Đề tài " chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại "
lượt xem 23
download
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã và đang chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước, việc chuyển đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam. Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế và được coi là mũi nhọn đột khởi. Kết quả đổi mới hoạt động Ngân hàng trong những...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài " chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại "
- Mục lục : Phụ lục ( danh sách nhóm 8 – CDTN Tín dụng ) Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã và đang chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà n ước, việc chuyển đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam. Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế và được coi là mũi nhọn đột khởi. Kết quả đổi mới hoạt động Ngân hàng trong những năm qua đã đóng góp tích cực vào thành tựu chung của Đất Nước, nét nổi bật nhất là thúc đẩy tăng tr ưởng kinh t ế, đẩy lùi và kìm chế lạm phát ở mức hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên hoạt động Ngân hàng ở nước ta, bên cạnh sự phát triển hiện đang gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhất là trong lĩnh vực tín dụng. Hoạt động kinh doanh c ủa Ngân hàng luôn luôn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro, đó chính là rào cản mà Ngân hàng phải đối mặt. Thực hiện tín dụng an toàn và có hiệu quả đó chính là mục tiêu mà các Ngân hàng thương mại vươn tới. Làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đảm bảo kinh doanh có hiệu quả đồng thời ngăn ngừa đ ược rui ro tín d ụng là nhiệm vụ bức thiết của toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Thực trạng chất lượng tín dụng của các NHTM tại Việt Nam luôn là vấn đ ề đ ược nhà đầu tư cũng như nhiều người tiêu dùng quan tâm hơn cả do nhu cầu tín dụng vay vốn cũng như nhu cầu cất trữ tiết kiệm cuẩ người dân Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- là chất lượng tín dụng của các NHMT hiện nay đã và đang đáp ứng nhu c ầu nh ư th ế nào? Nhóm 8 lớp CĐTN Tín Dụng và Hoạt Động Tín Dụng trong NHTM thực hiện tiểu luận này phần nào phản ánh chất lượng tín dụng, thực trạng tín dụng và bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- I – Tín dụng là gì ? 1. Khái niệm: Tín dụng ra đời rất sớm so với sự xuất hiện của môn kinh tế học và được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh - có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế tin dung hoat đông rât phong phú và đa dang nhưng ở bât cứ dang nao ́ ̣ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ̀ tindung cung thể hiên 2 măt cơ ban: ̣́ ̃ ̣ ̣ ̉ - Người sở hữu 1 số tiên hoăc hang hoa chuyên giao cho người khac sử dung trong 1 thời ̀ ̣ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̣́ gian nhât đinh. - Đên thời han do 2 bên thoa thuân, người sử dung hoan lai cho người sở hữu 1 giá trị ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ̣̀ lớn hơn. Phân tăng thêm được goi là phân lời hay noi theo ngôn ngữ kinh tế là lai suât. ̀ ̣ ̀ ́ ̃ ́ 2. Sự ra đời của tín dụng. a) Cơ sở ra đời của tín dụng Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời của tín dụng. Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội: của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp những biến cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hoà nhu cầu vốn tạm thời của cuộc sống. b) Quan hệ tín dụng nặng lãi Quan hệ tín dụng nặng lãi là quan hệ tín dụng ra đời đầu tiên vào thời kỳ cổ đại. * Chủ thể của quan hệ tín dụng nặng lãi bao gồm: - Người đi vay: chủ yếu là nông dân và thợ thủ công, ngoài ra, chủ nô, đ ịa chủ và quan hệ cũng có một phần đi vay nặng lãi; - Người cho vay: Những người kinh doanh thương nghiệp tiền tệ, chủ nô, địa chủ và một số quan lại. c) Nguyên nhân xuất hiện tín dụng nặng lãi. Trong điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác, những người sản xuất nhỏ khi phải đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sống có thể dẫn đến phải đi vay để giải quyết những khó khăn cấp bách trong đời sống, như mua lương thực, thuốc men, đóng tô, thuế…; còn các tầng lớp khác đi vay là để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- d) Tín dụng nặng lãi có những đặc điểm cơ bản sau: + Lãi suất cao, do hai nguyên nhân: Thứ nhất là cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng; thứ hai là nhu cầu đi vay thường cấp bách không thể trì hoãn được. + Mục đích vay là tiêu dùng. Đối với nông dân và thợ thủ công thì mục đích s ử d ụng vốn vay là để đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như: mua lương thực để ăn, thuốc men để chữa bệnh, nộp tô, đóng thuế…Đối với các tầng lớp khác thì mục đích đi vay là để chi tiêu cho những nhu cầu cao cấp như xây dựng lâu dài,tổ chức dạ hội, mua sắm quý kim… + Hình thức vận động của vốn trong quan hệ tín dụng nặng lãi biểu hiện r ất đa dạng: Cho vay bằng tiền thu nợ bằng tiền hay thu nợ bằng hiện vật… + Tín dụng nặng lãi trong điều kiện ngày nay còn tồn tại khá phổ biến ở các nước đang phát triển; do các nguyên nhân: - Do ảnh hưởng của chế độ phong kiến - Mức độ thu nhập của người lao động thấp - Hệ thống tín dụng chưa phát triển. 3. Sự phát triển của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường Sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng. Vì vậy ở bất cứ xã hội nào có sản xuất hàng hoá thì tất yếu có sự hoạt động của tín dụng. a) Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng. Các doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có một số vốn nhất định. Do đặc điểm vận động của vốn và do tính chất thời vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà mỗi doanh nghiệp có lúc thì thiếu vốn có lúc thì thừa vốn. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp có tính thời vụ thấp việc thừa thiếu vốn tiền tệ với thời gian ngắn hơn và qui mô nhỏ hơn so với xí nghiệp có tính thời vụ cao. Đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì tại một thời điểm nhất định sẽ có hiện tượng một nhóm các xí nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng trong khi một nhóm những xí nghiệp khác lại có nhu cầu vốn cần bổ sung tạm thời. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do chu kỳ sản xuất và tính chất thời vụ ở mỗi doanh nghiệp, ở mỗi ngành kinh tế không giống nhau. Quá trình tái sản xuất là một quá trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác trong toàn bộ hệ thống kinh tế, vì vậy khi mà doanh nghiệp này thừa vốn thì tất cả các doanh nghiệp khác thiếu vốn. Đây là hiện tượng khách quan, đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu. Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường, đặc điểm tuần hoàn vốn và yêu cầu của quá trình tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi phải có tín dụng. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- b) Quan hệ tín dụng hiện nay Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngày càng phát triển. Chủ thể tham gia các quan hệ tín dụng rất phong phú. Quan hệ tín dụng được mở rộng về đối tượng và quy mô, thể hiện trên các mặt sau: - Các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tín dụng phát triển mạnh và rộng rãi khắp nơi. - Phần lớn các doanh nghiệp đều sử dụng vốn tín dụng với khối lượng ngày càng lớn. - Thu nhập cá nhân ngày càng tăng, nên ngày càng có nhiều người tham gia vào các quan hệ tín dụng. Ngoài việc mở rộng các quan hệ tín dụng, hình thức tín dụng ngày càng phát triển đa dạng như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng Nhà nước và các loại khác. 4. Nghiệp vụ tín dụng trong ngân hàng thương mại (NHTM) Nghiệp vụ này của NHTM sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt động của NH , bao gồm: + Chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá khác: đây là việc ngân hàng sẽ mua lại những thương phiếu còn trong thời hạn của khách hàng. + Nghiệp vụ tín dụng thế chấp: đây là hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp của khách hàng. + Nghiệp vụ tín dụng ứng trước vào tài khoản: đây là thể thức cấp tín dụng mà ngân hàng đồng ý cho khách hàng sử dụng một mức tín dụng nhất định trong một khoản thời gian nhất định. Được thực hiện dưới 2 hình thức: chuyển tất cả khoản vay vào tài khoản vãng lai của khách hàng, hoặc khách hàng sử dụng dần khoản vay bằng hình thức phát hành séc hoặc các công cụ thanh toán khác ngay trên tài khoản vãng lai. + Nghiệp vụ tín dụng thuê mua và tín dụng đầu tư: • Tín dụng thuê mua: là hình thức ngân hàng mua tài sản để cho thuê đối với người có nhu cầu sử dụng. Hết thời hạn của hợp đồng, người thuê có thể gia hạn thuê tiếp hoặc có thể mua lại theo giá thoả thuận với ngân hàng. • Tín dụng đầu tư: thực chất đây là những khoản vay trung và dài hạn, ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp, các dự án xây dựng cơ bản mới, cải tạo và mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh,… - Nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng: đây là hình thức cho vay để mua hàng tiêu dùng. - Nghiệp vụ đầu tư: trong nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh nghiệp như: + Đầu tư chứng khoán + Hùn vốn liên doanh. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Theo qui định, NHTM chỉ được phép sử dụng nguồn vốn tự có để thực hiện nghiệp vụ đầu tư. II- Khủng hoảng kinh tế Mỹ cuối năm 2007 đầu năm 2008 Khủng hoảng tài chính của thế giới 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ . Vì Hoa Kỳ là quốc gia có nền tài chính l ớn nhất th ế gi ới (dẫn chứng là Nền kinh tế quốc dân của Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới, với tổng sản phẩm nội địa (GDP) được ước tính cho năm 2008 là trên 14,3 ngàn tỉ đô la (khoảng 23% tổng sản lượng thế giới dựa trên GDP danh định và gần 21% sức mua tương đương ) nên những gì xảy ra trong thị trường tài chính Hoa Kỳ đều ảnh hưởng đến thị trường tài chính thế giới. 1)Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ có 2 nguyên nhân chủ yếu là do chứng khoán hóa và bong bóng thị trường nhà ở a) Chứng khoán hóa : Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao. Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001. Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (Mortgage backed securities – MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế (1.người thế chấp và đi vay,2 tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành chứng khoán, 3 nhà đ ầu tư mua bán chứng khoán, và 4 tổ chức tín dụng cho vay ) liên quan đến chứng khoán hóa ,vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng “hoán đổi tổn thất tín dụng “ (những “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi”, tiếng Mỹ gọi là “Credit Default Swap – CDS ), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đ ối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn. Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ. b) Bong bóng thị trường nhà ở Từ lâu nay đa số người Mỹ vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà, với thời hạn hợp đồng từ 10 năm đến 30 năm . Nhưng trong 10 năm trở lại đây thị trường nhà đất phát triển mạnh, các ngân hàng và các tổ chức cho vay ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính cũng đi vay tiền để mua nhà . Ngoài ra các tổ chức cho vay còn “sáng chế” ra những hợp đồng bắt đầu với lãi suất rất thấp trong những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay không đòi được nợ. Nguy hại hơn nữa là các tổ chức tài chính phố Wall đã gom góp các hợp đồng cho vay bất động sản này lại làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế Trong vài năm trở lại đây thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ, và kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng đã giảm thấp tới mức không đủ để thanh toán các khoản còn vay nợ. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái phiếu MBS mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này không những bị lỗ nặng và mất cả khả năng thanh Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- toán.các hợp đồng cho vay bất động sản này lại làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế. Theo ước tính của nhiều chuyên gia trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng 4.000 tỷ USD là nợ xấu. Các nước khác cũng bắt chước Hoa Kỳ và bán ra loại trái phiếu phái sinh MBS này trong thị trường tài chính của họ. Vì vậy trên toàn thế giới tổng số nợ bất động sản khó đòi và tổng số MBS bị “nhiễm độc” chưa thể tính hết được. Bear Stern, Indy Mac, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Meryll Lynch, Washington Mutual, Vachovia, Morgan Stanley, Goldman Sachs v.v. (Mỹ), New Century Financial, Northern Rock, HBOS, Bradford & Bringley (Anh quốc), Dexia (Pháp-Bỉ-Luxembourg), Fortis, Hypo (Đức-Bỉ), Glitner (Iceland) hoặc bị lung lay hoặc bị ngã gục. Trầm trọng hơn nữa là những “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi”, tiếng Mỹ gọi là “Credit Default Swap – CDS”. Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra, theo đó bên mua CDS được bên bán bảo đảm sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ cho vay nếu bên vay không trả được nợ Theo ước tính của Hiệp hội “International Swap and Derivatives Association bên Mỹ tổng số CDS ước tính khoảng 35 nghìn tỷ USD, và toàn thế giới khoảng 54.600 tỷ USD. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ ( đường màu xanh). Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- 2 Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ Bong bóng nhà ở cùng với giám sát thính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết c ủa Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới. a) Thế giới : Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nướctheo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại Ví dụ minh họa : Vào cuối tháng 11/2008 Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới – Nhật Bản vừa công bố GDP giảm 0,1% sau quý III và lùi 0,9% trong ba tháng trước đó. Đây là lần đầu tiên sau 7 năm qua, người Nhật lại hứng chịu cảnh suy thoái. "Xu hướng đi xuống của nền kinh tế còn kéo dài khi mà kinh tế toàn cầu tiếp tục tăng trưởng chậm lại. Chúng ta cần nhớ rằng các điều kiện kinh tế có thể khó khăn hơn khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và châu Âu ngày càng nghiêm trọng, mối lo Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- suy thoái đè nặng và thị trường chứng khoán cũng như ngoại hối biến động mạnh", Bộ trưởng Kinh tế Nhật Kaoru Yosano nói. Biểu đồ tăng trưởng kinh tế Nhật từ năm 2006 đến nay. Nguồn: AFP Kinh tế toàn cầu suy thoái, làm suy giảm nhu cầu về hàng hóa từ Nhật Bản cũng như nhiều nước xuất khẩu khác. Tốc độ tăng trưởng của Nhật vì thế phải chịu ảnh hưởng ít nhiều. Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đ ầu tiên kể t ừ ngày thành lập. Đoàn người xếp hàng rút tiền gửi khỏi Northern RockỞ Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia . Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- giá cổ phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đ ầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ. Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ b) Mỹ : - Tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu thế giới AIG - một công ty bảo hiểm lớn của Mỹ bị đổ vỡ, một phần là do đầu tư vào MBS và phần lớn là do các hợp đồng CDS này. Rồi đây, nếu thị trường tài chính Mỹ không được giải cứu kịp thời, và thị trường tài chính thế giới bị đóng băng, các hợp đồng CDS sẽ tàn phá các ngân hàng và các đ ịnh chế tài chính khác đến mức khủng khiếp chưa thể lường hết được. - Lehman Brothers - một tập đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ .Ngày 15 tháng 9 năm 2008 , tập đoàn tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - Ngành chế tạo ôtô cũng sẽ bị tác động do các hãng ôtô đã hoàn tất kế hoạch cắt giảm lực lượng lao động trướ.c sự cạnh tranh gay gắt của các hãng ôtô nước ngoài . Sự ế ẩm của thị trường nhà đất, đặc biệt ở những thị trường lớn như California, là những nguyên nhân chính khiến tình hình kinh doanh của các tập đoàn lớn như General Motors (GM), Ford Motor hay Daimler Chrysler càng thêm ảm đạm. Ngoài ra nhu cầu tiêu thụ xe hơi giảm sút cũng là nguyên nhân khiến các nhà sản xuất gặp khó khăn hơn - tỷ lệ thất nghiệp gia tăng do bị ảnh hưởng bởi thị trường nhà đất suy yếu và do các công ty cắt giảm nhân công để cắt giảm chi phí c) Tới Việt Nam : Tác động trực tiếp đối với nền kinh tế Việt Nam thì không lớn, vì chưa có định chế tài chính nào của Việt Nam đầu tư vào trái phiếu MBS và các hợp đồng cho vay cầm cố như Mỹ. Nói là không tác động lớn và không trực tiếp thôi, nhưng khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay cũng có những tác động nhất định đến thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng, chu chuyển vốn thị trường thế giới. Trong điều kiện hiện nay, tất cả các quốc gia đều đã hội nhập nên “nhất cử, Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- nhất động” của một nền kinh tế nào đó cũng có ảnh hưởng nhất định đối với thế giới, chưa nói tới một nền kinh tế lớn như Mỹ. Nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh. Trước mắt có những vấn đề, ví dụ lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế - LIBOR và SIBOR - đang tăng. Nó có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp. Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp. Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm cho người dân dự đoán USD sẽ xuống giá và họ có thể rút USD khỏi ngân hàng, hoặc bán USD mua tiền Việt gửi vào. Nó có thể làm cấu trúc tài sản của các ngân hàng rơi vào thế bất lợi. Trong lĩnh vực thương mại, một khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao thì nhiều nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Với Việt Nam cũng vậy, hiện nay 60% GDP của chúng ta là để phục vụ cho xuất khẩu, mà Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may, da giày, thuỷ sản của Việt Nam. Khủng hoảng tài chính của Mỹ có thể làm cho xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ giảm mạnh vì hai lý do (1) Là hàng xuất khẩu của Việt Nam một phần lớn vẫn là các loại hàng thô, trong khi giá các nguyên liệu thô trên thị trường thế giới đang giảm, kể cả khi không có khủng hoảng ở Mỹ, và (2) là sự eo hẹp của thị trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa, nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm đi. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể chững lại, thậm chí vốn đã cam kết sẽ thực hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi không đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân những tháng cuối năm sẽ gặp khó khăn. Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa gia nhập vào hệ thống thị trường chứng khoán thế giới nên ảnh hưởng tương đối nhỏ. Lo ngại là phần lớn nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn về khi nguồn vốn của họ bị co lại. Khi đó, một lượng không nhỏ USD sẽ ra Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- khỏi Việt Nam. Dù vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam không nhiều, chỉ khoảng 20% tổng vốn, nhưng nếu họ rút ồ ạt thì sẽ ảnh hưởng ngay đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Khu vực ngân hàng của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn , lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số có thể lỗ. III- Khủng hoảng kinh tế tác động tới tín dụng ngân hàng. 1) Tác động đến các ngân hàng trên thế giới Cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã có những ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam điển hình là ngành ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới sẽ làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không phải là một ngoại lệ Tiêu biểu nhất cho việc khủng hoảng kinh tế tác động đến tín dụng ngân hàng đó là sự sụp đổ của Northern Rock – ngân hàng Northern Rock đã từng là một tổ chức tài chính danh tiếng và đáng tự hào nhất nước Anh, là ngân hàng cho vay thế chấp lớn thứ 5 nước Anh . Ngày 15/9, hàng trăm khách hàng của ngân hàng Northern Rock hốt hoảng kéo đến các chi nhánh của ngân hàng này để rút toàn bộ tiền tiết kiệm tr ước th ời hạn . Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để củng cố. Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan cho vay. Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức. Khủng hoảng thanh khoản xảy ra trước hết là nó đến với người đi vay, những mong đợi rằng nguồn tiền để họ trả nợ là tiền thu được từ việc bán các chứng khoán mua Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- được với giá cao hơn. Khi người vay không trả được nợ đến lượt các Ngân hàng cho vay gặp khó khăn. Nhiều ngân hàng vì mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng, điều này đã khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn và bị ảnh hưởng trực tiếp đ ến hoạt động xuất kinh doanh. 2.Về phía Việt Nam Ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn vì Việt Nam chưa tham gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới và không tham gia mua bán chứng khoán phái sinh này Sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ có tác động nhất định tới các nước châu Á, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng đến Việt Nam như vậy là không đáng kể vì Việt Nam chưa có định chế tài chính nào vào các hợp đồng cho vay như Mỹ. Khu vực ngân hàng sẽ gặp khó khăn nhưng không phải là quá lớn. Những ngân hàng nhỏ với vốn điều lệ dưới mức tối thiểu quy định 1000 tỷ đồng sẽ phải sáp nhập với ngân hàng lớn, nhưng sự đổ bể của hệ thống tài chính Việt Nam khó có khả năng xảy ra . IV - Thực trạng và nguyên nhân chất lượng tín dụng của các NHTM tại Việt Nam Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã và đang chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà n ước, việc chuyển đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam. Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế và được coi là mũi nhọn đột khởi. Kết quả đổi mới hoạt động Ngân hàng trong những năm qua đã đóng góp tích cực vào thành tựu chung của Đất Nước, nét nổi bật nhất là thúc đẩy tăng tr ưởng kinh t ế, đẩy lùi và kìm chế lạm phát ở mức hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên hoạt động Ngân hàng ở nước ta, bên cạnh sự phát triển hiện đang gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhất là trong lĩnh vực tín dụng. Hoạt động kinh doanh c ủa Ngân hàng luôn luôn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro, đó chính là rào cản mà Ngân hàng phải đối mặt. Thực hiện tín dụng an toàn và có hiệu quả đó chính là mục tiêu mà các Ngân hàng thương mại vươn tới. Làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đảm bảo kinh doanh có hiệu quả đồng thời ngăn ngừa đ ược rui ro tín d ụng là nhiệm vụ bức thiết của toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Thực trạng chất lượng tín dụng của các NHTM tại Việt Nam luôn là vấn đ ề đ ược nhà đầu tư cũng như nhiều người tiêu dùng quan tâm hơn cả do nhu cầu tín dụng vay vốn cũng như nhu cầu cất trữ tiết kiệm cuẩ người dân Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra là chất lượng tín dụng của các NHMT hiện nay đã và đang đáp ứng nhu c ầu nh ư thê nào? 1.Công tác huy động vốn: Lãi suất huy động vốn của các NH đang tăng giảm không đồng đều dẫn đến tâm lý khách hàng e ngại khi gửi tiền vào các NH, xu hướng thu hút tiền đồng v ẫn ch ưa th ực sự rõ ràng. Một số lãnh đạo của các NH kiến nghị NHNN cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện các cam kết tăng giảm lãi suất của các NH nhằm tạo môi tr ường c ạnh tranh lành mạnh giữa các NH, việc sử dụng các hình thức khuyến mãi như tặng tiền, tặng lãi suất nhằm làm tăng lãi suất huy động thực sự đã bị Ngân hàng Nhà nước cấm. Nhưng việc kiểm tra các ngân hàng sẽ không dễ dàng khi các giao dịch với lãi suất cao thường không công khai. Với việc lãi suất huy đông tiền đồng giảm, môt số ý kiên cung cho răng người dân ̣ ̣ ́ ̃ ̀ sẽ có xu hướng chuyển từ gửi tiền đồng sang đô la Mỹ vì lãi suất hai loại tiền này đang có xu hướng ngược chiều nhau. Trong khi lãi suất tiền đồng giảm chỉ còn cao nhất 11,2%/năm thì các ngân hàng lại đang tăng mạnh lãi suất huy động bằng đô la Mỹ. Hiện tại NHNN đang sử dụng những biện pháp hành chính buộc các NH áp dụng khung lãi suất cho phép, trong ngắn hạn các biện pháp ày sẽ ảnh hưởng tích cực đ ến tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp, tuy nhiên trong dài hạn nếu các biện pháp hành chính vẫn tiếp tục được duy trì sẽ khiến lãi suất không phản ánh đúng cung và cầu của thị trường, và giá của đồng tiền, cũng được xem là một loại hàng hóa, không được xác định bởi thị trường. Từ các nguyên nhân trên có thể dễ dàng nhận thấy tình hình huy động vốn của các NHTM không thực hiệu quả, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vẫn là tiềm năng chưa được khai thác đúng mức, các biện pháp thu hút vốn không đạt hiệu quả mong muốn, tâm lí người dân vẫn còn e ngại và họ có tâm lí đầu tư vào những lĩnh vực khác có mức lợi nhuận hấp dẫn hơn: bất động sản, kim quý, chứng khoán… 2.Tình hình cho vay: Đã có những chủ trương, nghị quyết, chỉ thị…và đã có NH đi tiên phong trong việc giảm lãi suất xuống thấp hơn mức lãi suất cơ bản đến hơn 2% nhưng tình hình cho vay của các NH vẫn chưa thể khả quan. a) Vướng về cơ chế, các cơ chế chính sách chưa thực sự hiệu quả, còn nhiều vướng mắc gây tâm lí lo ngại, bối rối đối với các NH. Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Một số vần đề liên quan đến hoạt động tín dụng, trong đó có lãi suất, đã được Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo nhưng lại chưa có những văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để thi hành, hoặc có thì lại bất lợi cho các tổ chức tín dụng và cả NHTM, hoặc không có nhiều ý nghĩa đối với tình hình hoạt động hiện tại của các NH. Nghị quyết s ố 23/2008/QH12 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 có nêu:” Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sử lãi suất cơ bản của NHNN theo qui định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đ ối với một số dự án kinh doanh có hiệu quả cao…” nhưng thế nào là dự án có hiệu quả cao thì lại không có tiêu chí xác định, mặt khác lãi suất thỏa thuận mà NH mong muốn là không bị ràng buộc bởi trần 150%, còn đã là dự án có hiệu quả cao thì NH nào cũng sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp hơn trần khá nhiều… Chính phủ chỉ đạo NHTM dãn nợ, gia hạn nợ để giúp các doanh nghiệp có vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, nhằm ổn định nền kinh tế. Điều này cũng phù hợp với ý ki ến của các doanh nghiệp và một số NHTM, nhưng theo QD 493/2005/QD-NHNN của NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM thì các khoản vay khi đến hạn mà doanh nghiệp không trả được nợ thì phải chuyển nợ quá hạn, trích dự phòng rủi ro, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, xếp loại, đánh giá t ổ chức tín dụng Nếu không có những hướng dẫn để tháo gỡ khó khăn thì tổ chức tín dụng khó có thể chủ động dãn nợ, gia hạn nợ cho DN được... Ngay cả về vấn đề cơ chế điều hành LS hiện cũng còn nhiều ý kiến. Trong khi đại diện một số NHTM nhà nước thì cho rằng LSCB nên hạ (về 7%/năm) để giảm tiếp trần LS cho vay, đỡ khó khăn cho khách hàng và kích thích nhu cầu vay vốn thì một số NHTMCP lại cho rằng LS huy động bình quân của các NH đang cao nếu giảm LSCB thì NHTM sẽ lỗ... b) Doanh nghiệp có ít khả năng hấp thụ vốn từ các NH Qua nhiều ý kiến tại các hội thảo, hội nghị, thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng thì một số DN vẫn kêu khó tiếp cận vốn NH, nhưng ngược lại nhiều NH lại kêu là khó tăng trưởng tín dụng vì nhu cầu vay vốn của DN rất ít. Thực tế thì đúng là những DN không đủ điều kiện vay (không có TS thế chấp, nhiều hàng tồn đọng chưa tiêu thụ, không có thị trường, nợ xấu ...) thì khó tiếp cận được với vốn NH, vì theo một TGĐ NHTMCP: "NH có thể hạ LS chứ không thể hạ điều kiện cho vay, nhất là trong bối cảnh kinh tế diễn biến phức tạp, khó l ường nh ư hi ện nay, NH cũng phải tồn tại". Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Theo ý kiến của một NH: " doanh nghiệp có tồn tại thì doanh nghiệp mới tồn tại, không NH nào muốn dồn doanh nghiệp vào khó khăn cả . Doanh nghiệp hiện nay có 3 đối tượng chính. Một là những doanh nghiệp có cho vay 0% cũng không thể giúp phục hồi được mà chỉ mất vốn. Hai là những doanh nghiệp chưa tiếp cận vốn tín dụng (do họ chưa đặt quan hệ hoặc còn thiếu một số điều kiện). Ba là những doanh nghiệp đang vay, đang hoạt động bình thường…". Nhưng những doanh nghiệp đang hoạt động bình thường là những doanh nghiệp quản lý tài chính thận trọng. Vì vậy, trước những dự báo khó khăn năm 2009, nh ững doanh nghiệp này nếu đã vay tiền với LS cao rồi thì tìm mọi cách thu x ếp đ ể tr ả n ợ sớm, gắng tự xoay xở với vốn tự có, hạn chế vay để giảm chi phí trả lãi. Doanh nghiệp nào có vay thì cũng chỉ vay ngắn hạn, món nhỏ. Nhiều doanh nghiệp chưa (hoặc không có) kế hoạch mở rộng sản xuất-kinh doanh trong năm 2009. Đây là một lo ngại rất l ớn cho hoạt động tín dụng NH tới đây. c) Lãi suất không phải là "cứu tinh" NH thì không thể hạ các tiêu chuẩn cho vay dưới chuẩn, doanh nghiệp đã không đ ủ điều kiện vay thì cũng chẳng có cách nào để đủ chuẩn. Ông Vũ Quốc Tuấn (Hiệp hội Làng nghề VN) cho biết, một số doanh nghiệp đang kêu là điều kiện cho vay của NH hiện có phần còn chặt hơn trước đây. Nhưng NH nào cũng khẳng định là không siết chặt và cũng không hạ thấp điều kiện cho vay. Ý kiến có phần trái chiều nhau có thể giải thích như sau: Trong bối cảnh tiềm ẩn rất nhiều rủi ro từ khả năng trả nợ của người vay (doanh nghiệp) thì ngoài tài sản thế chấp, bây giờ các NH thẩm định kỹ hơn hơn quan hệ vay / mượn của doanh nghiệp, lịch sử thanh toán các khoản nợ, yếu tố thu nhập tương lai... Trước đây, trong điều kiện kinh tế bình thường, doanh nghiệp vay, trả nợ đúng kỳ hạn thì những điều kiện này không bị xem xét chặt chẽ lắm. Vì vậy, một lãnh đạo NHTM nói: " Trong quan hệ tín dụng giữa NH và doanh nghiệp hiện có hai thách thức khó vượt qua được: Một là NH có dám chấp nhận rủi ro không? Hai là doanh nghiệp có khả năng trả được nợ không?" Theo ý kiến chung của nhiều doanh nghiệp và NH thì vấn đề mấu chốt hiện nay là Chính phủ nên có các giải pháp cụ thể, quyết liệt kích cầu đầu tư và tiêu dùng, khơi thông đầu ra cho sản xuất-kinh doanh. Chỉ khi có thị trường tiêu thụ thì doanh nghiệp mới tăng nhu cầu vay vốn, đẩy mạnh sản xuất – kinh doanh , mới có lợi nhuận để trả nợ và mở rộng sản xuất. Nếu chỉ nhấn Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- mạnh đến chính sách tín dụng, đặc biệt là LS thì đây không phải là "nút thắt" hiện nay trong tháo gỡ khó khăn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và XK. 3. Tình hình thu nợ của các NHTM a)Thời kỳ trước khủng hoảng Kết quả thực hiện phân loại nợ của các ngân hàng thương mại cho thấy tình hình nợ xấu của hầu hết các ngân hàng thương mại đến thời điểm 31/12/2005 khá thấp. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của khối ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu dưới 2% trong khi tỷ lệ này đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh bình quân là 5,4%, song hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại giai đoạn nàycòn tiềm ẩn nhiều rủi ro và tình hình chất lượng tài sản có của các ngân hàng có thể xấu hơn số đã báo cáo. Mặc dù các mức này tương đương với tỷ lệ nợ xấu của những ngân hàng có uy tín cao trong khu vực và quốc tế nhưng kết quả phân loại nợ và trích lập dự phòng của các ngân hàng thương mại nói trên mới chỉ xác định theo tiêu chí định lượng thời gian quá hạn của khoản vay mà chưa xác định theo các tiêu chí định tính căn cứ trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng (thực hiện theo quy định tại Điều 7 Quyết định 493). Điều quan trọng để các ngân hàng thương mại thực hiện đúng quy định này là môi trường công khai minh bạch về thông tin, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, khách hàng; chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm toán độc lập, kiểm soát nội bộ của các ngân hàng. Đơn cử như BIDV và Incombank có tỷ lệ nợ xấu cao do hai ngân hàng này không chỉ phân loại theo thời gian quá hạn của khoản nợ mà đã thực hiện phân loại trên cơ sở chủ động đánh giá về hiện trạng tài chính của các khách hàng. Về mặt cơ cấu nhóm nợ, nợ có khả năng mất vốn chiếm tới hơn 60% tổng số nợ xấu. Về cơ cấu khách hàng, nợ xấu chủ yếu tập trung ở khối doanh nghiệp (chiếm tới hơn 90%), trong đó nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 60%, đặc biệt là các tổng công ty thuộc ngành giao thông, xây dựng cơ bản, cà phê... Báo cáo nợ xấu năm 2005 các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm 2,7% tổng dư nợ. Tỷ lệ này tại các ngân hàng thương mại cổ phần thấp hơn 2% . Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
- Nếu tính theo tỉ lệ dự tính của IMF (15%), nợ xấu cả nội và ngoại bảng của các ngân hàng thương mại quốc doanh khoảng 6,2 tỷ USD tức là hơn 13% GDP. Với một tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khá cao (khoảng 20%) và tỉ lệ tăng của nợ xấu cao hơn tăng trưởng tín dụng - đây là tình trạng đáng báo động, cần các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính. b)Thời kỳ khủng hoảng Tính đến đầu năm 2009 Dư nợ & Nợ xấu: Trong quý 1, tổng dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng tăng 6,33% so với quý 4/2008 và tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Sau khi Chính phủ công bố gói kích cầu với hình thức hỗ trợ 4% lãi suất khiến cho dư nợ tăng mạnh sau thời gian dài các ngân hàng hạn chế cho vay trong năm 2008. Tỉ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng mạnh trong quý 1/2009, tăng 23% so với quý 4/2008 và tăng 88% so với cùng kì năm 2008. Tỉ lệ nợ quá h ạn trên t ổng d ư nợ cũng tăng nhưng với tốc độ tăng chậm hơn. Tốc độ tăng tỉ l ệ nợ xấu trong quý 1/2009tăng cao hơn nhiều tốc độ tăng tổng dư nợ. Tính đến cuối tháng 9/2010, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống đ ạt khoảng 19,5%. Trong tổng dư nợ toàn ngành hiện nay, dư nợ tín dụng khu vực phi sản xuất hiện nay là 385.000 tỷ đồng, tăng 18,2% - thấp hơn mức dư nợ chung của toàn hệ thống. Để có thể thu hồi các khoản nợ xấu,cần phải xác định rõ các tiêu chí phân loại n ợ, qua đó xác định đúng thực tế số liệu nợ xấu với các nguyên nhân phát sinh; đề ra các giải pháp, cơ chế mua bán xử lý nợ hợp lý... nhưng trong quá trình thực hiện, các đơn vị hữu quan cũng gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc cần được khẩn trương nghiên cứu tháo gỡ. Ngoài việc thu thập thông tin về nợ tồn đọng, còn phải thiết lập được một môi trường pháp lý thuận lợi, tạo dựng một thị trường nợ và tháo gỡ các khó khăn, nâng cao năng lực của DATC trong việc xử lý nợ có hiệu quả. Ngoài các biện pháp truyền thống, cần phải có các biện pháp xử lý, tái cơ cấu các khoản nợ, tái cơ cấu các công ty đ ể họ có thể hoạt động hiệu quả hơn, từ đó ngân hàng có điều kiện thu hồi nợ xấu... Nhóm 8 – CDTN Tín Dụng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn