intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu begomovirus trên ớt và cà chua ở khu vực Miền Trung và Miền Nam Việt Nam

Chia sẻ: Ha Thi Thuy | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:95

41
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nghiên cứu này tiến hành nhân dòng và giải trình tự toàn bộ bộ gen của mộtbipartite begomovirus, được cho là chưa từng được phát hiện ở Việt Nam gây hại trên cây ớt đã được Nguyễn Đức Anh phân lập năm 2013. Kết quả là toàn bộ bộ gen của mẫu begomovirus đã được nhân dòng thành công vào tế bào E.coli chủng XL1-Blue.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu begomovirus trên ớt và cà chua ở khu vực Miền Trung và Miền Nam Việt Nam

  1. LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình làm thực tập ngoài nỗ  lực của bản thân tôi đã nhận được rất   nhiều sự giúp đỡ tận tình từ các cá nhân và tổ chức. Trước tiên, tôi xin bày tỏ  sự biết  ơn sâu sắc tới TS. Hà Viết Cường – Giám độc trung tâm   nghiên cứu Bệnh cây nhiệt đới – trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Phó khoa Nông học   đã trực tiếp hướng dẫn, dẫn dắt, tận tình chỉ  bảo và tạo mọi điều kiện để  tôi hoàn thành   báo cáo này. Tôi xin gửi lời cảm  ơn chân thành nhất đến cán bộ, công nhân viên thuộc Trung tâm  Bệnh cây nhiệt đới ­ Trường Đại học Nộng nghiệp Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ  và tạo  điều kiện cho tôi làm việc trong suốt quá trình thực tập tại Trung tâm. Đồng thời tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các Thầy giáo, Cô giáo trong bộ môn  Công nghệ sinh học thực vật cũng như  các thầy cô trong khoa Công nghệ  sinh học, trường   Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã nhiệt tình dạy dỗ, chỉ  bảo tôi trong suốt thời gian tôi học  tập ở trường. Cuối cùng tôi xin cảm  ơn tới gia đình, người thân các anh chị  em và bạn bè đã giúp   đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn! 1
  2. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Từ viết tắt A. tumefaciens Agrobacterium tumefaciens AS Acetosyringone ATP Adenosine triphosphate Bb Base pair CP Capsid protein CTAB Cetryl Ammonium Bromide ddNTP Dideoxynucleoside  triphosphate DNA Deoxyribonucleic acid dNTP Deoxynucleoside triphosphate dsDNA Double strand DNA E.coli Escherichia coli EDTA Ethylene diamine tetra acetic acid ICTV International Committee on Taxonomy of Viruses IR Itergenic region Kb Kilo base LB Luria and Bertani ORF Open reading frame PCR Polymerase Chain Reaction RCA Rolling circle amplification RE Restriction enzyme Rep Replication protein RNA Ribonucleic acid Rnase Ribonuclease SDS Sodium Dodecyl Sulphate SsDNA Singe strand DNA TAE Tris – acetate – EDTA Taq Thermus aquatic Vir Virulence region β­ ME Beta­ Mercaptoethanol 2
  3. TÓM TẮT Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành nhân dòng và giải trình tự  toàn bộ  bộ  gen   của mộtbipartite begomovirus, được cho là chưa từng được phát hiện  ở  Việt Nam gây hại  trên cây  ớt đã được Nguyễn Đức Anh phân lập năm 2013. Kết quả  là toàn bộ  bộ  gen của  mẫu begomovirus đã được nhân dòng thành công vào tế  bào  E.coli chủng XL1­Blue. Chúng  tôi cũng đã giải trình tự và thu được toàn bộ bộ gen của  mẫu virus với kích thước khoảng   2.7 kb. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về  begomovirus trên  ớt và cà chua  ở  miền Trung và   miền Nam Việt Nam, begomovirus mới gây bệnh xoăn vàng lá trên ớt ở hai vùng này. Nhân   dòng thành công và giải được bộ gen DNA­A của virus này, thông qua phân tích trình tự, đặc   trưng phân tử và phả hệ cho thấy đây là 1 loài mới thuộc chi  Begomovirus gây hại trên ớt và  được chúng tôi đặt tên là Chilli leaf curl virus (CLCV). 3
  4. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Giới thiệu Họ  Geminiviridae  là họ  virus thực vật lớn nhất, có khoảng 200 loài(Fauquet và Stanley,  2005).Trong đó begomovirus là chi lớn nhất và quan trọng nhất trong họ Geminiviridae cả về  số  lượng loài và bệnh do chúng gây ra với cây trồng. Begomovirus(được đặt tên từ  Bean  golden mosaic virus) có hình thái phân tử dạng hình cầu kép (hình chùy) và bộ gen DNA sợi   vòng đơn, kích thước khoảng 2,7 kb ( Fauquet và Stanley, 2005), lan truyền trên đồng ruộng  bằng bọ phấn (Bemisia tabaci) theo kiểu bền vững tuần hoàn. Begomovirus có thể có bộ gen đơn (gồm một phân tử DNA­A) hoặc có bộ gen kép (gồm hai   phân tử DNA­A và DNA­B). Ở một số loại cây chỉ cần phân tử DNA­A đã gây triệu chứng  điển hình, còn ở một số loại cấy khác thì cần có cả phân tử DNA­A và DNA­B mới gây ra   triệu chứng bệnh. Gần đây, một loại phân tử  DNA vòng đơn nữa, có kích thước khoảng 1   nửa   bộ   gen  begomovirus  thường   được   phát   hiện   thấy   có   liên   quan   với   nhiều   bệnh   do  begomovirus  gây ra và được gọi là các DNA­β. Các phân tử  DNA­β  này phụ  thuộc vào  begomovirus để nhân lên và do đó được xem là các phần tử vệ tinh của  begomovirus. Vai trò  của   phân   tử  DNA­β   trong   hình   thành   triệu   chứng   bệnh   không   thống   nhất,   một   số  begomovirus chỉ có thể tạo ra triệu chứng bệnh với sự có mặt của phân tử  DNA­β trong khi  các loài khác lại không cần. Do đó việc phòng trừ bệnh xoăn vàng lá càng trở nên khó khăn  hơn. Nhiều bệnh nghiêm trọng trên cây trồng được xác định là do begomovirus gây ra như  bệnh  xoăn  vàng  lá  cà  chua  –  một  bệnh  được   xem là   nguy hiểm  nhất trên  cà  chua  khắp thế  giới(Moriones và cộng sự, 2007). Hiện nay, có tới 50 begomovirusphân lập từ cà chua (có từ  tomato  ở đầu tên virus) đã được công bố trên thế giới ( Fauquet và cộng sự, 2008). Trên cây  cà chua, các begomovirus tạo triệu chứng giống nhau, điển hình là: cuốn lá (cong lại hình   thìa); mép lá (đặc biệt ở lá non) biến vàng; lá nhỏ hẹp; cây nhiễm sớm còi cọc với tỷ lệ đậu   quả  rất thấp.  Danh tính  virus  chỉ  có  thể  được  xác  định  dựa  vào  các  phân  tích  phân tử  (Moriones và Navas­Castillo, 2000). Việt Nam được chứng minh là trung tâm đa dạng quan trọng của   begomovirus(Ha,  2007). Mặc dù vậy số lượng loài begomovirus xác định trên thực vật của Việt Nam vẫn còn   4
  5. ít chỉ gồm 19 loài được phân lập từ nhiều loài cây, trong đó có nhiều cây dại(Green và cộng  sự, 2001),(Ha, 2007).Theo điều tra hiện nay, bệnh do begomovirus gây hại trên diện rộng và  không chỉ gây bệnh trên cà chua, chúng còn gây bệnh trên nhiều loài cây khác như ớt, họ đậu   đỗ, đu đủ, bầu bí.... Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài:  “ Nghiên cứu begomovirus trên   ớt và cà chua ở khu vực Miền Trung và Miền Nam Việt Nam” 2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2.1. Mục tiêu ­ Giải trình tự mẫu virus mới được phân lập ­ Phân tích đặc trưng phân tử  của các mẫu virus trên  ớt và cà chua  ở  miền Trung và   miền Nam Việt Nam. 2.2. Yêu cầu ­ Nhân  dòng,   giải  trình  tự   và   phân  tích  các   đặc   trưng  phân  tử   mẫu  virus   đã   được   Nguyễn Đức Anh phân lập trên ớt ở Đà Nẵng năm 2013. ­ Đánh giá tính gây bệnh thông qua lây nhiễm nhân tạo nhờ  vi khuẩn  A. tumefaciens  (Agroinoculation). ­ Chuẩn đoán begomovirus trên  ớt và cà chuavới các mẫu thu được tại khu vực miền   Trung và miền Nam Việt Nam sử  dụng cặp mồi chung phát hiện begomovirus là BegoA­ For1 và BegoA­Rev1. ­ Chọn lọc các mẫu dương với BegoA để  kiểm tra với các mồi đặc hiệu đã được xác   định   như   mồi   ToLVHnV   (F1/R2);   TB101   (F1/   R2);   VB65   (F1/R1);   TY   (F4/R4);To   (F4/R4);  To100(F1/R1); TYKa­A (F1/R1), VNP93A (F1/R1), VNP93B (F1/R1) ­ Nhân dòng và giải trình tự  các mẫu virus trên ớt và cà chua đã được chọn, bước đầu   định danh các virus. 5
  6. II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU II.1. Những nghiên cứu nước ngoài II.1.1. Tầm quan trọng của ớt và cà chua Ớt   là một loại quả  của các cây thuộc chi Capsicum của họ  Cà (Solanaceae).  Ớt có nguồn  gốc từ châu Mỹ, ngày nay nó được trồng khắp nơi trên thế  giới và được sử  dụng làm gia  vị, rau, và thuốc. Hiện nay, Ấn Độ là nước sản xuất ớt lớn nhất thế giới với khoảng 1 triệu   tấn mỗi năm, nơi chỉ riêng Chợ Guntur (lớn nhất châu Á) có 1 triệu bao ớt. Cà chua (S.lycopersicum) có nguồn gốc từ  Nam Mỹ, nó được người Tây Ban Nha lan   truyền tới Pilippine, Đông Nam Á và toàn bộ Châu Á, cuối cùng là Châu Âu. Cà chua là loài   trái cây vườn phổ biến nhất  ở Hoa Kỳ.  Khoảng 150 triệu tấn cà chua đã được sản xuất ra  trên Thế giới trong năm 2009. Trung Quốc là nước sản xuất cà chua lớn nhất, chiếm khoảng  một phần tư  sản lượng toàn cầu, tiếp theo là Hoa Kỳ  và Ấn Độ. Các khu vực chế  biến  tại California chiếm 90% lượng sản xuất  ở  Mỹ và 35% lượng sản xuất thế  giới (Hartz và  cộng sự, 1997). II.1.2. Những nghiên cứu về bệnh virus hại cây họ cà Lịch sử bệnh xoăn vàng lá cà chua Bệnh xoăn lá cà chua được ghi nhận đầu tiên trên thế giới từ cuối những năm 40 tại Israel.  Các vụ  dịch bệnh đã xuất hiện rải rác vào những năm 60, trở  thành nghiêm trọng vào đầu   những năm 70 khi thiệt hại năng suất có thể đạt 100 %. Vào cuối những năm 70, tất cả các   vùng trồng cà chua tại Trung Đông đã bị nhiễm bệnh. Bệnh đã được báo cáo tại vùng Đông Nam Á (Thái Lan và Đài Loan) châu Phi và Châu Âu   vào những năm 80. Bệnh lần đầu tiên được công bố tại Châu Mỹ vào năm 1993. Hiện nay,  bệnh   xoăn  vàng  lá   đã   trở   thành   bệnh  virus   quan  trọng   nhất   trên   cây   cà   chua   khắp   thế  giới(Picó và cộng sự, 1996; Ghanim và cộng sự, 2001; Moriones và cộng sự, 2007). 2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh xoăn vàng lá 2.3. Đặc điểm của Begomovirus gây bệnh xoăn vàng lá 2.3.1. Phân loai chi  ̣ Begomovirus 6
  7. Việc phân loại virus gây bệnh được chẩn đoán theo Uỷ  ban Quốc tế  về  Phân loại Virus   (International Committee on Taxonomy of Viruses – ICTV) dựa vào đặc điểm cấu tạo, hình   thái của virus cũng như  mối quan hệ  huyết thanh và các đặc tính khác như  đặc điểm lan   truyền, lây nhiễm, phạm vi kí chủ đặc biệt là các đặc điểm của DNA. Tên gọi của virus hại  thực vật quy định dùng tiếng Anh bao gồm tên của cây kí chủ  chính, triệu chứng bệnh trên   cây kí chủ  đó và cuối cùng là từ  virus. Ví dụ: virus gây bệnh khảm thuốc lá ­   Tobacco  mosaic virus ­ viết tắt là TMV. Nghiên cứu hệ thống phát sinh có thể chia  begomovirus ra làm hai nhóm chính là nhóm Tân  thế  giới (New world) bao gồm Châu Mỹ  và nhóm Cựu thế  giới (Old world) là khu vực bán   cầu đông bao gồm châu Âu, châu Phi, châu Á(Rybicki, 1994; Padidam và cộng sự, 1999). Các  begomovirus  của hai nhóm tân thế  giới và cựu thế  giới được phân biệt nhau bởi đặc  điểm bộ gen. Tất cả các begomovirus  ở  cụm Tân thế  giới đều có bộ  gen kép, trong khi đó   các  begomovirus  ở  cụm Cựu thế  giới có cả  bộ  gen đơn và kép, thêm vào đó tất cả  các   begomovirus của cụm Cựu thế  giới có thêm một gen AV2 trên DNA­A, gen này không tồn   tại  ở  các virus của cụm Tân thế  giới (Rybicki, 1994). Begomovirus  ở  cụm Tân thế  giới có  chuỗi PWRsmaGT  ở đầu N trong vỏ protein (CP) mã hóa bởi gen AV1, chuỗi này không có   mặt ở begomovirus của cụm Cựu thế giới (Harrison và cộng sự, 2002). Rybicki (1994) dự đoán rằng bọ phấn di chuyển từ Châu Á sang châu Mỹ có thể đã mang tổ  tiên virus của cụm Tân thế  giới mà chúng ta quan sát thấy ngày nay. Các virus này sau đó   tiến hóa theo một hướng khác với các virus ở cụm Cựu thế giới. Gân đây d ̀ ựa trên phân tích hệ thống phát sinh phat hiên ra r ́ ̣ ằng CoYVV  ở Viêt Nam không ̣   có ORF AV2 và có chuỗi PWRsmaGT  ở  đầu N trong protein vỏ  (CP), virus này giống với  cụm Tân thế giới hơn là cụm Cựu thế giới. Sự  có mặt của CoYVV ở Việt Nam đã đưa ra  giả thuyết rằng virus giống với cụm Tân thế giới có thể đã có mặt ở Cựu thế giới trước khi   bị phân chia ở kỷ Gondwana (Ha và cộng sự, 2008). Hiện nay, việc phân loại begomovirus chủ  yếu dựa trên so sánh trình tự  của chuỗi phân tử  DNA­A. Theo Fauquet et al.,2008, việc phân loại loài trong chi begomovirus tuân thủ một số  tiêu chuẩn sau: (i) Thành phần của genome có hay không có DNA­B 7
  8. (ii) Tổ chức bộ gen có hay không có gen AV2 (iii) Protein Rep không có khả năng tái bản trans trong thành phần bộ gen thì có thể  ghi nhận loài mới. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chỉ một thay đổi nhỏ ở vị trí liên kết với Rep có   thể ngăn cản sự tương tác chức năng và sự tái tổ hợp của virus. (iv) Đặc điểm của protein vỏ. Mức độ  tương đồng của trình tự  aminoacid 
  9. có chức năng cảm ứng triệu chứng, di chuyển hệ thống và tích lũy DNA của virus. Ngược   chiều kim đồng hồ  gồm có 4 gen AC1, AC2, AC3, AC4. Trong đó, gen AC1(rep) mã hóa   protein tái bản (Rep protein) có chức năng tái sinh và tương tác với Protein của ký chủ  điều   khiển chu kỳ  tế bào. Gen AC2 (TrAP) mã hóa Protein hoạt hóa phiên mã có chức năng  ức   chế phản ứng phòng thủ cuả cây. Gen AC4 (Ren) mã hóa protein tăng cường tái sinh có chức   năng tương tác với protein ký chủ  điều khiển chu kỳ  tế  bào. Gen AC4 mã hóa protein có  chức năng cảm ứng triệu chứng và di chuyển hệ thống (Ha và cộng sự, 2008). (v) Hình 2.2. Cấu trúc phân tử DNA­A của Begomovirus (http://wcrc.confex.com) 2.3.3.2. Cấu trúc của phân tử DNA­B. DNA­B của các begomovirus kép mã hóa cho 2 protein BV1 và BC1 cả hai protein này đều liên  quan trong việc di chuyển của virus. BV1 là một protein con thoi:BV1 có chức năng như là một protein con thoi, nó có chức năng vận  chuyển virus vào và ra khỏi tế bào, tuy vậy nó không liên quan đến việc nhập nhân của virus   trong lúc xâm nhiễm, chức năng này được kiểm soát bởi CP. BV1 tương tác với BC1 trong việc di chuyển giữa các tế  bào:Bắt đầu từ  nhân BV1 tạo một  phức hợp với ssDNA, phức hợp này đi ra tế bào chất và kết hợp với BC1 tạo thành phức hợp  BV1 : ssDNA : BC1 sau đó di chuyển đến sợi liên bào và chuyển sang tế  bào khác(Gafni và  Epel, 2002).Vùng C cuối của BV1 Squash leaf curl virus (SqLCV) được xác định là yếu tố cần  thiết cho sự tương tác với BC1. 9
  10. BC1 là một protein vận chuyển.Chức năng của BV1 giống như là một protein vận chuyển đã  được làm rõ trong hai trường hợp sau: (1) BV1 của virus  Bean dwarf mosaic virus (BDMV)  đã làm tăng size exclusion limit (SEL) của sợi liên bào (Tice và cộng sự, 2000); (2) BV1 của  Squash leaf curl virus (SqLCV) đã kích thích tạo ra các cấu trúc dạng ống bắt nguồn từ luới   nội chất, các ống này làm cho virus dễ dàng di chuyển giữa các tế bào ( VARMA và Malathi,  2003).   Như   đã   được   đề   cập   ở   trên,   BC1   tương   tác   với   BV1   thông   qua   phức   hợp  BV1:BC1:ssDNA để vận chuyển virus giữa các tế bào (Gafni và Epel, 2002). BC1 có liên quan trong tính gây bệnh.Sự  kết hợp của BC1 trong tính gây bệnh đã được  chứng minh thông qua thí nghiệm chuyển gen. Thuốc lá và cà chua đã được chuyển gen BC1   của Tomato mottle virus (TMoV) và BDMV, lần lượt những đặc điểm điển hình của virus   xâm nhiễm đã được nhận thấy. Hình 2.3: Cấu trúc phân tử DNA­B của Begomovirus(Ha và cộng sự, 2008) 2.3.3.3. Đặc điểm của vùng IR Các đơn vị sao chép ngược nhau trên phân tử DNA­A và DNA­B cách nhau bởi vùng liên gen   (itergenic region (IR)),  ở  hầu hết các trường hợp chúng chia sẻ  1 vùng lặp cao xấp xỉ  200   nucleotide, gọi là vùng chung (common region (CR)). Vùng CR có chứa một điểm bắt đầu tái  bản (ori) có tổ  chức bao gồm một cấu trúc thòng lọng (Stem­loop), cấu trúc này chứa một  trình tự nuleotide bất biến ngắn TAATATTAC, tại vị trí T7­C8 cần cho việc cắt và nối DNA  của virus trong quá trình tái bản. IR có một cấu trúc nhận biết đặc hiệu của virus đã được xác   định nằm dưới cấu trúc stem­loop, nó chứa một motif được gọi là Interon( Argüello­Astorga và  Ruiz­Medrano, 2001), cần thiết cho nhận biết và bám vào sợi DNA của virus để  bắt đầu tái   bản. Sự tái tổ  hợp của virus phụ thuộc vào motif này. Các virus có chung motif ở  vùng IR có   khả năng tái tổ hợp với nhau. Mỗi một motif sẽ tương ứng với một trình tự đặc trưng trên đầu   N (Interon related domain – IRD) của protein REP. 10
  11. 2.3.3.4. Cấu trúc của phân tửDNA­β . Một phân tử vệ tinh DNA dạng vòng đơn (DNA­β) đã được tìm thấy kết hợp với các  begomovirus có bộ  gen đơn xâm nhiễm trên các cây trồng và cây dại bao gồm bông (cotton),  mướp tây (okar), dâm bụt (hibiscus), cây thục quỳ  (hollyhock), cây đay cẩm quỳ  (malvaceae),   cây   kim   ngân  (Caprifoliaceae),   cây   cà   chua   (tomato),   cây   thuốc   lá   (tobacco),   và   cây   ớt  (solanaceae), squash (Cucurbitaceae), cây hoa cúc và ageratum (Asteraceae)(Briddon, 2003) (Zhou et al., 2003). Phân tử DNA­β đã thu hút được sự chú ý kể từ khi  (Briddon, 2003)chứng  minh rằng triệu chứng điển hình trên cây ageratum (bệnh vàng gân trên cây ageratum) và cây   bông (bệnh cuốn lá bông) chỉ  có thể  hình thành khi   Ageratum yellow vein virus  (AYVV) và  Cotton leaf curl virus  (CLCV) cũng được lây nhiễm với một phân tử  DNA –  β  tương  ứng.   Phân tử DNA­β có bộ gen sợi vòng đơn với kích thước xấp xỉ 1350 nucleotide mang 3 vùng  đặc trưng (Briddon, 2003). Vùng bảo thủ của vệ tinh (Satellite conserved region (SCR):  Vùng này khoảng 200 nucleotide  bao quanh cấu trúc stem­loop có mang một chuỗi trình tự  ngắn TAT/ATATTAC đặc trưng  của Nanovuruses và Geminiviruses và một vùng bảo thủ cao với trên 100 nucleotide đã được  xác định nằm ở phía bên phải của đầu 5’ của stem­loop. Vùng bảo thủ này có rất nhiều GC   xấp xỉ khoảng 70% (Briddon, 2003) Vùng  giàu  A  (A  rich  region):  Phân  tử   DNA­β  chứa một vùng giàu A (đặc trưng 160­180  nucleotide có khoảng 60 % A) (Briddon, 2003). Vị trí được xác định nằm giữa nucleotide ±700  và ±1000 (Zhou et al., 2003). Có ý kiến rằng vùng giàu A này đã được thêm vào nhằm tăng  thêm kích thước của chúng để trở thành có kích thước xấp xỉ kích thước ½ kích thước của   bộ  gen virus (Mansoor  et al.,  2003). Bằng cách này phân tử  DNA­β  có thể  lắp ráp được  thông qua cơ chế chọn lọc kích thước nghiêm ngặt trong phân tử virus. Vùng ngược nghĩa mã hóa:  Phân tử  DNA­β  mang một khung đọc mở   βC1 trên sợi  phía bên phải của genome. Khung đọc mở  này mã hóa 1 protein với kích thước đặc trưng   (điển hình) 118 amino acids. Thông qua phân tích đột biến (Zhou et al., 2003) đã chứng minh  sản phẩm  βC1 có chức năng trong biểu hiện triệu chứng. Gần đây protein vệ  tinh  βC1  (Y10β) của virus Tomato yellow leaf curl China virus chủng Y10 (TYLCCNV­Y10) đã được  chứng minh là có khả năng ngăn chặn phản ứng phòng thủ của cây (Cui et al., 2005). 11
  12. SCR=Satellite Conserved Region Hình 2.4: Cấu trúc của phân tử DNA­β (http://wcrc.confex.com) 2.3.4. Tái sinh của Begomovirus Begomovirus tái sinh theo cơ chế vòng lăn (rolling circular mechanism). Cơ chế vòng lăn có   thể  được chia làm 2 pha và được thực hiện trong nhân tế  bào ký chủ  ( Picó và cộng sự,  1996)P (1) Pha tổng hợp sợi DNA vòng đơn (bộ  gen có mặt trong phân tử  virus) thành sợi DNA  vòng kép khi bộ gen virus được chuyển vào nhân tế  bào. Như  vậy sợi kép sẽ gồm một sợi   virus và một sợi tương đồng virus. Pha này vẫn chưa được hiểu rõ. (2) Pha tái sinh theo cơ chế vòng lăn: Protein Rep (sau khi được tổng hợp) sẽ  cắt sợi virus   tại chuỗi bảo toàn TATATTAC. Nhờ  vật liệu cũng như  enzyme DNA polymearase của tế  bào, sợi virus được tổng hợp liên tục trên sợi tương đồng virus. Protein Rep lại tiếp tục cắt   sợi virus mới được tổng hợp tại chuỗi TATATTAC (cũng vừa mới được tổng hơp) thành  một sợi virus hoàn chỉnh dưới dạng sợi đơn mạch thẳng. Protein Rep sau đó sẽ  nối 2 đầu  của mạch thẳng để tạo ra bộ gen virus sợi đơn mạch vòng hoàn chỉnh. 2.3.5. Tương tác và tái tổ hơp của Begomovirus Cây trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thường bị nhiễm hai hoặc nhiều geminivirus (Harrison và cộng sự, 2002; Ribeiro và cộng sự, 2006; Briddon và cộng sự, 2008)(Harrison và  cộng sự, 2002; Briddon, 2003; Ribeiro và cộng sự, 2006). Trong cây virus tương tác với nhau  tạo ra phức hợp bệnh (complex disease) ( Moriones và Navas­Castillo, 2000; Chakraborty và  12
  13. cộng sự, 2003). Kiểu tương tác đồng nhiễm bệnh của các virus (co­infection virus) tạo ra   triệu chứng rõ rệt hơn khi quan sát ở cây bị từng loại virus riêng. Tương tác có thể là sự bổ  trợ (complementation) hoặc tái tổ hợp. Tác dụng phối hợp giữa hai Geminivirus tái tổ hợp mới có thể xảy ra, và tạo ra nhiều triệu   chứng hơn. Ví dụ như ở Cameroon, tái tổ hợp kép (double recombinant) được tạo thành khi  đồng xâm nhiễm các isolate của African cassava mosaic virus, đã tạo ra nhiều triệu chứng  hơn so với cây bị nhiễm từng isolate riêng. Một ví dụ khác là sự tái tổ hợp tự nhiên giữa hai  begomovirus là TYLCSV và TYLCV (Tây Ban Nha), đã tạo ra virus khỏe hơn hai virus ban  đầu (Moriones và Navas­Castillo, 2000). Tái tổ hợp được cho là đóng vai trò quyết định tới sự tiến hóa của virus, đặc biệt là ở  quần  thể  Geminivirus, góp phần tạo nên sự  đa dạng di truyền( Sarkar và Kulshreshtha, 1978). Tái  tổ  hợp của begomovirus có thể  xảy ra  ở  mức độ  chủng loài (Markham và cộng sự, 1996;  Briddon, 2003) chi, và ngay trong cùng một họ (Jones, 2003) 2.3.6. Triệu chứng bệnh Bệnh xoăn vàng lá xuất hiện triệu chứng trong vòng 2­4 tuần sau khi nhiễm bệnh và phát  triển đầy đủ triệu chứng trong vòng 2 tháng. Triệu chứng có thể thay đổi theo điều kiện môi  trường, giai đoạn sinh trưởng và điều kiện sinh lý của cây tại thời điểm nhiễm bệnh(Picó  và cộng sự, 1996). Do phải dựa hoàn to àn vào vật chất của tế bào thực vật để sinh sản, các virus đã phát triển mạnh trên cây non và   tế bào non trong một cây. Ở các cây già cỗi, quá trình này sẽ chậm lại hay hầu như ngừng   hẳn. Chính vì vậy, tuổi cây non và phần non của cây là nơi virus sinh sản rất mạnh. Các  điều kiện ngoại cảnh như: nhiệt độ quá cao, thấp, độ pH của môi trường, ánh sáng, chế độ  dinh dưỡng, chăm sóc. Một chất được nhiều nhà khoa học xác nhận có bản chất protein tan   là interferon có thể  sản sinh ra  ở  tế  bào ký chủ  khi virus xâm nhập. Với nồng độ  thấp   khoảng một phần triệu gram đã có khả  năng  ức chế  sinh sản của virus. Chính vì những lý   do trên bệnh virus không gây được tác hại huỷ  diệt ngay mà thường gây thoái hoá. Sự  huỷ  13
  14. diệt chỉ  xảy ra khi điều kiện môi trường và cây bệnh thuận lợi cho virus sinh sản và lây  nhiễm, như trong các trận dịch của bệnh lúa vàng lụi ở nước ta những năm 1960. Triệu chứng sớm nhất là lá cong xuống dưới vào phía bên trong. Về  sau, lá không có hình  dạng, nhỏ  hẹp, biến vàng từ  mép và chót lá lan vào giữa gân; lá cuốn cong lên phía trên   thành hình thuyền; lá non biến vàng mạnh, giòn và nhỏ hẹp . Cuống lá có thể xoắn vặn.  Cây lùn còi cọc, mọc nhiều cành nhánh nhỏ, đốt thân ngắn. Cây nhiễm sớm thường không  ra quả  do hoa bị  rụng (Picó và cộng sự, 1996). Bệnh thường xuất hiện vào các vụ  có thời  tiết nóng như hè thu và xuân hè. Hình 2.6. Triệu chứng do Begomovirus gây ra trên ớt và cà chua (httpwww.avrdc.org) 2.3.7. Lan truyền của Begomovirus Virus  lây lan bằng dịch cây,  bằng tiếp xúc  cơ  giới và chủ  yếu là do bọ  phấn  Bemisia tabaci  chích hút từ  cây bệnh rồi truyền sang cây khỏe  theo kiểu bền vững tuần hoàn. Mật độ  bọ  phấn  càng cao thì tỷ lệ cây bị bệnh xoăn lá càng nhiều.  Bọ phấn dùng vòi chọc vào mô mạch dẫn để hút  dịch   cây   từ   mạch   phloem.   Virus   được   hút  qua  vòi, tới diều, thấm qua màng ruột vào xoang cơ  Hình 2.7. Bọ phấn Bemisia tabaci thể,   đạt  tới   tuyến  nước   bọt  và   cuối   cùng  vào  ống nước bọt. 14
  15. 2.3.8. Thiệt hại kinh tế do Begomovirus gây ra Nhiều bệnh nghiêm trọng trên cây trồng đã được xác định là do   begomovirus  gây ra như  bệnh bệnh xoăn vàng lá (ngọn) cà chua, một bệnh được xem là bệnh virus nguy hiểm nhất  trên cà chua khắp thế giới (Moriones và Navas­Castillo, 2000)Các bệnh nguy hiểm tương tự  là bệnh khảm lá sắn (Legg và Fauquet, 2004), bệnh cuốn lá bông ( Briddon, 2003). Trong đó  gây thiệt hại lớn nhất là bệnh xoăn vàng lá ngọn cà chua. Bệnh xoăn vàng lá cà chua gây thiệt hại lớn cả  về  năng suất và chất lượng. Bệnh đã trở  thành bệnh virus quan trọng nhất trên cây cà chua khắp Thế Giới, đặc biệt vùng nhiệt đới và  cận nhiệt đới (Picó và cộng sự, 1996). 2.3.9. Biện pháp phòng trừ Cho tới nay, người ta chưa phát hiện thấy gen kháng R chống lại begomovirus trên cây cà chua  trồng (Lycopersicon esculentum). Tuy nhiên một số gen kháng chống lại begomovirus đã được  phát hiện thấy trên một số giống cà chua dại. Như gen Ty1 được phân lập từ cây cà chua dại   (Lycopersicon chilense) và là một gen kháng trội không hoàn toàn (Ha và cộng sự, 2008). Những năm gần đây công nghệ  gen bước đầu được  ứng dụng trong việc sản xuất giống  kháng bệnh bằng biện pháp bắn gen, chuyển gen. Chương trình sản xuất giống cà chua   kháng bệnh đã được bắt đầu từ  cuối năm 1960 và được phát triển mạnh sau đó . Cơ sở của  chương trình này là việc lai để chuyển gen kháng bệnh từ các loài cà chua dại sang loài cà chua   trồng. Có từ 1­5 gen kháng bao gồm cả gen trội và gen lặn đã được công bố bởi (Picó và cộng  sự, 1996). Năm 1998, Vidavski & Czosnek cho biết tính chịu được quyết định chủ  yếu bởi   15
  16. gen trội còn tính kháng được quyết định bởi từ 2­3 gen lặn. Cơ chế  RNA slencing cũng đã được ứng dụng để tạo ra giống kháng được  begomovirus. Ở  Việt Nam hiện nay Viện Di truyền Nông nghiệp đang tiến hành đề  tài nghiên cứu về  vấn   đề này. Tuy nhiên, có một vấn đề gặp phải là RNA silencing là một cơ chế của cây chống  lại virus thì virus cũng có cơ chế để chống lại sự silencing của cây. Người ta đã chứng minh   bằng thực nghiệm rằng AC4 của begomovirrus có thể ức chế đường hướng RNA silencing  của cây ký chủ trong tế bào chất. Biện pháp đang đươc áp dụng hiện tại để phòng bệnh do begomovirus gây ra là diệt trừ bọ phấn,  biện pháp canh tác và sản xuất giống kháng bệnh.Sử dụng thuốc hoá học để trừ bọ phấn là  một biện pháp đã được tiến hành và cho hiệu quả cao. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc không chỉ  gây ô nhiễm môi trường sống mà còn làm tăng tính kháng thuốc của bọ phấn.Chúng ta cũng có  thể sử dụng biện pháp dùng bẫy dính màu vàng để thu hút bọ phấn trắng. 2.4. Phương pháp RCA (rolling circle amplification ) Là phương pháp dùng để  nhân một lượng lớn DNA dưới dạng các polymer theo cơ  chế  vòng lăn (tương tự như quá trình tái sinh của virus) nhờ một đoạn mồi ngẫu nhiên (Random   hexamer), và enzyme phi 29 DNA polymerase hoạt động ở nhiệt độ  300C trong vòng 18 giờ  để tổng hợp và kéo dài sợi mới có kích thước lên tới 10kb. Các sợi mới được hình thành lại   trở thành đoạn khuôn để tổng hợp các sợi tiếp theo. 2.5. Kỹ thuật xác định trình tự Những phương pháp xác định trình tự axit nucleic đang được sử dụng ngày nay đều dựa   trên phương pháp của Frederick Sanger (1977), có cải tiến. Phương pháp này còn được gọi là   phương pháp enzyme học hay phương pháp dideoxy. Trong phương pháp này, người ta sử  dụng các nhân tố  kết thúc đặc hiệu quá trình kéo dài  AND khi tổng hợp. Nhân tố  kết thúc là các 2,3 dideoxynucleosid triphosphat (ddNTP). Các  ddNTP có thể  kết hợp vào chuỗi DNA đang tổng hợp qua nhóm 5 triphosphat nhưng lại   không thể  tiếp tục kết hợp được với phân tử  desoxynucleosid triphosphat tiếp theo. Do đó   khi trộn lẫn lượng nhỏ dideoxynucleosid triphosphat với 4 loại desoxynucleosid triphosphat   rồi tiến hành tổng hợp DNA nhờ DNA polymerase thì sẽ thu được một loạt các đoạn DNA  16
  17. được kết thúc đặc hiệu bởi gốc dideoxy nucleotit. Tiến hành 4 thí nghiệm tách rời, mỗi   phản ứng bổ sung 1 loại dideoxy nucleotit khác nhau sẽ thu được các đoạn DNA có kết thúc  bằng các dideoxy nucleotit khác nhau và hơn kém nhau 1 nucleotit. Chạy điện di các đoạn  này rồi hiện hình chúng, ta có thể xác định trình tự của chuỗi DNA quan tâm. 17
  18. 2.6. Kỹ thuật agroinoculation Kỹ thuật chuyển cấu trúc xâm nhiễm vào tế bào cây nhờ vi khuẩn  A.tumerfaciens được gọi  là agroinoculation. Kỹ thuật agroinoculation đòi hỏi phải thiết kế 1 cấu trúc xâm nhiễm bao  gồm bộ  gen virus (hoặc vệ tinh) được thiết kế  chứa 2 nguồn gốc tái sinh (ori)  ở  2 đầu và  được nối vào 1 vị  trí nằm giữa bờ  trái và bờ  phải của 1 vector nhị  nguyên. Cấu trúc xâm   nhiễm sẽ  được biến nạp vào tế  bào vi khuẩn   A. tumerfaciens.   Khi lây nhiễm, tế  bào vi  khuẩn sẽ tiếp xúc với tế bào cây ký chủ và các protein chức năng (nằm trên Ti plasmid) sẽ  chuyển toàn bộ phần DNA nằm giữa bờ trái và bờ  phải của cấu trúc xâm nhiễm vào nhân  tế  bào cây ký chủ  và tổng hợp phần DNA này vào bộ  gen tế  bào cây ký chủ. Trong tế  bào  chuyển gen, gen Rep của virus sẽ được biểu hiện thành protein Rep. Protein Rep sẽ cắt bộ  gen virus khỏi bộ  gen tế  bào cây tại vị  trí đặc hiệu trên chuỗi ori và nối lại thành bộ  gen   virus nguyên vẹn. Bộ  gen virus nguyên vẹn này sẽ  thực hiện chức năng sinh học và gây  bệnh. A: Agrobacterium tumefaciens. B: Agrobacterium genome. C: Ti Plasmid  : a: T­DNA , b: Vir  genes , c: Replication origin , d: Opines catabolism genes. D: Plant cell. E: Mitochondria. F:  Chloroplast. G: Nucleus Có 3 kỹ thuật agroinoculation chính là: (i) thấm chân không (lá cây được nhúng trong dung  dịch vi khuẩn, được xử  lý chân không để  hút khí trong gian bào; vi khuẩn sẽ  dễ dàng xâm  nhập vào trong mô qua khí khổng khi áp suất trở  lại bình thường); (ii)  tiêm trực tiếp  vi  khuẩn vào mô; và (iii) tưới trực tiếp dịch vi khuẩn vào đất 2.7. Kỹ thuật RCA (Rolling Circle Amplification) 18
  19. Gần   đây,   một   phương   pháp   nhân   bản   DNA   mới   dùng   kỹ   thuật   RCA   (Rolling   Circle   Amplification) đã được sử dụng để nhân các bộ gen DNA dạng mạch vòng. Kỹ thuật RCA   dùng enzyme DNA polymerase của thực khuẩn th ể  Φ29, một enzyme có hoạt tính chuyển   mạch (strand­displacement) rất cao, và mồi hexamer để  nhân các phân tử  DNA mạch vòng  thành các multimer mạch thẳng (gồm nhiều bộ  gen virus liên tiếp) (Hình 2.10) Sản phẩm  RCA sẽ  được cắt bằng enzyme cắt giới hạn thích hợp và được dòng hóa trong các vector   dòng hóa thông thường. Đây là kỹ thuật hiện đang rất thông dụng trong nghiên cứu các virus   có bộ  gen DNA mạch vòng kể  cả  các begomovirus và vệ  tinh ( Inoue­Nagata và cộng sự,  2004; Haible và cộng sự, 2006; Knierim và Maiss, 2007). Hình 2.10. Cơ chế tái bản các phân tử DNA mạch vòng bằng kỹ thuật RCA (Rolling Circle   Amplification) dùng hexamer và Φ29 polymerase DNA (Fujii và cộng sự, 2006) Kỹ  thuật RCA đã được  ứng dụng để  thiết kế  các cấu trúc xâm nhiễm của begomovirus.   Sản phẩm RCA dạng multimers được cắt đơn bằng enzyme cắt giới hạn thích hợp trong  điều kiện không triệt để để tạo ra nhiều sản phẩm monomer (1 bộ gen), dimer (2 bộ gen) và   19
  20. multimer (nhiều bộ  gen). Chỉ  các sản phẩm dimer được tinh chiết khỏi gel agarose và nối   vào vector nhị nguyên Bằng cách đơn giản này, các cấu trúc xâm nhiễm của begomovirus có   thể được tạo ra khá nhanh chóng (Inoue­Nagata và cộng sự, 2004; Knierim và Maiss, 2007;  Ferreira và cộng sự, 2008; Wu và cộng sự, 2008; Wyant và cộng sự, 2011) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2