intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

7
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam" sẽ đề cập đến sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khả năng phát triển và sự lựa chọn hướng phát triển kinh tế xanh trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam

  1. ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH Ở VIỆT NAM TS. Hoàng Anh Tuấn Trường Đại học Thương mại Email: hoanganhtuan@tmu.edu.vn Tóm tắt: Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam được đặc biệt nhấn mạnh vào thời điểm bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến hết sức phức tạp. Mục tiêu của việc đổi mới mô hình tăng trưởng là nhằm phát triển theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên gắn với việc đảm bảo nâng cao công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục tiêu này, chiến lược tăng trưởng xanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bài viết này sẽ đề cập đến sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khả năng phát triển và sự lựa chọn hướng phát triển kinh tế xanh trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam. Từ khóa: Kinh tế xanh, mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế, Việt Nam. RENOVATING THE ECONOMIC GROWTH MODEL ASSOCIATED WITH GREEN ECONOMIC DEVELOPMENT IN VIETNAM Abstract: The orientation of transforming the growth model and restructuring the economy in Vietnam is especially emphasized when the international context is very complicated. The renewal of the growth model aims to develop in-depth, save resources in association with ensuring the enhancement of equity and social progress, protecting the environment, and promote Vietnam's competitive advantages in international economic integration. To realize this goal, a green growth strategy is essential. This article will mention the need to change the growth model, the development possibilities, and the choice of a green economic development director in Vietnam's growth model transformation and economic restructuring. Keywords: Green economy, growth model, economic development, Vietnam. 1. Đặt vấn đề Nền kinh tế xanh ngày nay xuất hiện như một lựa chọn tất yếu cho việc phát triển kinh tế, tạo việc làm và chống đói nghèo. Tại Việt Nam, “nền kinh tế xanh” là một khái niệm còn mới. Những năm gần đây, Chính phủ đã chú trọng về “nền kinh tế xanh” khuyến khích các doanh nghiệp phát triển theo xu hướng này, hướng tiếp cận mới trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia theo chiều sâu và bền vững. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 được Chính phủ ban hành thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện phát triển bền vững, thông qua các hành động thiết thực, cụ thể: “Tăng trưởng xanh ở Việt Nam là phương thức thúc đẩy quá trình tái cơ cấu 763
  2. nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính thông qua nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững”. Ở Việt Nam, chiến lược tăng trưởng xanh được coi là một bước cụ thể hóa trong chiến lược phát triển bền vững, là nội dung chính của phát triển bền vững. Chính vì lý do nêu trên, bài viết này sẽ đề cập đến sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng; những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đồng thời đề xuất một số giải pháp trong quá trình lựa chọn hướng phát triển kinh tế xanh trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. 2. Cơ sở lý luận về mô hình tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển kinh tế xanh 2.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế Mô hình tăng trưởng có thể hiểu là cách thức tổ chức huy động và sử dụng các nguồn lực để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế qua các năm với tốc độ hợp lý. Mô hình tăng trưởng bao gồm các thành tố sau: - Động lực tăng trưởng: Có nhiều động lực khác nhau để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Dựa trên những yếu tố tác động đến GDP, tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu công và xuất khẩu được xem là những động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Các động lực tăng trưởng kinh tế này có các đặc điểm sau: (1) bổ trợ lẫn nhau: một số động lực hỗ trợ cho các động lực khác phát huy; (2) triệt tiêu lẫn nhau: khi động lực này vượt trội so với các động lực khác, nó có thể ảnh hưởng xấu đến các động lực khác; (3) tính giai đoạn và hữu hạn: động lực nào trở thành yếu tố then chốt sẽ phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, động lực tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào đặc thù của quốc gia - cơ sở lợi thế so sánh của quốc gia đó và xu thế quốc tế. - Các nhân tố đầu vào: Để tăng trưởng kinh tế, các động lực kinh tế cần phải có sự hỗ trợ của các nhân tố đầu vào cơ bản gồm vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ. Tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố vào tăng trưởng kinh tế đã hình thành nên các mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng, theo chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng khối lượng sản xuất nhờ vào tăng trưởng vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, là con đường đơn giản nhất để mở rộng sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập,... nhưng cũng có nhiều hạn chế: nền kinh tế trì trệ, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, v.v. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng cơ bản là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng, giảm chi phí sản xuất, chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có dung lượng công nghệ cao, trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế của đất nước, thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội, v.v. 764
  3. Trong thực tế, không thể phân biệt rạch ròi tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu, mà chúng thường được xen kẽ, kết hợp theo một mức độ nào đó. Mô hình kết hợp giữa hai loại hình tăng trưởng này vừa chú ý tới tăng trưởng kinh tế về mặt lượng, quan trọng hơn là chú trọng nâng cao chất lượng và phối hợp giữa chúng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh, chủ động hội nhập quốc tế. - Cơ chế quản lý: Nhà nước đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Cụ thể, Nhà nước là người điều tiết các chính sách quản lý vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách mở cửa hội nhập, chính sách phát triển các ngành kinh tế... Song song với đó, Nhà nước phải kiểm soát, xây dựng một khuôn khổ pháp lý cũng như các chế tài để các chủ thể trong nền kinh tế vừa hoạt động hiệu quả vừa đảm bảo sự tuân thủ. Nếu như động lực tăng trưởng và các nhân tố đầu vào là các thành tố sẵn có thì cơ chế quản lý lại đóng vai trò là thành tố “chủ động” trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Điều này được thể hiện rõ qua tính tự quyết cao của Nhà nước cũng như tác động lan tỏa và những thay đổi trong cơ chế, chính sách do Nhà nước thực hiện thường có tác động lan tỏa và khó dự đoán trước. Vì vậy, trước khi thay đổi cơ chế quản lý, Nhà nước cần phải nghiên cứu thận trọng, xem xét tổng thể mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và phải có tầm nhìn dài hạn để thúc đẩy các động lực và phát triển các nhân tố đầu vào nhằm tăng trưởng kinh tế bền vững. Lựa chọn mô hình tăng trưởng sao cho vừa thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư mà không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái là một trong những vấn đề cơ bản của nước ta hiện nay và trong phương hướng tới. 2.2. Tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển kinh tế xanh Kinh tế xanh/tăng trưởng xanh không chỉ là sự lồng ghép vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế, mà nó đã được hiểu sâu rộng hơn, đề cập đến cả phát triển cân bằng, hài hòa giữa các mục tiêu. Ngày nay nó đã được coi là một mô hình phát triển mới, được nhiều nước ủng hộ và hướng theo. Theo Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), nền kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”. Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) là tổ chức kinh doanh đại diện lớn nhất, tiêu biểu nhất thế giới đã xem xét kinh tế xanh từ góc độ kinh doanh: “Kinh tế xanh là nền kinh tế mà tăng trưởng kinh tế và trách nghiệm môi trường đi đôi với nhau và tương hỗ cho nhau, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội”. Còn theo OECD, “tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới’’. Các khái niệm của các tổ chức khác nhau có cách diễn đạt khác nhau nhưng chúng đều quy tụ 3 điểm chính: - (i) Kinh tế xanh là nền kinh tế thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà 765
  4. kính để giảm thiểu biến đổi khí hậu. - (ii) Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu, hao tổn ít nhiên liệu, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái, đổi mới công nghệ. - (iii) Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng bền vững, xóa đói giảm nghèo và phát triển công bằng. Trước diễn biến ngày càng phức tạp và được dự báo tăng nhanh trong tương lai của biến đổi khí hậu, cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại nghiêm trọng, kéo theo các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội, thì việc lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào phát triển kinh tế là điều hết sức cần thiết ở mỗi quốc gia. 3. Sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hướng đến tăng trưởng xanh ở Việt Nam Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam được đặc biệt nhấn mạnh vào thời điểm bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với thách thức từ ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Nga - Ucraina, đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu tiếp tục diễn ra mạnh mẽ... Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư tiếp tục có những đột phá về công nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng ở cả cấp độ toàn cầu, quốc gia và địa phương (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật...). Chuyển đổi số đang tạo ra các hình thức phát triển và quản trị mới như kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Bối cảnh phát triển mới đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho đổi mới mô hình tăng trưởng cho Việt Nam. Tuy nhiên, không phải chỉ bối cảnh quốc tế tác động mà còn do nội tại nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Các điểm đáng chú ý của mô hình tăng trưởng cũ gồm: Một là, mô hình tăng trưởng của Việt Nam cho thấy nhiều bất ổn về mặt phát triển kinh tế: Trong những năm vừa qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chủ yếu theo chiều rộng, nhưng chưa bảo đảm tính hợp lý và hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố tăng trưởng. Cụ thể: - Các nền tảng cho tăng trưởng dài hạn yếu làm cho chất lượng tăng trưởng thấp, trong đó đặc biệt là năng suất tăng chậm, khoảng cách quá xa so với các nước trong khu vực, dẫn đến việc Việt Nam tụt hậu trong cuộc đua đường trường về năng suất. Những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam thời gian qua chủ yếu nhờ sự đóng góp của lao động trình độ thấp, vốn và tài nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế, các nguồn lực này được khai thác triệt để và có nguy cơ cạn kiệt dần. Nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng giảm dần và những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng cao bắt đầu gây bất cân đối. - Hiệu quả đầu tư đã được cải thiện hơn, nhưng vẫn còn thấp xa so với mức trung bình của khu vực. (i) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong điều kiện thể chế chính sách, trình độ lao động, công nghệ yếu kém, Việt Nam đã đổ rất nhiều vốn vào khai thác những nguồn lực có hạn của đất nước. Vì thế, hệ số ICOR của Việt Nam rất cao; (ii) hơn nữa, tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát vốn đâu đó vẫn xảy ra. Chính vì hiệu quả đầu tư thấp nên sự ổn định kinh tế vĩ mô bị đe dọa; (iii) thâm hụt ngân sách ngày một lớn. Với áp lực tăng trưởng cao để thoát khỏi nước nghèo, Chính phủ Việt Nam đã liên tục thúc đẩy đầu tư công thông qua chi tiêu ngân sách và do đó làm thâm hụt ngân sách. Việc giải quyết 766
  5. nó đòi hỏi một chiến lược dài hạn nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là việc tái cấu trúc và chỉnh đốn lại khu vực doanh nghiệp nhà nước. - Kinh tế Việt Nam hội nhập tương đối tốt, độ mở cao, tăng trưởng xuất khẩu cao, thu hút FDI tốt, nhưng lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại rất hạn chế. Đối xử với khu vực này đang được ưu đãi hơn khu vực kinh tế tư nhân trong nước, trong khi đóng góp cho ngân sách của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại không tương xứng như vậy - Các mục tiêu của cải cách thể chế chưa được chú ý đúng mức. Hệ thống hạ tầng và thể chế kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Cơ chế thị trường được cải thiện, nhưng còn nhiều bất cập. Tăng trưởng dựa vào khoa học công nghệ vào đổi mới sáng tạo còn hạn chế, đầu tư cho khoa học công nghệ vào đổi mới sáng tạo quá ít, sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này chưa được phát huy. - Tăng trưởng xanh chưa thực hiện được bao nhiêu, cơ cấu năng lượng còn lạc hậu so với thế giới mặc dù tiềm năng về năng lượng tái tạo rất lớn. Nhiều mục tiêu phát triển bền vững khó có thể đạt được nếu không có những thay đổi quyết liệt. Do nền kinh tế tăng trưởng dựa chủ yếu vào sản phẩm thô, với sự đóng góp rất hạn chế về công nghệ, cho nên nền kinh tế Việt Nam còn được đánh giá là tiêu tốn nhiều năng lượng do khai thác nhiều tài nguyên khoáng sản và đồng thời cũng thải ra môi trường nhiều chất độc hại do không xử lý thải hiệu quả. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô sẽ khiến nền kinh tế kém bền vững và ổn định. Hai là, tăng trưởng theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng dễ bị tổn thương và một số chính sách tăng trưởng tỏ ra không tương thích với yêu cầu hội nhập. Bên cạnh những kết quả tích cực từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nổi bật là sự gia tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn mới về kinh tế vĩ mô. Tất cả các biến động bất lợi của kinh tế thế giới đều có tác động mạnh và trực tiếp đến đời sống kinh tế trong nước. Những năm vừa qua, Việt Nam phải đối đầu với những tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch Covid-19, chiến tranh Nga-Ucraina và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam bộc lộ ngày càng rõ những yếu kém và bị động trong việc phản ứng với những biến động bất lợi của sự biến động của môi trường kinh tế quốc tế. Trong khi định hướng phát triển kinh tế hội nhập, nhưng nhiều chính sách kinh tế lại có nhiều dấu hiệu chưa tương thích: Chính sách phát triển ngành tập trung chủ yếu vào các biện pháp can thiệp, bảo hộ và trợ cấp thay vì nâng cao năng suất và tăng cường liên kết ngành. Phát triển vùng và liên kết vùng còn nhiều hạn chế, vướng mắc, mà chưa được giải quyết căn bản. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, công nghiệp hỗ trợ còn có nhiều hạn chế trong phát triển. Các khu công nghiệp và các ưu đãi về tài chính được sử dụng phổ biến như một công cụ của chính sách ngành, nhưng lại ít chú trọng tới nâng cấp kỹ năng cho lực lượng lao động, cải thiện năng suất, kích thích 767
  6. đổi mới sáng tạo và xây dựng các cụm liên kết công nghiệp. Mục tiêu của chính sách phát triển vùng là giảm thiểu sự mất cân đối giữa các khu vực, nhưng cách tiếp cận chính sách thực tế lại không khuyến khích các địa phương tạo ra những lợi thế riêng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Mức độ tập trung kinh tế quá cao ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gây ra những vấn đề đô thị nghiêm trọng như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường và những điểm nghẽn tăng trưởng khác. Trong nhiều trường hợp, Nhà nước có xu hướng sử dụng các biện pháp hành chính, các mệnh lệnh hành chính để giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh. Ba là, đã xuất hiện những tác động tiêu cực tới mục tiêu tăng trưởng vì con người. Phát triển con người ở Việt Nam chưa tương ứng với quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vùng sâu, vùng xa, đến các đối tượng dễ bị tổn thương chưa mạnh, sự phân hóa có xu hướng tăng lên rõ rệt. Sự gia tăng tình trạng tham nhũng, tiêu cực làm cho xếp loại về mức độ trong sạch quốc gia có xu hướng giảm xuống rõ rệt. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn nhiều bức xúc; ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế còn thấp. Một điều rõ ràng đang song hành với quá trình tăng trưởng là sự báo động ô nhiễm môi trường ngày càng mạnh hơn, nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên đang xuất hiện ngày càng rõ ràng bởi sự phát triển của các loại hình sản xuất không thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ xảy ra ở các đô thị, các khu công nghiệp tập trung, mà còn xảy ra ở cả nhiều vùng nông thôn. Xét theo góc độ hiệu ứng lan tỏa của mô hình tăng trưởng kinh tế hiện hữu tới các yếu tố liên quan trực tiếp đến con người đã xuất hiện ngày càng nhiều dấu hiệu không mong muốn. Không những chất lượng cuộc sống của thế hệ này chưa được cải thiện đáng kể, mà còn đe dọa trực tiếp chất lượng cuộc sống của các thế hệ tương lai. Những phân tích ở trên cho thấy nguyên nhân nổi bật của những vấn đề trong nền kinh tế hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng của Việt Nam không còn phù hợp. Do đó, để duy trì tính bền vững trong phát triển cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng. Mục tiêu của việc đổi mới mô hình tăng trưởng là nhằm phát triển theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên gắn với việc đảm bảo nâng cao công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu này, chiến lược tăng trưởng xanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. 4. Thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế xanh Việt Nam đang hướng đến nền kinh tế xanh trong định hướng tái cấu trúc nền kinh tế, điều này thể hiện rất rõ ở quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, liệu Việt Nam có thể thành công theo hướng tăng trưởng xanh? Việt Nam còn cách nền kinh tế xanh thực sự bao xa? Dưới đây sẽ phân tích môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để đưa ra nhận định khả năng thành công của Việt Nam và đề xuất hướng lựa chọn cho Việt Nam trong tương lai. 768
  7. 4.1. Thuận lợi - Việt Nam đã trải qua hơn 35 năm đổi mới, thu được nhiều thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, thu nhập đầu người cải thiện nhanh v.v... Hiện tại trình độ công nghệ của Việt Nam còn yếu kém nhưng đang có sự cải thiện nhanh nhờ lợi thế của nước đi sau và gây được sự chú ý của nước ngoài nhờ thành tựu cải cách kinh tế đáng kể trong thời gian qua. Việt Nam cũng đang hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế trong nước. - Việt Nam cũng là một nước thu hút lớn đầu tư từ nước ngoài: Việt Nam vừa kết thúc năm 2022 - chặng cuối cùng trong hành trình 35 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - bằng những tín hiệu vui. Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong năm 2022 đạt gần 27,72 tỷ USD, mức giải ngân đạt kỷ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế trong 35 năm qua (cập nhật đến 20/12/2022), Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn FDI. Trong số này, có 274 tỷ USD đã được giải ngân, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), giai đoạn 2015-2021, Việt Nam luôn nằm trong top 3 quốc gia thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất khu vực ASEAN. Cụ thể, giai đoạn 2015-2022, Việt Nam liên tục giữ vững vị trí thứ 3/10 trong bảng xếp hạng quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất trong khối ASEAN. Nhiều doanh nghiệp FDI đã mang công nghệ hiện đại vào Việt Nam, trong đó có một số tập đoàn nổi tiếng thế giới về công nghệ cao như Intel, Samsung, Canon v.v... Nếu Việt Nam có chính sách phù hợp sẽ khiến các tập đoàn này đầu tư công nghệ cao và góp phần nâng cao năng lực công nghệ của đất nước, kết nối với mạng sản xuất toàn cầu. Điều này rất cần thiết để phát triển nền kinh tế xanh. - Vốn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào: lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng gần 55 nghìn người; hằng năm, trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam cũng có sự cải thiện đáng kể. Theo Ngân hàng Thế giới, chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69 trong 10 năm 2010 - 2020. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. 4.2. Khó khăn - Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khai thác thô, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và năng lượng hóa thạch cho phát triển kinh tế và tiêu dùng. Nền kinh tế với năng suất thấp do trình độ công nghệ vẫn ở mức thấp nên suất tiêu hao nhiên liệu nhiều. Tốc độ đổi mới công nghệ còn diễn ra chậm chạp. Mặc dù đã có nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ hiện đại vào Việt Nam nhưng con số này còn rất hạn chế. Hơn nữa, chúng lại ít được chuyển giao mà chỉ đặt tại Việt Nam để sản xuất. Phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đầu tư vào những lĩnh vực thâm dụng lao động và tài nguyên - được coi là lợi thế so sánh của Việt Nam trong 3 thập kỷ qua. - Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình tăng tốc nên rất khó cắt giảm tiêu hao nhiên liệu hay dùng nhiên liệu thay thế xa xỉ hơn. Bất cứ một quá trình tái cấu trúc nào 769
  8. cũng đòi hỏi phải giảm tốc tăng trưởng để chuyển đổi. Điều này sẽ khiến cho tình trạng việc làm và thu nhập của người dân bị ảnh hưởng trong khi cơ cấu mới chưa phát huy lợi thế. Nếu không kết hợp hài hòa chính sách sẽ dễ dẫn đến những vấn đề mâu thuẫn xã hội sâu sắc. - Cơ sở hạ tầng mềm cho tăng trưởng xanh chưa phát triển. Muốn thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh cần phải có công cụ kiểm soát và chế tài đối với các chủ thể nền kinh tế. Vấn đề đo lường quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cần được cải thiện. Việt Nam hiện vẫn chưa có cơ sở đánh giá phát thải khí nhà kính của các chủ thể kinh tế. - Thói quen tiêu dùng và sinh hoạt của đại bộ phận người dân còn lãng phí, ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên chưa cao. Thêm vào đó, Việt Nam chưa giải quyết tốt được các vấn đề về dịch vụ môi trường, chưa phát triển ngành công nghiệp tái chế để tận dụng nguồn năng lượng từ tái chế chất thải. - Các văn bản pháp lý của Việt Nam chưa đón đầu được các xu thế thay đổi của thế giới, thường mất nhiều thời gian để bổ sung điều luật giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình đổi mới nên chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xanh và xử lý nghiêm những hình thức sản xuất và tiêu dùng gây hại cho môi trường. 4.3. Cơ hội - Xu hướng quốc tế đang chuyển đổi sang kinh tế xanh: Tăng trưởng xanh hay kinh tế xanh đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia như một động lực thúc đẩy và phục hồi kinh tế toàn cầu và công cụ để phát triển bền vững. Chủ đề này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các diễn dàn khu vực và quốc tế và đang được các nước nghiêm túc xem xét áp dụng. Thực tế là, tăng trưởng xanh đã cho thấy vai trò trong việc giúp các quốc gia vừa đạt được các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đặc biệt là bảo vệ môi trường, thích ứng với điều kiện của biến đổi khí hậu. Rất nhiều quốc gia vận dụng mô hình này như: Đức, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ v.v... và thu được những kết quả rõ ràng trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm lượng khí thải. - Việt Nam có tình hình chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi theo hướng đẩy mạnh “tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng” và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang được Đảng và Chính phủ thực hiện với quyết tâm chính trị cao. - Tiềm năng về năng lượng tái tạo của Việt Nam khá lớn. Tiềm năng năng lượng gió: Với hơn 3.000 km bờ biển và nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong phát triển năng lượng gió. Hiện tại cũng đã có một số dự án điện gió được triển khai ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận) và tại một số huyện đảo. Tiềm năng năng lượng sinh khối: chủ yếu từ gỗ, phế thải từ cây nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và chất thải hữu cơ khác v.v... đều là những thứ rất có sẵn ở Việt Nam. Nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam rất lớn và khá đa dạng. Hiện tại ước tính mỗi năm có khoảng 60 triệu tấn sinh khối được tạo ra từ nguồn phụ phẩm- phế thải, trong đó gần 40% sinh khối được khai thác đưa vào sử dụng cho mục đích năng 770
  9. lượng. Tiềm năng năng lượng mặt trời: Việt Nam có tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.400 đến 3.000 giờ, tổng bức xạ mặt trời trung bình năm khoảng 230-250 kcal/cm2/ngày theo hướng tăng dần về phía Nam. Con số này cho thấy Việt Nam có tiềm năng khá về năng lượng mặt trời. Tất cả những loại năng lượng trên vẫn ở dạng tiềm năng là chính, chưa được khai thác phục vụ cho nền kinh tế và xã hội của Việt Nam. 4.4. Thách thức - Trên thế giới vẫn còn không ít quan điểm phản đối kinh tế xanh. Họ cho rằng nó chỉ làm tốn kém của cải vật chất mà không tạo được lợi ích tương xứng. Thậm chí có những quan điểm cho rằng nền kinh tế xanh là điều xa xỉ chỉ các nước giàu mới đủ khả năng chi trả. - Thách thức từ sự hợp tác quốc tế kém hiệu quả: để giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường là công việc của cả thế giới chứ không chỉ riêng nước nào. Những ảnh hưởng do sự xuống cấp của môi trường có tác động đến nhiều nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy, để xử lý vấn đề về môi trường - những vấn đề có tính thách thức toàn cầu này đòi hỏi các nước phải cùng hành động. Trong khi đó, không phải nước nào cũng có thiện chí và thực hiện đúng cam kết với đối tác. Do đó, nó có thể phá vỡ mục tiêu chống biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh ở Việt Nam. - Để phát triển nền kinh tế xanh cần phải có sự cải thiện mạnh mẽ về năng lực công nghệ. Trong khi trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam nhìn chung còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường và gia tăng phát thải khí nhà kính. Các ngành sản xuất năng lượng sạch như năng lượng hạt nhân, gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt... đang được chú trọng đầu tư nhưng chưa phát triển đủ mạnh để đáp ứng được nhu cầu năng lượng quốc gia. - Thách thức cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam khi bị các nước áp đặt tiêu chuẩn môi trường cao hơn. Đây là vấn đề Việt Nam đã và đang phải đối mặt. Cùng với Việt Nam, nhiều nước đã chuyển nhanh sang nền kinh tế xanh và các yêu cầu đối với hàng hóa của nước ngoài nhập vào cũng cao hơn. Khả năng các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của họ sẽ khó hơn do nền tảng và điều kiện sản xuất ở Việt Nam còn có hạn. 5. Một số giải pháp để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong thời gian tới Qua việc đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong phát triển kinh tế xanh, rõ ràng Việt Nam còn rất nhiều yếu kém và thách thức phải vượt qua. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh khó có thể tiến hành nhanh và Việt Nam vẫn còn cách “nền kinh tế xanh thực sự” rất xa. Mặc dù vậy, phải khẳng định rằng định hướng tăng trưởng xanh đối với Việt Nam được thực hiện càng sớm càng tốt. Bởi vì nó không chỉ liên quan đến vấn đề xanh hóa sản xuất mà còn tác động đến ý thức của người dân, xanh hóa lối sống và tiêu dùng. Tuy nhiên, việc thực hiện tăng trưởng xanh phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do thúc đẩy tăng trưởng xanh đòi hỏi chi phí lớn và có sự đánh đổi mục tiêu với tăng trưởng nâu. Để chuyển nền kinh tế nâu sang kinh tế xanh, chúng ta đều phải sắp xếp lại nền kinh tế. Quá trình này sẽ buộc phải giảm tốc độ tăng trưởng hoặc tự nó làm giảm tăng 771
  10. trưởng trong ngắn hạn và nó sẽ ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người lao động. Đối với Việt Nam, một nước thu nhập trung bình thấp - áp lực đẩy nhanh tăng trưởng để thoát khỏi đói nghèo và đuổi kịp các nước là rất cao. Chính vì vậy, cần phải có sự chuyển hướng hài hòa, nếu không Việt Nam sẽ gặp những vấn đề xã hội do sự chuyển đổi này gây ra. Rõ ràng, tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng cần hướng tới trong quá trình thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Để đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế xanh, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng xanh - Cần nhận thức rõ, tiếp cận với tăng trưởng xanh không chỉ là lồng ghép trong các quyết định phát triển mà phải coi đây là một chỉnh thể thống nhất với các thành phần của phát triển bền vững. Từ nâng cao nhận thức về lợi ích của tăng trưởng xanh, vai trò thực hiện, tầm quan trọng của nhiệm vụ để tiếp tục hình thành các kế hoạch hành động, dự án cụ thể ứng phó với biến đổi khí hậu và tạo động lực cho tăng trưởng xanh. Các bộ, ngành, địa phương cần nhanh chóng rà soát quy hoạch, áp dụng, lồng ghép Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh vào các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng lộ trình cụ thể, kịch bản các hoạt động tăng trưởng xanh, gắn kết chỉ tiêu tăng trưởng xanh trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã - xã hội, chiến lược ngành. - Các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong tăng trưởng xanh bởi họ là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế, cần xác định rõ những thách thức và cơ hội, bảo đảm tuân thủ các quy định về môi trường, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất, sắp xếp lại cơ cấu, hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; hình thành đội ngũ doanh nhân “xanh” của đất nước. Do đó, cần thiết phải xây dựng và thực hiện các dự án truyền thông, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và cộng đồng về thực hiện tăng trưởng xanh, góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững. - Tuyên truyền sâu rộng để nhân dân tham gia sâu hơn trong nền kinh tế xanh, các chuỗi của tăng trưởng xanh, trước hết là với lối sống xanh, tiêu dùng xanh kết hợp với nếp sống đẹp truyền thống để tạo nên đời sống chất lượng cao, hòa hợp với thiên nhiên. Thứ hai, hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý cho tăng trưởng xanh - Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý cho toàn bộ các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh phải là động lực chính để phát triển bền vững và là công cụ hữu hiệu giúp Chính phủ cân đối nguồn lực trong nước và quốc tế hiệu quả, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. - Trong nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, các bộ, ngành, địa phương cần hoàn thiện khung cơ chế, chính sách, pháp luật theo hướng phối hợp liên vùng, liên ngành và tích hợp các mục tiêu, giải pháp tăng trưởng xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt trong xây dựng hạ tầng đa mục tiêu. 772
  11. - Đồng thời, cần đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế xanh đối với hoạt động sản xuất và tiêu dùng, hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí phân loại xanh quốc gia đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, cập nhật thường xuyên cho các chương trình, dự án, sản phẩm, dịch vụ, công nghệ và ngành nghề. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong giám sát, đánh giá thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và mức độ xanh hóa của nền kinh tế. Thứ ba, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư công - tư cho tăng trưởng xanh - Trên thực tế, thực hiện tăng trưởng xanh đòi hỏi nguồn lực rất lớn để thực hiện các dự án đầu tư cho đổi mới công nghệ, quy hoạch, phát triển hạ tầng cơ sở... nhằm phục vụ việc triển khai thực hiện. Trong khi đó, nguồn lực trong nước, đặc biệt là ngân sách Nhà nước cho tăng trưởng xanh là rất hạn chế. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Phát triển Liên Hợp Quốc về huy động nguồn vốn cho biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh, nguồn vốn đầu tư công của Việt Nam cho việc chống biến đổi khí hậu và các mục tiêu tăng trưởng xanh hiện chỉ chiếm 0,1% GDP. Tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng thế giới cho thấy, để thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2030, dự kiến cần khoảng 30 tỷ USD, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa 30% nguồn lực và cần tới 70% từ các nguồn khác, trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân. Theo đó, nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu tập trung vào các chương trình đầu tư giao thông công cộng của ngành giao thông cho các thành phố lớn, các đường cao tốc; các chương trình, dự án hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực, thể chế chính sách giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hỗ trợ đầu tư tư nhân, dự án thí điểm. Có thể nói, nguồn lực công đang bị phân tán cho rất nhiều mục tiêu ưu tiên khác nhau nên phần dành cho tăng trưởng xanh hiện rất hạn hẹp. Do đó, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có tái cấu trúc đầu tư công là một nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược. Trên cơ sở đó, tăng đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề cho phát triển nền kinh tế xanh. - Trong khi đó, nguồn đầu tư tư nhân cho tăng trưởng xanh mang tính quyết định, đảm bảo thành công trong thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh, bao gồm: Các dự án đầu tư của doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước, hộ sản xuất, hộ gia đình. Tổng vốn đầu tư cho mục tiêu này hiện đạt gần 2,5 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào năng lượng tái tạo và một phần hiệu quả năng lượng. Các chuyên gia kinh tế nhận định, trong bối cảnh nguồn đầu tư công ngày càng hạn hẹp và phải trang trải cho nhiều nhu cầu chi tiêu công cấp bách, vai trò của nguồn đầu tư tư nhân ngày càng được đánh giá cao trong việc xanh hóa nền kinh tế Việt Nam, bởi trên 40% GDP được đóng góp từ khu vực tư nhân. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đầu tư công không phải là nguồn vốn chủ đạo đối với nỗ lực thực hiện chống biến đổi khí hậu hay tăng trưởng xanh. Để huy động được đầu tư tư nhân, chính sách của Chính phủ cần có tầm nhìn dài hạn hơn thay vì các chính sách ngắn hạn để tạo sự tin tưởng của khối tư nhân. Hiện nay, rất nhiều các khoản đầu tư của tư nhân nhưng chỉ ngắn hạn trong thời gian 4 - 5 năm, sau đó họ chuyển sang các lĩnh vực khác do lo sợ về mặt chính sách. Thứ tư, gắn tăng trưởng với sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, chống ô nhiễm môi trường 773
  12. - Hoàn thiện, bổ sung thể chế, pháp luật về bảo vệ môi trường và chống ô nhiễm môi trường. Tiếp tục tập trung triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài nguyên nước. Luật Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Cần chú ý lồng ghép các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển bền vững. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách về tài nguyên và môi trường, tăng cường các hoạt động về hợp tác quốc tế và phối hợp với các ngành, các địa phương thông qua các hoạt động của các dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo và cung cấp các thông tin hướng dẫn kỹ thuật. Các bộ, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao hằng năm có đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. - Đưa các nhiệm vụ bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vào chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ. Tập trung giải quyết một số vấn đề búc xúc về tài nguyên và môi trường: thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm về khai thác tài nguyên đất, nước, không khí, khoáng sản, biển và hải đảo và bảo vệ môi trường; theo dõi, giám sát chặt chẽ việc khắc phục sau khai thác. Xây dựng và triển khai các dự án lớn nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước cải thiện môi trường tại các đô thị lớn và các khu công nghiệp tập trung. - Thúc đẩy phát triển các loại năng lượng mới và năng lượng sạch, sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên; không gây ô nhiễm môi trường; phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái. Bên cạnh các chính sách định hướng ưu tiên, cần hoàn thiện thể chế điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp theo hướng gắn với tăng trưởng xanh, trước mắt cần cụ thể hóa hơn nữa trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc khắc phục hậu quả về môi trường do hoạt động của doanh nghiệp gây ra. Đối với các doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động, phải thực hiện đúng quy trình xử lý các chất thải trước khi thải ra môi trường. - Cải tiến cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện đại, công nghệ cao, tiêu tốn ít năng lượng, phát thải các bon thấp, công nghệ thân thiện môi trường. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp; dành một tỷ lệ ngân sách thỏa đáng cho việc nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ tiên tiến như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ ít chất thải, công nghệ ít tiêu tốn nguyên liệu, năng lượng, công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Thứ năm, nhóm giải pháp khác - Chú trọng khuyến khích phát triển nguồn nhân lực cho các ngành nghề xanh, tạo việc làm xanh; chú trọng tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản trị, điều hành trong nền kinh tế xanh, ngành sản xuất xanh cho đội ngũ cán bộ quản trị công và doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ làm công tác hoạch định chính sách. Đồng thời, nâng cao năng lực, kiến thức về tăng trưởng xanh cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; tích hợp các nội dung tăng trưởng xanh vào chương trình, hoạt động giáo dục các cấp học; mở mã ngành đào tạo nguồn nhân lực trong các ngành nghề xanh; mở rộng triển khai xây dựng mô hình trường học an toàn, xanh, sạch, thông minh; Thúc đẩy công tác nghiên cứu, khảo sát, thống kê số liệu, định kỳ dự báo nhu 774
  13. cầu và khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho các ngành nghề xanh; phổ biến, cung cấp thông tin về thị trường việc làm xanh. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam. Thông qua huy động các nguồn hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển kinh tế xanh, các cơ chế tài chính khác để tăng cường nguồn lực cho xây dựng nền kinh tế xanh. - Tăng chi ngân sách cho các hoạt động R&D liên quan đến công nghiệp xanh. Việc đầu tư cho hoạt động R&D là rất quan trọng và mang lại hiệu quả thiết thực. Nhà nước có thể trực tiếp đầu tư ngân sách để các viện nghiên cứu, trường đại học triển khai các nghiên cứu phát triển công nghệ xanh. Đồng thời Nhà nước cũng có thể đặt hàng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ xanh đối với các trung tâm nghiên cứu hoặc các doanh nghiệp có dịch vụ nghiên cứu bên ngoài. Để đạt được mục tiêu xây dựng kinh tế xanh và bảo vệ môi trường, cần phải chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế. Hướng tới phát triển kinh tế xanh là hướng tiếp cận mới, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thúc đẩy tăng trưởng xanh đòi hỏi chi phí lớn; có sự đánh đổi mục tiêu với tăng trưởng nâu; mô hình phát triển và cơ cấu ngành nghề nào phù hợp với nền kinh tế xanh trong điều kiện phát triển của Việt Nam cần phải thực hiện có lộ trình và bước đi phù hợp nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước để đảm bảo phát triển ổn định và bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Công thương (2021), Định nghĩa về tăng trưởng xanh của một số quốc gia, tổ chức quốc tế. Truy cập tại: https://moit.gov.vn/phat-trien-ben-vung/dinh-nghia-ve-tang- truong-xanh-cua-mot-so-quoc-gia-to-chuc-quoc-te.html 2. Đinh Hồng Linh và Nguyễn Thị Hằng (2021), “Nghiên cứu về phát triển kinh tế xanh nhằm hướng tới chiến lược tăng trưởng kinh tế bền vững: Trường hợp nghiên cứu điển hình tại tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 286, tháng 4/2021, trang 46-57. 3. Nguyễn Thị Lan Anh (2021), “Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công Thương, số 25, tháng 10/2021. 4. Nguyễn Thị Quỳnh Hương và Nguyễn Thị Vân Chi (2020), “Kinh tế xanh và thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 7/2020. 5. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2019), “Tăng trưởng xanh tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra”. Tạp chí Tài chính, số 7/2019. 6. OECD (2012), Towards Green Growth in Denmark, Truy cập tại: https://sustainabledevelopment.un.org, ngày 25/3/2023. 7. Phạm Đức Anh (2020), “Phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam”, Tạp chí Công thương, số 14, tháng 6/2020. 8. The World Bank (2013), From Brown Growth to Green: the Economic Benefits of Climate Action, truy cập tại: https://www.worldbank.org, ngày 25/3/2023. 775
  14. 9. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. 10. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 882/QĐ-TTg, ngày 20/7/2022 về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”. 11. UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication, UNEP, doi:10.1063/1.3159605. 776
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2