intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đóng góp khoa học của Nguyễn Đổng Chi trong phần khảo dị “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

119
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu này là, thông qua việc tìm hiểu phần Khảo dị trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi, đánh giá về những đóng góp của Nguyễn Đổng Chi trong việc sưu tầm, tập hợp các dị bản truyện cổ tích dân gian Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đóng góp khoa học của Nguyễn Đổng Chi trong phần khảo dị “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 54 – 62<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA NGUYỄN ĐỔNG CHI TRONG PHẦN KHẢO DỊ<br /> “KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM”<br /> Trần Tùng Chinh<br /> ThS. Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang<br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 01/10/15<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 09/12/15<br /> Ngày chấp nhận đăng: 03/16<br /> Title:<br /> The contribution of Nguyen<br /> Dong Chi to“Vietnamese Fairy<br /> Tales”<br /> Từ khóa:<br /> Kho tàng truyện cổ tích<br /> Việt Nam, khảo dị<br /> Keywords:<br /> Vietnamese Fairy Tales,<br /> the variant<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Via understanding the variant session in “Vietnamese Fairy Tales” by Nguyen<br /> Dong Chi, the purpose of this study is to assess the author’s contribution in<br /> collecting and compiling variants of Vietnamese fairy tales. The study employed<br /> approaches of surveys, statistics, collation and analysis to raise scientific<br /> arguments in order to prove that the above-mentioned variant session has<br /> foundational value inspiring new approaches in studying Vietnamese fairy<br /> tales. Thereof, this study suggests there should be a study of larger scale about<br /> helpful contributions by Nguyen Dong Chi in aspect of variants in fairy tales.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục đích của nghiên cứu này là, thông qua việc tìm hiểu phần Khảo dị trong<br /> “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi, đánh giá về những<br /> đóng góp của Nguyễn Đổng Chi trong việc sưu tầm, tập hợp các dị bản truyện<br /> cổ tích dân gian Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp khảo sát, thống<br /> kê, đối chiếu, phân tích để nêu ra những luận điểm khoa học nhằm chứng minh<br /> rằng phần Khảo dị nêu trên có giá trị nền tảng gợi mở những hướng tiếp cận<br /> mới cho việc nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu đề xuất<br /> cần có một công trình nghiên cứu nghiêm túc và quy mô hơn về những đóng<br /> góp hữu ích của Nguyễn Đổng Chi về vấn đề dị bản truyện cổ tích.<br /> <br /> Các thể loại văn xuôi (tự sự) dân gian có nhiều<br /> khả năng biến đổi (nhiều dị bản) hơn văn vần.<br /> Điều này bị chi phối bởi đặc điểm thi pháp của<br /> từng thể loại.<br /> <br /> 1. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> Một trong những thuộc tính đặc trưng của văn học<br /> dân gian là tính dị bản. Dị bản là những văn bản<br /> truyền miệng có những điểm biến thể, khác biệt<br /> của cùng một tác phẩm văn học dân gian. Sự khác<br /> nhau đó thể hiện ở nhiều phương diện như đề tài,<br /> nội dung, nghệ thuật, thể loại; ở nhiều yếu tố như<br /> chi tiết, tình tiết, sự kiện, không gian, thời gian,<br /> nhân vật, ngôn ngữ, hình ảnh, các motip vừa lặp<br /> lại vừa không lặp lại… Nói đến dị bản, ta thấy có<br /> hai điểm nổi bật. Đó là những yếu tố cố định<br /> không thay đổi và những yếu tố mới. Điều này thể<br /> hiện mối quan hệ giữa ứng tác và truyền thống.<br /> <br /> Tính dị bản làm cho tác phẩm văn học dân gian<br /> không đứng yên cố định (như văn học viết) mà dễ<br /> thích ứng phù hợp với nhu cầu thị hiếu của nhân<br /> dân các địa phương, các thời kỳ lịch sử cụ thể<br /> khác nhau trong quá trình diễn xướng, lưu truyền.<br /> Nhờ thế, tính dị bản đã có những tác động tích<br /> cực cho sự tồn tại và phát triển của văn học dân<br /> gian.<br /> <br /> 54<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 54 – 62<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> Nghiên cứu truyện cổ tích không thể tách rời khỏi<br /> việc sưu tầm, khảo sát các dị bản của truyện cổ<br /> tích. Trong lời tựa Truyện cổ nước Nam, Nguyễn<br /> Văn Ngọc (1957) có nhận xét: “…cũng cùng một<br /> truyện thường có khi sai lạc khác nhau xa. Người<br /> kể thế này, người nói thế nọ. Đây ngắt nửa chừng,<br /> đó dài thêm vài ba đoạn…” (Nguyễn Văn Ngọc,<br /> 1957, 10). Tuy nhiên, đó không chỉ là sự “dài<br /> ngắn khôn đo, thêm bớt khó liệu, đầu Ngô mình<br /> Sở…” như chính Nguyễn Văn Ngọc đánh giá; mà<br /> ở các dị bản khác nhau của một đơn vị truyện, ta<br /> còn tìm thấy ở đó tính tập thể và tâm lý tập thể chi<br /> phối các dị bản được truyền miệng. Và sự đồng<br /> sáng tạo dù có hay chưa có ý thức ấy cũng là một<br /> kho cứ liệu cho ta tìm hiểu đặc trưng thể loại của<br /> truyện cổ tích với các lớp trầm tích như văn hóa,<br /> dân tộc, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ…<br /> <br /> Chính vì thế, “giá trị của Kho tàng truyện cổ tích<br /> Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi) tăng lên nhiều, một<br /> phần quan trọng là nhờ sự phong phú dồi dào của<br /> phần khảo dị” (Tạ Phong Châu, 1975). Phần khảo<br /> dị là sự tập hợp một cách công phu những bản kể<br /> khác mà tác giả đã sưu tầm và văn bản hóa chúng<br /> với mục đích làm phong phú hơn câu chuyện<br /> được kể. Các dị bản ấy được Nguyễn Đổng Chi<br /> (1993) liệt kê một cách “chọn lọc và sắp đặt theo<br /> một hệ thống riêng”. Tác giả cho rằng: “Trường<br /> hợp những truyện có nhiều địa phương kể khác<br /> nhau về chi tiết hay toàn phần, chúng tôi sẽ ghi<br /> tóm tắt ở mục Khảo dị để tiện tham khảo. Nếu<br /> truyện nào có nội dung tương tự với truyện của<br /> các dân tộc khác ở trong nước hay nước ngoài,<br /> chúng tôi cũng làm như vậy” (Nguyễn Đổng Chi,<br /> 1993, 12).<br /> <br /> Vì lẽ đó, từ việc tập hợp, khảo dị, nhà nghiên cứu<br /> văn học dân gian mới có cơ sở để đưa ra các luận<br /> điểm về type, về motif, về các công thức truyền<br /> thống, các hệ thống, các sơ đồ cấu trúc của truyện<br /> cổ tích... Đặc biệt là làm rõ được tính quốc tế, tính<br /> dân tộc, tính địa phương của văn học dân gian nói<br /> chung và truyện cổ tích nói riêng.<br /> <br /> Trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đi<br /> vào khảo sát phần Khảo dị với các dị bản mà học<br /> giả Nguyễn Đổng Chi đã công phu sưu tầm, tập<br /> hợp. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu thống kê một<br /> cách khái quát nhằm đánh giá những đóng góp<br /> khoa học của ông trong công việc nghiên cứu kho<br /> tàng Truyện cổ tích Việt Nam.<br /> <br /> “Truyện cổ tích Việt Nam có mối quan hệ tiềm ẩn<br /> và giấu kín với truyện cổ các dân tộc trong khu<br /> vực và trên toàn thế giới” (Nguyễn Tấn Đắc,<br /> 2001, 5). Cho nên, việc khảo sát, so sánh các văn<br /> bản kể của truyện cổ tích là một phương pháp<br /> khoa học cần thiết và hiệu quả để phát hiện những<br /> giá trị mới mẻ có ý nghĩa của kho tàng truyện cổ<br /> tích một dân tộc.<br /> <br /> 2. PHẦN NỘI DUNG<br /> 2.1 Đóng góp về số lượng văn bản khảo dị<br /> Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập – bản in<br /> 1993) của Nguyễn Đổng Chi là một công trình<br /> đáp ứng vừa về lượng lẫn về chất trong việc tìm<br /> hiểu và nghiên cứu văn học dân gian. Với dung<br /> lượng 2740 trang, tác giả đã sưu tầm 201 đơn vị<br /> truyện cổ tích thuộc nhiều nhóm truyện khác<br /> nhau. Và điều làm nên tầm vóc của công trình đặc<br /> biệt này chính là số lượng các dị bản mà tác giả<br /> công phu tìm kiếm, phát hiện, chọn lọc và sắp xếp<br /> chúng trong phần Khảo dị cuối mỗi đơn vị truyện.<br /> <br /> Đã có không ít các công trình sưu tầm, các tuyển<br /> tập truyện cổ tích mà người biên soạn đã chỉ chú ý<br /> đến một văn bản (đơn bản) mà bỏ qua phần khảo<br /> dị. Theo chúng tôi, phần khảo dị kèm theo văn<br /> bản chính của truyện được kể có giá trị rất lớn,<br /> nhằm tập hợp một cách khoa học các dị bản để<br /> người đọc – đặc biệt là người nghiên cứu có cơ<br /> hội đối chiếu, liên hệ và từ đó rút ra những luận<br /> điểm quan trọng phục vụ cho việc tiếp cận truyện<br /> cổ tích một cách có hiệu quả.<br /> <br /> Trong năm tập truyện cổ tích, Nguyễn Đổng Chi<br /> đã phân loại truyện cổ tích Việt Nam thành 10<br /> nhóm truyện. Và ở mỗi đơn vị nhóm truyện, ông<br /> đã có một kho tàng khảo dị rất đồ sộ và quy mô.<br /> Chúng ta có thể xem bản thống kê sau đây:<br /> 55<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 54 – 62<br /> <br /> Số phân<br /> mục<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> Số lượng truyện trong từng<br /> nhóm<br /> <br /> Tên nhóm truyện phân loại<br /> <br /> Số dị bản đã sưu<br /> tầm<br /> <br /> I<br /> <br /> 25 truyện (từ 1  25)<br /> <br /> Nguồn gốc sự vật<br /> <br /> 109 dị bản<br /> <br /> II<br /> <br /> 10 truyện (từ 26  35)<br /> <br /> Sự tích đất nước Việt<br /> <br /> 47 dị bản<br /> <br /> III<br /> <br /> 26 truyện (từ 36  61)<br /> <br /> Sự tích các câu ví<br /> <br /> 153 dị bản<br /> <br /> IV<br /> <br /> 32 truyện (từ 62  93)<br /> <br /> Thông minh tài trí và sức khỏe<br /> <br /> 141 dị bản<br /> <br /> V<br /> <br /> 12 truyện (từ 94  105)<br /> <br /> Sự tích anh hùng nông dân<br /> <br /> 19 dị bản<br /> <br /> VI<br /> <br /> 10 truyện (từ 106  115)<br /> <br /> Truyện phân xử<br /> <br /> 63 dị bản<br /> <br /> VII<br /> <br /> 24 truyện (từ 116  139)<br /> <br /> Truyện thần tiên, ma quỷ và phù<br /> phép<br /> <br /> 216 dị bản<br /> <br /> VIII<br /> <br /> 31 truyện (từ 140  170)<br /> <br /> Truyện đền ơn trả oán<br /> <br /> 233 dị bản<br /> <br /> IX<br /> <br /> 18 truyện (từ 171  188)<br /> <br /> Tình bạn, tình yêu và nghĩa vụ<br /> <br /> 104 dị bản<br /> <br /> X<br /> <br /> 13 truyện (từ 189  201)<br /> <br /> Truyện vui tươi dí dỏm<br /> <br /> 69 dị bản<br /> <br /> 10 phân<br /> mục<br /> <br /> 201 truyện<br /> <br /> 10 nhóm truyện<br /> <br /> 1154 dị bản<br /> <br /> Trên đây chỉ là những thống kê sơ bộ, dựa trên<br /> phần mục lục cuối mỗi tập mà tác giả liệt kê.<br /> Trong đó, không ít những phần khảo dị, tác giả<br /> chỉ ghi là “các dị bản” (ví dụ mục truyện 12 - Sự<br /> tích con khỉ - tr. 502; mục truyện 60 - Nói dối như<br /> Cuội – tr. 1039; mục truyện 79 - Bùi Cầm Hổ - tr.<br /> 1042; mục truyện 90 - Gái ngoan dạy chồng – tr.<br /> 1044…v.v…). Do đó, nếu thống kê đầy đủ thì con<br /> số các dị bản truyện trong tập Kho tàng truyện cổ<br /> tích Việt Nam không chỉ dừng lại ở 1154 như đã<br /> dẫn.<br /> <br /> 2.2 Đóng góp từ nguồn tài liệu sưu tầm điền<br /> dã công phu<br /> Trong khối lượng dị bản lớn như vậy, chúng tôi<br /> chọn khảo sát cụ thể ngẫu nhiên một số truyện để<br /> có thể hình dung công việc sưu tầm và tập hợp dị<br /> bản cho phần khảo dị đã được tác giả dụng công<br /> như thế nào, từ đó đạt được những giá trị khoa<br /> học cụ thể ra sao.<br /> <br /> 56<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 54 – 62<br /> <br /> Thứ<br /> tự<br /> đơn<br /> vị<br /> truyện<br /> <br /> Tên truyện<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> Dị bản từ nguồn truyện truyền<br /> miệng dân gian được sưu tầm điền<br /> dã và nguồn truyện đã được văn<br /> bản hóa<br /> Trong nước<br /> <br /> Ngoài nước<br /> <br /> Dị bản từ các công trình sử<br /> học, các báo và tạp chí,<br /> nguồn văn học viết…<br /> Nguồn tôn<br /> giáo, lịch sử,<br /> báo chí…<br /> <br /> 2<br /> <br /> Sự<br /> tích<br /> trầu cau và<br /> vôi<br /> <br /> Nghệ An, đồng<br /> bào Cơ<br /> tu,<br /> người Thái<br /> <br /> 7<br /> <br /> Sự<br /> tích<br /> chim quốc<br /> <br /> Người Mường,<br /> Nghệ An, Cổ<br /> tích xứ An Nam,<br /> <br /> 11<br /> <br /> Sự tích con<br /> muỗi<br /> <br /> Đồng bào Bắc<br /> bộ<br /> <br /> Grimm (Đức, Ý)<br /> Pháp, Ả Rập,<br /> Dân<br /> gian<br /> Campuchia<br /> <br /> 12<br /> <br /> Sự tích con<br /> khỉ<br /> <br /> Đồng bào Thổ<br /> (Thái Nguyên),<br /> truyện cổ Ba<br /> Na, người Thái,<br /> Tày, Mèo, Nùng,<br /> người Khơ me…<br /> <br /> Truyện<br /> cổ<br /> Banladesh,<br /> Truyện cổ Ấn Độ,<br /> Na uy, Nhật,<br /> Grimm,<br /> Phần<br /> Lan, Miến Điện,<br /> Pháp, Hungary<br /> và nhiều nước<br /> khác<br /> <br /> Tạp<br /> Đông<br /> Dương,<br /> <br /> 48<br /> <br /> Cứu<br /> vật<br /> vật trả ơn,<br /> cứu nhân<br /> nhân<br /> trả<br /> oán<br /> <br /> Đồng bào Hà<br /> Tĩnh, Nghệ An<br /> <br /> 60<br /> <br /> Nói<br /> dối<br /> như Cuội<br /> <br /> Đồng bào Ja<br /> rai, Xê Đăng,<br /> Hơ rê, Người<br /> thiểu số Khơ me,<br /> Mường, Tày…<br /> <br /> Văn học viết<br /> <br /> Số dị bản<br /> được liệt<br /> kê trong<br /> phần<br /> khảo dị<br /> <br /> Lĩnh<br /> Nam<br /> chích quái<br /> <br /> 8 dị bản<br /> <br /> Điển<br /> tích<br /> Trung Quốc,<br /> <br /> 5 dị bản<br /> <br /> Liêu trai chí<br /> dị<br /> <br /> 8 dị bản<br /> <br /> chí<br /> <br /> Truyện Đời<br /> xưa, Mỹ ấm<br /> tùy bút,<br /> <br /> 38 dị bản<br /> <br /> Truyện cổ Trung<br /> Quốc, Lào, người<br /> Xi xin, Ý, Châu<br /> Phi, Ấn Độ, Triều<br /> Tiên, Ta phi lét,<br /> Thụy Sĩ, Anbani,<br /> Đức, Hy Lạp<br /> <br /> Lục độ tạp<br /> kinh<br /> (kinh<br /> Phật)<br /> <br /> Sưu thần ký<br /> (Trung Quốc<br /> – Thế kỉ V),<br /> Dị uyển của<br /> Lưu<br /> Kính<br /> Thúc (Tống)<br /> <br /> 24 dị bản<br /> <br /> Truyện<br /> Miến<br /> Điện, Ấn Độ, Ả<br /> Rập,<br /> Trung<br /> Quốc, Mông Cổ,<br /> Pháp…<br /> <br /> Đinh<br /> Tiên<br /> Hoàng<br /> <br /> Nghìn lẻ một<br /> đêm<br /> <br /> 30 dị bản<br /> <br /> Báo Trung<br /> Bắc chủ nhật<br /> <br /> 57<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 54 – 62<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> Chính tính phong phú đa dạng của các tư liệu<br /> tham khảo đã cung cấp cho Nguyễn Đổng Chi<br /> chất liệu để sưu tầm một cách khá hệ thống và<br /> <br /> tiết, quá nhiều câu văn mô tả diễn tiến cốt truyện<br /> và nhân vật, mượn công việc sưu tầm để “làm<br /> văn”… xa rời phương pháp sưu tầm văn học dân<br /> gian (việc làm này hoàn toàn không đúng với đặc<br /> trưng của truyện tự sự dân gian). Để công trình<br /> sưu tầm vẫn gần gũi với đặc điểm truyền miệng<br /> của văn học dân gian, Nguyễn Đổng Chi không<br /> chỉ tập hợp kho tư liệu khổng lồ là những tuyển<br /> tập truyện cổ của các dân tộc Việt Nam và thế<br /> giới mà ông còn phải chắt lấy cái cốt dân gian,<br /> chọn ra những yếu tố tương đồng và dị biệt từ<br /> những tác phẩm cụ thể. Điều đó cho thấy một cảm<br /> quan nhạy bén của nhà Folklore học, sự nghiêm<br /> túc và ý thức trách nhiệm của một nhà nghiên cứu<br /> văn học dân gian thực thụ. Từ đó, ông có thể sử<br /> dụng tư liệu ấy một cách hiệu quả phục vụ cho<br /> phần Khảo dị của mình để nâng tầm cho công<br /> trình đạt đến giá trị khoa học cao.<br /> <br /> quy mô các dị bản nhằm thực hiện phần Khảo dị.<br /> Đầu tiên phải kể đến kho tàng tác phẩm truyền<br /> miệng mà tác giả trong quá trình điền dã đã trực<br /> tiếp thu thập, tỉ mỉ ghi chép, phân loại cẩn thận tại<br /> nhiều vùng địa danh từ Bắc chí Nam, từ miền<br /> xuôi lên miền ngược. Trong quá trình sưu tầm, tác<br /> giả đặc biệt chú ý đến không gian văn hóa của các<br /> dân tộc ít người ở Việt Nam, nơi còn lưu giữ gần<br /> như nguyên vẹn các tác phẩm dân gian trong sinh<br /> hoạt của một cộng đồng chưa bị cuốn vào quá<br /> trình đô thị hóa, hiện đại hóa. Ở phần nguồn dẫn<br /> các dị bản được nêu trong phần Khảo dị của ông,<br /> chúng ta thấy có người Tiền Đông Dương trên các<br /> cao nguyên miền Trung, đồng bào thiểu số Nghệ<br /> An, đồng bào thiểu số Hà Giang Tuyên Quang,<br /> nguồn truyện dân gian của người Nùng, người<br /> Tày, người Thái, người Dao, người Cơ-tu… Hoặc<br /> trong kho cứ liệu sưu tầm của ông (liệt kê ở phần<br /> thư mục tham khảo), ta thấy cả những văn bản<br /> viết bằng chữ Hán (Bội văn vận phủ, Thiếu vi<br /> thông giám, Dân gian văn nghệ tuyển…), các<br /> công trình của người Pháp sưu tầm khi họ có mặt<br /> ở Đông Dương cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX<br /> (như các công trình của Cosquin, Landes,<br /> Cesbron, Génibrel, Dumoutier…), các tài liệu của<br /> các học giả đầu thế kỷ XX như Trương Vĩnh Ký,<br /> Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Ngọc…. Trong<br /> kho tư liệu đồ sộ ấy, còn có cả Gia phả các dòng<br /> họ, các tác phẩm chính sử, dã sử, các tư liệu báo,<br /> tạp chí đã và đang lưu hành trong bối cảnh thời<br /> đó, khi nhà nghiên cứu thực hiện công trình này.<br /> <br /> 2.3 Đóng góp về phương pháp tiếp cận tư liệu<br /> dưới góc độ thi pháp<br /> Trong phần Khảo dị, ta thấy Nguyễn Đổng Chi đã<br /> cẩn trọng chọn lọc các dị bản dựa trên nhiều cách<br /> tiếp cận có tính gợi ý rất bổ ích cho các nhà<br /> nghiên cứu văn học dân gian dưới góc độ thi pháp<br /> như các công thức mở đầu và kết thúc, nhân vật<br /> chính của truyện cổ tích, các chi tiết kết cấu, xung<br /> đột, các yếu tố không gian và thời gian nghệ<br /> thuật... Có thể kể đến các thành tựu nghiên cứu có<br /> kế thừa phương pháp tiếp cận này như Nghiên cứu<br /> truyện dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra<br /> cứu type và motif truyện cổ dân gian (Nguyễn Thị<br /> Hiền, 1996), Cổ tích thần kỳ người Việt - đặc<br /> điểm cấu tạo cốt truyện (Tăng Kim Ngân, 1997),<br /> Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ<br /> Việt Nam và Đông Nam Á (Nguyễn Bích Hà,<br /> 1998), Thi pháp văn học dân gian (Lê Trường<br /> Phát, 2000), Truyện cổ tích dưới mắt các nhà<br /> khoa học (Chu Xuân Diên, 2001), Truyện cổ dân<br /> gian đọc bằng type và motif (Nguyễn Tấn Đắc,<br /> 2001), Một số vấn đề lý luận về nghiên cứu cấu<br /> <br /> Kỳ công hơn nữa là sự chọn lọc, hay nói đúng<br /> hơn là gạn lọc từ các văn bản truyện cổ trong và<br /> ngoài nước được sưu tầm (được văn bản hóa) mà<br /> không ít trong số đó, các tác giả nêu trên, trong<br /> quá trình biên soạn đã để lại văn phong ghi chép<br /> mang dấu ấn cá nhân đậm đà như thêm bớt tình<br /> 58<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
39=>0