Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
lượt xem 22
download
Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ được nghiên cứu với mục đích đánh giá thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ; xác định quy luật diễn biến của dải ven biển Nam Bộ; xác định được các thông số kỹ thuật, giải pháp thi công đê biển Nam Bộ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 3 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Là một quốc gia với chiều dài bờ biển khoảng 3260 km, Việt Nam có một lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế biển và khai thác nguồn lợi từ vùng bãi ven bờ. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng phải gánh chịu những thiệt hại hết sức nặng nề do thiên tai từ biển mang lại. Hàng năm, những cơn bão liên tiếp đổ bộ từ biển vào đất liền đã mang đi một khối lượng lớn về tài sản, tính mạng con người đồng thời để lại những thảm họa không nhỏ về môi trường mà nhiều năm sau con người vẫn chưa khắc phục được. Trong những năm gần đây sự khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên của con người làm cho khí hậu toàn cầu thay đổi. Nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên là vấn đề thời sự tạo ra mối quan tâm đặc biệt cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Hậu quả của hiện tượng này là mực nước biển ngày càng dâng cao kéo theo những thảm họa như bão biển, sóng thần, động đất … Một trong những biện pháp khắc phục những thiên tai đó được các nước trên thế giới và Việt Nam áp dụng đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực là xây dựng hệ thống đê biển để phòng chống thiên tai, bảo vệ tính mạng và tài sản của cư dân vùng ven biển. Vùng ven biển Nam Bộ từ Bà Rịa Vũng Tàu đến Kiên Giang là vùng đa dạng về sinh thái, có vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế của của miền Nam cũng như của cả nước. Dù vậy, tiềm năng kinh tế đa dạng của vùng này vẫn chưa được khai thác tương xứng, kém ổn định, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do thiên tai. Một trong những nguyên nhân là hệ thống đê biển được hình thành qua nhiều thế hệ với quy mô, nhiệm vụ, chức năng ở từng thời kỳ khác nhau, việc xây dựng mang tính chắp vá, hiện tại chưa đủ khả năng chống triều cường, nước biển dâng, để bảo vệ sản xuất và đời sống của nhân dân. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 4 Vì vậy, việc xây dựng hệ thống đê biển, đê ngăn mặn cửa sông Nam Bộ hoàn chỉnh, đồng bộ với quy mô công trình có khả năng giảm nhẹ thiên tai là một nhu cầu cấp thiết nhằm ứng phó với những thay đổi về khí hậu toàn cầu, bảo vệ sự phát triển bền vững cho sản xuất và ổn định đời sống nhân dân trong vùng. Để hệ thống đê biển làm việc ổn định, an toàn và phát huy hiệu quả phòng chống thiên tai đồng thời tiết kiệm kinh phí đầu tư xây dựng cần phải nghiên cứu các giải pháp xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học. 2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Đánh giá thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ; Xác định quy luật diễn biến của dải ven biển Nam Bộ; Xác định được các thông số kỹ thuật, giải pháp thi công đê biển Nam Bộ. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Toàn bộ tuyến đê biển từ Bà Rịa – Vũng Tàu đến Kiên Giang, trong đó tập trung nghiên cứu một số đoạn điển hình, đại diện cho từng khu vực. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Điều tra, thu thập, hệ thống hóa các tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu; Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây; Nghiên cứu lý thuyết cơ bản; Sử dụng các phần mềm tin học hiện đại. 5. KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC Đưa ra được bức tranh toàn cảnh về thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ. Kiến nghị vị trí tuyến, quy mô công trình và các thông số kỹ thuật đê biển Nam Bộ. Đề xuất kỹ thuật xây dựng đê biển Nam Bộ qua từng thời kỳ. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 5 CHƯƠNG I GIỚI THIỆU CHUNG 1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN 1.1.1. Đê biển và giảm nhẹ thiên tai Trong vài thập niên gần đây khí hậu toàn cầu có sự biến đổi mạnh khiến cho ngày càng có nhiều tác động bất lợi đến môi trường sinh thái của trái đất. Một trong những hậu quả của sự thay đổi khí hậu toàn cầu đó là hiện tượng nước biển dâng. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính dẫn đến sự nóng dần lên của Trái đất, khiến cho các dải băng ở Bắc Cực tan nhanh hơn, nhiều nơi dải băng tan tới hơn 1 mét mỗi tháng; ngòai ra việc khai thác nước ngầm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các đô thị lớn, làm mặt đất bị sụt lún. Theo cảnh báo của Liên hiệp quốc thì Việt Nam có thể chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của hiện tượng tan băng [15]. Theo tính toán, nếu mực nước biển toàn cầu tăng thêm 1 mét, Việt Nam sẽ phải đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỷ USD/năm; 1/5 dân số sẽ mất nhà cửa và 12,3% diện tích đất trồng trọt của cả nước sẽ biến mất; 40.000 km² diện tích đồng bằng và 17 km² diện tích bờ biển ở khu vực các tỉnh lưu vực sông Mêkông sẽ chịu tác động của những trận lũ ở mức độ không thể dự đoán được. Theo các nhà khoa học, tại Việt Nam trong năm thập niên gần đây, hiện tượng Enso (hiện tượng nhiễu động nhiệt độ của nước biển vùng xích đạo Thái Bình Dương) ngày càng có tác động mạnh mẽ đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu trên nhiều khu vực. Dự báo nhiệt độ sẽ tăng tại các tỉnh miền Nam từ 0,1 ÷ 0,50C vào năm 2010, từ 0,4 ÷ 30C (năm 2070) và tại miền Bắc từ 0,3 ÷ 0,70C (năm 2010) và từ 1,2÷4,50C (năm 2070). Mực nước biển dự báo sẽ dâng cao thêm 3÷15cm (năm 2010) và từ 15÷90cm (năm 2070). Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 6 Hình 1.1: Bản đồ dự báo các vùng ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Nguồn: ICEM) Cũng liên quan đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu đã khiến cho ngày càng có nhiều dạng thiên tai xảy ra như: bão, động đất, sóng thần, sạt lở..., với tần suất xuất hiện nhiều, cường độ lớn cũng như diễn biến khó lường, không tuân theo quy luật nào. Do vậy thiệt hại do thiên tai gây ra là rất lớn, theo thống kê chưa đầy đủ trong những năm gần đây chúng ta đã phải chứng kiến các thảm họa như: cơn bão Linda (bão số 5) tháng 11/1997 đổ bộ vào Nam Bộ làm 445 người chết, 3.409 người bị mất tích, 857 người bị thương, 3.783 tàu thuyền bị chìm, 22.000 ngôi nhà bị phá hủy, tổng thiệt hại về vật chất lên tới 5.569 tỷ đồng. Đợt sóng thần xảy ra vào cuối năm 2004 ở vùng Nam Á và Đông Nam Á, làm chết hơn 200.000 người, 2 triệu người mất nhà cửa, tổng thiệt hại lên tới nhiều tỷ USD. Trận bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ cuối tháng 8/2005 với sức gió mạnh nhất Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 7 lên tới 240 km/h đã cướp đi mạng sống của hàng trăm người, đã gây thiệt hại về vật chất lên tới 100 tỷ USD. Năm 2005 được xem là mốc quan trọng của Việt Nam trong công tác phòng chống thiên tai từ phía biển. Liên tiếp các cơn bão số 2, 4, và 6 đổ bộ vào các tỉnh miền Bắc trong vòng 3 tháng đã làm suy yếu đáng kể sức chống đỡ của toàn hệ thống đê biển. Tiếp theo đó, cơn bão số 7 (Damrey) tháng 9/2005 đổ bộ vào các tỉnh từ Quảng Ninh đến Nghệ An, nước dâng kết hợp với triều cường và sóng lớn đã gây vỡ đê và ngập lụt tại nhiều nơi thuộc các tỉnh Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hóa, gây ra hậu quả nặng nề về kinh tế của toàn vùng. Gần đây nhất là cơn bão Durian (số 9) được hình thành ở ổ bão Bắc Thái Bình Dương vào ngày 26112006 và kết thúc ở Vịnh Thái Lan ngày 512 2006. Bão Durian với quỹ đạo đường di chuyển bất thường, không tuân theo quy luật nào đã gây thiệt hại lớn cho các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khiến cho hàng trăm km đê biển bị hư hỏng, mùa màng bị thiệt hại, hàng ngàn căn nhà bị sập và tốc mái, nhiều công trình công cộng như: đường giao thông, đường điện, trụ sở, trường học... bị tàn phá. Ước tính thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra lên đến hàng trăm tỷ đồng [3]. Tất cả những thiệt hại do thiên tai gây ra nói trên đối với Việt Nam đều có thể giảm nhẹ nếu như chúng ta có hệ thống đê biển vững chắc, với quy mô, kích thước công trình đủ lớn để đủ sức chống chọi với thiên tai. Nhận thức được vai trò quan trọng của hệ thống đê biển, qua nhiều thế hệ, cha ông chúng ta đã xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ những năm xa xưa cho đến ngày này. Chính vì vậy mà các thảm họa nêu trên đã được giảm thiểu, đã được ngăn chặn ở nhiều nơi, không cho nước biển tràn vào tàn phá nhà cửa, đất đai, hoa màu và cơ sở hạ tầng vùng ven biển. Để đối mặt với những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết và các hiện tượng tự nhiên bất thường có thể xảy ra, trong những năm tới nước ta cần phải tiếp tục chú ý hơn nữa đến công tác đê điều và phòng chống lụt bão, thông qua việc nâng cấp duy tu và bảo trì hệ thống đê hiện có, nghiên cứu làm mới các hệ thống đê cần thiết tại những khu vực xung yếu cần Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 8 bảo vệ. Việc tiến hành nâng cấp và xây mới hệ thống đê biển cần được tiến hành trên cơ sở các nghiên cứu chuyên ngành cụ thể về tiêu chuẩn an toàn, tính khả thi, tính thực tiễn liên quan đến các khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, gắn liền với chiến lược phát triển chung của từng vùng, từng khu vực và toàn quốc. 1.1.2. Đê biển và “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” Vừa qua tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) cũng đã đưa ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trong Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 5355% GDP, 5560% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để đạt được những mục tiêu này, cần thấy rõ nhiệm vụ của hệ thống đê biển trong tương lai. + Hệ thống đê biển là tiền đề để hình thành và phát triển các đô thị ven biển, các trung tâm phát triển kinh tế biển. Trước hết, cần phải khai thác lợi thế và phát triển du lịch biển trên hàng nghìn kilômét bờ biển, ngành công nghiệp sạch mà thiên nhiên đã ban tặng tiềm năng cho Việt Nam, một lợi thế không nhỏ so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển du lịch hiện nay còn yếu kém, đặc biệt là giao thông. Do vậy cần xây dựng một hệ thống đê biển vững chắc, vừa kết hợp làm đường giao thông, vừa làm lá chắn chống ngập lụt, bảo vệ dân cư và cơ sở hạ tầng các trung tâm du lịch, các đô thị ven biển trong tương lai. Hệ thống đê biển này sẽ trở thành con đường huyết Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 9 mạch, liên lạc giữa các đô thị ven biển, đồng thời là tuyến phòng thủ bảo đảm an ninh quốc phòng. + Hệ thống đê biển khép kín sẽ bảo vệ an toàn cho dải ven biển của các địa phương, phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Các công trình thủy lợi dưới đê biển (như cống, âu thuyền …) sẽ đảm nhiệm chức năng chủ động điều tiết nước ngọt, mặn phù hợp với từng giai đọan phát triển kinh tế nông nghiệp và thủy sản, góp phần xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế bền vững cho các địa phương. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ bờ biển và phòng chống lũ từ phía biển, Chính phủ đã quyết định lập kế hoạch đầu tư một chương trình cấp quốc gia về xây dựng và củng cố hệ thống đê biển (“Chương trình Nhà nước về xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển”). Theo đó, từ 2005 đến năm 2020 Nhà nước đầu tư trên 10 nghìn tỉ đồng cho việc xây dựng nâng cấp và làm mới các tuyến đê biển. Để việc xây dựng hệ thống đê biển có đủ căn cứ khoa học, Nhà nước đã giao cho Bộ NN&PTNT chủ trì thực hiện một chương trình nghiên cứu phục vụ xây dựng hệ thống đê biển, bao gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng đê biển và công trình thủy lợi vùng cửa sông ven biển; Phạm vi thực hiện của giai đoạn 1 bao gồm các địa phương có đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam; Giai đoạn 2: Chương trình củng cố, nâng cấp và xây dựng mới đê biển các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang; Các đề tài của giai đoạn 1 đã và đang được thực hiện, các đề tài của giai đoạn 2 mới trong giai đoạn đề xuất. Do những vai trò to lớn đã nêu trên, việc đầu tư xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ đúng yêu cầu kỹ thuật, đáp ứng được mục đích đặt ra, tạo tiền đề để phát triển bền vững và ổn định đời sống của nhân dân vùng ven biển nói riêng và cả nước nói chung là rất cấp thiết. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 10 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG ĐÊ BIỂN TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.2.1. Tình hình xây dựng đê biển trên thế giới Tổ hợp đê và các hạng mục khác trong hệ thống công trình phòng chống các hiểm họa do thiên tai gây ra từ biển được các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có biển quan tâm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên, khí hậu, địa hình và trình độ phát triển của mỗi quốc gia mà các hệ thống này được phát triển ở mức độ khác nhau. Hà Lan là một đất nước có đến 2/3 diện tích thấp hơn mực nước biển, vì vậy sự bền vững của các hệ thống đê biển là vấn đề sống còn đối với người Hà Lan. Chính vì lẽ đó họ đã bằng mọi cách bảo vệ vững chắc hệ thống đê trước tác động của thiên nhiên. Sau thảm họa đê biển năm 1953, chính phủ Hà Lan đã có những chính sách quan tâm đặc biệt tới hệ thống này như đê là công trình có cấp đặc biệt cao; Với đê sông thông thường, tần suất thiết kế là (1:1.250); hệ thống đê biển được thiết kế với tần suất thấp hơn (1:10.000), thậm chí thấp hơn nữa. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 11 Hình 1.2: Bản đồ phân vùng tần suất thiết kế đê biển Hà Lan Đê biển được xây dựng sao cho không cho phép nước tràn dưới tác động của sóng bão; kết cấu của đê được đặc biệt quan tâm và được kiểm soát rất chặt chẽ về chất lượng trong quá trình xây dựng thông qua một ủy ban riêng thuộc Nhà nước. Đê thường có cả cơ ngoài và cơ trong kết hợp giao thông. Tùy theo mức độ quan trọng mà kết cấu của đê cũng khác nhau. Chẳng hạn đê không trực diện với biển thường là đê đất với lõi đất hoặc lõi cát bảo vệ bằng đất sét, ngoài Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 12 trồng cỏ cả mái trong và mái ngoài, tần suất thiết kế cũng thấp hơn. Đối với những đê trực diện với biển thì lõi không khác so với những đê khác, nhưng nền đê được xử lý và gia cố rất cẩn thận, lớp bảo vệ khá đặc biệt. Đó là các khối bảo vệ có xu hướng chuyển từ dạng “bản” như đang được sử dụng phổ biến hiện nay sang dạng cột để tăng ổn định và dễ sửa chữa khi có sự cố. Kết cấu của đê có xu thế mở rộng với việc bố trí cơ ngoài đủ lớn để chiết giảm tối đa năng lượng sóng leo và sóng tràn đỉnh, đồng thời đó cũng là đường giao thông kết hợp đường sửa chữa, bảo dưỡng đê khi cần thiết. Việc bảo vệ mái ngoài và chân đê cũng được xem là đặc biệt quan trọng trong xây dựng đê biển. Tại những vùng có tác động sóng lớn, bảo vệ mái ngoài đê và chân đê thường được tăng cường bằng lớp vỏ hợp bởi các cấu kiện bê tông đúc sẵn, có thể theo hình thức loại kết cấu tự chèn hoặc các khối hình lập phương (ví dụ như: Tetrapod, Accrepod, Xblock hay Cube), với khối lượng từ vài tấn đến vài chục tấn thả phía bãi trước để triệt tiêu bớt năng lượng sóng trước khi sóng vào đến đê. Hình 1.3: Đê biển kết hợp giao thông ở Hà Lan Hệ thống đê biển của Mỹ đa dạng hơn do địa hình nước này không giống Hà Lan. Chính vì vậy chiến lược phòng chống thiên tai của Mỹ cũng khác dẫn tới kết cấu của đê cũng khác. Ngoài những thành phố quan trọng ven biển thì dải bờ biển rộng lớn của nước Mỹ là những khu vực không quá đông dân cư, đất lại rộng nên chiến lược đối với các vùng này là xây dựng một cơ sở hạ tầng rất tốt với hệ thống đường giao thông rộng, nhiều làn, nhiều kiểu để nếu rủi ro xảy ra thì sơ tán ra khỏi vùng nguy hiểm rất nhanh. Vì vậy, kết cấu đê biển không quá kiên cố như ở Hà Lan. Xu thế “tự nhiên” tác động ít nhất tới môi trường cũng là quan điểm phát triển của Mỹ. Các nước gần chúng ta thì Nhật Bản có hệ thống đê biển khá đặc biệt. Là quốc gia có bốn mặt là biển, thường xuyên bị động đất, sóng thần đe dọa với nguy cơ phá hoại hệ thống đê điều rất lớn nên Nhật Bản cũng đặc biệt quan tâm Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 13 tới đê cửa sông và đê biển mặc dầu đất đai của Nhật Bản hầu hết cao hơn mực nước biển. Ở đất nước này, qui định thiết kế với từng loại đê theo cấp công trình được giám sát chặt chẽ. Đê cũng là một công trình đa mục tiêu, trong đó vấn đề giao thông được ưu tiên hàng đầu, chính vì vậy đê biển của Nhật Bản cũng rất chỉnh thể. Một đặc điểm quan trọng của hệ thống đê biển của các nước phát triển là công nghệ xây dựng rất tiên tiến; qui trình công nghệ được đảm bảo. Máy móc được áp dụng trong mọi khâu của quá trình từ khảo sát, thiết kế, xây dựng, vận hành và bảo dưỡng nên những hỏng hóc nhỏ trong điều kiện bình thường rất ít xảy ra, trừ những sự cố thiên tai lớn mà thôi. Ở những nước như: Hà Lan, Đức, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản. Ngoài việc tăng cường hệ thống đê biển thì việc duy trì bãi trước như một giải pháp không chỉ giúp tăng an toàn cho đê mà còn là chiến lược phát triển du lịch biển, vì vậy, người ta quan tâm đến những giải pháp mềm như: nuôi bãi, trồng rừng ngập mặn v.v... Các đội tàu hút cát hoạt động thường xuyên làm rộng các bãi tắm, tạo thêm cảnh quan, dải đất ven biển được trồng cây chắn sóng, bài toán phát triển bền vững môi trường sinh thái biển luôn được đặt ra trong các dự án phát triển. 1.2.2. Tình hình xây dựng đê biển trong nước Đường bờ biển nước ta trải dài từ Bắc tới Nam đi qua nhiều vùng với các điều kiện địa chất, thủy văn và khí hậu khác nhau, chính vì vậy mà hệ thống đê biển ở mỗi vùng đều có đặc thù riêng về quy mô, kiến trúc, cũng như mức độ quan trọng. Đê biển Việt Nam bao gồm các hệ thống chính như sau: 1.2.2.1. Hệ thống đê biển và đê cửa sông vùng đồng bằng Bắc Bộ (từ Quảng Ninh đến Ninh Bình) Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 14 Được xây dựng bồi trúc, phát triển theo thời gian và do rất nhiều thế hệ thực hiện. Đê chủ yếu là đê đất, vật liệu lấy tại chỗ và người địa phương tự đắp bằng những phương pháp thủ công. Hình 1.4: Thi công đê biển Hải Hậu Hệ thống đê biển hình thành từ kinh nghiệm của cha ông chúng ta khi thấy rằng điều kiện mở đất có thể bắt đầu được là tiến hành. Chính vì vậy, đê không thành tuyến rõ ràng mà là các đoạn nằm giữa các cửa sông. Có những địa phương chỉ trong vòng một thế kỷ đã có nhiều lần lấn đê phát triển ra ngoài, mà cho đến nay vẫn còn tồn tại những tuyến đó như đê huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo (Hải Phòng); đê Thái Thụy, Tiền Hải (Thái Bình), đê Kim Sơn (Ninh Bình) v.v... Hình 1.5: Đê biển Hải Hậu – Nam Định bị tàn phá do bão Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 15 1.2.2.2. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (Từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh) Theo thống kê chiều dài các tuyến đê biển, đê cửa sông khu vực Bắc Trung Bộ khoảng 406 km. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư khôi phục, nâng cấp thông qua dự án PAM 4617, OXFAM, EC, CARE, ADB, tuy nhiên quy mô tuyến đê biển vùng này nhìn chung là thấp nhỏ, khi có bão lớn thường xảy ra hiện tượng tràn và vỡ đê. Một số tồn tại chính của tuyến đê biển Bắc Trung Bộ như sau: Còn khoảng 223km/406km đê biển, đê cửa sông thấp nhỏ, chưa đủ cao trình chống lũ, nước tràn thường xuyên khi có bão hoặc gió mùa duy trì dài ngày. Chiều rộng mặt đê khoảng 2 ÷ 2,5m, số đoạn có chiều rộng trên 3m khoảng 200km gây khó khăn trong việc duy tu bảo dưỡng, đặc biệt trong những trận bão gây sạt lở hay vỡ đê. Mặt khác, nếu coi đê là một tuyến giao thông thì cũng chưa đạt được mục đích. Đây cũng là một vấn đề được đặt ra trong việc phát triển kinh tế vùng biển. Một khi cơ sở hạ tầng giao thông đủ mạnh thì mới có cơ hội phát triển kinh tế và là điều kiện đầu tư trở lại cho nâng cấp, củng cố hệ thống đê biển sẵn có. Lõi đê gồm phần lớn là đất cát, phần gia cố bằng lớp đất sét bao bên ngoài lại không đủ dày, không đảm bảo các chỉ tiêu cơ lý đất đắp, nên chỉ cần một hư hỏng cục bộ sẽ dẫn tới hậu quả sẽ phá hỏng cả một đoạn đê lớn. Thực tế cho thấy rằng, khi gặp bão có nước tràn là đê bị vỡ nhiều đoạn. Mặt đê mới được gia cố cứng hóa một phần, về mùa mưa bão mặt đê thường bị sạt lở, lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được. Mái phía biển nhiều nơi chưa được bảo vệ, vẫn thường xuyên có nguy cơ sạt lở đe dọa đến an toàn của đê, đặc biệt trong Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 16 mùa mưa bão. Mái đê phía đồng chưa được bảo vệ nên nhiều đoạn bị xói, sạt khi mưa lớn hoặc sóng tràn qua. Hình 1.6: Tuyến đê biển Hậu Lộc Dải cây chắn sóng trước đê biển tuy đã được quan tâm bảo vệ, nhưng do đặc điểm khu vực có độ phì kém, cây khó phát triển, thêm vào đó ý thức bảo vệ của dân địa phương chưa tốt dẫn đến hiệu quả bảo vệ của lớp đệm bãi trước chưa cao trong khi bãi biển ở một số đoạn có xu hướng bào mòn, hạ thấp gây sạt lở chân kè, đe dọa đến an toàn của đê biển như đoạn Ninh Phú, Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hóa), đoạn kè Cẩm Nhượng, đê Hội Thống (tỉnh Hà Tĩnh). Một vấn đề tồn tại lớn đối với tuyến đê biển Bắc Trung Bộ là hệ thống cống dưới đê rất nhiều về số lượng, hầu hết được xây dựng từ vài chục năm trước đây với kết cấu tạm bợ và đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy hoạch lại, sửa chữa và xây dựng mới để đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch chung về phát triển sản xuất. 1.2.2.3. Vùng ven biển Trung Trung Bộ (Từ Quảng Bình đến Quảng Nam) Nằm kẹp giữa các cửa sông mà lưu vực chủ yếu nằm gọn trong lãnh thổ nước ta. Đất liền được bảo vệ bởi hệ thống đê khá nhỏ xung quanh các cửa sông và một phần bờ biển. Phần lớn dải bờ biển được bảo vệ bởi các đụn cát, có nơi cao đến 30 ÷ 50 m như ở Quảng Bình, Quảng Trị, Bắc Thừa Thiên Huế, rộng tới hàng vài trăm mét, hoặc với cả cây số như ở Quảng Bình, Quảng Trị. Đê thông thường chỉ có cao trình tới 3 ÷ 3.5 m và cho phép nước tràn. Đê biển ngắn, bị chia cắt bởi các sông, rạch, địa hình đồi cát ven biển và bảo vệ một diện tích canh tác nhỏ hẹp dọc theo đầm phá. Đê biển, đê cửa sông khu vực Trung Trung Bộ có tổng chiều dài khoảng 560 km với nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chống lũ tiểu mãn hoặc lũ sớm bảo vệ sản xuất hai vụ lúa đông xuân và hè thu, đồng thời phải đảm bảo tiêu thoát nhanh lũ chính vụ. Một số tuyến đê bảo vệ các khu nuôi trồng thủy sản. Đa số các tuyến đê biển bảo vệ diện tích canh tác nhỏ dưới 3000 Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 17 ha. Chính vì vậy, đê không cao, nhưng cần phải gia cố ba mặt để chống hư hỏng khi lũ tràn. Phần lớn các tuyến đê được đắp bằng đất thịt nhẹ pha cát, một số tuyến nằm sâu so với cửa sông và đầm phá đất thân đê là đất sét pha cát như đê Tả Gianh (Quảng Bình) đê Vĩnh Thái (Quảng Trị),... một số đoạn đê đã được bảo vệ 3 mặt hoặc 2 mặt bằng tấm bê tông để cho lũ tràn qua như tấm đê phá Tam Giang (Thừa Thiên Huế), đê hữu Nhật Lệ (Quảng Bình),... ngoài các đoạn đê trực tiếp chịu tác động của sóng, gió được xây dựng kè bảo vệ, hầu hết mái đê được bảo vệ bằng cỏ, đê vùng cửa sông được bảo vệ bằng cây chắn sóng với các loại cây sú, vẹt, đước. Một số tồn tại chính của các tuyến đê biển Trung Trung Bộ như sau: Còn 240 km/ 560 km đê biển, đê cửa sông chưa được đầu tư tu bổ nâng cấp nên còn thấp nhỏ, chưa đảm bảo cao độ phong lũ yêu cầu. Trừ đoạn đê thuộc thuộc thành phố Đà Nẵng có chiều rộng mặt đê trên 4,0m, còn lại hầu hết bề rộng mặt đê nhỏ hơn 3.5m, thậm chí có đến 272km mặt đê chỉ rộng 1.5 ÷ 2.0m. Chiều rộng mặt đê nhỏ gây khó khăn rất lớn trong việc kết hợp giao thông bộ cũng như cứu hộ đê. Toàn bộ mặt đê chưa được gia cố cứng hóa, về mùa mưa bão mặt đê thường bị lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được. Đến nay mới có khoảng 165km/560km có kè bảo vệ mái, phần lớn mái đê phía biển chưa được bảo vệ, hoặc lớp bảo vệ chưa đủ kiên cố nên vẫn thường bị sạt lở đe dọa đến an toàn của các tuyến đê biển. Một số đoạn đê thuộc Thừa Thiên Huế, Quảng Nam được gia cố 3 mặt trong các dự án đầu tư nâng cấp trong những năm qua. Cũng như vùng Bắc Trung Bộ, số lượng cống dưới đê rất lớn và được xây dựng từ vài chục năm trước với kết cấu tạm bợ, nhiều cống kiên cố không có tường cánh mà đắp bằng đất. Nhiều cống không còn phù hợp với quy hoạch Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 18 sản xuất, ngoài một số cống được tu bổ, nâng cấp thông qua dự án PAM 4617, hầu hết các cống còn lại đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy hoạch lại, sửa chữa và xây dựng mới để đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch chung về phát triển sản xuất. 1.2.2.4. Đê biển Nam Trung Bộ Vùng Nam Trung Bộ đã hình thành một số tuyến đê ven biển, đê cửa sông khá sớm như: Đê Đông tỉnh Bình Định với chiều dài hơn 40km, được xây dựng từ những năm 1930; đê Xuân Hòa, Xuân Hải được xây dựng phía trong đầm Cù Mông tỉnh Phú Yên được xây dựng và bồi trúc trong những năm 19561958; đê Ninh Giang, Ninh Phú huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa được đắp trước năm 1975. Còn lại các tuyến đê khác ở các tỉnh Nam Trung bộ phần lớn được hình thành sau những năm 1975. Hệ thống đê biển, đê cửa sông ở khu vực này thường ngắn và bị chia cắt bởi các cửa sông, đầm phá, dãy núi hoặc đồi cát. Các tuyến đê được hình thành chủ yếu do người dân tự đắp, mang tính tự phát, xuất phát từ những bức xúc bảo vệ mùa vụ, đất đai sản xuất nông nghiệp, lập thành vành đai dân cư cho từng làng, xóm riêng lẻ cũng như lấn biển để nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy đê biển ở khu vực này khá tạm bợ và manh mún, chỉ có một số ít đoạn đê được Nhà nước đầu tư xây dựng có kết cấu khá vững chắc, một số đoạn đê được lát bê tông cả 3 mặt nhằm vừa đảm bảo chống triều cường, ngăn mặn vừa đảm bảo yêu cầu thoát lũ. Tiêu biểu cho các tuyến đê được xây dựng trong giai đoạn sau 1975 là : Đê Bình Chánh, Bình Dương với chiều dài gần 10km thuộc huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng và đắp bồi trúc những năm 1993÷2002; sau đó năm 2005 được hoàn thiện và kiên cố hóa, đê được lát bêtông 3 mặt từ nguồn vốn ODA không hoàn lại do chính phủ Úc tài trợ. Từ năm 1999 ÷ 2006 các tuyến đê thuộc huyện Mộ Đức, Đức Phong tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 19 Đê kè Bắc sông Đà Rằng thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, xây dựng năm 2002, với chiều dài tuyến 3,2km. Đê được kết hợp làm đường giao thông và chỉnh trang đô thị. Đê kè Trần Phú thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa với chiều dài 1km, xây dựng năm 2001. Hình 1.7: Kè Trần Phú – Nha Trang Hiện nay toàn bộ miền Nam Trung Bộ có: 18 tuyến đê biển với chiều dài 101,8km; 31 tuyến đê cửa sông với chiều dài 131,35 km; 19 tuyến kè với chiều dài 23,26 km. Các tồn tại chính của đê biển Nam Trung Bộ: Hầu hết các tuyến đê có bề rộng mặt B
- 20 Đê An Biên An Minh dài 24km, được xây dựng để ngăn mặn từ biển Tây vào khu vực An Biên – An Minh. Từ năm 1975 đến nay: Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đó rất quan tâm tới công tác trị thủy trong đó có việc tu bổ, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đê biển. Nhận thức được tầm quan trọng, tính bức xúc của hệ thống đê biển, Nhà nước đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển, nhiều chương trình cấp quốc gia về điều tra, khảo sát tài nguyên biển đã được thực hiện, các chương trình nâng cấp đê biển do Nhà nước và các tổ chức quốc tế trợ giúp thực sự tạo ra sự ổn định giúp cho việc phát triển kinh tế biển. Song song với các hoạt động tư vấn, nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu các cấp từ Trung ương đến địa phương có biển đã được triển khai nhằm điều tra, xác định lượng bùn cát bồi tích ở các vùng được bồi và lượng bùn cát bị xói mất ở các vùng biển lấn, các nghiên cứu về thủy triều, nước dâng, trường sóng, gió, dòng chảy,... trong điều kiện bình thường cũng như khi gặp bão nhằm xây dựng được các luận cứ khoa học cho các giải pháp thiết kế, thi công hệ thống đê biển, phòng chống thiên tai. Hiện nay trên toàn khu vực Nam Bộ có 16 tuyến đê biển với chiều dài 444,36km; 2 tuyến kè biển với tổng chiều dài 16,5 km. Đánh giá chung về hệ thống đê biển, đê cửa sông Nam Bộ: Đê biển, đê cửa sông đã phát huy tác dụng ngăn mặn xâm nhập vào đồng, bảo vệ đất canh tác cho những vùng ngọt hóa. Nhiều nơi đê đã góp phần khai hoang lấn biển, mở rộng đất canh tác. Việc xây dựng đê biển và các công trình trên đê trong các năm qua trên thực tế đã góp phần quan trọng trong việc chủ động điều tiết nguồn nước góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển giao thông nông thôn, củng cố an ninh quốc phòng. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 21 Cao trình nhiều tuyến đê biển, đê cửa sông hiện chưa đủ khả năng phòng chống thiên tai, khi gặp triều cường và bão thường bị thiệt hại lớn. Các tuyến đê biển, đê cửa sông hầu hết còn thiếu cống nên chưa chủ động trong tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế hiệu quả ngăn mặn, giữ ngọt, chưa đáp ứng yếu cầu chuyển đổi sản xuất cho một số vùng. Do được xây dựng qua nhiều thời kỳ nên đê biển Nam Bộ thiếu tính hệ thống về vùng và đối tượng bảo vệ, không thống nhất về tiêu chuẩn kỹ thuật. 1.2.2.6. Những vấn đề còn hạn chế trong khảo sát thiết kế và thi công đê biển Trong những năm qua công tác khảo sát thiết kế và thi công đê biển đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu. Bước đầu đã áp dụng những giải pháp tiên tiến vào hoàn cảnh thực tế ở từng vùng, từng địa phương và đã có những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên trong công tác khảo sát, thiết kế, thi công và quản lý sử dụng các tuyến đê hiện nay còn tồn tại những bất cập như sau : a. Về công tác khảo sát Chạy dọc dải ven biển, các tuyến đê thường rất dài, địa chất đất nền luôn thay đổi trên toàn tuyến, trong khi khoảng cách các hố khoan quá xa nên khó mô tả hết được đặc điểm địa chất dưới đất nền. Hiện nay, công tác khảo sát địa chất và thí nghiệm đất phục vụ thiết kế thi công xây dựng đê chủ yếu sử dụng các phương pháp sau đây : Khoan bằng tay, bằng máy và lấy mẫu nguyên dạng; Khoan xuyên tĩnh, cắt cánh; Do địa chất ở vùng nghiên cứu chủ yếu là đất sét bão hoà nước, công việc lấy mẫu nguyên dạng gặp nhiều khó khăn, mức độ phá hoại của mẫu tăng cao khi độ nhạy của đất tăng lên. Các mẫu sau khi được lấy và bảo quản bằng cách Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
- 22 bọc sáp để cách ly với không khí và nước bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình vận chuyển do khoảng cách từ nơi lấy mẫu đến phòng thí nghiệm rất xa, làm cho mẫu bị rung động, phá hoại kết cấu, rạn nứt lớp bọc bảo vệ dẫn đến việc bay hơi nước trong mẫu…. Bên cạnh đó mẫu đất lại được thí nghiệm trên những thiết bị cũ và lạc hậu… Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng rất nhiều, thậm chí làm sai lệch đến kết qủa các chỉ tiêu của mẫu đất. b.Về công tác thiết kế thi công Vấn đề lún cố kết của lớp đất đắp vẫn chưa được nghiên cứu triệt để. Trong nhiều trường hợp độ lún này chiếm tỷ lệ rất cao so với độ lún toàn thể; Không kể đến độ sâu vùng ảnh hưởng của khối đất đắp. Độ sâu tính lún phải kể đến chiều rộng của mặt đê; Không kể đến độ lún theo thời gian và độ lún thứ phát của nền sau cố kết; Không đưa ra các biện pháp xử lý nền, lựa chọn sai hoặc không hiệu quả các giải pháp xử lý nền đất yếu; Không thực hiện công tác kiểm tra chất lượng trong quá trình thi công theo từng lớp, không tiến hành so sánh dung trọng khô tại hiện trường và dung trọng khô trong phòng thí nghiệm; Thiếu các tài liệu, thiết bị quan trắc lún của công trình trên nền đất yếu; Ở một số tuyến đê các đơn vị thi công không có kinh nghiệm hoặc vì một số lý do nào đó không tuân thủ đồ án thiết kế, sử dụng các thiết bị thi công cơ giới lớn, đắp nhanh tới cao trình thiết kế làm phá hủy lớp đất mặt gây sụt lún và các sự cố nghiêm trọng khác. 1.2.3. Kết luận Việc nghiên cứu, thiết kế và thi công hệ thống đê biển đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Các chương trình, đề tài nghiên cứu đã tập trung giải quyết các vấn đề về các điều kiện biên thủy lực, thủy hải văn, vấn đề xử lý nền đất Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp thu hút khách hàng tại Nhà khách Hải Quân
85 p | 758 | 201
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Hiệu quả cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ABC) – chi nhánh Sài Gòn – Thực trạng và giải pháp
117 p | 674 | 182
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng
81 p | 1024 | 173
-
Luận văn thạc sĩ: Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả trình độ thể lực cho nam sinh viên không chuyên ngành thể dục thể thao trường Đại Học Tây Nguyên
82 p | 613 | 160
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Các giải pháp đồng bộ phát triển nhà ở người thu nhập thấp tại các đô thị Việt Nam
36 p | 311 | 76
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp điều tiết thị trường nhằm phát triển kinh tế bền vững
107 p | 278 | 62
-
Báo cáo khoa học: Nghiên cứu giải pháp mới của công nghệ sinh học xử lý chất thải ô nhiễm môi trường
49 p | 254 | 55
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phương pháp giải bài tập điện phân
19 p | 221 | 41
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực trạng và giải pháp về việc giết mổ gia súc gia cầm thủ công tự phát trên địa bàn thành phố Thủ Dầu một hiện nay
22 p | 236 | 38
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phương pháp giải bài tập các quy luật di truyền của Men Đen trong dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 ở chương trình THCS
10 p | 158 | 33
-
Đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp cơ sở: Phương pháp đại số giải phương trình Schrodinger cho nguyên tử Hydro trong từ trường với cường độ bất kỳ
27 p | 144 | 17
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau, hoa tươi khu vực tỉnh phía Bắc
85 p | 77 | 14
-
Đề tài nghiên cứu cấp Tổng cục năm 2005: Nghiên cứu và đề xuất giải pháp công nghệ tin học hóa công tác xử lý số liệu thống kê tháng, quý, năm do các cục thống kê thực hiện
157 p | 102 | 13
-
Thuyết minh đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu giải pháp phát triển công tác tâm lý học trường học đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới
60 p | 75 | 11
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Nghiên cứu chuẩn Dublin Core Metadata, ứng dụng xây dựng giải pháp thư viện số cung cấp tài liệu chuyên ngành cho Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
39 p | 51 | 7
-
Báo cáo tổng kết đề tài: Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng dẻ ăn hạt (Castanopsis boisii Hickel et Camus) tại Bắc Giang
88 p | 53 | 6
-
Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu Khoa học và phát triển Công nghệ: Nghiên cứu giải pháp công trình trữ, cấp nước cho sản xuất và dân sinh một số vùng khan hiếm nước ở 8 tỉnh vùng núi Bắc Bộ
0 p | 56 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn