Đề tài luận văn: Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam
lượt xem 77
download
"Đề tài luận văn: Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam" gồm 3 chương. Trong đó, chương 1 Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ, chương 2 Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chương 3 Một số nhận xét chung và kiến nghị. Tham khảo để biết nội dung chi tiết 3 chương này nhé.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài luận văn: Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam
- LUẬN VĂN: Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam
- mở đầu 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ tháng 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Việt Nam đã đi vào hoạt động, so với sự xuất hiện của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (cách đây hơn 40 năm) thì đó là khoảng thời gian không dài nhưng bảo hiểm nhân thọ đã có những bước phát triển vượt bậc, đáng ghi nhận. Đặc trưng của hoạt động bảo hiểm nhân thọ là vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phòng ngừa rủi ro. Với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, thu nhập của người dân ngày càng tăng thì hoạt động này càng có điều kiện phát triển và trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn nhàn rỗi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thu hút, tạo việc làm mới cho trên 100.000 lao động có thu nhập ổn định (gồm cán bộ nhân viên và đại lý), hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các chương trình tài chính rất đa dạng đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị trường, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn chi nhiều tỷ đồng cho hoạt động từ thiện, tài trợ cho các hoạt động văn hóa, thể thao, khuyến học... Để phát triển kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngay từ khi ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nước ta đã xác lập tính đa dạng của các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có những quy định làm tiền đề cho sự ra đời của các công ty bảo hiểm nhân thọ sau này. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã mang lại những lợi ích rất to lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội và lợi ích của người tham gia bảo hiểm, là công cụ thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng giống như các tổ chức trung gian tài chính khác, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn phải đảm bảo sự vững chắc về tài chính, tạo niềm tin cho hàng triệu khách hàng tham gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này tất yếu buộc
- nước ta phải mở rộng cửa thị trường để có thêm các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ và phải được điều chỉnh bằng luật pháp, để hoạt động này phát triển lành mạnh phục vụ cho công cuộc phát triển và xây dựng đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu ở các nước có nền kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay. Những lợi ích về mặt xã hội mà bảo hiểm nhân thọ mang lại đã tạo cho ngành kinh doanh này có một chỗ đứng rất vững vàng trong đời sống kinh tế xã hội. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày càng được thể hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới. ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là mới mẻ, đã có một số công trình nghiên cứu về mặt kỹ thuật bảo hiểm, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhưng chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Trước đây, cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến những vấn đề liên quan đến pháp luật về kinh doanh bảo hiểm như: + Nguyễn Anh Tú: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. + Thái Văn Cách: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. + Vương Việt Đức, Hợp đồng bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2003. Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa nghiên cứu cụ thể những quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, một loại hình kinh doanh có thể nói là mới ở thị trường Việt Nam nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài " Doanh nghiệp kinh
- doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam " làm đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Trên thế giới, ở những nước phát triển, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có lịch sử hàng trăm năm và trở nên vô cùng quen thuộc với đông đảo người dân. Trong khi đó, ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn rất mới mẻ. Quá trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hướng vừa làm vừa học, tham khảo tài liệu của nước ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này thời kỳ đầu còn thiếu và chưa đồng bộ, qua một thời gian hoạt động cùng với trải nghiệm thực tế, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc hoàn thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có được môi trường phát triển thuận lợi. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, vẫn tồn tại một số quy định pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, mục tiêu đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách tổng quát, toàn diện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đối chiếu với thực tiễn hoạt động, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Từ đó đề ra hướng bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng như các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, giúp khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chỉ đạo hoạt động bảo hiểm, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, bên cạnh việc phân tích các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận văn sẽ nhìn nhận vấn đề theo quan điểm duy vật, biện chứng, áp dụng phương pháp lịch sử, lôgic trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tài liệu pháp lý liên quan, kết hợp so sánh, đối chiếu, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận.
- 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn những đóng góp của luận văn Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn hết sức mới mẻ, vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn kinh doanh cần bổ sung, góp phần tạo ra môi trường pháp lý chuẩn mực và lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, thúc đẩy hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển phục vụ đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ. Chương 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Chương 3: Một số nhận xét chung và kiến nghị.
- Chương 1 Những vấn đề chung về Bảo hiểm Nhân thọ 1.1. Khái luận về Bảo hiểm nhân thọ 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có từ rất lâu, vào năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới được thành lập ở nước Anh, tên là Equitable. Sau đó đến Pháp, là nước thứ hai cho phép bảo hiểm nhân thọ được hoạt động. Vào năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Pháp được thành lập mang tên là Công ty bảo hiểm nhân thọ Hoàng gia, sau đó một thời gian ở các nước Châu âu khác cũng dần dần xuất hiện bảo hiểm nhân thọ. ở Châu á, công ty bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên được ra đời ở Nhật Bản, đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Meiji đã ra đời và đi vào hoạt động năm 1868. Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành dịch vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ bản của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người mua bảo hiểm. Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con người là vô giá và không thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tương đương với một sinh mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thỏa thuận dựa trên một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản khác. Khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết" [25]. Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởng - thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức. Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ
- hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập [18, tr. 329-330]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) cũng nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm đã được chỉ rõ trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người [45, tr. 31]. Những định nghĩa trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung lại đều thể hiện những đặc trưng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là: - Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là loại hình kinh doanh thu lợi nhuận (phân biệt với các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội của Nhà nước). - Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích, có thể được sử dụng để áp ứng nhiều mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thường rất đa dạng (mỗi sản phẩm chỉ đáp ứng được một hoặc một vài nhu cầu) và hoạt động tiếp thị sản phẩm này phải mang tính năng động và linh hoạt cao. - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau là sống và chết. Điều này cũng có nghĩa là, trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền với một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là chắc chắn xảy ra (phân biệt với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ trả tiền khi có rủi ro xảy ra). - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản hợp đồng phải được trình bày đầy đủ, khoa học dưới dạng văn bản, làm cơ sở cho sự duy trì quan hệ
- hợp đồng dài nhiều chục năm, thậm chí là cả đời người. Mặt khác, các thông số kỹ thuật của từng sản phẩm, từng hợp đồng phải được tính toán cẩn thận và công bố rõ ràng tới khách hàng. Đồng thời, dịch vụ khách hàng là khâu quyết định có tính chất sống còn tới việc duy trì hợp đồng bảo hiểm. - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình sản phẩm bảo hiểm vô hình. Vì vậy, công ty bảo hiểm phải đặc biệt quan tâm đến việc giải thích cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm. Hơn nữa, việc thực hiện đúng và đầy đủ cam kết là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với các công ty bảo hiểm. Có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có những đặc điểm cơ bản là: - Đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người, nhưng không như bảo hiểm sinh mạng hay bảo hiểm tai nạn con người trong bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ rủi ro chết hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn của đối tượng được bảo hiểm mới thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người nhưng bảo hiểm nhân thọ không đảm bảo những chi phí y tế như trong các loại hình bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi nhân thọ. - Bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Đây là một trong những hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư hết sức có hiệu quả; hình thức huy động dần dần, phù hợp với khả năng tích lũy của mọi đối tượng, từ những người có thu nhập thấp đến những người có thu nhập cao. Chính hình thức tổ chức đóng phí bảo hiểm tại nhà, có thể theo tháng, quýư, 6 tháng hay một năm, có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm đã tạo nên sự khác biệt, hình thành ý thức tiết kiệm trong dân cư đã đem lại thành công cho bảo hiểm nhân thọ (xem sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng mục 1.1.3.3 chương 1). - Là loại hình bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm dài hạn, nguồn phí bảo hiểm được sử dụng để đầu tư và người tham gia bảo hiểm được hưởng một phần lãi từ hoạt động đầu tư đó vì bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Trong khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngắn hạn, chỉ bồi thường khi có tai nạn, rủi ro xảy ra nên các doanh nghiệp bảo hiểm
- không được phép kinh doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (khoản 2 Điều 60 Luật kinh doanh bảo hiểm). - Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của bảo hiểm nhân thọ với đối tượng bảo hiểm chỉ là con người, pháp luật đã quy định có tính chất ràng buộc, hạn chế có liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Có hai ràng buộc chính được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), những ràng buộc vốn đều đã có mặt trong các văn bản pháp luật tương tự ở mọi quốc gia cho phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Thứ nhất, ràng buộc về quyền lợi có thể được bảo hiểm. Khoản 9 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm" [25]. Đây là một định nghĩa mang nặng tính pháp lý, phản ánh hình thức pháp lý của quan hệ quyền lợi. Tài liệu của Viện Quản lý Bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa khái niệm này thiên về yêu cầu của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ là "khả năng người chủ hợp đồng và người thụ hưởng phải chịu những mất mát hoặc thiệt hại lớn nếu sự kiện được bảo hiểm xảy ra" [45, tr. 14]. Lý do của những quy định này xuất phát từ mục đích cơ bản của bảo hiểm là đền bù cho người bị thiệt hại khi một rủi ro xảy ra và như vậy, sự đền bù phải dành cho đúng đối tượng phải chịu thiệt thòi, mất mát thì mới thực sự có ý nghĩa và đạt được mục đích. Mặt khác, nếu không có yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, hiện tượng trục lợi bảo hiểm trên tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác, đi ngược lại đạo đức và pháp luật sẽ xảy ra phổ biến bởi bất cứ ai cũng có thể ký hợp đồng bảo hiểm đối với tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác và sau đó cố tình gây ra rủi ro để thu lợi bất chính từ tiền bồi thường. Cụ thể hóa yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, khoản 2 Điều 31 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) chỉ cho phép bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho những người sau đây: - Bản thân bên mua bảo hiểm; - Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm; - Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng;
- - Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tượng được mua bảo hiểm như trên đã trở thành thông lệ quốc tế xuất phát từ quan điểm xã hội cho rằng những người thân thiết, ruột thịt trong gia đình là những người phải chịu đựng mất mát nhiều nhất khi người thân gặp rủi ro. Mặt khác, có một số quan hệ cũng được chấp nhận là đảm bảo quyền lợi này như quan hệ giữa người cho vay và người đi vay (nếu người đi vay gặp rủi ro khi chưa trả hết nợ thì người cho vay phải chịu thiệt hại), quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động (nếu người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động bị mất nhân công, nói cách khác là mất chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động khác thay thế, chi phí gián đoạn sản xuất…). Quy định này chỉ rõ rằng yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc ở thời điểm yêu cầu bảo hiểm. Pháp luật nhiều nước còn yêu cầu quyền lợi này hiện diện cả khi thanh toán quyền lợi bảo hiểm (Mỹ, Canađa…) [43]. Quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm tuân thủ triệt để, vì nó góp phần đáng kể bảo vệ doanh nghiệp trước rủi ro bị khách hàng lợi dụng và trục lợi. Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tượng được bảo hiểm. Điều 38 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) quy định về ràng buộc này như sau: - Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng. Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm. - Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha mẹ, hay người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản. - Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người đang mắc bệnh tâm thần [25].
- Quy định này nhấn mạnh đến yếu tố nhất trí của người được bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ - như bị tâm thần hoặc dưới 18 tuổi - hợp đồng không thể được giao kết hoặc chỉ có thể được giao kết khi có sự đồng ý rõ ràng và hoàn toàn của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp). Nội dung của sự nhất trí này bao hàm hai yếu tố chính: nhất trí về việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trên sinh mạng của mình và nhất trí về người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm không may qua đời. Sự nhất trí của người được bảo hiểm chính là một đảm bảo chắc chắn rằng, người được bảo hiểm biết rõ và chấp nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho mình và rằng, ai sẽ là người được nhận quyền lợi bảo hiểm khi mình chết. Đây chính là cách thức phòng tránh có hiệu quả đối với các trường hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm trục lợi trên sinh mạng của người khác, đặc biệt là những người không hoặc chưa có khả năng nhận thức đầy đủ cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Quy định này cũng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đảm bảo cho nó giữ đúng được giá trị và ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm nhân thọ. Trên đây là hai ràng buộc cơ bản mà pháp luật áp đặt đối với việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này có thể tìm thấy ở pháp luật về bảo hiểm của mọi quốc gia, là sản phẩm của một quá trình nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực này trong hàng trăm năm của các công ty bảo hiểm. Những quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước cũng như Việt Nam tuân thủ triệt để và tinh thần của nó không chỉ được tìm thấy trong điều khoản hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp mà còn trong mọi hoạt động tác nghiệp hàng ngày ở các doanh nghiệp. Tóm lại, với những đặc điểm riêng, đã từ lâu, bảo hiểm nhân thọ giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường bảo hiểm thế giới và hiện nay càng ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam. Với các loại hình sản phẩm đa dạng, bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Với mỗi cá nhân, đó là nhu cầu thực hiện có hiệu quả các kế hoạch tài chính dài hạn, nhu cầu chuẩn bị chi phí hậu sự và dành dụm để lại cho con cháu, nhu cầu bổ sung nguồn tài chính khi già cả, mất khả năng lao động tạo ra thu nhập và các nhu cầu bảo đảm
- về tài chính khi gặp các rủi ro về sức khỏe. Với các cơ quan, tổ chức, đó là nhu cầu bù đắp chi phí tuyển dụng và đào tạo lại nhân công trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc thương tật dẫn đến mất khả năng lao động, đặc biệt là những lao động có kiến thức và trình độ và nhu cầu có nguồn tài chính hỗ trợ người lao động cũng như gia đình của họ vượt qua khó khăn khi gặp phải rủi ro. Với ý nghĩa xã hội to lớn như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng được cả xã hội quan tâm. 1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ được thiết kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, trong mỗi loại hình lại bao gồm rất nhiều sản phẩm khác nhau, ngoài ra còn có các loại hình bảo hiểm nhóm và bảo hiểm bổ trợ. 1.1.2.1. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân * Bảo hiểm sinh kỳ Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Các đặc điểm của bảo hiểm sinh kỳ là: - Chỉ bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn được quy định trong hợp đồng. - Công ty bảo hiểm sẽ không phải trả tiền bảo hiểm, không hoàn phí bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm sẽ chấm dứt ngay nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm. Mục đích của loại hình bảo hiểm này giúp người tham gia bảo hiểm sống đến một mức tuổi nào đó sẽ nhận được tiền bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống. Ví dụ như mua bảo hiểm sinh kỳ cho con tức là sẽ có một khoản tiền để dành cho con dùng vào việc học tập và kết hôn sau này, hoặc là mua bảo hiểm sinh kỳ sống đến tuổi về hưu thì được lĩnh tiền bảo hiểm.
- * Bảo hiểm tử kỳ Loại bảo hiểm này bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra trong thời gian đã quy định trong hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì việc thanh toán không được thực hiện, chính vì vậy phí bảo hiểm luôn được giữ ở mức thấp nhất. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp quyền lợi bảo hiểm tử vong nếu người được bảo hiểm chết trong một thời hạn được xác định trước [45, tr. 31]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm tử kỳ là: - Chỉ bảo hiểm rủi ro mà không có yếu tố tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng được xác định rõ ngay khi giao kết hợp đồng; - Công ty bảo hiểm có thể không phải trả tiền bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến thời điểm đáo hạn hợp đồng). Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm sinh mạng có hoàn phí; bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm giảm dần, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm tăng dần. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là cung cấp sự bảo vệ trước rủi ro trong một thời hạn xác định; đồng thời, hợp đồng bảo hiểm loại này còn có thể được sử dụng như một "tài sản thế chấp" trong quan hệ tín dụng. * Bảo hiểm hỗn hợp Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ" [25], trong đó "bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn
- sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm". Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó quyền lợi bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm chết hoặc vào ngày đáo hạn hợp đồng nếu người được bảo hiểm vẫn còn sống vào ngày này [45, tr. 31]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm hỗn hợp là: - Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm được xác định trước; - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hỗn hợp có số tiền bảo hiểm tăng dần, bảo hiểm hỗn hợp trả tiền định kỳ. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phòng rủi ro và giúp khách hàng tích lũy dần dần để thực hiện các kế hoạch tài chính dài hạn. * Bảo hiểm trọn đời Đây là loại hình bảo hiểm mà số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người được bảo hiểm khi chết. Đây là hợp đồng dài hạn, có yếu tố đầu tư và đến một lúc nào đó hợp đồng chắc chắn được thanh toán. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ cho suốt cuộc đời của người được bảo hiểm và có yếu tố tiết kiệm [45, tr. 32]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm trọn đời là: - Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm không xác định được trước, thời hạn bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết; - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng.
- Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm trọn đời biến đổi, bảo hiểm trọn đời phổ thông, bảo hiểm trọn đời chung, bảo hiểm người còn sống cuối cùng. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm rủi ro kết hợp tiết kiệm. Sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu sự mà còn góp phần làm tăng giá trị tài sản khách hàng để lại cho người thân khi qua đời. * Niên kim nhân thọ (bảo hiểm trả tiền định kỳ) Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Các đặc điểm nổi bật của niên kim nhân thọ là: - Quyền lợi bảo hiểm được thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ và phương thức nhất định; - Thời hạn bảo hiểm thường không xác định trước, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết hoặc người được bảo hiểm đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm thỏa thuận. - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niên kim biến đổi, niên kim thu nhập trọn đời trong thời hạn được đảm bảo. Sản phẩm này chủ yếu được thiết kế nhằm mục đích an sinh xã hội, bảo hiểm hưu trí cho người cao tuổi. Đây chính là một hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, cung cấp khoản "lương hưu" theo lựa chọn của chính người nhận. 1.1.2.2. Bảo hiểm nhóm Loại hình bảo hiểm này có đặc điểm cơ bản khác với bảo hiểm cá nhân là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân theo một hợp đồng, bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm
- người theo một hợp đồng. Loại hình này được thiết kế dưới hình thức một loạt sản phẩm tương tự như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, nhưng bảo hiểm cho một nhóm người. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm là công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm không phải là một bên trong hợp đồng. Ưu điểm của loại hình bảo hiểm nhóm là thủ tục tham gia đơn giản, phí bảo hiểm thấp, loại hình bảo hiểm này giúp góp phần gắn kết, khuyến khích, tăng phúc lợi cho người lao động (khách hàng chủ yếu của bảo hiểm nhóm là người lao động). Tuy nhiên, loại hình bảo hiểm này cũng có một số hạn chế so với loại hình bảo hiểm cá nhân như sản phẩm không đa dạng phong phú như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, ít người sử dụng lao động mua cho nhân viên, tập thể của họ. Quyền lợi bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này không nhiều (chỉ những quyền lợi cơ bản như chết, thương tật do tai nạn), số tiền bảo hiểm không lớn, thời hạn bảo hiểm thường ngắn (1 năm), phức tạp cho thủ tục và công tác quản lý hợp đồng khi số lượng thành viên của nhóm có sự xáo trộn như tăng hoặc giảm.... Việc phát triển loại hình bảo hiểm nhóm phụ thuộc vào chính sách, chế độ phúc lợi của mỗi tổ chức, bên cạnh đó, cần thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhóm phù hợp hơn, hấp dẫn hơn để đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 1.1.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ Những sản phẩm này rất đa dạng, trong đó nổi bật phải kể đến bảo hiểm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm chi phí phẫu thuật, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm từ bỏ thu phí... Các sản phẩm này giúp khách hàng bổ sung và mở rộng quyền lợi bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm nhân thọ. 1.1.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và các hình thức đảm bảo khác 1.1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ Theo quy định tại Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 7 chương I, nghiệp vụ bảo hiểm được phân thành 2 nhóm là Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm
- phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm phi nhân thọ chỉ có một mục đích chống lại rủi ro thì bảo hiểm nhân thọ có thể giúp người được bảo hiểm vừa đạt được mục đích chống lại rủi ro vừa có mục đích tiết kiệm. Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ ngắn, thông thường là một năm, bên cạnh đó có những hợp đồng bảo hiểm kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí thời hạn bảo hiểm có thể chỉ là vài giờ (trong bảo hiểm tai nạn hành khách). Trong khi đó, thời hạn bảo hiểm của các hợp đồng nhân thọ thường dài hạn (từ 5 năm trở lên). Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có một số nghiệp vụ bắt buộc phải mua bảo hiểm đã được quy định trong luật pháp để giúp phát huy tối đa tác dụng của các nghiệp vụ này và nhằm đạt được mục đích bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bên cạnh đó khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, sẽ có một cam kết ràng buộc giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ theo đuổi đến cùng, trừ lý do rơi vào các tình huống phải chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy định bắt buộc này không bao giờ áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ, trong bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào và không cần viện dẫn lý do. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, người tham gia bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho hậu quả của các sự kiện được bảo hiểm chứ không bảo hiểm việc nó không xảy ra. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm việc xảy ra biến cố tử vong hoặc không xảy ra sự cố tử vong hoặc đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện tử vong và không tử vong. Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, mỗi loại hình bảo hiểm đều có những đặc trưng riêng có của mình, nhưng tựu trung lại cả hai loại hình này đều có tác dụng và vai trò rất to lớn, không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia, nhất là với các quốc gia phát triển. 1.1.3.2. Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm xã hội
- Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thương mại) đều là chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhưng vì là hai loại hình bảo hiểm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiều mặt như sau: Thứ nhất: Về mục đích, nguyên tắc. Bảo hiểm xã hội là một phần của chế độ bảo trợ xã hội bắt buộc thực hiện theo pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích đảm bảo đời sống cơ bản cho mọi người trong xã hội, giữ vững ổn định trong xã hội, người được bảo hiểm có quyền lợi được đảm bảo trọn đời. Quá trình hoạt động của bảo hiểm xã hội thể hiện rõ đặc điểm của quan hệ hành chính. Bảo hiểm thương mại là loại hình do mọi người tự nguyện tham gia bảo hiểm, không có sự bắt buộc. Nguyên tắc cần phải tuân theo đó là người nào tham gia bảo hiểm thì người đó được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đây là hoạt động kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi quy tắc, trách nhiệm bảo hiểm đều phải thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã thỏa thuận. Bảo hiểm thương mại có luật điều chỉnh riêng. Thứ hai: Khác nhau về đối tượng và chức năng bảo hiểm. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là những người lao động trong xã hội. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cơ bản cho người lao động khi ốm đau, già cả, bị thương, bị tàn phế, mất khả năng lao động... nhằm giữ vững quá trình tái sản xuất sức lao động xã hội. Ngoài ra, còn thực hiện việc nhà nước phân phối lại thu nhập xã hội bằng cách tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện việc trợ cấp bồi thường thiệt hại, thực hiện chức năng công bằng xã hội. Đối tượng bảo hiểm thương mại thường không có quy định đặc biệt mà áp dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dựa vào nguyên tắc tự nguyện lựa chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường hoặc chi trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro hoặc khi đáo hạn hợp đồng như đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Việc trả tiền bảo hiểm xã hội xuất phát từ mục đích đảm bảo mức sống cơ bản của người lao động. Mức độ đảm bảo này được dựa trên mức tiêu dùng bình quân của xã hội,
- các yếu tố tăng giá cả hàng hóa... Đối với mức đảm bảo của bảo hiểm thương mại không xét tới những yếu tố kể trên, hoàn toàn do người được bảo hiểm nộp phí bảo hiểm nhiều hay ít. Thứ ba: Sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau: + Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia bảo hiểm trong đơn vị, trong đó 10% là quỹ lương hưu, 5% là quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… + Người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. + Nhà nước hỗ trợ thêm để thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động. + Các nguồn khác… Quỹ bảo hiểm thương mại: Quỹ bảo hiểm thương mại hình thành trên cơ sở thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thể hiện dưới hợp đồng hoặc do luật định. Đây là quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà nước. Quỹ này không do cơ quan nhà nước quản lý tập trung thống nhất mà do chính các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý và sử dụng theo Luật. Về mặt pháp lý doanh nghiệp bảo hiểm được phép thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và dùng quỹ tập trung này để chi trả quyền lợi bảo hiểm và bù đắp cho các rủi ro bảo hiểm xảy ra. Nguồn quỹ này chỉ sử dụng vì các mục đích cho đối tượng tham gia, không sử dụng vào các mục đích khác. Nhà nước không được sử dụng quỹ này. 1.1.3.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng Hoạt động bảo hiểm nhân thọ và hoạt động ngân hàng cùng có tính chất giúp người dân tiết kiệm tiền và được hưởng lãi suất từ những khoản tiền tiết kiệm. Nhưng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt lớn, đó là hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn có tính chất đảm bảo rủi ro cho người tham gia trong khi hoạt động ngân hàng không có.
- Có thể thấy, tiết kiệm ngân hàng chỉ mang tính tiết kiệm đơn thuần trong khi đó bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả tiết kiệm với bảo hiểm. Trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ (5, 10, 15 năm hoặc dài hơn), số phí đóng bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm đồng thời người tham gia được đảm bảo về quyền lợi khi không may gặp rủi ro. Tính bảo hiểm thấy rõ nhất là trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm nhân thọ vừa nộp phí 1 tháng thì không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, theo cam kết người đó sẽ được miễn phí cho toàn bộ thời gian còn lại của thời hạn nộp phí. Số phí đã nộp rõ ràng nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lợi người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận. Còn nếu gửi tiết kiệm ngân hàng, khi bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người đó chẳng được quyền lợi gì ngoài số lãi trên số tiền gửi. Với hình thức gửi tiền tại ngân hàng, người gửi tiền phải tự đem tiền đến ngân hàng để gửi. Theo ví dụ dưới đây, trong 15 năm người gửi tiền phải đến ngân hàng 15 lần để gửi tiền, tuy nhiên nếu người đó chọn hình thức gửi tiền theo tháng (tương đương với hình thức nộp phí tháng khi tham gia bảo hiểm nhân thọ) thì người đó sẽ phải đến ngân hàng tổng số 15 x 12 = 180 lần, và nếu thời hạn này dài hơn thì số lần đến ngân hàng sẽ tăng nên gấp bội. Rõ ràng, việc đi gửi tiền như trên rất mất thời gian và dường như không thể thực hiện đều đặn được nếu thực hiện gửi tiền theo tháng. Thêm vào đó, người gửi tiền chỉ có thể gửi tiền với số tiền lớn nhất định; không thể hàng tháng mang mấy chục ngàn đi gửi ngân hàng. Ngược lại, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia không phải đến công ty bảo hiểm để nộp phí mà hoàn toàn có thể nộp phí ở nhà, ở cơ quan hoặc bất kỳ nơi nào tiện lợi; người tham gia cũng có thể nộp phí ngay từ số tiền tiết kiệm hàng tháng là mấy chục ngàn đồng và số tiền này được đầu tư ngay để tích tiểu thành đại. Người tham gia bảo hiểm được nhà bảo hiểm thường xuyên nhắc nhở để họ có thể thực hiện kế hoạch tiết kiệm một cách "có kỷ luật", đồng thời cũng có những cơ chế tạo điều kiện để khách hàng vượt qua khó khăn tài chính tạm thời như khi chưa có tiền nộp phí, người tham gia được gia hạn nộp phí trong vòng 60 ngày mà không phải trả lãi đồng thời mọi quyền lợi bảo hiểm vẫn được đảm bảo.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Hạch toán kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh"
19 p | 6817 | 3774
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Quản lý vốn của doanh nghiệp"
9 p | 2583 | 1315
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng công trình Hoàng Hà"
55 p | 2156 | 1181
-
Luận văn tốt nghiệp hoàn thiện công tác kế toán bán hàng tại công ty cổ phần phân phối máy tính vietpc
59 p | 1802 | 827
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty Cao su Sao Vàng Hà Nội"
73 p | 1197 | 593
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Công tác hạch toán chi phí, doanh thu của hoạt động phát hành báo chí tại Công ty Phát hành báo chí Trung Ương"
63 p | 859 | 405
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Vốn cố định"
19 p | 1055 | 380
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp “Công tác quản lý vốn cố định tại Công ty cơ giới và xây lắp số 13”
36 p | 645 | 286
-
Đề tài luận văn tốt nghiệp "Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty dệt kim đông xuân Hà Nội"
16 p | 635 | 283
-
Đề tài "Phát triển Doanh nghiệp ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp"
42 p | 530 | 194
-
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: ““ Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty TNHH Thương Mại Dịch Vụ Và Thiết Bị Y Tế T&C”
106 p | 461 | 150
-
Luận văn tốt nghiệp: Tái cấu trúc tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp ngành thép Việt Nam
109 p | 258 | 89
-
Luận văn tốt nghiệp : "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam".
72 p | 207 | 67
-
Luận văn tốt nghiệp thực trạng đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu của công ty cơ khí ô tô - Ngô Đức Thuận - 1
21 p | 185 | 40
-
Luận văn: Doanh nghiệp kinh doanh hoạt động vui chơi giải trí và cần thiết xây dựng thương hiệu
65 p | 118 | 22
-
Luận văn: Doanh nghiệp kinh doanh dệt may cổ phần và ưu tiên trong đầu tư phát triển so với doanh nhiệp quốc doanh
99 p | 78 | 15
-
Luận văn Doanh nghiệp Nhà nước sau CPH ở Bộ Giao thông vận tải - Thực trạng và giải pháp phát triển
107 p | 88 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn