intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " “Mối quan hệ xây dựng Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam”

Chia sẻ: Le Dinh Thao | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:31

82
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳng hạn như cung cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " “Mối quan hệ xây dựng Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam”

  1. Đề tài “Mối quan hệ xây dựng Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” 1
  2. MỤC LỤC LỜINÓIĐẦU ............................................................................................... 3 LÝLUẬNCHUNG ....................................................................................... 4 1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. .................................... 4 2. Sựđấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất: ...................... 5 3. Chuyển hoá của các mặt đối lập: ............................................................. 8 II. TÍNHTẤTYẾUCỦAQUÁTRÌNHXÂYDỰNGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNG ỞVIỆTNAM . .............................................................................................. 9 1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm : ..................................................... 9 2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tếđất nước. ..................................................... 11 3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. ........ 13 4.Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ............................................................................................................. 17 III.NHỮNGMÂUTHUẪNPHÁTSINHTRONGQUÁTRÌNHXÂYDỰNGN ỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGTHEOĐỊNHHƯỚNGXÃHỘICHỦNGHĨAỞNƯ ỚCTA : ...................................................................................................... 18 1.một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế với chính trị: ................................................................................... 18 2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: ........................ 22 3. Mâu thuẫn giữa hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường: . 23 4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN ........................................................................................................ 27 IV. KẾTLUẬN........................................................................................... 31 DANHMỤCTÀILIỆUTHAMKHẢO ......................................................... 32 2
  3. LỜINÓIĐẦU Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳng hạn như cung cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫ n hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn nay mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thanh…. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đóđãđạt nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. đỏi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Với mong muốn tìm hiểu thê m những vấn đề của nền kinh tế, quan điể m lý luận cũng những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề chính trị – xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền kinh tế nên em chọn “Mối quan hệ xây dựng Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam” làm đề tài cho tiểu luận triết học Mác – Lê nin 3
  4. LÝLUẬNCHUNG Tất cả các sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử cóđiện tử và hạt nhân, trong sinh vật cóđồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầuhàng và tiền…những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập: ởđây tôi chia làm 4 phần. +Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. +Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập. +Sự chuyển hoá của các mặt đối lập. +Các mặt mâu thuẫn. 1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Đối lập với các quan điểm của triết học cũ , phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn .sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật ,hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào, kể cảý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủđịn lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể cóđiện tích trái dấu, hạt và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến 4
  5. trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ nô và nô lệ, nông dân vàđịa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, Công ty với tính vô chính phủ của nền kinh tế hàng hoá,…Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm,… Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Ăngghen chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâ u thuẫn. 2. Sựđấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất: Trong phép biện chứng duy vật, khái niêmk mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng thành mâu thuẫn. Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng khách quan không chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều mặt đỗi lập. Chỉ có mặt đối lập là cùng tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, phủđịnh và chuyển hoá lẫn nhau(sự chuỷen hoá này trở thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn. “ Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào 5
  6. nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thị nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập làđiều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ: Lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển. Hai điểu kiện này chính làđiểu kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau. - Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. - Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “ động” phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. - Thứ ba: Đó phải là một khái niệm cóý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thực, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được coi là thoảđáng phải có tác dụng định hướng, chỉđạo cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của các đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sựđối lập. Đấu tranh các mặt đối lập: 6
  7. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật hiện tượng không tách rời đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằ m yên bên nhau màđiểu chỉnh chuyển hoá, bài trừ, phủđịnh lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sựđấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủđịnh lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp cóđối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hã m nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một cách căn bản. Sựđấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiểu giai đoạn. Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sau khi giải quyết được mâu thuẫn sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới đấu tranh chuyển hoá thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng: “ mặc dù thống nhất chỉ làđiều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà 7
  8. chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định , cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết “ sự thống nhất ( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là cóđiều kiện, tạm thời, thoáng qua trong tương đối. Sựđấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”. 3. Chuyển hoá của các mặt đối lập: Không phải bất kỳ sựđấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sựđấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủđịnh lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động cóý thức của con người. Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách dơn giản máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: + Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn. + Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. 8
  9. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sựđấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủđịnh lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc vàđộng lực của mọi quá trình phát triển. II. TÍNHTẤTYẾUCỦAQUÁTRÌNHXÂYDỰNGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGỞ VIỆTNAM . 1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm : *Khái niệm “kinh tế thị trường” Có hai ý kiến khác nhau về kinh tế thị trường : Một là xem “kinh tế thị trường “ là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu ;lấy lợi ích ,cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế –xã hội .kinh tế thị trường là phương thức ,phương tiện ,công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả .tự nó không mang tính giai cấp –xã hội , không tốt mà cũng không xấu .tốt hay xấu là do người sử dụng 9
  10. nó. Quan niệm này kinh tế thị trường là vật “trung tính “;là công nghệ sản xuất ai sử dụng cũđược . Hai là xem “kinh tế thị trường “là một quan hệ kinh tế- xã hội-chính trị ,nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ trị trường .kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động ,có chủ thể của quá trình hoạt động đó ,có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động .trong xã hội có giai cấp ,chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải là cái nhân riêng lẻ ,đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên, kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó. Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nóở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư bản, được xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sởđể trước đây nhiều người đồng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điể m đóđược củng cố thêm còn do quáư trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, hầu hết các nước Xã hội chủ nghĩa đều kỳ thị với kinh tế thị trường, tuyệt đối hoá nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sựđối lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định rằng, nền kinh tế của thời kỳ quáđộ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quáđộ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do còn có sự phân công lao động… làm cho các đơn vị kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hoá và những người kinh doanh hàng hoáđộc lập( hoặc tương đối độc lập). Vì th, trong nền kinh tế nhất định 10
  11. sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tếđó vận hành trong môi trường kinh tế thị trường. 2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tếđất nước. Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những nă m gần đây cho thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sựđiều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, vềđại thể có thểđáp ứng những thách thức của sự phát triển. Nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dụng của công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH. Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nóđang trong giai đoạn quáđô, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quáđộ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất cóý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quáđộ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc,sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi chức năng kinh tế- xã hội của nền kinh tếđều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoáở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất lưu thông, phân phối… khá nặng nề, ở nước ta trước đây, chếđộ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động. 11
  12. Kể từđại hội Đảng lần thú VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vàđiều đó cóý nghĩa là chúng ta đãđạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “ điều chỉnh và bổ sung nhận thức, là m cho quan nịê m về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tếđất nước. Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung- cầu … Trong nền kinh tế thị trường , nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với thành phần sở hữu chủđạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đãđồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trường. Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tếđãđem lại những kết quả tích cực cả về phượng thức, trên thực tếđãđem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện nhận thức. Mỗi hành trang cóý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đãđược chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với 12
  13. tính cách là sản phẩ m của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn cứ, vừa làđối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ môđối với thị thường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thếgiới- mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường. Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nóđối với sự vận động của đởi sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tếđương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với xã hội. Do vây, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. 3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc trưng: - Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ :thị trường hàng hoá và dịch vụ ;thị trường công nghệ , các dịch vụ thông tin ,tư vấn ,tiếp thị , pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường sức lao động; thị trường lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán …. Tất cả các 13
  14. loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại của hoạt động kinh tế- xã hội. - Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đoàn xã hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị trường và cạnh tranh với nhau. - Việc vận hành kinh tế-xã hội được thực hiên trong sự kết hợp giữa đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch …. Với việc sử dụng các loại tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài nguyên được điều tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất. - Dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự thị trường, sản xuất xã hội lưu thông, phân phối và tiêu dùng với sự liên hệ vàđiều tiết của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã hội có trật tự. - Dựa vào đường lối, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành của kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô cần thiết, hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế,chỉđạo kế hoạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã hội ,không vì thế mà “kinh tế thị trường” là tất cả. thực tếđổi mới 12 năm qua cho thấy ,bên cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiê m trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Không xem trọng cuộc đấu tranh nhằm hạn chế; khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể “thị trường hoá” cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa. *Về nội dung dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế và nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở 14
  15. nước ta hiện nay,có thể suy ra đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: mọi thành phần kinh tếđều bình đẳng trước pháp luật; nền kinh tếấy lấy các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể là m nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủđạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh làm mục tiêu. Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo: - Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định - Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng trưởng kinh tế;. - Đặt giơi sự lãnh đạo của đảng cộng sản giơi sự quản lý của một nhà nước thực sự của dân; - Lấy việc giải phóng sức sản xuất là m căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu; - Là m cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất đểđóng vai trò chủđạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng; - Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn. trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ yếu là tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người; vừa không bình quân, vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ tổn thương, những vùng khó khăn; -Thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Hơn nữa nền kinh tếđó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng, mọi sức lực xã hội; tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho toàn xã hội; chấp hành mọi pháp luật,kinh doanh có văn hoá; cạnh tranh và hợp tác một cách văn minh… 15
  16. Qua nội dung trên cho thấy,tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tếở nước ta liên quan tới cả kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng,liên qua tới cả quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất ….. Để dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, nhân tố nào cóý nghĩa quyết định ? trả lời vấn đề này có người cho rằng nhà nước là yếu tố chủđạo trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Bởi vì không thể lấy cái bộ phận (kinh tế nhà nước) của cái toàn thể (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần) đểđịnh hướng sự phát triển của cái toàn thểđó. Bằng hệ thống pháp luật, chính sách, hệ thống động lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò chủđạo đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống công cụđể nhà nước thực hiện vai trò chủđạo đối với sự vận động của kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là một công cụ, dù có thểđược xem là công cụ qua trọng nhất. Do vậy không nên xem kinh tế nhà nước là chủđạo. Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đều tham gia quản lý kinh tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủđạo của nhà nước là xoá nhoà ranh giới giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Thiết nghĩ, phải tìm yếu tố chủđạo trong sự phát triển chung của nền kinh tế (có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các thành phần kinh tế, định hướng sự phát triển của chúng…) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì, trong khi không phủ nhận vai trò tác động mạnh mẽ của nhà nước tơi kinh tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng do sức mạnh của kinh tế quyết định. Trong điều kiện cụ thểở nước ta, bộ phận chủđạo đó là kinh tế nhà nước, Vấn đề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất là là m sao kinh tế nhà nước vươn lên nă m được vai trò chủđạo ? điều đóđược đặt ra trong khi kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém ngay cả trên những phương diện chủ yếu nhất cuả nó: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc phục tình hình đó, kinh tế nhà nước phải làm sao kết hợp được trong bản 16
  17. thân mình cái mạnh của tập thể, của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét cả với tư cách động lực lợi ích kinh tế, cả với tư cách thực thể-con người kinh tế. then chốt của vấn đề này là tìm mộ t cơ chế thích hợp vơi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ cán bộ cóđủđức đủ tài. “vai trò chủđạo của kinh tế nhà nước” được hiểu là : làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ;mởđường, hướng dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quả lý vĩ mô;tạo nền tảng cho chếđộ xã hội mới. 4.Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủđã xuất hiện một số yếu tốđi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩ m …là những thí dụ cho sự quáđà như vậy. Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ bị bóp méo, độc quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường …quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ; không it những thể chếđã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậ m chí trái với yêu 17
  18. cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất. III.NHỮNGMÂUTHUẪNPHÁTSINHTRONGQUÁTRÌNHXÂYDỰNGNỀN KINHTẾTHỊTRƯỜNGTHEOĐỊNHHƯỚNGXÃHỘICHỦNGHĨAỞNƯỚCT A: 1.một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế với chính trị: Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “ chínhtrị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề về chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp vàđấu tranh giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc đấu tranh giai cấp vàđấu tranh giai cấp. Trung tâm của chính trị làđấu tranh giai cấp giữa các giai cấp, các lức lượng xã hội nhằ m giành và giữ chính quyền nhà nước và sử dụng công cụđó là m công cụđể xây dựng và bảo vệ chếđộ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, F.Engen Đã khẳng định “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích”. Trong tác phẩm “Lútvích Phoibăc và báo cáo chung của triết học cổđiển Đức”, F.Engen đã chỉ rõ “để thoả thuận lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉđược sử dụng là một phương tiện đơn thuần. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chếđộ xã hội. Sự thốngtrị về chính trị của một giai cấp nhất định làđiều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất làđấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu tranh chính trị. 18
  19. Theo F.Engen, “ bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều làđấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “ chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhân hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tếđối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trịđối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời với chính trị mà nóđược xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị riêng của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trịđúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, V.I.Lênin còn khẳng định “ không có một lập trường chính trịđúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ cuả mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mởđường đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế làđiều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. TừĐại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6 nă m 1991). Đảng ta đã khẳng định: “ về quan hệ giữa đổi mới kinh tế vàđổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân vềđời sống, việc là m và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuận của CNXH, coi đó làđiều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới tổ chứcvà phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực 19
  20. chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trịđụng chạm đến tất cả các mối quan hệđặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễđổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó làđiều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế vàđồng thời đổi mới chính trị. Đảng ra khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế vàđồng thời với đổi kinh tế phải tiến hành từng bứơc đổi mới chính trị, những phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị. Tư tưởng đãđược tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ởĐại hội đại biểu của toàn quốc lần thứ VIII( tháng 7 nă m 1996) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 nă m đổi mới, Đảng ta khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từđầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là một bải học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học. ôn định về chính trị, nói cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình; Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chếđộ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng cường vai trò củ Nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công CNXH. Thực tiễn thế giới cho thấy, ổn định chính trị làđiều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2