intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Duy Minh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

381
lượt xem
65
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”[1,tr5], khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay

  1. A. MỞ ĐẦU 1 lý do chọ đề tài Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”[1,tr5], khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của h ầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có bi ển và các qu ốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn th ế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong đi ều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát tri ển t ương lai”. V ới điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt th ủy - h ải s ản; du lịch; Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt
  2. trong điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất li ền có h ạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng. Đặc biệt nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nêu rõ: “Phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên t ừ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển…có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực phát triển kinh tế biển… giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển” Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông - một biển lớn, quan trọng của khu vực và thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì Việt Nam không ch ỉ có phần l ục đ ịa nh ỏ h ẹp mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. “Bờ biển trải dài theo chiều dài của đất nước với khoảng 100 cảng biển, 48 vịnh lớn nhỏ và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển, trên lãnh hải vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi trên mặt biển khoảng 1.636 km2”[2,tr159], được phân b ố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với những đảo nổi ti ếng v ề cảnh đẹp và có vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa. Trải dài trên tuyến ven biển có 29 tỉnh, thành phố với 124 huy ện, th ị xã; 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 tri ệu ng ười sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Vì vậy, khai thác ti ềm năng kinh tế trên biển và ven biển để phát triển kinh t ế đ ất n ước th ật s ự là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài và có tương lai to lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã h ội c ủa nước ta
  3. Thực tiễn các nước trên thế giới đã cho thấy kinh tế các vùng lãnh thổ, các địa bàn ven biển luôn đi đầu trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển. chính vì vậy em chọn đề tài “ vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh t ế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay” 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan “DẤU ẤN VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG” của tiến sỹ Trần Công Trục do nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông thuộc Bộ Thông tin và truyền thông phát hành “HOÀNG SA, TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM” Nhà xuất bản Trẻ phát hành với các tác giả Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Nhã, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt “BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM: QUÁ KH Ứ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI” của PGS.TS. Vũ Văn Phái nhà xu ất b ản Đại Học Quốc Gia Hà Nội 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu -Mục đích nghiên cứu: làm rõ khả năng và hiện trạng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay từ đó đề xuất phương hướng giải pháp phát triển kinh tế biển đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh -Nhiệm vụ nghiên cứu: phân tích làm rõ khả năng, thế mạnh và hiện trạng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay
  4. Quan điểm của Đảng về việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển nước ta từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, và gải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai 4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu - đối tượng nghiên cứu: Khả năng và hiện thực trong triết học Mác-lênin Việc phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay -phạm vi nghiên cứu +Về không gian: phạm vi nghiên cứu bao gồm toàn bộ vùng biển của nước ta +Về thời gian: phạm vi nghiên cứu bắt đầu từ năm 2000 trở lại cho đến nay 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-lenin nói chung và cặp phạm trù khả năng và hiện thực nói riêng, và quan đi ểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế biển - Phương pháp nghiên cứu : tiểu luận là dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, thống kê, đánh giá, 6. kết cấu của tiểu luận Tiểu luận bao gồm 3 phần: mở đầu, nội dung, danh mục tài li ệu tham khảo, ngoài ra còn có trích dẫn và ph ục lục, trong ph ần n ội dung tiểu luận bao gồm 3 chương 9 tiết.
  5. B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC 1.1 KHÁI NIỆM KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC “Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên th ực t ế. kh ả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên th ực t ế, nh ưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng”[3,tr222] Khả năng là để chỉ cái hiện chưa có chưa tới nhưng sẽ tới sẽ có khi có các điều kiện thích hợp Khả năng là “ cái hiện chưa có” nhưng bản thân kh ả năng với tư cách là “ cái chưa có” đó lại tồn tại. tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng được đề xuất hiện sự vật đó thì tồn tại Ví dụ: trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh… đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này sự vật này là chưa có, chưa tồn tại trên th ực t ế nh ưng kh ả năng xu ất hiện cái bàn thì tồn tại trên thực sự Hiện thực là phạm trù triết hóc dùng để chỉ cái tồn tại th ực sự, cái đã tới đã có, hiện thực bao gồm : Hiện thực khách quan ( hay là vật chất ) tất cả những gì đang tồn tại độc lập với ý thức của con người.
  6. Hiện thực chủ quan ( hiện tượng tinh thần) nó cũng tồn tại nh ư tồn tại trong óc của con người; ví dụ như ý thức, tu duy Như vậy dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực ở chỗ: khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại 1.2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. điều đó có nghĩa là trong sự vật hi ện t ượng đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực m ới đó l ại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có nhưng điều ki ện l ại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho s ự v ật v ận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó th ể hiện ở chỗ cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng Ví dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau khin phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu v ực đã nhận định rằng, đất nước ta hiện nay đang “ có cả cơ hội và thách th ức lớn”, những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng “ tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường, ph ục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lơn đó là 4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch
  7. hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và quan lieu, “ di ễn bi ến hòa binh” do thế lực thù địch gây ra Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều kh ả năng( cả thuận lợi, lẫn khó khăn) phát triển đất nước ta. Đi ều đó đòi h ỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải thừa nhận thức rõ để chủ động tranh th ủ th ời cơ vượt qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện Ví dụ : nước ra vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh trang quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các n ước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi mua bán càng lớn. Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện th ực, có th ể đi ều khiền khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. không thấy vai trò của nhân tố ch ủ quan c ủa con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiejn khách quan. Như vậy chúng ta rễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm duy ý chí 1.3 Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
  8. Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện th ực, không đ ược d ựa vào khả năng để sinh ra chủ trương, phương hướng hành động của mình V.I Lê-nin cho rằng: “ chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật ch ứ không phải dựa vào những khả năng. Người macxit chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được”[4,tr226] Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các kh ả năng để vi ệc đ ề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đế việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là : tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: h ạ thấp vai trò nhân t ố ch ủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG NÔNG NGHIỆP 2.1.1 Trong đánh bắt 2.1.1.1 khả năng Diện tích mặt biển nước ta rộng tới hơn 1 triệu km2 chính vì vậy nguồn lợi đánh bắt hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú
  9. trong khu vực. “Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc s ản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm”[5,tr30]. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi Cùng với đó là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, đặc biệt là vùng biển nước ta, đa số là những người ở độ tuổi đang lao động, cộng với kinh nghiệm đi biển lâu đời. Với tiềm năng như vậy đánh bắt thủy h ải sản thực sự có thể đem lại nguồn lợi vô cùng quan trọng cho đất nước 2.1.1.2 hiện trạng Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có th ế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong n ước và xu ất kh ẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ng ư dân các t ỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Từ năm 1993, sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2005, sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình quân 5%/năm, tính riêng trong năm 2011 giá trị sản lượng đánh bắt thủy hải sản của nước ta đạt khoảng 2,4 triệu tấn so với năm năm 1990 chỉ đạt 728 nghìn tấn hiện nay nước ta đã hình thành 4 ngư trường lớn trọng điểm đã được xác định đó là : “ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Qu ảng Ninh, ngư trường Hoàng Sa – Trường Sa”[6,tr100], sản lượng th ủy h ải s ản
  10. đánh bắt được hàng năm ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong n ước còn là nguyên liệu quan trọng trong ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu sang nước ngoài. Đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho h ơn 5 v ạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Số lượng tàu thuyền cũng tăng đều đặn qua các năm, t heo thống kê trong khoảng 15 năm (1990 - 2005), tàu cá Việt Nam tăng 4,7 lần v ề s ố l ượng (95.000 chiếc năm 2005 so với 41.000 chiếc năm 1990) và 5,7 lần về công suất, bình quân công suất đã vượt quá 60 CV/tàu (so với công suất bình quân 18 CV/tàu năm 1991 và 44 CV/tàu năm 2000). Tuy nhiên, nghề khai thác hải sản của Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn và bất cập. Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong quản lý, kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt Nam được đầu tư phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung tăng về công suất máy đẩy và tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải s ản đã có nh ững bi ến động đáng kể về mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước… đặc biệt vùng biển ven bờ, tập trung trên 80% tổng số ph ương ti ện ngh ề cá, s ản lượng khai thác hằng năm chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của cả nước. Ba ngư trường trọng điểm là Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình Thuận và Cà Mau-Kiên Giang, nh ững khu vực t ập trung trên 50% tổng số phương tiện nghề cá tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều giảm. Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến động đáng kể về mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý hi ếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề (khai thác cá nổi nh ỏ ven b ờ, cá đáy, câu cá rạn…), đồng thời tăng thời gian khai thác thực tế trên biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản phẩm…
  11. Thống kê gần đây cho thấy dấu hiệu dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt hải sản đã xuất hiện, công suất huy động tàu tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu chỉ huy động khoảng 50% thời gian hoạt dộng (khai thác cá nổi, tôm biển…) Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt đối với những quốc gia nằm trong khu vực thường ch ịu tác động của các hiện tượng thời tiết bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai thác hải sản rất khắc nghiệt, song đội tàu cá lại chưa đ ược đầu tư tương thích. Trong khoảng 95.000 phương tiện nghề cá hiện nay, loại dưới 50 CV và thuyền thủ công có khoảng 64.500 chiếc, chiếm 68%, số tàu cá lắp máy từ 90 CV trở lên có kho ảng 13.600 chi ếc, chi ếm khoảng 14,3%. Cơ cấu đội tàu cá Việt Nam hiện nay, xét về sự tương thích với ngư trường, với nguồn lợi hải sản cho thấy không có sự bất cập lớn, song chất lượng kém của vỏ, máy, các thiết bị an toàn hàng h ải đã hạn chế thời gian hoạt động hữu ích trong năm. Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà nước đã đầu tư 1.300 t ỷ đ ồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, tuy nhiên cho đến nay Chương trình này bị đánh giá là không hiệu quả. Ngoài ra, chất lượng đội tàu, lao động trên tàu còn nhiều bất cập nên số vụ tai nạn tàu cá trên biển có xu h ướng ngày càng tăng. Th ống kê chưa đầy đủ, trong vòng 15 năm gần đây, mỗi năm trên các vùng biển xảy ra khoảng 500 vụ tai nạn tàu cá, gây thi ệt h ại đáng k ể v ề ng ười và tài sản, chỉ riêng ba tháng cuối năm 2006 và hai tháng đầu năm 2007 có gần 400 vụ, trong đó hơn 50% vụ tàu bị hỏng máy, vỏ b ị phá n ước. Bên cạnh đó, tàu cá bị các nước trong khu vực bắt, bị cướp biển trong nh ững năm gần đây là vấn đề phức tạp, không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa Việt Nam và các quốc gia vùng biển giáp ranh, mà tác động trực tiếp đến tâm lý ngư dân tham gia đánh bắt h ải sản. Theo
  12. thống kê chưa đầy đủ, từ 1999 đến 2002 cả nước đã có 274 tàu thuyền bị các nước lân cận bắt. Những vất vả vốn có của nghề đánh bắt hải sản và những thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến nghề đánh bắt hải sản, đòi h ỏi ngh ề này sớm được cải thiện để phát triển bền vững. 2.1.2 Trong nuôi trông 2.1.2.1 khả năng Với diện tích mặt biển rộng tới hơn 1 triệu km2 và với 3260km b ờ biển thì nước ta hoàn toàn có thể phát triển nuôi trồng thủy hải sản thêm nữa là vùng biển nước ta năm trong vùng khí hậu nhiệt đới cho nên bi ển nước ta còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển, h ệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh thái bờ đá… trong các d ạng h ệ sinh thái này, tính đa dạng sinh học rất cao, tiềm năng nuôi trồng th ủy hải sản nước lợ, nước mặn trong các vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh là rất lớn trong đó tiềm năng diện tích nuôi trồng th ủy h ải s ản nước ta ước tính đạt 2 triệu km2 và dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nh ất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu nh ư tôm, cua, rong câu… Riêng di ện tích nuôi tôm nước lợ có tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trường rất thuận l ợi đ ể phát tri ển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong t ương lai có th ể phát triển mạnh ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản lượng hàng chục vạn tấn/ năm. 2.1.2.2 hiện trạng Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng đem lại nhiều giá trị cao về kinh tế, tính tổng giá trị nuôi trồng th ủy h ải s ản
  13. nước ta năm 1990 chỉ đạt 162 nghìn tấn ,thì đến năm 2005 tổng sản lượng giá trị đạt 1478 nghìn tấn, và ước tính tổng sản lượng nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm 2011 đạt tới 2,5 triệu tấn. Cùng v ới đó gi ống loài thủy sản nuôi phong phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam, cá hồng, cá đù đỏ, cua, gh ẹ, h ải sâm, bào ng ư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu, hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô... Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhi ều hình th ức đa dạng. Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và t ạo đi ều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Nhà nước phân cấp cho ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt nước biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất trên đảo để nuôi trồng hải sản, tạo điều kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước, yên tâm đầu tư phát triển sản xu ất. Nhà n ước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy hoạch nuôi hải sản trên biển, h ải đ ảo; cho nhập khẩu giống gốc một số loài đặc sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đòi h ỏi công ngh ệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm hải sản trên biển và hải đảo; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu của các vùng nuôi hải sản biển. Ngân hàng chính sách, các tổ ch ức tín dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ điều kiện vay vốn nuôi trồng h ải sản trên bi ển và h ải đảo. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều biện pháp hỗ
  14. trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí nguồn vốn cho vay c ủa Qu ỹ qu ốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản khả thi. Kết quả là, trong những năm qua, nuôi trồng hải sản đã phát triển khá mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước. “Thí dụ, chỉ tính riêng hình thức nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2006-2010, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2006, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 23.989 chiếc, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 19.912 chi ếc, nuôi cá biển là 4.077 chiếc. Năm 2010 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng đến 38.965 lồng, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là 8.850 lồng. Sản lượng nuôi lồng bè nước mặn năm 2006 chỉ đạt 5.635 tấn, năm 2004 đạt hơn 16.000 tấn”[7,tr128]. Thủy sản nuôi trên biển có chất lượng và giá trị hàng hóa cao, có th ị trường tiêu th ụ rộng mở, được khách hàng thế giới ưa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển có đóng góp quan trọng cho xuất khẩu của nước ta. Bên c ạnh nuôi trồng hải sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, nước ta cũng đã s ản xuất được giống một số loài như cá giò, cá song chấm nâu, cá sú ch ấm (cá Hồng Mỹ), cá vược, bào ngư, ốc hương, cua... và chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cho nhiều địa phương phát triển sản xuất. Việc phát triển nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo giúp các tổ chức, giúp người dân có cơ hội đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ công sang nuôi trồng thủy sản biển (nhất là người dân ở các xã nghèo vùng bãi ngang ven biển, hải đảo), bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản. Nuôi trồng th ủy sản biển còn giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo. Ngành thủy sản dự kiến đến năm 2010 nuôi cá biển ở nước ta ước đạt khoảng 200.000 tấn, nuôi nhuyễn thể đạt 380.000 tấn, rong
  15. biển đạt 50.000 tấn khô, đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến trong khu vực và vùng lãnh thổ về trình độ nuôi hải sản trên biển. Tuy nhiên, nuôi trồng hải sản nước ta hiện nay mới tập trung vào một số doanh nghiệp, xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn lớn, s ản xuất mang tính tự phát ở một số vùng ven biển; còn đại bộ ph ận ng ười dân ven biển chưa có sự hiểu biết và điều kiện tham gia nuôi trồng hải sản trên biển. Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi hải sản chưa đáng kể, việc giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản lượng nuôi chưa nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim ngạch xuất khẩu so với tiềm năng hiện có còn thấp. Chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã làm h ạn chế phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo. 2.1.3 Trong sản xuất muối 2.1.3.1 khả năng Với đường bờ biển dài 3260km trong đó có 29 tỉnh thành phố giáp biển, không những vậy vùng biển nước ta mà đặc biệt là biển miền trung thường có độ mặn cao, bên cạnh đó nguồn lực tham gia vào s ản xuất muối vô cùng lớn, với điều kiện này nước ta hoàn toàn có th ể phát triển ngành muối và đem lại những giá trị to lớn về kinh tế 2.1.3.2 hiện trạng Nghề làm muối là một nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam, gắn chặt với biển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết. Trong những năm qua, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận, song nhờ những bước tiến mới trong công tác quy hoạch, đầu tư sản xuất muối, đặc biệt là muối công nghiệp, cho nên nghề muối Việt Nam đã phần nào giảm bớt những khó khăn. Cả nước hiện nay có 20 tỉnh thành có ngh ề
  16. sản xuất muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn ha và s ản l ượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo vi ệc làm cho hơn 90 nghìn lao động. Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án xây dựng đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối, nhất là công nghệ sản xuất muối s ạch, nh ằm th ực hiện được mục tiêu đến năm 2010 đạt 1,5 triệu tấn muối và đến năm 2020 đạt 2 triệu tấn, trong đó các đồng muối công nghiệp đảm b ảo 53 – 67% tổng sản lượng muối tiêu thụ. Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều chuyển biến tích c ực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp dành để đầu tư một số dự án về muối, ngành muối đang tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án s ản xu ất, ch ế bi ến, tiêu th ụ muối công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đ ẩy mạnh cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành muối; xây dựng chính sách đầu tư cho vùng muối để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành Công nghiệp và các ngành khác. Tuy nhiên, hiện nay ngành muối chưa hội tụ đủ các y ếu t ố đ ể phát triển ổn định và bền vững vì nhiều nguyên nhân: diện tích quy hoạch các vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi; một số địa phương vùng biển lại không mặn mà với nghề muối, đời sống của diêm dân nhiều vùng bấp bênh, vì diện tích đất dành cho sản xuất muối lớn, nh ưng ngu ồn thu cho ngân sách lại không nhiều, nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ trợ cho diêm dân; nhiều sức ép cạnh tranh, nhất là về chất lượng và giá cả, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Th ương mại Th ế gi ới. Hiện tại, phần lớn diện tích, sản lượng, lao động đang duy trì ph ương
  17. pháp sản xuất muối truyền thống đã có từ hàng trăm năm nay với phương tiện lạc hậu, thao tác thủ công, quy mô nhỏ, phân tán, cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm thấp. Nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với ngành muối trong thời gian qua hiệu lực th ấp, b ất cập và thiếu đồng bộ, như chính sách mua muối theo giá sàn, chính sách cho dân vay vào thời điểm giáp vụ để mua sắm vật tư, chuẩn bị sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất qua chủ trương xây dựng các mô hình hợp tác xã muối kiểu mới, đầu tư chiều sâu nâng cấp cơ s ở h ạ t ầng s ản xuất để tăng năng suất, sản lượng..., tất cả đều chưa tạo ra được s ự chuyển biến rõ ràng và tích cực. Sự vào cuộc của nhà nước còn chậm nhiều nơi chính quyền địa phương lo đầu ra cho sản phẩm muối phần nhiều còn mang tính hình thức. Chẳng h ạn, việc giao cho UBND các đ ịa phương công bố giá sàn mua muối cho diêm dân ngay t ừ đ ầu vụ s ản xuất là không khả thi vì UBND không đủ thông tin và căn cứ để đưa ra giá sàn hợp lý có tương quan với giá muối các đ ịa ph ương b ạn trên cùng khu vực và cả nước 2.2 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG CÔNG NGHIỆP 2.2.1 tiềm năng và hiện trạng khai thác dầu khí nước ta 2.2.1.1Tiềm năng Dầu khí là một nguồn tài nguyên quan trọng mà bất ky một quốc gia nào muốn sở hữu, bởi dầu khí là một tài nguyên năng lượng quan trọng để duy trì hoạt động sản xuất của mỗi quốc gia, trong đó ch ỉ tính riêng dầu mỏ là nguyên liệu trực tiếp hay gián tiếp cho s ự hoạt đ ộng của hơn 50 ngành công nghiệp khác nhau, và khí đốt cũng là nhiên liệu quan trọng để sản tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp, cũng là năng lượng quan trọng để phục vụ đời sống của nhân dân cho nên dầu
  18. khí là tài nguyên đặc biệt quan trọng của nước ta và dầu khí là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng nhất trên vùng biển và th ềm lục địa Việt Nam Qua tìm kiếm thăm dò cho đến nay, các tính toán dự báo đã khẳng định tiềm năng dầu khí Việt Nam tập trung chủ y ếu ở thềm l ục đ ịa, tr ữ lượng khí thiên nhiên có khả năng nhiều hơn dầu. Với trữ lượng đã được thẩm định, nước ta có khả năng tự đáp ứng được nhu cầu về sản lượng dầu khí trong những thập kỷ đầu tiên của thiên niên k ỷ th ứ 3 . “Tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây... đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến th ời đi ểm này là t ừ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ l ượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 t ỷ m3 khí”[8,tr232]. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và s ẵn sàng đ ể phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3. Với các biện pháp đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm kiếm - thăm dò, năm 2010 khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng nguồn khí thiên nhiên của nước ta đã được phát hiện. 2.2.1.2 thực trạng khai thác dầu khí nước ta hiện nay Nganh dâu khí Viêt Nam đã trai qua quá trinh phat triên đây ý nghia ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ ̉ ̀ ̃ kể từ khi dong dâu đâu tiên được khai thac ở mỏ dâu Bach Hổ vao năm ̀ ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̀ 1986. Trước đó nên kinh tế Viêt Nam lệ thuôc năng nề vao cac san phâm ̀ ̣ ̣ ̣ ̀ ́ ̉ ̉ dâu mỏ nhâp khâu từ Liên bang Xô Viêt. Hiện nay, Viêt Nam đ ứng th ứ ba ̀ ̣ ̉ ́ ̣ về san lượng dâu mỏ trong cac quôc gia Đông Nam A, chỉ sau Inđônêsia va ̀ ̉ ̀ ́ ́ ́ Malaysia. Nếu tôc độ phat triên hiên tai tiêp tuc được duy tri, Viêt Nam sẽ ́ ́ ̉ ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ̣ trở thanh quôc gia san xuât dâu mỏ lớn thứ 30 trên thế giới. tính đến năm ̀ ́ ̉ ́ ̀ 2011 nước ta đã khai thác được 15 triệu thùng dầu thô, cùng với 8,5 tỷ tấn khí đốt, giá trị chiếm 20% GDP của cả nước. Hiện nay, ngành Dầu khí
  19. nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu m ỏ bao gồm: B ạch H ổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây - lô 06.l. Công tác phát triển các mỏ Rạng Đông, Ruby và Emeral, Lan Tây - Lan Đỏ, S ư T ử Đen, Sư Tử Vàng, Hải Thạch, Rồng Đôi, Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi... đang được triển khai tích cực theo chương trình đã đề ra, đảm bảo duy trì và tăng sản lượng khai thác dầu khí cho những năm tới ..San xuât và tiêu ̉ ́ thụ khí đôt tự nhiên cua Viêt Nam đang tăng lên và dự kiên con tăng thêm ́ ̉ ̣ ́ ̀ nữa khi có thêm cac mỏ được đưa vao khai thac. ́ ̀ ́ Tuy nhiên, dầu và khí đốt nằm khá sâu 3.000 – 4.000 m dưới lòng đất nên việc tìm kiếm và khai thác dầu khí là việc rất khó khăn, cần nhiều vốn, kinh nghiệm và trình độ kỹ thuật cao. Cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam có các chính sách khuy ến khích đầu t ư nước ngoài trong lĩnh vực này. Hiện có 25 công ty dầu khí nước ngoài từ 13 quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, trong khuôn khổ 27 d ự án khác nhau. Các công ty dầu khí nước ngoài đã đầu tư hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam. Có nhiều đối tác nước ngoài đã làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) trong nhiều thập kỷ. Trong số đó, có liên doanh Vietsopetro giữa Petro Vietnam với công ty Zarubezhneft của Nga, hiện đang hoạt động tại các mỏ Bạch Hổ ở ngoài khơi phía Nam. Nh ững công ty dầu khí thượng nguồn nước ngoài hàng đầu khác ở Việt Nam bao g ồm Conoco Phillips, BP, Petronas, Chevron, Tập đoàn Dầu lửa Quốc gia Hàn Quốc, và Talisman Energy. Những công ty này hoạt động với tư cách là nhà thầu cho Petro Vietnam và chia sản lượng dầu khai thác đ ược theo thỏa thuận. Về chế biến dầu khí, Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD và công suất 50 triệu thùng/năm, và đang tiến hành xây dựng một số dự án
  20. khác như: dự án Polypropylen, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, nhà máy đạm Cà Mau, tổ hợp hóa dầu phía Nam. Tuy nhiên, nhìn chung ph ần lớn các d ự án này đều đang bị chậm tiến độ. Đến nay, Việt Nam mới chỉ có Nhà máy Đạm Phú Mỹ hoàn thành và đang hoạt động bình thường với công suất tối đa 740.000 tấn/năm. 2.2.3 tiềm năng và thực trạng các tài nguyên phục vụ cho công nghiệp khác 2.2.3.1 tiềm năng Ngoài tài nguyên dầu khí là tài nguyên quan trọng trên biển thì trên biển nước ta còn nhiều tài nguyên khoáng sản khác Các loại sa khoáng ven bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn; cát th ủy tinh, trữ lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngoài ra, còn một kh ối lượng lớn vật liệu xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy biển (cát sạn sỏi cho xây dựng hoặc san lấp) để thay thế cho nguồn này trên lục địa đang bị cạn kiệt dần. Ngoài ra còn có cát th ủy tinh ở Vân H ải (Quảng Ninh), Ba Đồn (Quảng Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v.. với trữ lượng nhiều tỷ tấn. Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy bi ển sâu còn có tiểm năng các kết hạch sắt - mangan, bùn đa kim r ất đáng k ể mà đến nay chưa thể xác định được trữ lượng. Một loại khoáng sản khác rất có triển vọng trong trầm tích đáy biển Việt Nam được các nhà địa chất mới phát hiện trong thời gian gần đây là khí cháy (Hydrat methan) 2.2.3.2 hiện trạng Tài nguyên biển nước ta nói chung và tài nguyên khoáng sản biển nước ta nói riêng vô cùng đa dạng và phong phú, với nh ững tài nguyên khoáng sản biển sẵn có thì đây là một nguồn lực quan trọng thúc đ ẩy nền công nghiệp đất nước, tuy vậy hầu hết tài nguyên khoáng s ản bi ển đều ở dạng tiềm năng, hầu như là chưa khai thác, bởi lẽ các tài nguyên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1