intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO LỚN TUỔI

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

61
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bệnh thoái hóa điểm vàng do lớn tuổi (DMLA) gây bệnh cho một số càng ngày càng nhiều người. Ở Pháp, đó là nguyen nhân chủ yếu của mất thị giác trung tâm không hồi phục được. DMLA được đặc trưng bởi một sự thoái hóa dần dần vùng trung ương của võng mạc. Vùng này cho phép thị giác chi tiết, đặc biệt cần thiết để đọc và để nhận biết những khuôn mặt. Ở giai đoạn đầu, thường nhất là không có triệu chứng, bệnh nhân có thể thấy những biến dạng của các đường thẳng (métamorphopsies)...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO LỚN TUỔI

  1. ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO LỚN TUỔI Bệnh thoái hóa điểm vàng do lớn tuổi (DMLA) gây bệnh cho một số càng ngày càng nhiều người. Ở Pháp, đó là nguyen nhân chủ yếu của mất thị giác trung tâm không hồi phục được. DMLA được đặc trưng bởi một sự thoái hóa dần dần vùng trung ương c ủa võng mạc. Vùng này cho phép thị giác chi tiết, đặc biệt cần thiết để đọc và để nhận biết những khuôn mặt. Ở giai đoạn đầu, thường nhất là không có triệu chứng, bệnh nhân có thể thấy những biến dạng của các đường thẳng (métamorphopsies) và sự xuất hiện của những vết mờ. Ở đáy mắt lúc đó xuất hiện những chất đọng màu trăng trắng (drusen) dưới vùng trung tâm của võng mạc. Ở giai đoạn này, bệnh không kèm theo thoái hóa, nghĩa là một sự đánh mất những tế bào thần kinh. Khi đó ta nói là bệnh hoàng điểm do lớn tuổi (MLA hay DMLA sớm). DMLA thường nhất xuất hiện sau 50 tuổi, và nhất là bắt đầu từ tuổi 65. Bệnh ảnh hưởng lên 20% những người trên hơn 75 tuổi. Trong một nửa các
  2. trường hợp, DMLA vẫn ổn định, không gây nên trở ngại thị giác, hay ngay cả có thể biến mất một cách ngẫu nhiên. Ngược lại 50% các bệnh nhân sẽ phát triển một dạng tiến triển của bệnh bởi sự đánh mất các quang thụ thể (photorécepteur). Có hai dạng DMLA : dạng teo (forme atrophique), tiến triển từ từ và hiếm khi gây nên mất thị giác đột ngột, và dạng ẩm ướt (forme humide), cũng được gọi là xuất tiết (forme exudative) hay tân huyết quản (néovasculaire). Dạng ẩm ướt được đặc trưng bởi một sự gia tăng bất thường các huyết quản, khi đó để đi qua các chất dịch và máu vào trong vùng trung tâm của võng mạc. Dạng ẩm uớt có thể tiến triển nhanh chóng và ảnh hưởng thị giác trong vài tuần hay vài ngày. DMLA nói chung không ảnh hưởng thị giác ngoại biên hay bên và gây nên một sự suy yếu quan trọng các khả năng thị giác mà không dẫn đến sự mù lòa hoàn toàn. Từ vài năm này, điều trị DMLA dạng ẩm ướt đã được cải thiện một cách ngoạn mục với sự hiệu chính một liệu pháp chống tăng sinh huyết quản (thérapie antiangiogénique), đã nhờ đến những loại thuốc ngăn cản sự tạo thành các tân huyết quản. Điều trị này nhằm vô hiệu hóa tác dụng của yếu tố tăng trưởng của nội mô huyết quản (VEGF : vascular endothelial growth factor), có can dự trong sự điều hòa tính thẩm thấu và sự tăng trưởng của các huyết quản. Những loại thuốc này có khả năng làm ổn định căn bệnh, và trong vài trường hợp cải thiện thị lực, đối với hầu hết các bệnh nhân bị dạng
  3. ẩm ướt khi thuốc được cho kịp thời. Trong trường hợp những người bị DMLA dạng teo, các ông trình nghiên cứu đã cho thấy rằng sự tiêu thụ các vitamine E và C, beta-carotène và kẽm làm chậm lại, nhưng bất hạnh thay, không làm ngưng s ự tiến triển của căn bệnh. Hiện nay không có điều trị phòng ngừa nói riêng. Tuy nhiên một sự phát hiện sớm bởi thầy thuốc nhãn khoa cho phép nhận diện những người bị bệnh DMLA và thông tin cho họ về việc làm giảm các yếu tố nguy cơ (chứng nghiện thuốc lá, sự tăng thể trọng). Ngoài ra, chẩn đoán DMLA dạng ẩm ướt ở giai đoạn sớm là thiết yếu đê điều trị sự tân sinh huyết quản (néovascularisation) trước khi gây nên biến chứng. CUỘC CHIẾN VỚI CÁC ĐẠI THỰC BÀO Thách thức của những năm đến trong nghiên cứu về bệnh DLMA là tìm ra một điều trị đối với dạng teo (forme atrophinique) và những chất ức chế sự tăng sinh mạch máu khác đối với những bệnh nhân không đáp ứng hay không đáp ứng nữa với những điều trị VEGF. Những nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm của chúng tôi đã phát hiện một sự tích tụ của những tế bào viêm (những đại thực bào) trong lớp các quang thụ thể (couche des photorécepteurs) của võng mạc, đi trước sự tăng sinh huyết quản và sự thoái hóa neurone. Dường như một tố bẩm di truyền (prédisposition
  4. génétique) nơi các bệnh nhân ngăn cản sự loại bỏ các đại thực bào tích tụ với thời gian này. Là nguồn gốc của những yếu tố độc đối với thần kinh và sinh huyết quản (facteurs neurotoxique et angiogénique), những đại thực bào này có thể làm dễ sự tăng sinh huyết quản và sự thoái hóa neurone. Khái niệm đổi mới này đã cho phép chúng ta phát triển những liệu pháp dược liệu mới nhằm ngăn cản sự tích tụ của các đại thực bào trong lớp các quang thụ thể (couche des photorécepteurs) của võng mạc. Ở động vật, những điều trị này có khả năng ngăn cản sự thoái hóa của các quang thụ thể cũng như sự tăng sinh huyết quản (neovascularisation). Trong một tương lai tương đối gần chúng có thể là một điều trị mới đối với những dạng teo và ướt của bệnh DMLA.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2