intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2010 "

Chia sẻ: Nguyen Thi Nguyet | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

416
lượt xem
183
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, một công cụ trong việc điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia. Mỗi sự thay đổi của lãi suất đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động của nền kinh tế như các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hành vi tiết kiệm và đầu tư của công chúng, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Do đó kéo theo sự thay đổi của các...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2010 "

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ  Đề tài: PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2010 Giảng viên: Nguyễn Hồ Phương Thảo Nhóm sinh viên thực hiện: 1. Võ Thị Hương Hải 2. Nguyễn Thị Thanh Xuân 3. Lưu Thị Vân Anh 4. Nguyễn Châu Quỳnh Trang 5. Tạ Thị Hân 6. Đặng Thị Thúy 7. Hồ Văn Tình
  2. MỤC LỤC Lời mở đầu. A. Nội dung. B. I. Khái niệm về lãi suất, các loại lãi suất và vai trò của lãi suất trong nền kinh tế 1. Khái niệm về lãi suất 2. Các loại lãi suất chủ yếu 3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế II. Diễn biến lãi suất ở nước ta từ năm 2007 đến 2010 1. Lãi suất cơ bản 2. Lãi suất ngoại tệ 3. Lãi suất liên ngân hàng III. Ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế 1. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường chứng khoán 2. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường bất động sản Kết luận C.
  3. LỜI MỞ ĐẦU Lãi suất là m ộ t trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, m ộ t c ông c ụ trong việc điều hành chính s ách t i ề n t ệ c ủ a qu ố c gia. M ỗ i s ự thay đ ổi c ủa lãi su ất đ ều tác đ ộ ng tr ự c ti ế p h ay gián ti ếp đ ến các ho ạt đ ộng c ủa n ền kinh t ế n h ư các ho ạ t đ ộ ng s ả n xu ấ t kinh doanh c ủa các doanh nghi ệp, hành v i ti ế t ki ệ m và đ ầ u t ư c ủ a công chúng, ho ạt đ ộng xu ất nh ập kh ẩu v à đ ầ u t ư n ướ c ngoài . Do đó kéo theo s ự thay đ ổi c ủa các ch ỉ tiêu k inh t ế vĩ mô khác nh ư l ạm phát, tăng tr ưở ng th ất nghi ệp...Bên c ạ nh đó lãi su ấ t còn đ ượ c xem nh ư là m ộ t c ông c ụ đ ể đi ề u hoà m ố i q uan h ệ l ợ i ích gi ữ a các ch ủ th ể trong n ền kinh t ế, m ỗi s ự tăng hay g i ả m c ủ a lãi su ấ t s ẽ kéo theo s ự khuy ến khích l ợi ích v ật ch ất đ ối v ớ i ch ủ th ể kinh t ế này đ ồ ng th ời h ạn ch ế l ợi ích c ủa ch ủ th ể kinh t ế k hác. Lãi su ấ t có th ể s ẽ t húc đ ẩ y s ự phát tri ển c ủa ngành, lĩnh v ự c này đ ồ ng th ờ i ki ề m ch ế s ự phát tri ển c ủa các ngành lĩnh v ực k hác, tăng l ợ i ích c ủa nhóm ng ườ i này, gi ảm l ợi ích c ủa nhóm n g ườ i kia. Lãi su ấ t còn là công c ụ t ạo ra các kênh chu chuy ể n n gu ồ n l ự c xã h ộ i t ừ ngành lĩnh v ực này, sang ngành lĩnh v ực khác, t ừ v ùng này sang vùng khác. Do đó t ạo ra s ự thay đ ổi c ơ c ấu vùng, c ơ c ấ u ngành c ủ a n ề n kinh t ế... Chính vì lãi su ất có m ộ t v ai trò h ết s ứ c quan tr ọng nh ư v ậy vì t h ế tình hình bi ến đ ộ ng lãi su ất là m ột v ấn đ ề mà h ầu h ết m ọi n g ườ i đ ề u r ấ t quan tâm và đ ượ c theo dõi h ằng ngày.
  4. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT,CÁC LOẠI LÃI SUẤT VÀ A. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ I. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT -Lãi suất: là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay ph ải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của h ọ và là l ợi t ức ng ười cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. II. CÁC LOẠI LÃI SUẤT CHỦ YẾU -Lãi suất cơ bản Lãi suất cơ bản (prime rate), còn gọi là prime được các ngân hàng thương mại tầm cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế công bố và áp dụng đối với các khoản nợ dành cho các doanh nghi ệp là khách hàng lớn. -Lãi suất tiết kiệm Lãi suất tiết kiệm (passbook rate): là lãi suất được xác lập bởi hoạt động tiết kiệm giữa khách hàng ký thác với ngân hàng hoặc các tổ chức phát triển gia cư. Các định chế tài chính này được lập ra ch ủ y ếu huy động vốn để cho vay phục vụ cho mục đích phát triển bất động sản. -Lãi suất huy động nóng Lãi suất huy động nóng hay có thể gọi là lãi suất qua đêm (federal funds rate): là loại lãi suất được xác lập bởi thị trường cho vay tạm thời các khoản nợ để đáp ứng cân đối dự trữ theo luật định mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại Ngân hàng Trung ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ vượt yêu cầu có thể sử dụng khoản vượt này để cho các ngân hàng bị hụt vay tạm. -Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương Lãi suất chiết khấu (discount rate): là lãi suất được thu trên các khoản tiền mà Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thành viên trong hệ thống vay. -Lãi suất danh nghĩa Lãi suất danh nghĩa, là thuật ngữ tài chính và kinh tế học để ch ỉ tỷ l ệ lãi trên giá trị danh nghĩa của một khoản tiền vay hoặc đầu tư... với hàm ý nó là tỷ lệ lãi chưa được điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát hoặc ảnh hưởng của việc tính lãi kép. III.VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
  5. 1.Lãi Suất với quá trình huy động vốn Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần ph ải có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích lu ỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò h ết s ức quan tr ọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã h ội và định các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết, v ốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: +Tỷ lệ lạm phát lãi suất tiền gửi ( lãi suất tiền vay) t ỷ su ất lợi nhu ận bình quân. +Lãi suất ngắn hạn lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay) 2.Lãi suất với quá trình đầu tư Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được th ực hi ện khi họ dự tính lợi nhuận thu được từ taì sản cố định này nhi ều h ơn s ố lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xu ống th ấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đâu t ư và ng ược l ại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh h ưởng bởi lãi suất, b ởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suât của nó cao Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đ ọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát th ấp c ần ph ải h ạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhu ận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. Mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất được thể hiện qua đồ thị sau:
  6. Hình 1 3.Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu qu ả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. 4.Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đ ổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại. +Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Kh ẩu: khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. tỷ giá hối đoái cao hơn làm hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt h ơn lên và hàng hoá nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất kh ẩu ròng. Mối quan hệ này được biểu thị bởi đồ thị sau:
  7. Hình 2 +Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức d ự tính c ủa đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá h ối đoái. Hàng xu ất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác. 5.Lãi suất với lạm phát Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt ch ẽ gi ữa lãi su ất và lạm phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong th ời kỳ l ạm phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát cụ thể tăng lãi su ất, thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kìm chế 6.Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã h ội ph ải phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên c ứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào m ột ngành kinh tế một dự án hay một tài sản nào đó chúng ta đều ph ải quan tâm đ ến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được với chi phí ban đ ầu. Có nghĩa là phải xem việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Khi quyết định đầu tư vào m ột ngành kinh t ế,
  8. một dự án hay một tài sản ta phải quan tâm tới chênh l ệch gi ữa l ợi nhu ận đem lại và số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương, thì ngu ồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự phân bổ hiệu quả. 7.Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các NHTM. Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn t ạm thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát tri ển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn cho vay để đáp ứng yêu cầu khách hàng. Lãi suất Ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. B. DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010 I. Lãi suất cơ bản Năm 2007 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra Thông báo số 11359/TB-NHNN về một số mức lãi suất bằng đồng Việt Nam, áp dụng từ ngày 1-1-2007. Theo đó, lãi suất cơ bản bằng VND là 0,6875%/tháng (8,25%/năm). Như vậy, lãi suất cơ bản của VND trong năm 2006 không thay đổi, và tiếp tục được giữ ổn định trong tháng đầu tiên của năm 2007. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng từ ngày 1-1-2007 cũng được giữ ổn định ở mức 6,5%/năm; lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 4,5%/năm. Tính đến thời điểm cuối năm, mức lãi suất huy động cao nh ất đ ối v ới VND được các ngân hàng thương mại áp dụng là 0,82%/tháng đối với kỳ hạn 1 năm.
  9. Năm 2008 Năm 2007, lãi suất cơ bản được giữ ở mức ổn định không biến động nhiều. Đến năm 2008, do nền kinh tế thế giới khủng hoảng đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến lãi suất. Thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá... Đây cũng là một năm đáng nhớ trong hoạt động của các ngân hàng, khi phải trải qua những khó khăn không nhỏ. Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cu ối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều ch ỉnh các công c ụ đi ều hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi su ất ch ủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chi ết kh ấu cũng có t ần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần gi ảm đ ối v ới d ự tr ữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều ch ỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm). Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12. Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một s ự kiện nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 l ần đi ều ch ỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%. Nếu chỉ nhìn đơn giản thì lãi suất cơ bản chỉ tăng nh ẹ từ 8,25% vào tháng 12/2007 lên 8,5% cuối năm 2008. Tuy nhiên nhìn biểu đồ lãi suất cơ bản năm 2008 thì rõ ràng đây không phải sự điều chỉnh "cơ học" giản đơn như vậy.
  10. Diễn biến lãi suất năm 2008 Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất bi ến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn bi ến lãi su ất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi su ất c ủa các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chi ều h ướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Nh ững sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau: 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh : Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Cuối tháng 4, đầu tháng 5/2008 một loạt ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản. Cùng với việc nâng lãi suất cơ bản từ 8,75% (ngày 1/2) lên 12% (ngày 19/5), NHNN đã ấn định lãi suất kinh doanh bao gồm lãi su ất huy động vốn và lãi suất cho vay bằng VNĐ không vượt quá 150% c ủa lãi suất cơ bản mà NHNN công bố áp dụng cho từng thời kỳ. Đến ngày 20/5, đã có 100% ngân hàng thương mại tăng lãi suất. Trong ngày 19/5, ngày đầu tiên thực hiện cơ chế mới, như dự báo trước đó, đỉnh lãi suất liên tục bị đánh đổ. Đỉnh đầu tiên phổ biến ở mức 14%/năm, tập trung ở khối ngân hàng cổ phần có quy mô lớn. Đỉnh nối tiếp là 15%/năm, phổ biến trên thị trường lúc đó và tập trung ở phần lớn các ngân hàng cổ ph ần, nhi ều thành
  11. viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Các ngân hàng quốc doanh còn l ại chủ yếu áp 13,8%/năm là mức cao nhất. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng bu ộc ph ải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân: Do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro th ị trường… do lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong n ửa đ ầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách ti ền t ệ b ằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng. Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ h ạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ h ạn thường kéo dài từ 1 năm trở lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và
  12. dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng th ương mại. Để thu hút ngu ồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy đ ộng c ủa các ngân hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuy ển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham gia. Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm c ủa khách hàng, nếu các ngân hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút đ ược nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khi ến ng ười gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất âm.. 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh: Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi su ất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm m ạnh từ tháng 10 năm 2008. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi su ất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm. Tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh t ế vĩ mô cũng là c ơ sở để có được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các N gân hàng đã liên tục hạ Lãi suất tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm giảm về từ 10,5%-14,5%/năm.
  13. Trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đã có quy ết định phù h ợp v ới trường hợp của Năm 2009 Năm 2009, lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ có xu h ướng tăng. Trong đó, lãi suất huy động tăng cao hơn so với mức tăng lãi su ất cho vay, dẫn đến chênh lệch giữa lãi suất huy động-cho vay có xu h ướng b ị thu hẹp Lãi suất huy động VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 có xu hướng gi ảm khoảng 1-2%/năm so với cuối năm 2008. Tuy nhiên, từ cuối tháng 2-2009, lãi suất huy động VNĐ luôn có xu hướng tăng, chủ yếu do nhu cầu vay vốn tín dụng lớn để triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp và hộ sản xuất thực hiện các phương án sản xuất-kinh doanh, dự án đầu tư theo chương trình kích thích đầu tư của chính phủ, các NHTM khó khăn trong việc cân đối vốn huy động từ thị trường để cho vay. Đến 31/12/2009 mặt bằng lãi suất huy động của các kỳ hạn một tháng trở lên ở mức 10-10,49%/năm Lãi suất cho vay VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 giảm khoảng 1,5- 2.5%/năm so với cuối năm 2008 và tương đối ổn định đến hết tháng 11- 2009, nhưng luôn sát mức lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Từ ngày 1/12/ 2009, sau khi NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%/năm, các tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất cho vay lên mức tối đa 12%/năm. Đối với các nhu cầu phục vụ vốn, đời sống và cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, lãi su ất cho vay ở m ức cao hơn lãi suất cho vay thông thường khoảng 3-5%/năm. Đến 31/12/2009, lãi suất cho vay thông thường phổ biến ở mức 12%/năm, lãi suất cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống cho vay thông qua th ẻ tín dụng phổ biến ở mức 15-17%/năm
  14. Năm 2010 Do nhà nước có những chính sách hợp lý nên Lãi suất cơ bản tiền Đồng VN năm 2010 tiếp tục ở mức 8%/năm. NHNN quy định mức lãi suất cơ bản của Đồng Việt Nam là 8%/năm và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2010. Đây là tháng thứ 11 liên tiếp, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được duy trì ổn định ở mức 8%/năm. Chiều ngày 27/9/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành quyết số 2281/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam. Ngày 24/6/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định số 1565/QĐ-NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo đó, kể từ ngày 1/7/2010, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Vi ệt Nam sẽ là 8%/năm. Như vậy, kể từ ngày 1/12/2009 đến nay, lãi suất cơ bản bằng đ ồng Việt Nam liên tục được duy trì ổn định. Cùng ngày, theo Thông báo số 220/TB-NHNN ngày 24/6/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo một số mức lãi su ất áp d ụng t ừ ngày 1/7/2010. Cụ thể: lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các t ổ chức tín dụng là 8,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6,0%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thi ếu h ụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối v ới các ngân hàng là 8%/năm.
  15. II. Lãi suất ngoại tệ Năm 2007 +4 tháng đầu năm 2007: Lãi suất huy động USD: Lãi suất huy động USD tăng khoảng 0,1-0,3%/năm so với cuối năm năm 2006, chủ yếu do nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ tăng , lãi suất cho vay ít biến động. C ụ thể là +6 tháng đầu năm 2007: lãi suất huy động USD tăng do một số NHTM phát hành giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn lãi su ất ti ết ki ệm cùng kỳ hạn từ 0,05%-0,45%/năm , tháng 7/2007, nhiều NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động từ 0,05-0,15%/năm nhằm mở rộng huy động vốn đáp ứng nhu cầu vay ngoại tệ ngày càng tăng. tháng 8, một số NHTM có mức lãi suất tương đối cao so với mặt bằng lãi suất chung đã điều chỉnh giảm nhẹ 0,1%/năm. 4 tháng cuối năm lãi suất huy động USD trong nước vẫn tương đối ổn định do các TCTD tiếp tục huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vay vốn bằng ngoại t ệ đang có xu hướng gia tăng, lãi suất huy động USD phổ biến của nhóm NHTM nhà nước kỳ hạn 3 tháng là 4,2%/năm, 6 tháng là 4,5%/năm, 12 tháng là 4,85%/năm; lãi suất huy động của nhóm NHTM cổ phần kỳ hạn 3 tháng là 4,6%/năm, 6 tháng là 4,8%/năm, 12 tháng là 5,1%/năm. Lãi suất cho vay: Lãi suất cho USD tương đối ổn định. Lãi suất cho vay USD từ đ ầu năm đến nay vẫn giữ ở mức 6%-7%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 6,5%-8%/năm đối với cho vay trung, dài hạn. Năm 2008 Lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam đang ở mức 7,2%/năm, cao hơn 1,95% so với mức lãi suất của trái phiếu chính ph ủ 1 năm c ủa M ỹ là 5,25%. Chênh lệch lãi suất quá lớn so với thị trường quốc t ế đã t ạo ra những bất cập đòi hỏi sự can thiệp bằng chính sách. Cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi USD đã được phát động từ giữa tháng 3/2008, nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy mức lãi suất tiền gửi bằng USD lên mức cao kỷ lục là 7,2%/năm, sau nhiều năm lãi suất ti ền g ửi bằng USD thấp và ổn định, lãi suất tiền gửi ngoại tệ có xu hướng tăng mạnh. Dường như cuộc đua lần này cũng quyết liệt không kém cuộc đua lãi suất đồng nội tệ trước đó. Đồng thời đối với ngoại tệ cũng lặp lại tình trạng lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn và cũng bắt đ ầu từ các ngân hàng thương mại nhỏ. Điều này đã được một số nhà phân tích kinh
  16. tế dự báo. Về cơ bản, hiện tượng tăng lãi suất đồng ngoại tệ chỉ là hệ quả tất yếu của việc tăng lãi suất đồng nội tệ và VND đang tăng giá. V ới mức lãi suất tiền gửi ngoại tệ từ 6 – 6,5%/năm thì lãi su ất vay ph ải ở mức 10-10,5%/năm. Điều gì sẽ xảy ra đối với các doanh nghiệp? Khó có thể tưởng tượng được các doanh nghiệp lại có thể vay với lãi suất này để đầu tư, ngoại trừ vay để nhập hàng tiêu dùng, dược liệu, vật tư nông nghiệp và một số vật liệu xây dựng đang có mức tăng giá đến chóng m ặt. Hoặc là, các ngân hàng thương mại, chủ yếu là các ngân hàng nh ỏ đang gặp khó khăn về thanh khoản ngoại tệ trong đó có việc tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ. Thật may mắn nếu đó ch ỉ là di ch ứng c ủa cú sốc tiền tệ vừa qua. Còn nếu làn sóng này kéo dài, thì h ậu qu ả cũng tai hại không kém, thậm chí còn tệ hơn lãi suất nội t ệ, b ởi vì r ủi ro h ối đoái trong trường hợp USD mạnh lên là rất lớn. Lãi suất tiền gửi bằng USD tăng cao không làm cải thiện nhiều dòng vốn chảy vào Việt Nam do ba nguyên nhân: Một là, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) vẫn đang bị quản lý chặt do vậy lãi suất cao vẫn tiếp tục được duy trì do cung ngoại tệ vẫn khan hiếm trong khi cầu ngoại tệ cho nhập khẩu tiếp tục leo thang. Hai là, mục đích chuyển tiền qua tài khoản vãng lai chủ yếu để gửi tiền cho người thân ở trong nước hoặc đang học tập ở nước ngoài, quy mô đầu cơ lãi suất thông qua tài khoản vãng lai là rất th ấp so v ới ho ạt động đầu cơ lãi suất của các tổ chức tài chính quốc tế được th ực hiện qua tài khoản vốn. Ba là, cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi bằng USD gây rối loạn hoạt động huy động ngoại tệ của ngân hàng thương mại. Lượng ngoại tệ vào nền kinh tế không tăng mạnh do tài khoản vốn vẫn đang được kiểm soát chặt chẽ trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần thường đưa ra mức lãi suất cao để thu hút ngoại tệ làm nguồn ngoại tệ có khuynh hướng rút khỏi các ngân hàng có mức lãi suất tiền gửi bằng USD thấp (ngân hàng thương mại quốc doanh) chuyển sang các ngân hàng thương mại cổ phần. Năm 2009 Cung cầu ngoại tệ năm 2009 luôn có những diễn biến phức tạp, tạo nhiều sức ép lên tỷ giá hối đoái, nguyên nhân ch ủ y ếu là do tác đ ộng c ủa các yếu tố -Thâm hụt cán cân thương mại -Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến tâm lý nắm giữ ngoại tệ: nhiều doanh nghiệp xuất khẩu găm giữ, không bán ngoại t ệ nên NHTM không đủ ngoại tệ điều hòa cho nền kinh tế
  17. -Tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghi ệp vay bằng VNĐ: do lãi suất vay VNĐ thấp, phạm vi và th ời gian cho vay đ ược mở rộng, một số doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ, muốn vay VNĐ -Các nguồn thu như từ xuất khẩu, kiều hối, du lịch, FDI, FII đ ều gi ảm so với các năm trước Lãi suất liên ngân hàng Năm 2010 Đối với đồng USD, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng phát sinh chủ yếu đối với các kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Lãi suất giao dịch bình quân cũng có xu hướng tăng nhẹ, với mức tăng không nhiều, t ừ 0,05% đến 2,17%/năm. Riêng lãi suất bình quân qua đêm và kỳ h ạn 1 tu ần có xu hướng giảm. Lãi suất bình quân cao nhất là 2,63%/năm, lãi su ất các kỳ hạn còn lại dao động từ 0,77% đến 1,42%/năm. Về doanh số giao dịch trên thị trường này, NHNN cho biết, doanh số đạt xấp xỉ 78.687 tỷ VND và 1.513 triệu USD, bình quân đạt khoảng 15.737 tỷ VND/ngày và 302 triệu USD/ngày. So với tuần trước nữa, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng 12.834 tỷ VND và giảm 92 triệu USD. Doanh số giao dịch qua đêm bằng VND ở mức 30.462 tỷ, chiếm tỷ trọng 39% so với tổng doanh số giao dịch cả tuần. NHNN công bố lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng ngày 08/12/2010 đã lên tới 13,08%, tăng 4,59% so với thời điểm 30/11. III. Lãi suất liên ngân hàng Năm 2007 10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, Từ ngày 3/12 đến nay, NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của NHNN. Vì vậy, đến nay tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007. Lãi suất VNIBOR: Trong 5 tháng đầu năm 2007, lãi suất VNIBOR giảm ở tất cả các kỳ hạn, với mức giảm từ 2,1 - 3,8%/năm so với cuối năm 2006; tuy nhiên, trong những ngày đầu tháng 6/2007, lãi suất VNIBOR ở các kỳ hạn có xu hướng tăng mạnh, mức
  18. tăng từ 0,5 - 2,5%/năm so với cuối tháng 5/2007, chủ yếu do ảnh hưởng của việc NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho kỳ duy trì dự trữ bắt buộc từ tháng 6/2007 trở đi. Lãi suất thị trường mở: 6 tháng đầu năm 2007, lãi suất trúng thầu bán trên thị trường mở dao đ ộng ở mức 0,7-2,8%/năm đối với các kỳ hạn 14, 28 và 56 ngày; đặc biệt, từ đ ầu tháng 5/2007, nghiệp vụ thị trường mở thực hiện các phiên đấu thầu theo khối l ượng, theo đó lãi suất chào bán trên thị trường mở được ấn định ở mức 1,85% - 2,95% - 3,95% đối với kỳ hạn 28 ngày, 56 ngày và 84 ngày; lãi suất trúng thầu mua kỳ hạn 14 ngày dao động ở mức 5 - 6%/năm. Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc có xu hướng tăng nhẹ so với cuối năm 2006, mức tăng khoảng 0,75%/năm. Lãi suất trái phiếu Chính phủ: 3 tháng đầu năm 2007, lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm giảm mạnh khoảng 1,4 - 1,7%/năm so với cuối năm 2006 và đạt mức thấp nhất là 6,5%/năm vào thời điểm cuối tháng 3/2007. Từ tháng 4/2007 đến nay, lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm đã có xu hướng tăng nhẹ và dao động ở mức 7% - 7,1%/năm. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2007, Chính phủ đã phát hành 3 đợt trái phiếu lô lớn với lãi suất danh nghĩa là 7,8%/năm. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp: Trong 6 tháng đầu năm 2007, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu như Tổng Công ty Tàu thuỷ Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm là 10,5%/năm), Tổng Công ty Thép Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm là 9,5%/năm). Các mức lãi suất này tương đương lãi suất trái phiếu doanh nghiệp cùng kỳ hạn năm 2006. Tóm lại, trong 6 tháng đầu năm 2007, lãi suất huy động và cho vay của TCTD đối với khách hàng dao động nhẹ và không có biến động đột biến, lãi suất thị trường thị trường liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu Chính phủ ở mức thấp hơn so với cuối năm 2006. Lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng +1,3%, so với lãi suất USD và mức tăng tỷ giá USD/VND chênh lệch dương +3,6%. Năm 2008 Lãi suất liên ngân hàng biến động trong thời gian này là diễn bi ến hoàn toàn bình thường. Lãi suất liên ngân hàng phải cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Điều đó phản ánh đúng bản chất của thị trường. Sự biến động của lãi suất liên ngân hàng có 2 cách hoặc là đột biến hoặc lập lại trật tự, không có lý gì khi lãi su ất huy đ ộng là 11%/năm mà lãi suất liên ngân hàng chỉ ở mức 4,22%/năm. Cuộc đua lãi suất huy động VND nhằm đáp ứng nhu c ầu ti ền đ ồng đang căng như dây đàn của các ngân hàng đã khiến lãi suất VND vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng ngày 19/2 đã leo lên mức không tưởng
  19. 43%. Cuối tuần trước, mức lãi suất này mới chỉ 25% và m ức cao nh ất trong cả năm 2007 cũng chỉ là 17%. Tuy nhiên, ngay cả ở mức lãi su ất k ỷ lục này, nhiều ngân hàng nhỏ phải chấp nhận nhưng cũng không vay được vốn để cải thiện khả năng thanh khoản, bởi nguồn cho vay hạn chế. Cũng chính từ nguồn cho vay hạn chế đã nảy sinh tình tr ạng đ ầu c ơ, tích trữ và khiến cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không ngừng tăng cao. Thị trường tiền tệ "nóng" lên được các chuyên gia giải thích rằng do nhiều ngân hàng chưa chấp hành đúng các tỉ lệ an toàn trong hoạt động. Đó là việc sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng với kỳ h ạn ngắn để cho khách hàng vay lại với kỳ hạn dài dẫn tới vốn khả dụng bị thiếu hụt... Bởi thế, khi thiếu hụt vốn khả dụng, các ngân hàng này phải chấp nhận vay với mức lãi suất cao để có vốn. Đây cũng là nguyên nhân "châm ngòi" cho cuộc đua tăng lãi suất lan rộng trên toàn h ệ th ống vào cuối tháng 2/2008. Đến đầu quý này, nhu cầu vốn của các tổ ch ức tín dụng tăng lên do nhiều khoản tiền gửi đáo hạn, cộng với yêu cầu đáp ứng dự trữ bắt buộc của các ngân hàng. Do đó, ngay cả nh ững "m ạnh th ường quân" cũng không dễ dàng "mở hầu bao" cho các ngân hàng khác vay lại vào thời điểm này. Chính vì vậy, việc lãi suất trên th ị trường liên ngân hàng tăng trong thời gian gần đây là phù hợp với cung c ầu v ốn trên th ị trường. Năm 2009 Tương đối ổn định trong 6 tháng đầu năm, lãi suất qua đêm ph ổ biến từ 6-7%/năm Trong 6 tháng cuối năm, do nhu cầu vốn tăng cao để đáp ứng các chương trình kích thích kinh tế của chính phủ đã tác động làm tăng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bằng VNĐ. Lãi suất qua đêm tháng 8/2009 từ 7,5-8%/năm Tháng 12/2009 phổ biến từ 10,5-11,5%/năm. Các tổ chức tín dụng ch ủ yếu giao dịch ở các kỳ hạn ngắn, cho thấy vốn vay trên thị trường ngân hàng chủ yếu là để đáp ứng khả năng thanh khoản của các t ổ ch ức tín dụng
  20. Năm 2010 Lãi suất liên ngân hàng giảm 1.42%/năm Với sự can thiệp của NHNN, từ tuần thứ 2 của tháng đầu tiên trong năm, lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm. Ngày 6/1, NHNN đã “b ơm” thêm một lượng tiền khá lớn qua thị trường mở nhằm hỗ trợ các ngân hàng thương mại cải thiện thanh khoản, lượng tiền NHNN “bơm” lên tới 15.000 tỷ đồng. Theo các chuyên gia, việc hỗ trợ trên của NHNN là hoạt động bình thường, được tăng cường qua thị trường mở thời gian gần đây nhằm điều hòa cung-cầu vốn trong hệ thống. Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng VND có xu hướng giảm so với tuần trước nữa đối với hầu h ết các kỳ h ạn, ngoại tr ừ lãi suất bình quân kỳ hạn 3 tháng tăng nhẹ. Mức giảm của các kỳ hạn ph ổ biến từ 1% đến 1,42%/năm. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, trong đó, lãi suất bình quân kỳ hạn 12 tháng có mức giảm cao nhất 1,42%/năm, đứng ở mức 10,52%/năm. Lãi suất bình quân qua đêm ở mức 8,03%/năm, giảm 1,05%/năm; lãi suất bình quân đối với các kỳ hạn còn lại dao động từ 9,25% đến 11,08%/năm; riêng lãi suất bình quân kỳ hạn 3 tháng là 11,82%/năm. Lãi suất cho vay thấp nhất là 1,7%/năm; lãi suất cho vay cao nhất là 12%/năm (không tính lãi suất không kỳ hạn).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2