 1998 và 24,1% năm 2004. Công tác
chăm sóc sức khoẻ của người dân được cải thiện mạnh mẽ. Chỉ số phát triển con
người không ngừng được cải thiện. Tuổi thọ bình quân đạt 71,3 tuổi, tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng giảm xuống còn 25% năm 2005; Việt Nam được đánh giá là nước
đã chú ý hiệu quả đến việc phát triển kinh tế kết hợp với công bằng xã hội, đưa
78
thành quả phát triển kinh tế trong 20 năm qua đến mọi người dân trong cả nước.
Thứ năm, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
điều này tạo cơ hội rất lớn để Việt Nam nâng cao uy tín trên trường quốc tế.
Những diễn biến hội nhập với việc tổ chức thành công hội nghị APEC và gia
nhập WTO vào cuối năm 2006 của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đang trở thành
điểm nóng của châu Á trong năm nay. Đầu tư nước ngoài đổ vào Việt nam ngày
càng nhiều hơn, thị trường chứng khoán trở lên sôi động chưa từng có. Sau 11
năm nỗ lực đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã nhận được tấm thẻ để hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Với thị trường ngày càng rộng mở, đối tác
kinh tế ngày càng đa dạng khi gia nhập WTO, nhiều nghiên cứu đánh giá Việt
Nam đang có rất nhiều cơ hội để bước vào giai đoạn phát triển mới, tăng tốc hơn,
chất lượng hơn và mang tính cạnh tranh nhiều hơn.
* Khó khăn:
Một là, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
còn thấp, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé.
Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố
tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành, những sản phẩm truyền thống,
công nghệ thấp, tiêu hao nhiều nguyên liệu, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn
phụ thuộc quá nhiều vào vốn đầu tư và bảo hộ, bao cấp. Trong nông nghiệp còn
phát triển mang nặng tính tự phát, chưa bền vững. Nhiều sản phẩm nông nghiệp
chưa xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả còn thấp. Công nghiệp tuy có tốc
độ tăng trưởng cao nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở các ngành mang tính gia công
như may mặc, giày da, chế biến gỗ... Những ngành có giá trị gia tăng còn thấp và
công nghiệp phụ trợ chưa phát triển hoàn thiện. Lĩnh vực dịch vụ còn manh mún,
chưa hiện đại, chi phí cao, nhiều loại hình dịch vụ không đồng bộ và kém ổn
định.
Xét về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, bảng 2 cho thấy năm 1997 kinh
tế Việt Nam xếp thứ 49 trên 53, đến năm 1998 được nâng lên thứ 39 trong số 53
nước, năm 1999 tụt xuống đứng thứ 48 trong số 59 nước, năm 2000 tiếp tục tụt
xuống đứng thứ 53 trong số 59 nước, năm 2001 tụt nữa xuống thứ 60 trong số 75
nước, năm 2002 tiếp tục tụt xa hơn đứng thứ 65 trong số 80 nước, rồi năm 2003
xếp thứ 60/102, năm 2004 xếp 77/104 và năm 2005 xếp thứ 81 trên 117 nước.
Tình hình xếp hạng năng lực cạnh tranh của kinh tế nước ta so với các nước khác
79
và của các doanh nghiệp cũng rơi vào tình trạng tụt hạng tương tự.
Quy mô kinh tế của nước ta cũng rất nhỏ bé. Năm 2005, GDP ước đạt 53 tỷ
USD và thu nhập bình quân đầu người khoảng 640 USD, còn rất thấp và chưa ra
khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp. Mặc dù đạt được mức tăng trưởng
kinh tế khá cao trong suốt 20 năm đổi mới, nhưng với quy mô kinh tế nhỏ bé như
vậy thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế giữa nước ta và các nước phát triển trong khu
vực còn khá lớn.
Hai là, các tiền đề cho phát triển kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, thiếu
đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu.
Những yếu kém này trước hết thể hiện ở những mất cân đối kinh tế vĩ mô.
Tích luỹ của nền kinh tế còn thấp, sử dụng nguồn lực còn lãng phí, chính sách
tiền tệ còn nhiều hạn chế chưa tạo lập được những thể chế thị trường tài chính –
tiền tệ một cách chủ động. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của nước ta tuy đã đạt
được những tiến bộ đáng kể, nhưng nhìn chung còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, cơ cấu giáo dục đào
tạo còn bất hợp lý. Cải cách hành chính, thể chế còn diễn ra chậm, chưa phù hợp
với tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Ba là, tiến trình hội nhập quốc tế còn diễn ra chậm, khiến nước ta bỏ lỡ
nhiều cơ hội khi tham gia vào quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá. Thách
thức đặt ra là làm thế nào vừa tham gia tích cực vào xu hướng toàn cầu hoá và
khu vực hoá, vừa giữ vững được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đây là
điều không đơn giản bởi vì kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn rất yếu ớt, hệ thống
quản lý chứa đựng nhiều yếu kém. Giải pháp rõ ràng không phải là rút vào thế cô
lập, mà là tiếp tục những bước đi cải cách theo hướng xây dựng nền kinh tế thị
trường mở, xác định rõ hơn vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường,
điều chỉnh những thiếu sót của mối quan hệ giữa quản lý hành chính và quản lý
kinh tế, tối thiểu hoá hệ thống quan liêu, bao cấp, tăng cường thực hiện phương
pháp quản lý dựa trên những yếu tố kích thích kinh tế (thông qua thuế, lãi suất,
giá cả, tỷ giá hối đoái…), xây dựng thể chế kinh tế xã hội phù hợp với tiến trình
cải cách, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng môi trường kinh doanh mang
tính cạnh tranh hơn nữa…
Bốn là, việc kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội còn
nhiều hạn chế. Nghèo khổ, bất bình đẳng và phân phối lại thu nhập là những
80
thách thức cơ bản trong quá trình toàn cầu hoá, bao gồm cả những bất bình đẳng
trong một quốc gia và giữa các quốc gia. Việt Nam hiện nay cũng đang phải đối
mặt với sự bất bình đẳng và sự phát triển mất cân đối về xã hội và môi trường
như tệ nạn xã hội, nghiện hút, văn hoá không lành mạnh, tội phạm… Việt Nam
cần thực hiện một chính sách nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, trong đó vừa
duy trì sự tăng trưởng kinh tế cao vừa đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường. Nhưng để khắc phục vấn đề này, Việt Nam còn phải đối mặt với hai thách
thức cơ bản khác: đó là việc duy trì một tỷ lệ tiết kiệm hợp lý đi đôi với việc cân
đối mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển.
Năm là, gia nhập WTO Việt Nam cũng gặp phải nhiều thách thức cần tháo
gỡ kịp thời, hiệu quả. Thách thức trước hết là tự do hoá nền kinh tế, cải cách và
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh trong nước
và xây dựng đầy đủ các loại thị trường trong nền kinh tế. Tiếp đó, gia nhập WTO,
Việt Nam cũng cần phải chú trọng nhiều hơn nữa đến việc đào tạo nguồn nhân
lực mang tính cạnh tranh, kỹ năng cao. Hội nhập với sân chơi chung của toàn thế
giới, hàng hoá của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt ngay cả trên thị trường
nội địa, mọi sự bảo hộ trước đây đều phải dỡ bỏ. Nguy cơ phá sản doanh nghiệp,
hàng hoá kém chất lượng cạnh tranh, thị trường nội địa chịu sự khống chế của các
công ty xuyên quốc gia là hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn bao giờ hết, việc nâng cao
năng lực cạnh tranh, tính hiệu quả của nền kinh tế và thể chế kinh tế thị trường là
yêu cầu cấp thiết của chính phủ để hạn chế những thách thức khi gia nhập WTO.
3.1.2. Định hƣớng, mục tiêu thu hút FDI trong thời gian tới
3.1.2.1. Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 đã đề ra 5 nhiệm vụ
phát triển quan trọng sau: 1) Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; 2) Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường; 3) Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng nền tảng cho
một nước công nghiệp là nhu cầu cấp thiết; 3) Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo
động lực giải phóng và phát triển mọi nguồn lực; 4) Gắn chặt việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; 5) Kết hợp chặt chẽ
phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng và an ninh.
Mục tiêu cụ thể của chiến lược 5 năm 2006-2010 là:
- Đưa GDP năm 2010 lên gấp 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006-2010,
81
tốc độ tăng trưởng GDP tăng 7,5-8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. Nâng
cao rõ rệt hiệu quả kinh tế của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng
tốt hơn nhu cầu tiêu dùng, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu; ổn định kinh tế vĩ
mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân
sách, lạm phát, nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế đạt 30% GDP; Nhịp độ tăng
xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP, đạt 16%/năm. Tỷ trọng của ngành
nông nghiệp là 15-16% GDP, công nghiệp 43-44%, dịch vụ 40-41%. Tỷ lệ lao
động nông thôn là 50%.
- Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Xoá hộ
đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết tình trạng thất nghiệp ở cả thành thị và
nông thôn (thất nghiệp thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động sử dụng ở nông
thôn là 85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ
em được phổ cập giáo dục cơ sở. Đến năm 2010, tốc độ phát triển dân số khoảng
1,14%/năm, lao động nông nghiệp chiếm dưới 50% lao động xã hội. Năm 2010
phổ cập giáo dục trung học cơ sở, giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh
viên/10.000 dân; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội; thu
nhập đầu người đạt khoảng 1.050-1.100 USD/năm. Tăng chất lượng đời sống vật
chất, văn hoá và tinh thần; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện.
- Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các
công nghệ hiện đại của thế giới và tự phát triển một số lĩnh vực, nhất là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hoá.
- Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng,
an ninh. Hệ thống giao thông đảm bảo lưu thông an toàn, thông suốt. Mạng lưới
giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Xây dựng và hiện đại hoá các
dịch vụ điện, điện thoại, bưu chính viễn thông cơ bản.
- Vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các
lĩnh vực kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới. Các thành phần kinh tế
khác đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường được hình thành
về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả.
3.1.2.2. Định hướng thu hút FDI
Dự thảo lần 3 Chương trình Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
82
thời kỳ 2006-2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư đã đưa ra mục tiêu thu hút tổng
vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm 2006-2010 đạt 30-34 tỷ USD,
trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt 22-24 tỷ USD, vốn tăng thêm đạt 8-10 tỷ USD.
Vốn thực hiện trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 24 tỷ USD, trong đó FDI
trong ngành công nghiệp chiếm 55%, dịch vụ 37% và nông – lâm – ngư nghiệp
chiếm 8%.
Như vậy, so với Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đề ra từ 5
năm trước đó, mục tiêu thu hút vốn FDI trong giai đoạn 2006-2010 đã được nâng
lên tầm cao mới. Trong chiến lược 2001-2010, Bộ kế hoạch và đầu tư đã dự kiến
trong vòng 10 năm (2001-2010), Việt Nam cần phải thu hút từ 22-24 tỷ USD vốn
FDI trong vòng 10 năm (không kể vốn pháp định đóng góp của phía đối tác Việt
Nam), trung bình mỗi năm thực hiện khoảng 2,2-2,4 tỷ USD, mức tăng trưởng
bình quân thu hút vốn FDI khoảng 7-8%/năm. Số vốn còn lại sẽ huy động từ
nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay thương mại nước ngoài trung và dài hạn
khác.
Về định hướng lĩnh vực thu hút đầu tư, sẽ đặc biệt khuyến khích đầu tư vào
các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh hoạt, công
nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông – lâm –
thuỷ sản. Về dịch vụ, đặc biệt khuyến khích thu hút đầu tư vào các ngành kinh
doanh bất động sản, du lịch, y tế, giáo dục và đào tạo...
Với mục tiêu thu hút tối đa và hợp lý mọi nguồn vốn từ bên ngoài phục vụ
sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đảm bảo hiệu quả sử dụng
đồng vốn cao nhất, chiến lược thu hút FDI trong giai đoạn tới của chính phủ Việt
Nam sẽ là:
Thứ nhất, thu hút nguồn lực từ bên ngoài trên cơ sở coi trọng “vốn trong
nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng”, nhằm phát huy tổng thể các
yếu tố để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Chiến lược này đã được nhắc lại nhiều lần trong các kỳ đại hội Đảng và
trong các văn kiện, nghị quyết của chính phủ về đường lối phát triển kinh tế nói
chung và kinh tế đối ngoại nói riêng. Văn kiện Đại hội IX nêu rõ: “Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội
lực với ngoại lực thành nguồn vốn tổng hợp để phát triển đất nước [Văn kiện Đại
83
hội IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, p.92]. Nghị quyết số 09/2001/QĐ-
TTg cũng khẳng định lại quan điểm của Đại hội IX: kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan
trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo
sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
đất nước. Những văn kiện, nghị quyết này đều xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự
phát triển và cân đối các nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, tránh sự
phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn nước ngoài. Vốn nước ngoài chỉ là yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên hiệu quả cao hơn của nền kinh tế, chứ không thể giữ vai
trò chi phối các hoạt động kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương
lai.
Thứ hai, chiến lược đầu tư chất lượng và hiệu quả
Chiến lược này xuất phát từ thực tiễn FDI vào Việt Nam trong thời gian
qua. Những văn kiện, nghị quyết của chính phủ, cấp bộ, liên ngành đều khẳng
định chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn FDI trong thời gian qua còn gặp nhiều
vấn đề, chưa đáp ứng đúng mục tiêu kế hoạch đã đề ra trước đó, đôi khi còn đi
chệch định hướng thu hút FDI để phát triển kinh tế. Do vậy, định hướng chiến
lược thu hút FDI trên quan điểm này được đề cập cụ thể trong nghị quyết 09/2003
và những văn kiện khác là:
- Lựa chọn những ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trọng yếu để
thu hút FDI, bao gồm cả những ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông... lẫn các
ngành có lợi thế so sánh về nguyên liệu, lao động để thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc
làm, chuyển dịch cơ cấu...
- Khuyến khích đầu tư vào các địa bàn có lợi thế để phát huy vai trò của
các vùng động lực để tạo điều kiện liên kết phát triển với các vùng khác trên cơ
sở lợi thế so sánh; đồng thời ưu đãi tối đa cho đầu tư vào những ngành có điều
kiện kinh tế xã hội khó khăn để tạo ra sự cân đối đầu tư giữa các vùng, miền lãnh
thổ.
Thứ ba, chiến lược đa dạng hóa hình thức đầu tư và đa phương hoá đối tác
84
đầu tư
Về đa dạng hoá hình thức đầu tư, hiện nay nguồn vốn FDI chủ yếu mới
thực hiện trên cơ cở hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh, 100% vốn nước
ngoài. Để dòng vốn nước ngoài chảy ngày một nhiều vào Việt Nam, chính phủ
đang chuẩn bị những bước đi cần thiết để tiến tới cổ phần hoá các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập công ty mẹ và công ty con, thực hiện hình
thức mua lại và sáp nhập (M&A)...Vốn FDI vẫn được coi là quan trọng nhất
trong số các nguồn vốn huy động ở nước ngoài, tuy nhiên, đa dạng hoá các hình
thức thu hút vốn FDI sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế cao hơn, chất lượng hơn trong
việc sử dụng nguồn vốn này.
Trong giai đoạn 2006-2010, Bộ kế hoạch và đầu tư đã đưa ra danh mục 94
dự án trọng điểm quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài. Các dự án này có tổng vốn
đầu tư là 25,65 tỷ USD, trong đó có 6 dự án kêu gọi vốn đầu tư từ 1 tỷ USD/dự
án đến 3,5 tỷ USD/dự án. Hai dự án kêu gọi vốn đầu tư lớn nhất là dự án liên
doanh xây dựng Khu liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn, Thanh Hoá, công suất 7
triệu tấn/năm; dự án liên doanh nhà máy Thép liên hợp Kỳ Anh, Hà Tĩnh, có
công suất 4,5 triệu tấn/năm. Cả hai dự án này đều có vốn đầu tư 3,5 tỷ USD/dự
án. Danh mục 94 dự án trọng điểm tập trung kêu gọi vốn đầu tư vào các ngành
kinh tế quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao, công
nghiệp. Trong 94 dự án trọng điểm đó, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn
nuôi chỉ có 1 dự án đầu tư; ngành thuỷ sản có 4 dự án kêu gọi đầu tư.
3.2. Các giải pháp tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian tới
3.2.1. Giải pháp về cải thiện môi trƣờng đầu tƣ
Những giải pháp cơ bản để cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới
là:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư
nước ngoài. Cho đến nay, khung pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài đã được hình thành (luật đầu tư năm 2005), nhưng những văn bản,
nghị định để thực hiện Luật đầu tư mới chưa được triển khai thực hiện. Để luật
đầu tư mới thực sự hiệu quả, Việt Nam cần công khai hoá danh mục những lĩnh
vực được phép đầu tư 100% vốn nước ngoài. Việc này sẽ giúp ích cho những nhà
đầu tư có tiềm năng, nhưng lại không có nhiều thông tin về Việt Nam. Bên cạnh
85
đó, Việt Nam cũng cần xoá bỏ những bất hợp lý trong quy định bắt buộc về tỷ lệ
nội địa hoá trong một số ngành công nghiệp như ô tô, xe máy, điện tử, trong khi
những ngành công nghiệp phụ trợ của Việt nam vẫn kém phát triển.
Chính phủ cũng phải thúc đẩy việc thực hiện giải quyết những vướng mắc
về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng theo hướng của Bộ kế
hoạch và đầu tư theo Công văn số 806/BKH-PC ngày 6/2/2004. Sửa đổi Nghị
định số 105/2003/NĐ-CP ngày 19/9/2003 của chính phủ theo hướng nới lỏng hạn
chế tỷ lệ lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang
hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, giáo dục đào tạo, cơ sở khám chữa bệnh.
Hoàn thiện các luật về thành lập và quản lý các công ty cổ phần có vốn
đầu tư nước ngoài. Các quy định liên quan đến việc thành lập công ty cổ phần
đang trở thành một đòi hỏi cấp bách của các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam, nhưng chúng chưa được quy định cụ thể. Nghị định
38/03/2003/NĐ-CP mới chỉ dừng lại ở chỗ cho phép các công ty có vốn nước
ngoài chuyển thành các công ty cổ phần và được áp dụng trên cơ sở thử nghiệm.
Thực tế, điều này đã và đang cản trở việc thực hiện chính sách đa dạng hoá hình
thức và phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Chính phủ
cũng nên nghiên cứu và áp dụng hình thức mua lại và sát nhập (M&A) vào thực
tế nước ta để mở kênh mới thu hút đầu tư nước ngoài, vì đây cũng là một động
lực của dòng vốn đầu tư nước ngoài hiện nay. Nghiên cứu áp dụng một số hình
thức đầu tư mới như mô hình công ty mẹ – con (holding company), công ty hợp
danh để tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
Bãi bỏ những hạn chế về tỷ lệ vốn tối thiểu (30%) cho bên nước ngoài
đóng góp vào liên doanh và tỷ lệ vốn pháp định tối thiểu bắt buộc (30%) trong
tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Tuy nhiên, những yêu cầu
về tỷ lệ góp vốn tối đa đối với nhà đầu tư nước ngoài trong những dự án quan
trọng, đặc biệt là những dự án dịch vụ, nên được duy trì như đã cam kết trong các
hiệp định quốc tế về đầu tư và dịch vụ.
Cơ chế một giá đã được áp dụng trong Luật đầu tư 2005, nhưng chính phủ
cũng nên có những biện pháp công bố rộng rãi để các nhà đầu tư nước ngoài biết.
Cần thực hiện các chính sách phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, khuyến
khích tất cả các thành phần kinh tế là doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào sản
86
xuất nguyên liệu, bộ phận thay thế và các nguồn cung cấp khác.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng cần có những sửa đổi kịp thời và có những
quy chế hướng dẫn thực hiện Luật lao động, Luật đất đai cho phù hợp hơn với
thực tế. Theo Luật lao động, mặc dù chính phủ đã cho phép doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trực tiếp tuyển dụng lao động, nhưng vẫn còn có những quy
định về việc can thiệp vào vấn đề tuyển dụng lao động trong các công ty nước
ngoài. Luật lao động cần phải sửa đổi theo hướng trao quyền chủ động thực hiện
nguyên tắc ký hợp đồng lao động trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Các nhà đầu tư cho rằng, Luật lao động hiện nay còn
quy định mức lương làm ngoài giờ quá cao mà doanh nghiệp cần phải trả cho
người lao động, cao hơn mức lương cơ bản 3 lần (trước kia là 2 lần).
Về Luật đất đai, hiện nay thời hạn thuê đất đối với các nhà đầu tư nước
ngoài là 50 năm, có thể kéo dài đến 70 năm trong trường hợp đặc biệt. Nhưng đối
với các doanh nghiệp đầu tư phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất, thời
gian để đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng thường kéo dài,
có khi đến 5-10 năm. Do vậy, thời gian thực sự kinh doanh giảm. Vì vậy nên cho
phép gia hạn thời gian thuê đất.
Thứ hai, cần nâng cấp cơ sở hạ tầng. Việc cung cấp nước sinh hoạt, điện,
kết nối internet là một trong những ưu tiên hàng đầu để tạo thuận lợi cho các nhà
đầu tư. Đặc biệt, nhà nước nên tập trung đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, đảm
bảo các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận
hàng rào các khu công nghiệp; cho phép cạnh tranh tự do phát triển các dịch vụ
tin học và viễn thông để giảm chi phí truy cập internet, cước điện thoại quốc tế và
các dịch vụ khác ngang bằng với các nước trong khu vực.
Một trong những biện pháp hữu hiệu mang lại sự cắt giảm chi phí nhanh và
mạnh nhất là xoá bỏ cơ chế độc quyền trong một số ngành điện, nước, viễn thông,
vận tải đường bộ, đường sắt, đường hàng không, xăng dầu...và giao cho tư nhân
hoặc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia quản lý. Cơ chế quản lý năng
động với tiềm lực về vốn, công nghệ từ các công ty tư nhân (có thể là công ty cổ
phần có vốn đầu tư nước ngoài, công ty nước ngoài hoạt động dưới hình thức
BOT..) sẽ giúp cho việc nâng cấp và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng hiện có, tạo
điều kiện thuận lợi để giảm bớt chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh
87
doanh.
Hiện tại, ở Việt Nam, lĩnh vực cơ sở hạ tầng được bảo hộ rất mạnh. Sự độc
quyền trong nhiều lĩnh vực đã giúp các doanh nghiệp được bảo hộ tự quyết định
giá cả các loại dịch vụ. Nói như vậy thì không hẳn là đúng. Khu vực doanh
nghiệp nhà nước ở Việt nam vốn là khu vực cồng kềnh, kém năng động nhất, do
vậy các thiết bị và cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thường lạc hậu hơn nhiều
so với thế giới. Điều đó làm phát sinh chi phí, đội giá cả lên mức cao hơn bình
thường, và làm cho sản xuất kinh doanh càng trì trệ.
Thứ ba, cần đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động. Chính phủ cần tăng
chi ngân sách hàng năm để tăng cường giáo dục và đào tạo toàn diện, nâng cao
chất lượng lao động của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài
về chất lượng, giá cả và kỷ luật lao động; nâng cao trình độ chuyên môn của công
chức nhà nước các cấp và lao động Việt Nam liên quan đến công tác quản lý và
trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về lâu dài,
chính phủ cần phải có những chính sách đón đầu trong giáo dục và đào tạo nhân
lực, nhất là về kỹ thuật và kỹ năng kinh doanh.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới cần thực hiện
theo hướng sau:
+ Cần phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách khoa học để
phục vụ cho giai đoạn 2 của quá trình phát triển kinh tế (giai đoạn 2 bắt đầu tính
từ năm 2006 sau 20 năm đổi mới kinh tế). Hiện nay, hệ thống giáo dục của Việt
Nam còn nặng về sách vở, chưa chú ý đến tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ của học
sinh. Nếu Việt Nam tiếp tục thực hiện phương thức giáo dục theo hướng này,
trong tương lai Việt Nam sẽ ngày càng phụ thuộc vào nước ngoài về công nghệ,
bởi vì Việt Nam không có khả năng sáng tạo công nghệ của riêng mình do nền
giáo dục chất lượng thấp. Hướng đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam là phải
hướng mạnh về kinh tế tri thức và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào tất
cả các ngành kinh tế. Bằng hệ thống giáo dục đào tạo công lập, nhà nước phải
chịu trách nhiệm chính trong việc bồi dưỡng, đào tại đội ngũ nhân tài đông đảo,
chứ không nên ưu ái cho một số ít người có tài năng đặc biệt. Để làm được điều
đó, cần phải có những bước đột phá cải cách trong cách dạy và học, đổi mới cơ sở
vật chất hiện đại cho giáo dục, có kế hoạch tuyển sinh đảm bảo chất lượng tốt, tạo
88
điều kiện cho mọi thành viên đều học tập; khâu đào tạo phải gắn chặt chẽ với
khâu sử dụng, tránh tình trạng thiếu nhân lực ở ngành này nhưng lại thừa nhân
lực trong những ngành khác...
+ Bên cạnh giáo dục đại học và tập trung đào tạo nhân lực vào các ngành
công nghệ mũi nhọn, chính phủ cũng cần phải chú trọng nhiều hơn đến hệ thống
đào tạo và dạy nghề. Đây là một khâu rất yếu trong việc thực thi các dự án đầu tư
nước ngoài. Hầu hết lao động trong các công ty nước ngoài đều có những bằng
cấp cao hoặc đáp ứng đúng tiêu chuẩn yêu cầu, nhưng trên thực tế tay nghề cơ
bản của họ lại khiếm khuyết và không mang tính thực tế. Những điều tra về tình
trạng lao động trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều cho
thấy các nhà đầu tư thường phàn nàn về giải pháp đào tạo nghề của Việt Nam và
họ cho rằng đây là khâu kém nhất và gây thất vọng nhiều nhất cho việc thực hiện
các dự án sản xuất kinh doanh. Do vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng cho các dự án đầu tư trong và ngoài nước, việc mở rộng hệ thống đào tạo
nghề là cần thiết, đặc biệt là đào tạo công nhân kỹ thuật. Tốc độ tăng của loại
hình đào tạo này phải cao hơn mức độ đào tạo đại học, trên đại học. Hệ thống đào
tạo nghề có thể mở rộng từ phía nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế
... Trong hệ thống đào tạo nghề, bên cạnh việc mở rộng quy mô, cũng cần phải
chú ý đến vấn đề chất lượng đào tạo theo hướng đào tạo một đội ngũ công nhân
có tay nghề cao, sử dụng công nghệ hiện đại ... Hệ thống đào tạo nghề nên phân
bổ đều trong toàn quốc, đặc biệt nên tập trung ở những nơi có mức độ tập trung
KCN,KCX có sử dụng công nghệ cao và trong những lĩnh vực như chế biến chế
tạo, cơ khí, điện tử, các làng nghề truyền thống, kỹ thuật nuôi trồng ...Để làm tốt
điều đó, ngân sách của nhà nước cần phải được tăng nhanh và sự quản lý phối
hợp của nhà nứoc với các địa phương, các trường dạy nghề... cần phải được thực
hiện chặt chẽ, thường xuyên, nhất quán để nhanh chóng tìm ra những phương
thức đào tạo nghề hữu hiệu nhất, phù hợp nhất với thời đại ngày nay.
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư. Vào năm 2004, Bộ kế
hoạch và đầu tư đã xây dựng chương trình hành động quốc gia về xúc tiến đầu tư
nước ngoài đến năm 2010. Trước mắt cần đổi mới về nội dung và phương thức
vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp
với từng địa bàn, loại hình doanh nghiệp. Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại
các bộ, ngành, các cơ quan đại diện nước ta ở một số địa bàn trọng điểm nước
89
ngoài để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư trực tiếp với từng dự án, từng tập
đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNC).
Quỹ xúc tiến đầu tư cũng đã được thành lập nhằm đảm bảo nguồn kinh phí
cho công tác xúc tiến, vận động đầu tư hàng năm theo hướng trích 1% từ nguồn
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để trang trải công tác vận
động xúc tiến đầu tư của các ngành, địa phương. Trong thời gian tới, quỹ xúc tiến
đầu tư nên mở rộng nhiều hơn cho các đối tác kinh tế trọng điểm và các ngành
phát triển ưu tiên. Bên cạnh đó, các bộ ngành cũng nên phối hợp chặt chẽ với
nhau hơn trong việc tổ chức nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính
sách thu hút đầu tư phù hợp, nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút
đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
Những phương tiện hữu hiệu như trang web, các kênh thông tin đại chúng trong
nước và quốc tế... cũng là cầu nối giúp các nhà đầu tư nước ngoài hiểu rõ hơn
những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư của Việt Nam trong thời gian gần đây.
3.2.2. Giải pháp về cơ cấu đầu tƣ
Theo như định hướng thu hút đầu tư, trong thời gian tới sẽ đặc biệt khuyến
khích đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ
sinh hoạt, công nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến
nông - lâm - thuỷ sản. Về dịch vụ, đặc biệt khuyến khích thu hút đầu tư vào các
ngành kinh doanh bất động sản, du lịch, y tế, giáo dục và đào tạo... Giải pháp cơ
bản để thực hiện định hướng này là:
Thứ nhất, để tập trung đầu tư nhiều hơn nữa trong lĩnh vực công nghiệp
điện tử, cơ khí chế tạo, công nghệ mới... nhằm mục đích đưa Việt Nam trở thành
một trong những trung tâm sản xuất chế tạo hiện đại trong khu vực, hàng loạt các
chính sách, biện pháp liên quan đều phải thay đổi. Những thay đổi đó sẽ là:
+) Việt Nam cần xoá bỏ những bất hợp lý trong quy định bắt buộc về tỷ lệ
nội địa hoá, xoá bỏ chế độ xin phép nhập khẩu theo kế hoạch đối với linh kiện
phụ tùng và nguyên vật liệu, tự do hoá hợp đồng chuyển giao công nghệ, xoá bỏ
giới hạn về chi phí quảng cáo, xoá bỏ những quy định về nghĩa vụ đấu thầu trong
các liên doanh mà doanh nghiệp Việt Nam góp vốn trên 30% để nâng cao hiệu
quả và chất lượng đầu tư của các doanh nghiệp vốn FDI;
+) Cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để hình thành
90
mạng lưới các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp linh kiện, phụ tùng, chi tiết kỹ thuật
cho các dự án FDI nằm trong lĩnh vực chế biến chế tạo. Vấn đề này các doanh
nghiệp Việt Nam thực hiện còn rất yếu. Ngoài một số doanh nghiệp sản xuất phụ
tùng xe máy hoạt động có hiệu quả, hầu hết các linh kiện, phụ tùng trong các dự
án FDI đều phải nhập khẩu.
+) Quy mô dự án FDI ở Việt nam trong thời gian qua cho thấy hầu hết các
nhà đầu tư đều ưa chuộng các dự án quy mô trung bình và nhỏ. Các dự án quy mô
lớn hầu hết nằm trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác dầu
khí... Để hình thành những lĩnh vực công nghệ cao, cần đặc biệt khuyến khích
những dự án quy mô lớn và có tác động cơ bản đến nền kinh tế quốc dân. Chính
phủ Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung thêm những chính sách ưu đãi đặc biệt có tính
chất thí điểm và có sự hỗ trợ tối đa như: kéo dài thời hạn miễn giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp, xem xét miễn giảm thuế VAT, thuế thu nhập cá nhân, miễn
giảm tiền thuê đất, đảm bảo cân đối ngoại tệ, hỗ trợ cho vay vốn, cung cấp cơ sở
hạ tầng, dịch vụ công cộng, nguồn nhân lực đáp ứng đủ nhu cầu... mặc dù Việt
Nam đã xây dựng 2 khu công nghệ cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,
nhưng cho đến nay chính phủ vẫn chưa ban hành Quy chế khu công nghệ cao và
chính sách ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài trong các khu công nghệ cao này.
Vấn đề này cần phải được thực hiện sớm trong thời gian tới.
+ Yêu cầu từng ngành công nghiệp phải xây dựng và công bố danh mục
các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài. Đối với một số ngành nghề nhạy cảm, cần
quy định rõ tỷ lệ khống chế vốn của nhà đầu tư nước ngoài một cách phù hợp.
Đối với ngành nghề khác, cần mở rộng hơn tỷ lệ 30% như quy định hiện nay.
+ Bên cạnh những dự án quy mô lớn, cần kêu gọi các nhà đầu tư có trình
độ công nghệ cao, năng lực tài chính mạnh, không hạn chế các nhà đầu tư đầu tư
vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển giao công nghệ tiên tiến, phát triển
công nghiệp nông thôn, nhất là các nhà đầu tư trong khu vực Đông Á, một khu
vực đang được coi là năng động nhất trong giai đoạn vừa qua và tiếp tục trong
giai đoạn tới.
+ Xây dựng các chính sách và phương thức phù hợp để có thể kêu gọi các
tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào Việt Nam. Một trong những yêu cầu rất quan
trọng của chúng ta là phải chủ động kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng
các dự án công nghệ cao, đặc biệt trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như
91
điện tử, tin học, phần mềm, vật liệu mới... Đối với các nhà đầu tư này, Việt Nam
càng chuẩn bị tốt các điều kiện cho họ bao nhiêu, thì tác động lôi cuốn các nhà
đầu tư khác sẽ càng tăng bấy nhiêu.
+ Đối với ngành công nghiệp điện, chính phủ sẽ ưu tiên đầu tư các dự án
sử dụng vốn ODA và FDI. Ngành dầu khí, hầu hết là những dự án có nhu cầu vốn
lớn, công nghệ tiên tiến, nên ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài, một số dự án
hạ nguồn có thể cho phép 100% vốn nước ngoài. Đối với nhà máy lọc dầu Dung
Quất, cơ cấu vốn đã được xác định rõ và dự án đã khởi công thực hiện. Qua đó
cho thấy, để thực hiện đầu tư nhà máy lọc dầu số 2 nhanh hơn, nên định hướng
thu hút vốn FDI càng sớm càng tốt. Đối với ngành khai khoáng và luyện kim, các
dự án thường có quy mô lớn, công nghệ phức tạp, yêu cầu ở trình độ cao, nên cần
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia cổ phần đầu tư cả khâu khai thác mỏ
và luyện kim, trong đó khâu khai thác mỏ Việt Nam có thể nắm giữ phần lớn cổ
phần, còn khâu luyện kim có thể sử dụng 100% vốn nước ngoài...
+ Cũng cần xem xét, điều chỉnh một số lĩnh vực hoạt động không hiệu quả,
không đem lại lợi ích kinh tế cao, không hướng mạnh về xuất khẩu mà lại quay
trở lại phục vụ tiêu dùng trong nước. Chẳng hạn như cần hạn chế cấp giấy phép
mới trong những ngành sản xuất xi măng (trừ xi măng trắng, xi măng đặc chủng),
sản xuất rượu bia, sản xuất thép thông thường (trừ sản xuất những sản phẩm thép
mà trong nước chưa sản xuất được như phôi thép, sắt xốp, thép hợp kim, thép
hình cỡ lớn, luyện quặng).
Thứ hai, việc tìm cách để thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn là
một yêu cầu cấp thiết, có tính chất chiến lược để đảm bảo tăng trưởng. Trong
tổng nhu cầu vốn đầu tư để phát triển, thì 70% phải huy động từ các doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Tuy vậy, theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, trong khi
tỷ trọng FDI cho khu vực công nghiệp là 34%, dịch vụ 59%, thì nông nghiệp chỉ
là 7% (năm 2005). Trong giai đoạn 2006-2010, nhìn vào danh mục 94 dự án
trọng điểm quốc gia kêu gọi vốn đầu tư, nông nghiệp chỉ có 1 dự án, thuỷ sản 4
dự án. Vấn đề là ở chỗ thu hút FDI vào khu vực nông nghiệp còn gặp 3 bất cập:
rủi ro, lựa chọn đối tác không kỹ càng, quy hoạch đất đai còn kém.
Để thu hút FDI vào khu vực nông nghiệp nhiều hơn nữa, cần nâng cao hiệu
quả và chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng
sản phẩm; hoàn thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích FDI trong lĩnh vực
92
nông nghiệp. Chính phủ nên cụ thể hoá danh mục khuyến khích đầu tư tại từng
vùng, miền nông thôn theo những lợi thế so sánh vốn có của nó. Không nên có
những khuyến khích chung chung cho các tỉnh thuộc khu vực nông thôn, bởi nhà
đầu tư nước ngoài không thể biết tỉnh nào, miền nào có những thế mạnh và những
bất lợi gì trong phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, vốn đầu tư nước ngoài nên tập
trung vào các khâu tạo giống, nhập khẩu giống mới năng suất cao, nghiên cứu
thích nghi giống mới, sản xuất giống, phát triển công nghệ tưới tiêu tiết kiệm
nước, công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch. Ngoài ra, danh mục kêu gọi
đầu tư cũng nên bổ sung thêm những dự án cần khuyến khích đầu tư trong những
lĩnh vực sản xuất thuốc thú y có chất lượng cao; các dự án dịch vụ kỹ thuật phục
vụ nông lâm ngư nghiệp; các dự án sản xuất thuốc chữa bệnh cho người dân ở
những vùng nông thôn...
Thứ ba, trong điều kiện Việt Nam đã hội tụ được nhiều yếu tố thuận lợi cho
giai đoạn phát triển mới, chính phủ cần tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực dịch
vụ hơn nữa, từ giáo dục, phát triển y tế, đến tài chính ngân hàng, các khu vui chơi
giải trí...Những lĩnh vực này đã và đang được áp dụng ở Việt Nam đối với đầu tư
nước ngoài, tuy nhiên trong thời gian tới nên mở rộng hơn nữa để đẩy nhanh sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế sang các ngành công nghiệp và dịch vụ...
3.2.3. Giải pháp về tạo luồng vốn đầu tƣ
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hội nhập nhanh và rộng là một thực
tiễn khách quan, đòi hỏi các nước trên thế giới phải tuân theo nếu không muốn bị
gạt ra ngoài lề của sự phát triển. Do vậy, nếu Việt Nam đứng ra ngoài xu hướng
trên, tất yếu hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam bị tác động trực tiếp,
đi kèm theo là khó tránh khỏi bị phân biệt đối xử trong các lĩnh vực ngoại giao,
chính trị, xã hội… Để tạo thuận lợi cho dòng vốn FDI chảy vào trong nước trong
thời gian tới, Việt Nam cần phải có sự kết hợp giữa hợp tác đa phương và song
phương nhằm cải thiện hơn nữa chất lượng hợp tác. Trong vấn đề thúc đẩy hợp
tác đa phương, trước hết Việt Nam thực hiện hiệu quả việc gia nhập WTO bắt
đầu từ tháng 12 năm 2006, tham gia mạnh mẽ vào Khu vực mậu dịch tự do Trung
Quốc – ASEAN (ACFTA).... Điều này đòi hỏi Việt Nam cần có sự cải cách
nhanh chóng về cơ cấu kinh tế, cơ chế chính sách, thể chế kinh tế theo đúng quy
định của WTO, đồng thời tạo nên sức cạnh tranh tốt hơn cho nền kinh tế để tham
gia vào sân chơi ACFTA. Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy nhanh việc thực hiện
93
các cam kết trong ASEAN, nhằm chủ động hơn trong việc tham gia vào cơ chế
hợp tác nội bộ khối, để từ đó tăng cường tiếng nói và vai trò của mình trong các
lĩnh vực kinh tế, thương mại, an ninh, chính trị và xã hội.
Song song với việc đẩy mạnh hợp tác đa phương, Việt Nam cũng cần có
những bước chuẩn bị cho việc ký kết các hiệp định hợp tác song phương sau khi
đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào cuối năm nay. Hợp tác song
phương, đặc biệt là việc kí kết FTA với các đối tác chiến lược trong khu vực và
trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapo …sẽ giúp hàng hoá Việt Nam
tránh bị phân biệt đối xử trên thị trường khu vực, khai thông dòng vốn FDI, góp
phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, mở rộng quy mô thị trường và nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng hợp tác song
phương với Việt Nam, các nước như Nhật Bản, Trung Quốc cũng sẽ tích cực mở
rộng hợp tác song phương với các nước khác trong khu vực, do vậy xu hướng
cạnh tranh giữa các nước sẽ ngày càng gay gắt hơn. Để hợp tác song phương đi
vào hiệu quả, Việt Nam cần sáng suốt trong việc lựa chọn các đối tác cần thiết
nhất và tìm ra phương án hợp tác tối ưu nhất, đồng thời phải tích cực tập trung
phát triển kinh tế theo hướng ngày càng hiệu quả hơn. Có thể nói trong quá trình
hợp tác thời gian tới, sự kết hợp giữa hợp tác đa phương và hợp tác song phương
sẽ có tác dụng bổ sung và giúp Việt Nam phát huy tốt nhất tiềm năng và nội lực,
hội nhập hiệu quả hơn vào khu vực và thế giới.
Trong thời gian tới, để tạo thuận lợi và hiệu quả cho các luồng vốn FDI
vào Việt Nam, bên cạnh những nỗ lực hội nhập đa phương và song phương, cần
phải tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
+ Một là, xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động phân
loại, nghiên cứu kỹ các đối tác đầu tư thông qua mạng lưới cộng tác viên, các đầu
mối ở nước ngoài, rà soát lại tất cả các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, tạo ra
sự liên kết chung trong quy hoạch tổng thể, trên cơ sở đó xác định rõ những gì
Việt Nam cần, các dự án thuộc loại nào... để lập danh mục dự án. Và các nhà đầu
tư có nhu cầu và lựa chọn dự án trong danh mục sẽ được cấp phép ngay mà
không cần phải xem xét lại.
Hai là, quan tâm thu hút các nhà đầu tư tiềm năng. Chính phủ và các bộ
ngành cần nghiên cứu kỹ, phân tích một cách nghiêm túc các đối tác lớn trên thế
giới như Mỹ, Nhật Bản, EU. Hiện tại các đối tác này đang là những nhà đầu tư
94
lớn và có hiệu quả ở Việt nam, tuy nhiên so với dòng vốn khổng lồ đổ ra nước
ngoài của họ, Việt Nam còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé. Để đầu tư nước ngoài của
các đối tác này đổ ngày càng nhiều vào Việt Nam, cần có những biện pháp khác
hơn ngoài những nỗ lực xúc tiến đầu tư của chính phủ thông qua các cuộc viếng
thăm ngoại giao, các cuộc hội thảo quốc tế, các phương tiện thông tin đại chúng,
các cơ quan ngoại giao...Công tác thu thập thông tin về từng đối tác, từng thị
trường cần phải có những thực tiễn sinh động hơn; đó là có thể lập những văn
phòng đại diện ở các địa điểm nước ngoài mà Việt Nam đang cần thu hút đầu tư,
lập các văn phòng phân tích và thu thập thông tin ở nước ngoài. Việc này có thể
thuộc thẩm quyền của chính phủ, bộ, ngành, cũng có thể là của địa phương, công
ty Việt Nam đang có nhu cầu kêu gọi vốn FDI. Việc trông đợi vào các phòng
thương mại của các đại sứ quán là một giải pháp cần thiết nhưng không hữu hiệu
bằng việc tìm hiểu thông tin và vận động xúc tiến đầu tư trên thực tế tại chính
nước hoặc công ty mà Việt Nam đang có nhu cầu thu hút đầu tư.
Ba là, cần khẩn trương cải cách triệt để hệ thống doanh nghiệp nhằm thu
hút TNCs của các nước lớn trên thế giới. Trong đó, đối với các doanh nghiệp nhà
nước, nếu doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả hoặc đầu tư vào các ngành chủ
đạo thì chính phủ nên hỗ trợ duy trì làm định hướng cho nền kinh tế, còn các
doanh nghiệp yếu kém làm ăn không hiệu quả nên cổ phần hoá và kêu gọi đầu tư
từ các đối tác nước ngoài, giúp họ góp vốn, đưa trang thiết bị hiện đại vào sản
xuất, thậm chí có thể bán lại cho các nhà đầu tư nhằm vực dậy nhà máy, đảm bảo
cuộc sống cho người lao động. Các chính sách thu hút TNCs phải mang tính rõ
ràng, hệ thống, hấp dẫn. Các chính sách này trước tiên cần khuyến khích TNCs
đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo, dịch vụ... Đây chính là các thế mạnh của
các TNCs lớn, đặc biệt là các TNCs của các nước Mỹ, châu Âu. Bằng cách này,
Việt Nam không chỉ thu hút được nhiều vốn đầu tư mà còn nhận được công nghệ
chuyển giao trực tiếp từ công nghệ nguồn (công ty mẹ) và tiếp cận vào thị trường
95
thế giới thông qua mạng lưới marketing toàn cầu.
Kết luận chƣơng 3
Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 và định
hướng trở thành nước công nghiệp đến năm 2020, các nhà hoạch định chiến lược
đã đề xuất một số ngành có tác động lớn trên các phương diện cần ưu tiên thu hút
vốn FDI trong thời gian tới như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nhất là công
nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án dịch vụ
có sức cạnh tranh cao, xây dựng kết cấu hạ tầng...
Dựa trên những yếu tố khách quan và chủ quan liên quan đến việc hoạch
định chiến lược thu hút FDI và giải pháp thực hiện chiến lược đó, thực hiện triệt
để và có hiệu quả định hướng thu hút vốn FDI này, chính phủ đã tiến hành xem
xét và đề ra các biện pháp, luật lệ để tạo môi trường thuận lợi thu hút FDI trong
giai đoạn mới. Những chính sách và giải pháp mà chính phủ đưa ra đều rất cần
thiết, mang tính thực tế cao, thể hiện quyết tâm cải thiện môi trường đầu tư từ
phía chính phủ. Những giải pháp này cho thấy sau khủng hoảng tài chính tiền tệ
năm 1997, các nhà hoạch định chính sách đã nhận thức được môi trường đầu tư
của Việt Nam cần phải có sự thay đổi về chất theo chiều sâu, mang tính cạnh
tranh, hơn là chỉ dựa vào sự ban hành luật pháp ban đầu, dựa trên lợi thế so sánh
tĩnh để thu hút đầu tư. Những giải pháp này thể hiện quyết tâm của Việt Nam
trong việc cải thiện môi trường đầu tư như về pháp lý, thủ tục hành chính, cơ cấu
đầu tư, đối tác đầu tư, cơ sở hạ tầng... để khơi rộng nguồn cho dòng chảy FDI vào
96
Việt Nam trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHUNG
Đối với một nước mới bắt đầu công cuộc cải cách và mở cửa kinh tế được
20 năm như Việt Nam, FDI đóng được vai trò “cú hích” đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa Việt Nam vượt qua
vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo, tụt hậu và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, dòng vốn FDI vào
Việt Nam bị sa sút nghiêm trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm
dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, trong đó có cả nguyên nhân bên trong và nguyên
nhân bên ngoài, nhưng một điều rõ ràng nhất có thể nhận thấy là: môi trường đầu
tư của Việt Nam cần phải được nâng cấp một cách nghiêm túc sau 10 năm thực
hiện Luật đầu tư nước ngoài (năm 1987). Mặc dù dòng vốn FDI vào Việt Nam kể
từ năm 2001 có sự phục hồi và thực sự phục hồi nhanh chóng kể từ năm 2004,
nhưng tổng vốn FDI của những năm gần đây vẫn chưa bằng mức cao kỷ lục của
năm 1996.
Chính phủ Việt Nam, các bộ ngành liên quan và các chuyên gia nghiên cứu
đã nghiêm túc đánh giá những thành công và hạn chế của dòng FDI vào Việt
Nam kể từ năm 1997 đến nay, từ đó đưa ra được các vấn đề nổi cộm cần giải
quyết ngay trước mắt, đó là: Việt Nam đã có những chính sách phân biệt giữa nhà
đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước; giữa các doanh nghiệp nhà
nước với doanh nghiệp tư nhân. Mọi chi phí phát sinh đều do sự phân biệt đối xử
đó cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng đang xuống cấp trầm trọng ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, tình hình “trên thoáng, dưới không thông” còn rất phổ biến trong các
hoạt động quản lý và cấp giấy phép đầu tư, tuyển dụng lao động, thủ tục hải quan,
thủ tục xuất nhập khẩu...mà chủ yếu là do bộ máy quản lý của nhà nước và các
cấp chính quyền chưa cải cách nhanh mạnh để thích ứng với sự tăng nhanh dòng
vốn FDI vào trong nước và yêu cầu hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế thế
giới. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế mấy năm gần đây đang có
xu hướng tụt hạng, lực lượng lao động đào tạo chưa đáp ứng tốt nhu cầu của giai
đoạn phát triển mới của nền kinh tế... cũng khiến dòng FDI chưa thể phục hồi trở
lại như mức đỉnh điểm của năm 1996.
Luật đầu tư nước ngoài năm 2005 và những bộ luật liên quan khác đang
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI vào Việt Nam. Chính phủ
97
cũng đã có chiến lược thu hút FDI giai đoạn 2006-2010 theo hướng tập trung vào
các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, cụ thể hoá danh mục thu hút đầu tư,
chú trọng thu hút đầu tư từ các nước có nguồn công nghệ nguồn, các TNCs, thực
hiện cơ chế “một cửa” không phân biệt đối xử đối với đầu tư nước ngoài và đầu
tư trong nước. Việt Nam đang tăng tốc hội nhập WTO dự kiến vào tháng 12 năm
2006, và đây cũng là điều kiện thuận lợi để các nhà hoạch định chính sách, các
doanh nghiệp có những nỗ lực thực hiện chiến lược kinh doanh mới, năng động
hơn, cạnh tranh hơn, tự do hơn. Những điều kiện đó đang khiến Việt Nam ngày
càng trở thành một điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài trong những năm
sắp tới. Trên cơ sở đánh giá đó, trong tương lai gần, FDI vào Việt Nam sẽ bước
sang giai đoạn phát triển mới: khối lượng lớn hơn, chất lượng cao hơn, ít gặp rủi
ro hơn và có những đóng góp lớn hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của đất nước, góp phần tích cực đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp
98
vào năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Bích Đạt, Tình hình và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài trong giai đoạn tới, Bộ kế hoạch và đầu tư, 29/3/2004.
2. Phan Huy Đường, Chính sách kinh tế đối ngoại Việt Nam từ 1986 đến nay,
Nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia, Tháng 2/2004
3. Bộ tài chính, Vụ tài chính đối ngoại, Chiến lược đổi mới chính sách huy động
các nguồn vốn nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn
2001-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2000.
4. Vũ Quốc Bình, Hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý trong kinh doanh cho
các công ty liên doanh với nước ngoài; Tạp chí kinh tế và pháp triển; 1997
5. Lê Văn Châu, Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam á - những bài
học kinh nghiệm, T/c Kinh tế châu á - Thái Bình Dương, số 2/1998
6. Mai Ngọc Cường, Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt nam; Nhà xuất bản chính trị quốc gia; 2001
7. Phạm Đỗ Chí, Phạm Quang Diệu, Kinh tế Việt Nam từ đổi mới đến hội nhập,
www.hoithao.viet-studies.org/2005.
8. David Begg, Kinh tế học; Nhà xuất bản giáo dục; 1995.
9. Hà Nội mới, 18 năm FDI vào Việt Nam, thành công và thách thức, Báo Hà Nội
mới điện tử, 22/5/2006.
10. Nguyễn Mạnh Hùng, Các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2010; Nhà xuất
bản thống kê; 2001
11. Quốc Hùng, Đằng sau cơ hội mới, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 18, 2006
12. Trần Thu Hương, Lý thuyết rủi ro và biện pháp quản lý rủi ro trong các dự án
FDI của Việt Nam, T/c Nghiên cứu Kinh tế, số 8, 2003.
13. Lê Bộ Lĩnh, Hoạt động FDI ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh; Nhà xuất
bản khoa học xã hội; 2002
14. Lê Bộ Lĩnh, Đầu tư trực tiếp nước ngoài, mạng lưới sản xuất quốc tế và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 11, 2003.
15. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam và các văn bản hướng dẫn thi hành (đã
được sửa đổi, bổ sung); Nhà xuất bản chính trị quốc gia; 2000.
16. Luiz De Mello, Foreign direct investment in developing countries: a selective
99
study; the Journal of developing studies; Vol.34; No. 1; 10/1997.
17. Võ Đại Lược, Về cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở một số nước châu á,
T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 3, 1998.
18. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài; NXB giáo dục; 1997.
19. Mark Mason, Foreign Direct Investment in Vietnam: Government Policies
and Corporate Strategies; EXIM Review; Vol17 No.2; 1998.
20. Masaaki Kuroyanagi, Macroeconomic policy management and capital
movement in four Asean coutries: Indonesia, Malaysia, the Philippines and
Thailand; EXIM review; vol 17; No. q; 1997.
21. Nguyễn An Nguyên, Hai thời đổi mới, BBC Vietnamese.com, 8/4/2006.
22. Phùng Xuân Nhạ, Một số đặc điểm của lý thuyết đầu tư nước ngoài trực tiếp
ở các nước đang phát triển, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 2, 1997.
23. Phùng Xuân Nhạ, Phân tích ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài trực tiếp theo
mô hình của Macdougall Kemp, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 4, 1996.
24. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
25. Việt nam: 15 năm đổi mới và định hướng phát triển đến năm 2010; Nhà xuất
bản chính trị quốc gia; 2002
26. Tào Hữu Phùng, Hoàn thiện môi trường và khuyến khích FDI của Việt nam;
Tạp chí tài chính số 5 (463/2003)
27. Vũ Trường Sơn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt
nam; Nhà xuất bản thống kê; 2001
28. Phương Ngọc Thạch, Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, tồn tại
và kiến nghị, T/c Phát triển kinh tế, tháng 11, 2003.
29. Trần Văn Thọ, Phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh mới ở châu á, T/c
châu á-Thái Bình Dương, số 4, 1999.
30. Nguyễn Mạnh Tuân, Các nguồn vốn nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và
những khuyến nghị chính sách, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 2, 2001.
31. Trần Thị Cẩm Trang, So sánh môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Việt Nam với các nước ASEAN-5 và Trung Quốc: giải pháp cải thiện môi trường
FDI của Việt Nam, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 11, 2004.
32. Trần Nguyễn Tuyên, Hoàn thiện môi trường và chính sách đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 6, 2003.
100
33. Võ Thanh Thu, Quan hệ kinh tế Quốc tế; Nhà xuất bản thống kê; 2003.
34. Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (IPS), Đầu tư vào Việt
nam, quyến rũ ngay từ khi chưa gia nhập WTO, Bản tin ngày 22/5/2006
35. Nguyễn Trọng Xuân, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc Công nghiệp
hoá, Hiện đại hoá ở Việt nam; Nhà xuất bản Khoa học xã hội; 2002
36. Nguyễn Trọng Xuân, Nhìn lại động thái 16 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam, T/c Những vấn đề Kinh tế Thế giới, số 5, 2004.
37. www.mofa.gov.vn/, www.mpi.gov.vn/, www.mot.gov.vn/, www.vnn.vn/.
www.gso.gov.vn
38. www.aseansec.org/
39. www.ASEANsec.org/, IMF 2004.
101
40. World investment report, UNCTAD 2002
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!
Go to Purchase Now>>
AnyBizSoft
PDF Merger
Merge multiple PDF files into one
Select page range of PDF to merge
Select specific page(s) to merge
Extract page(s) from different PDF
files and merge into one