intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Áo dài Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Duy Hiếu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

1.348
lượt xem
97
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở) đây là sản phẩm văn.hoá sớm nhất của xã hội loài người. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình.phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu tố quan.trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của.mỗi dân tộc. Là người Việt Nam em thật tự hào và kiêu hãnh khi được nói tới chiếc áo dài....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Áo dài Việt Nam

  1. MỤC LỤC Trang A. Phần mở đầu: ........................................................... 2 I. Lý do chọn đề tài ............................................................ 2 II.Tình hình nghiên cứu ........................................................... 2 III.Mục đích nghiên cứu ........................................................... 3 IV.Nhiệm vụ phạm vi ........................................................... 3 V. Phạm vi nghiên cứu ........................................................... 3 VI.Cái mới ........................................................... 4 VII.Kết cấu đề tài ........................................................... 4 B.Phần nội dung: ............................................................ 4 Chương I. Lịch sử hình thành và sự tích về chiếc Áo dài............... 4 I.1. Nguồn gốc lịch sử của Áo dài..................................................4 I.2. Lịch sử hình thành ...........................................................6 I.3. Sự hình thành ............................................................12 I.4. Các kiểu Áo dài ............................................................18 Chương II. Sự phát triển và những nét mới, sự cách tân của chiếc áo Dài qua từng giai đoạn .......................................................... 25 II.1. Sự phát triển ...........................................................25 II.2 Sức hấp dẫn của áo dài .........................................27 III.3Những nét mới và sự cách tân ................................................29 C.Kết luận.........................................................................................31 D. Tài liệu tham khảo........................................................................31 Đề tài: ÁO DÀI VIỆT NAM A . MỞ ĐẦU I .Lý do chọn đề tài Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở) đây là sản phẩm văn hoá sớm nhất của xã hội loài người. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc. Là người Việt Nam em thật tự hào và kiêu hãnh khi được nói tới chiếc áo dài Việt Nam-một nét đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa. Bộ trang phục này thường được mặc trong các dịp trọng đại vì nó mang vẻ đẹp thướt tha trang nghiêm thùy mị...và hơn nữa trang phục áo dài cả nam và nữ đều có thể mặc được, nó ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Là sinh viên năm nhất của trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp em chọn nghệ thuật là con đường riêng cho sự phát triển của bản thân, mong muốn được tiếp thu, học hỏi và lĩnh hội những nét đẹp trong văn hóa của cuộc sống muốn được tìm hiểu sâu về những nét đẹp về trang phục của đất nước mình. Chính vì những lý do trên, em quyết định chọn đề tài với tên gọi:”Áo dài Việt Nam” II .Tình hình nghiên cứu Qua thời gian tìm hiểu những thông tin, áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, xuất hiện vào thế kỷ 18 gồm phần áo mặc bên ngoài có hai tài và quần dài. Trang phục 1
  2. thường được che thân từ cổ đến quá đầu gối qua thời gian chiếc áo dài đã trải qua nhiều sự phát triển, cải tiến. Bộ áo dài nguyên thủy là áo ngũ thân rất rộng và không bám vào ngừơi như Áo dài hiện nay. Cũng có người cho rằng Áo tứ thân mới là Áo dài đầu tiên, đã được biến thành áo Ngũ thân và cuối cùng mới thành chiếc áo dài ngày nay. Có lẽ chưa có một văn bản nào quy định áo dài là quốc phục chính thức của phụ nữ Việt Nam. Thế nhưng trong thực tế, hễ nói đến phụ nữ Việt Nam thì không thể không nói đến. Có thể nói rằng đất Việt chúng ta đa dạng trong nhiều loại trang phục từ kiểu dáng đế màu sắc, nhưng bất cứ một con dân người Việt đều biết về chiếc áo dài đã xuất hiện từ xa xưa cho đến tận ngày nay với kiểu dáng và lịch sử của nó mang lại niềm tự hào cho mỗi người. Qua đó em tìm hiểu qua nhiều thông tin sách báo và một số các tư liệu tìm đọc để nghiên cứu nên lịch sử hình thành và phát triển của chiếc Áo dài Việt Nam qua các giai đoạn, về tiền thân lịch sử và sự phát triển của trang phục với sự cách tân về kiểu dáng đa dạng trong nét đẹp của dân tộc và những tính cần thiết trong sự lưu giữ và phát triển nét đẹp vốn có của nó. Đó là vấn dề cần được đề cập và nghiên cứu trong đề tài trên. III .Mục đích nghiên cứu Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm góp phần làm rõ hơn những lí luận về sự phản ánh văn hoá qua trang phục của đất nước, tiêu biểu cho nét đẹp đó là chiếc Áo dài Việt giúp các bạn sinh viên khoa Tạo dáng nói riêng và sinh viên trường đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp nói chung hiểu rõ hơn về nguồn gốc, sự phát triển với những nét mới của chiếc Áo dài- bản sắc của dân tộc Việt Nam. III .Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Khái quát hoá lí luận về vấn đế nghiên cứu. 2. Áp dụng những ví dụ thực tế để làm rõ vấn đề nghiên cứu. IV .Phạm vi nghiên cứu 1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu : Phân tích để làm rõ nguồn gốc sự tích của chi ếc áo dài th ời xưa và s ự đ ổi m ới c ủa nó qua các thời kỳ. 2. Phạm vi về khách thể nghiên cứu : Nghiên cứu dựa vào những tài liệu, thông tin, sách v ở s ưu t ập đ ược cùng v ới nh ứng suy nghĩ, ý kiến chủ quan của bản thân. V. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết tốt các nhiệm vụ nói trên, đề tài nghiên cứu đã sử dụng một s ố các phương pháp nghiên cứu sau đây : 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận. 2. Phương pháp thực tiễn. a- Phương pháp tổng hợp, khái quát tài liệu, thông tin. 2
  3. b- Phương pháp viết. VI .Cái mới (đóng góp của đề tài) Đề tài trên nêu được lịch sử hình thành, những nét đổi m ới trong trong cách tân v ề màu s ắc, họa tiết của chiếc Áo dài đồng thời nêu lên được vẻ đẹp vốn quý của nó trong từng giai đo ạn dù có đổi khác vẫn giữ được nét đẹp mềm mại thướt tha đậm màu sắc Vi ệt mà không b ị mai một. VII .Kết cấu của đề tài Đề tài trên gồm hai phần : A. Phần mở đầu : -Lý do chọn đề tài -Tình hình nghiên cứu -Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu -Phạm vi nghiên cứu -Phương pháp nghiên cứu -Cái mới (đóng góp của đề tài) -Kết cấu của đề tài B.Phần nội dung : Chương I. Lịch sử hình thành và sự tích của chiếc Áo dài. Chương II. Sự phát triển và những nét mới, sự cách tân của chiếc áo dài qua từng giai đoạn. C.Kết luận B . NỘI DUNG CHƯƠNG I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ CHIẾC ÁO DÀI I.1- Nguồn gốc lịch sử của Áo dài: Biểu trưng mạnh mẽ cho dân tộc Việt Nam của tà áo dài. Trải qua nhiều thăng trầm, chiếc áo dài trở thành một hình ảnh gắn liền và là niềm tự hào của người Việt. Để có được vị trí như hôm nay, áo dài cũng đã trải qua một bề dày lịch sử với nhiều mốc đáng nhớ. Mọi người dân Việt Nam đều biết áo dài là trang phục truyền th ống c ủa qu ốc gia mình. Nhưng nếu hỏi về nguồn gốc của áo dài thì có lẽ không phải ai cũng bi ết và hi ểu sâu s ắc. 3
  4. Trước tiên ta phải tìm hiểu về tên “áo dài”. Nếu theo giọng Nam, áo dài sẽ được đ ọc là “ Ao yai”, còn ở miền Bắc thì được đọc là “ ao Zai”. Đ ối với người dân Vi ệt Nam cái tên “Áo dài” đã trở nên thân thuộc từ lâu. Thật ra cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ chi ếc áo dài nguyên thu ỷ ra đ ời t ừ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có nhiều tài liệu ghi nhận. Y ph ục xa x ưa nh ất c ủa ng ười Vi ệt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách đây kho ảng vài nghìn năm cho th ấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh đã vi ết: “ Theo sách s ử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên của chúng ta, mặc áo dài về bên tả ( hình th ức t ả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dung kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đỏ chép thì ta có th ể suy lu ận r ằng tr ước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chiếc người Trung Qu ốc m ới m ặc gài về tay phải. Vì thế có thể coi kiểu sơ khai của áo dài x ưa nh ất là áo giao lãnh, t ương t ự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không bu ộc l ại, áo m ặc ph ủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả. Không thể xác định niên đại chính xác của áo dài, bởi ngay tà áo được coi là quốc phục của người Việt cũng phải trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, thời gian, du nhập nhiều nền văn hóa qua nhiều giai đoạn mới có ngày hôm nay. Tuy nhiên, ngay trên những tranh khắc của Trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm đã thấy thấp thoáng bóng dáng của tà áo dài, tranh khắc trang phục của phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. 4
  5. Tại sao nói trang phục với hai tà áo xẻ lại là bóng dáng của áo dài, vì nét đặc trưng mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà áo. Cho dù trải qua bao nhiêu ngàn năm với bao nhiêu biến thể, nét duy nhất còn nhận ra được trang phục truyền thống của người Việt không bị lai tạp với các nền văn hóa khác chính là hai tà áo dài.Có nhiều người cho rằng áo dài Việt là m ột bản khác của sườn xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện vào khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều đó chứng tỏ áo dài là một nét văn hóa của riêng Việt Nam, chỉ người Việt mới có. Và khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt. Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết th ống, h ọ đã có nh ững ch ủ tr ương ph ản truyền thống, phản dân tộc và đã bị quần chúng đấu tranh loại bỏ. "Qu ần hai ống" và "áo dài" của phụ nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở trong m ục đích ấy, nhưng may thay, nó đã th ừa k ế được cái đẹp của phụ nữ phương Bắc cũng như phương Nam, phù hợp với dáng người Vi ệt Nam, nên nó đã được chấp nhận và trở nên một tài sản văn ohoa1 c ủa người ph ụ n ữ Vi ệt Nam. I.2 – Lịch sử hình thành: Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc ph ủ ngoài yếm lót, váy t ơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu ho ặc qu ấn quanh đ ầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đ ội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm b ốn vạt n ửa: v ạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo t ứ thân đ ược m ặc 5
  6. ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm m ất đi v ẻ đ ẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương. I.2.2 Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam.Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ..." (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết "Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy". Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739- 1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo dài viết bằng chữ Nôm là 襖襖. Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ ra đời quãng thập niên 1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên". I.2.3Thời vua Minh Mạng Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo 6
  7. đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế...". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn: Tháng Tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng! I.2.4 Đời sống mới Các bộ phận của một chiếc áo dài kiểu mới Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17. I.2.5Áo dài Le Mur "Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng). 7
  8. Theo tài liệu thu thập được thì hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường là người đầu tiên đã cải tiến chiếc áo dài cho phụ nữ Việt Nam. Ông sinh năm 1912 tại Sơn Tây. Năm 17 tuổi, ông trúng tuyển vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội và tốt nghiệp vào năm 1934. Ông là người đã đóng góp rất nhiều trong việc sáng chế các kiểu quần áo cho phụ nữ Việt Nam. Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của Việt Nam bắt đầu thay đổi, gi ới phụ nữ bắt đầu mặc áo mầu và năm 1934, hoạ sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu áo dài tân thời trong tập san Đẹp 1934 và báo Phong Hoá thời bấy giờ, dưới cái tên “Lemur”. Sau đó, ông tiếp tục thiết kế nhiều mẫu áo dài cho phụ nữ, nữ sinh và áo ngắn mặc trong nhà. Ngoài chuyện cải tiến áo dài cho phụ nữ, và đóng góp vào việc thiết kế các kiểu y phục thích hợp với thân hình, lại làm tăng vẻ đẹp của phái nữ, hoạ sĩ Cát Tường còn cải tiến và mỹ thuật hoá chiếc xích lô đạp thời bấy giờ và được dân chúng ủng hộ nhiệt tình. Tiếc thay, vào ngày 17 tháng 12 năm 1946, ông bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích.Mặc dù họa sĩ đã ra đi một cách bất ngờ gần 75 năm trước, nhưng bóng dáng của chiếc áo dài mà hoạ sĩ tài ba Cát Tường thiết kế vẫn tiếp tục xuất hiện tại Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Tà áo dài tha thướt, nhã nhặn, kín đáo và duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, và là niềm hãnh diện cho người Việt. Những chiếc áo dài đầu tiên: Từ Los Angeles, California, nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến, người con trai của hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường kể về chiếc áo dài của phụ nữ ngày xưa: Màu của nó u tối, chỉ có mầu nâu hay màu đen. Áo lùng thùng, ba bốn tà, quần thì rộng. Sự đổi mới của Việt Nam lúc đó bắt đầu có trong Nam. Ngoài Bắc thì hay mặc mầu nâu, màu đen, trong Nam thì có những lối mặc khác, áo thì màu khác, nhưng thường thường thì màu vẫn không được tươi lắm. Khi ông Cát Tường bắt đầu vẽ y phục cho phụ nữ, thì ông nhận thấy quần là cái quan trọng nhất. Nó phải bó sát mông, xuống đùi hơi rộng và gấu quần hơi loe ra một chút để khi đi, dáng được tha thướt… Sau đó, lưng quần dùng dây chun để cho máu được lưu thông, mình kéo lên hay kéo xuống rất tiện. Cái áo dài thì tuỳ muà, mùa đông thì cần phải che kín cổ, muà hè thì bật để cho mát. Vai áo bó chặt quá thì người đàn bà không thể giơ tay lên được, nên vai áo phải làm hơi rộng một chút, tay thì vẫn thon lại…Màu sắc thì chủ trương tùy theo màu da, màu tóc hay khung cảnh thời tiết. Thí dụ mùa hè đừng nên mặc áo chói chang quá, nên chọn màu nhẹ. Nhân nói đến chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ngày nay, ông Hiến cho hay là bây giờ, chiếc áo dài đã trở thành quốc phục nhưng lại không còn được xử dụng hàng ngày như trước, trừ các em nữ sinh hay trong các dịp lễ lớn mà thôi, ông nói: Tôi đi chụp hình ở Việt Nam cũng nhiều, từ Bắc đến Nam, các em đi học mặc áo dài, cầu Trường Tiền hay tỉnh Bạc Liêu, các em mặc áo dài nhiều lắm. Bây giờ, các ngày lễ lớn, áo dài trở thành một quốc phục. Phụ nữ bây giờ độc lập lắm, họ muốn quần áo của họ phải hợp thời trang tăng vẻ đẹp, và đi dộng dễ dàng. Còn áo dài của mình tương đối còn tha thướt và yểu điệu quá… Tết là một trong những dịp mà khách hàng đến rất nhiều. Thương hiệu của tôi là chuyên về áo dài, mỗi lần Tết hình như là mọi người muốn quay về cội nguồn, kể cả nam nữa, thế hệ trẻ bây giờ tụi nó cũng lại để mua áo dài nam nữa. Điều đáng mừng là mọi người, nhiều lứa tuổi, mặc áo dài nhiều…Nói chung, mình thấy văn hoá của mình không bị mai một, mà gần như lớp trẻ cũng hiểu biết thêm về cội nguồn của 8
  9. mình và trong ngày Tết thì ưu tiên cho trang phục quốc phục của mình nhiều hơn…Trong ngày Tết thì mọi người chọn một bộ truyền thống. Theo anh, ngày thường thì chiếc áo dài cải biên có thể mặc với quần din, nhưng đã là ngày Tết thì áo dài phải nên theo kiểu mẫu truyền thống của người Việt, anh nói: Chung nghĩ rằng ngaỳ mồng Một, xông đất đầu năm thì mọi người nên tuân theo truyền thống nề nếp văn hoá dân tộc. Chung thấy rằng đường phố Sài Gòn mặc áo dài nhiều lắm, hiện tại bây giờ giới trẻ trở về cội nguồn, hiểu biết nhiều hơn và mọi người lại quan tâm đến áo dài nhiều hơn…Càng ngày mọi người càng chú ý đến nét truyền thống của mình nhiều lắm. Áo dài không phù hợp khi thời tiết giá lạnh. Đó là tình hình ở Sài Gòn, thế nhưng, ở Hà Nội, năm nay thời tiết lạnh giá, nên cũng ảnh hưởng đến việc mặc áo dài trong ngày Tết. Và trên thực tế, chiếc áo dài giờ đây đa số chỉ còn được xử dụng trong các buổi lễ tôn giáo trong dịp Tết. Cô Hường, nhân viên khách sạn Melani ở Hà Nội phát biểu:Nó lạnh quá, người ta không mặc áo dài, mà bây giờ em thấy Tết ít người mặc áo dài lắm. Hà Nội hầu như chẳng có ai mặc dài gì cả! Người lớn tuổi thì cũng mặc áo dài đi chúc Tết…Thanh niên thì chẳng mấy khi người ta mặc, chỉ có đám cưới bạn bè thì mặc, còn bình thường thì không… ở quận 1, TPHCM để hỏi thăm về chiếc áo dài trong mấy ngày Tết, chị Hương, chủ tiệm may cho hay:”Vẫn mặc, nhưng chỉ ngày mồng Một, đi Chuà, hay Phật Tử họ đi chùa…Nếu đi thăm bà con thì không mặc đâu, chỉ có dịp quan trọng thôi, đi chúc tết, đi thăm bạn bè thì người ta không mặc đâu, ít lắm. Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng Võ Việt Chung, chuyên về áo dài, chủ trương cải biến áo dài mặc với quần “din” cho biết:”Em cũng thích người ta mặc áo dài, nhưng mà em không mặc vì nó vướng, chỉ có đi đám cưới bạn bè, có dịp gì thì mới mặc thôi! Em thấy mọi người rất ít mặc áo dài, chỉ trong khách sạn, nhà hàng, lễ hội…còn thì chẳng ai mặc cả! Nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến, con trai của họa sĩ Cát Tường năm xưa, cho rằng hiện nay, một số nhà thiết kế thời trang vì chú ý đến cái lạ của bộ y phục áo dài, nên phần nào làm mất đi nét đẹp duyên dáng của phụ nữ, ông phát biểu: Người thiết kế phải biết vẻ đẹp của phụ nữ và Mà trời lạnh như thế này thì chẳng ai mặc đâu! Em ra đường không thấy ai mặc hết, chả hiểu tại sao, có lẽ do lạnh quá hay là áo dài người ta chỉ mặc trong dịp lễ, trong những ngày đặc biệt, Tết thì chỉ bên Công Giáo, người ta mặc áo dài để đến nhà thờ. Còn thanh niên thì không ai mặc cả! Nếu mặc áo dài thì bị cho là đầu óc có vấn đề! Cô cũng chia xẻ với Phương Anh rằng, bản thân cô thích ngắm phụ nữ mặc áo dài. Và vì nhu cầu công việc, cô phải mặc áo dài đi làm hàng ngày, thế nhưng, nhiều khi chiếc áo dài cũng làm cô vướng víu khó chịu. Cô nói: Áo dài được hưởng ứng ở miền nam nhiều hơn Nhân dịp Tết, Phương Anh cũng hỏi thăm nhà may Hoài Hương phải làm sao tôn được vẻ đẹp, cái nét mềm mại của phụ nữ phải được đưa lên. Thí dụ, tà áo dài khi gió phớt qua, thì người ta gọi là đón gió, tức là mình thấy tha thướt, hoặc là tia nắng chiếu vào áo lụa Hà Đông, làm cho các thi sĩ bật ra các vần thơ, tất cả những chuyện đó là chiếc áo dài đón gió, đón nắng, làm cho người phụ nữ trở thành một huyền thoại, nhập vào tim óc của người xem…tất cả biểu hiện một cách thanh tao… 9
  10. Ý kiến này của ông đựơc khá nhiều người chia sẻ. Thực vậy, chắc qúi vị cũng đồng ý với Phương Anh rằng, phụ nữ Việt Nam dù ở bất cứ tuổi nào, dù ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào, khi khoác lên mình chiếc áo dài, thì vẻ đẹp luôn được tăng lên, hơn nữa, đó lại là một y phục truyền thống, nên Phương Anh tin rằng dù ít còn thấy xuất hiện trong đời sống hàng ngày, nhưng chiếc áo dài sẽ không bao giờ mất đi, như hy vọng của nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến:Tôi nghĩ rằng ngày nào còn người Việt Nam thì ngày đó chiếc áo dài vẫn còn. I.2.6 Áo dài Lê Phổ Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên. I.2.7 Áo dài với tay giác lăng Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế. I.2.8 Áo dài miniraglan Nữ sinh mặc áo dài đến trường Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương. I.2.9 Áo dài cổ thuyền Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hoà, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc 10
  11. ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc. I.3- Sự hình thành: I.3.1 Một biểu tượng của Việt Nam Áo dài nam, nữ truyền thống và khăn, trong đám cưới Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này. Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo. Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện. I.3.2 - Trong thơ ca và hội họa 11
  12. Áo dài màu trắng Áo dài màu Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt)Hình ảnh phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông... "Ngày xưa Hoàng Thị" của thi sĩ Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa: Áo tà nguyệt bạch Ôm nghiêng cặp sách Vai nhỏ tóc dài". Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành: Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay... Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên: Tháng giêng em bikili Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam Đài các chân ngà ai bước khẽ Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim) đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma- soeur) Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại: Biển dâu sực tỉnh giang hà Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh) Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh: Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong Hôm xưa em đến mắt như lòng Nở bừng ánh sáng em đi đến 12
  13. Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng). Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn). Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn: Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng) "Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng": Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940: Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo) Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu: Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng... Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi... Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi : Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố Những lúc buồn vui vu vơ nào đó Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà…... ...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi 13
  14. Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam": Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng lẫy thướt tha. Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam... Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài. Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam": ...Người Việt Nam trong chiếc áo dài Người Việt Nam tha thướt bước về Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách Cùng nắm tay nhau chia xẻ buồn vui Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp Vẻ đẹp của người Việt Nam Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi": Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền... Không quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng... Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương không khoe sắc màu… ngàn đóa hoa đang rực rỡ không sánh bằng... Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt… Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông… Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng: Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau Tháng năm càng lướt mau Biết bao giờ trông thấy nhau (Ngàn thu áo tím) I.4 – Các kiểu Áo dài: 1. Áo dài nữ giới: Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chi ếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Ngh ệ. Chi ếc áo dài đã tr ở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Như lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần 200 năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở Miền Nam các chúa Nguyễn miệng nói thuần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của đằng trong để củng cố địa vị cho sự nghiệp: “ Vạn đại dung thân”. Năm 1744 trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm “ Bát đại thời hoàn trung đô” (tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm cho chúa Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát đã họp bàn để tìm ra hướng giải quyết “ hoàn” Trung Đô. Một thời gian sau các đại quan đã trình bày với 14
  15. chúa Nguyễn rằng “ Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhac, thay đổi văn hoá”. Văn hoá đó là trang phục. Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng. Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm. Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ n ữ miền Bắc mặc váy phụ n ữ miền Nam mặc quần có đáy ( hai ống) như đàn ông. Với con mắt phong ki ến, võ v ương th ấy ph ụ nữ mặc quần hai ống trông khêu gơi quá nên ông bèn cho tri ều th ần nghiên c ứu tham kh ảo áo dài của người Chăm (Giống áo ài Việt Nam ngày nay nhưng không xẻ nách) và chi ếc áo dài thượng Hải ( xẻ đến đầu gối) để từ đó chế ra áo dài Vi ệt Nam. Vì th ế có th ể coi chi ếc áo dài của người phụ nữ đầu tiên giống như chiếc áo dài c ủa ngừời Chàm nh ưng có x ẻ nách. Chi ếc áo dài ngày nay hội tụ cả hai yếu tố của phương Bắc và phương Nam tạo nên sự cân đ ối hài hoà. Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại v ới nhau d ọc theo s ống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may n ối phía d ưới khu ỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các lo ại v ải t ốt nh ư l ụa, sa, g ấm, đo ạn... ngày x ưa chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo th ường ôm sát ng ười, r ồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt r ất r ộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm. Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện, nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may, không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc 15
  16. trên vai và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo này đã bị lãng quên.Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống. Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII. 2. Áo dài nam giới: Có lẽ sẽ thật là thiếu sót nếu không đề cập tới trang phục áo dài dành cho nam giới. Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đ ội đầu cũng là một trang phục truyền thống của phái nam. Tuy nhiên theo sắc d ụ ban hành t ừ th ời chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thông thoáng h ơn. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay ho ặc rộng ho ặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín li ền không cho x ẻ m ớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho ti ện làm việc thì cũng đ ược" (trích s ắc d ụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó. Áo dài trong Hội nghị APEC tổ chức tại Hà Nội năm 2006 16
  17. Cụ già mặc áo dài the cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chánh trong chính phủ: nếu buổi lẽ mang tính cách tôn giáo hay lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng. Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục.Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam hay là lễ cưới, khi làm lễ ra mắt gia tộc. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC 2006 được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà. 17
  18. Ngày nay, ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh niên mặc áo dài, chỉ những người có tuổi trong trang phục áo dài truyền thống. Ta có thể đưa ra lí do gi ải thích cho đi ều này: Ph ải chăng áo dài nữ phục có quá trình hình thành và phát tri ển lâu h ơn. H ơn n ữa áo dài n ữ đ ược quy đ ịnh bởi văn bản pháp quy ( sắc dụ của chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn m ặc rõ ràng hơn ( Chiếu quy định của Minh Mạng về trang phục hoàn ch ỉnh c ủa áo dài n ữ ph ục). Do đó khi nói tới áo dài người nước ngoài và người ngoài n ước th ường nghĩ đ ến chi ếc áo dài n ữ giới. 3. Áo dài trẻ em Trẻ em Việt Nam thường mặc áo dài trong dịp lễ tết, đám cưới.Trang ph ục áo dài c ủa các em thường có màu sáng như màu đỏ,màu hồng,và th ường đ ội khăn x ếp t ượng tr ưng cho sự trong sáng,hồn nhiên.Qua đó muốn gửi gắm thông đi ệp về một cuộc sống hạnh ph ục t ươi đẹp. 4. Áo dài váo ngày lễ: a, Áo dài trong ngày cưới: Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cưới vẫn thường cho rằng : “Trăm năm m ới có m ột l ần” có lẽ do đó mà từ trước đến ngày nay những bộ trang phục trong ngày cưới bao gi ờ cũng hết sức đặc biệt. Thời xưa bộ trang phục mà các co dâu mặc trong ngày c ưới cũng chính là trang ph ục các cô mặc trong ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc: Áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài. Cho đến khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền th ống c ủa Vi ệt Nam thì trong ngày cưới cô dâu thường mặc áo dài đỏ và trắng. Màu trắng biểu hiện sự tinh khiết c ả về thể xác lẫn tâm hồn, còn màu đỏ thể hiện ước mơ hai vợ chồng sẽ trăm năm hạnh phúc, son sắc, thuỷ chung. Nhưng cho đến ngày nay áo dài chỉ được thấy trong các đám h ỏi, n ạp tài, dạm ngõ. Còn trong các ngày cưới chính thức các cô dâu thường chọn cho mình chi ếc váy âu cách tân sang trọng. b, Áo dài trong tang lễ Đối với người Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ là đi ều rất quan trọng.Vì không gian tang lễ khác hoàn toàn so với các không gian khác. Đ ến tang l ễ không ch ỉ là chia buồn với gia đình người đã mất mà còn phải thể hi ện sự tôn kính trân tr ọng đ ối v ới người đã khuất. Từ xưa đến nay trang phục trong tang lễ là b ộ đ ồ xô gai. Tuy v ậy áo dài v ẫn được lựa chọn để mặc. Và một điểm đáng chú ý ở đây nữa là áo dài phải là nh ững người thân, hàng xóm đến chia buồn cùng gia quyến. I.5 – Sự tích về chiếc Áo dài 18
  19. Từ xa xưa, phụ nữ trên đất Việt ta đều mặc váy cả, từ Bắc xuống Nam. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Thế thì nó đã có tự bao giờ? Sự tích áo dài Việt Nam. Xa xưa, cách đây ba thế kỷ, người dân Việt Nam từ già đến trẻ rất quí chiếc áo dài Việt Nam. Thời nay, trên các diễn đàn quốc tế, nhất là trong các cuộc thi hoa hậu, chiếc áo dài Việt Nam mang đậm tình quê hương, vừa chân chất giản dị, vừa bác học tô điểm vẻ đẹp người con gái vùng lúa nước mênh mông sông Hồng và ruộng cò bay thẳng cánh sông Cửu Long… Người phụ nữ xưa mặc áo dài tứ thân cùng với yếm đào, váy lụa Hà Đông, nón quay thao qua nhiều giai đoạn “cách tân” cho đến ngày nay là m ột quá trình ch ọn l ọc không m ấy d ễ dàng. Áo dài tứ thân, ngũ thân là tiền thân của áo dài nhị thân, quí cô, quí bà rất tự hào khi trình diễn với thiên hạ. Những năm 30-40, ở thị thành xuất hiện áo dài kiểu tân thời Lơ Muya (Le Mur) biệt danh của họa sỹ Lê Cát Tường cho nữ giới: áo dài màu vàng quá gối, có cổ cao viền xanh, quần trắng, hai ống tay có viền vải xanh…(trích từ trang 45 T ự Đi ển Bách Khoa Vi ệt Nam -tập 1- Hà Nội xuất bản năm 1995). Áo tứ thân xưa có bốn vạt rộng, thường có màu thẩm, bên trong có yếm đào liền v ới váy thâm xuất hiện trong đời sống người dân Kinh Bắc, với gi ọng ca quan họ lâu đ ời. Yếm đào - áo cánh - váy thâm có từ thời Hậu Lê, áo cánh khoác ngoài yếm, chỉ dài ngang l ưng thon. Nay ở phố Hàng Đào cổ (Hà Nội), có đình Đồng Lạc lưu giữ dòng chữ Hán Đồng Lạc quyến yếm thị (quyến yếm thị đình) là nơi bán yếm lụa với nghề dệt lụa truyền thống. Vào thế kỷ XVIII, chiếc yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét tròn làm cổ, hai đầu của cổ yếm đính mẫu dây để cột ra sau gáy gọi là yếm cổ xây, yếm cổ xẻ có cổ hình chữ V, với ba đường chân chim gọi yếm cổ nhạn… Đàn ông đóng khố đuôi lươn, Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh. 19
  20. Áo dài từ thân ngày xưa Nhớ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, gây bao thảm họa nồi da xáo thịt, gần hai trăm năm, phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khi xét thấy Đàng Trong đủ mạnh, đủ sức chống chọi với Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1736-1765) ra chỉ dụ: “Phụ nữ phải ăn mặc cải cách, mặc quần thay váy, trên phần đất cai quản xứ mình có y phục giống nhau.” Cuộc cải cách bất thành, phụ nữ chống lại lệnh chúa để bảo vệ thuần phong mỹ tục, từ xưa ông bà truyền lại. Đến đời vua Minh Mạng năm thứ 7 (1828), sai phán bộ Lễ: Dư đồ nước nhà đã hỗn hợp làm một, văn hóa phép tắc cũng giống nhau, nhưng y phục dân gian còn cách biệt, không hợp với công việc cùng quê quán. Hạ lệnh cho dinh thần Quảng Bình, truyền khắp dân gian trong châu, mặc quần áo theo đúng nghi thức… Lệnh vua ban chẳng thiêng, dân phương bắc vẫn ung dung mặc váy cùng v ới áo t ứ thân, yếm đào, nón quai thao.. Đến thời Pháp thuộc, ít nhiều có ảnh hưởng Tây hóa, chiếc áo tứ thân, ngũ thân còn may rộng chưa có EO, sau đó áo tứ thân chuyển thành áo nh ị thân có EO, d ần đ ến áo có hoa văn trước ngực, muôn màu muôn vẻ, nổi bật tiềm ẩn tuổi trẻ trung, khó mờ phai. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2