intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

EVFTA: Cơ hội và thách thức cho ngành da giày Việt Nam

Chia sẻ: ViLichae ViLichae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

64
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết sẽ đề cập đến những cơ hội và thách thức mà ngành da giày Việt Nam phải đối mặt khi Hiệp định EVFTA được ký kết, để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị giúp cho ngành da giày được hưởng lợi ích tối đa từ EVFTA.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: EVFTA: Cơ hội và thách thức cho ngành da giày Việt Nam

  1. 2. Lê Thị Thanh (2019), Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra, Báo Tài Chính online truy cập ngày 3/8/2019 3. Đan Thanh (2019), Tham gia Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới: Khó khăn vẫn bủa vây doanh nghiệp, Báo Đại biểu nhân dân 4. Lương Hoàng Thái (2018), Những cam kết trong các FTA thế hệ mới và khả năng thực hiện của doanh nghiệp Việt Nam, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương 5. Trần Thị Trang (2015), Việt Nam tham gia các FTA: thực trạng, cơ hội và thách thức, Thời báo Tài chính, tháng 3/2015 6. Mutrap (2017), EVFTA và ngành dệt may, giày dép Việt Nam 7. VCCI (2018), Tổng hợp cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do đối với ngành giày dép 8. Việt Nga (2018), Tìm định hướng mới cho phát triển công nghiệp ph trợ ngành da giày, Báo Công thương online truy cập ngày 26/12/2018 EVFTA: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM Ths. Nguyễn Thị Quỳnh Hƣơng Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA) được ký kết đã th c đẩy đầu tư và cải tiến công nghệ trong ngành da giày. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì vẫn còn rất nhiều thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp da giày trong quá trình hội nhập. Bài viết sẽ đề cập đến những cơ hội và thách thức mà ngành da giày Việt Nam phải đối mặt khi Hiệp định EVFTA được ký kết, để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị giúp cho ngành da giày được hưởng lợi ích tối đa từ EVFTA. Từ khóa: Da giày, EVFTA, cơ hội, thách thức Đặt vấn đề Việt Nam lần đầu tiên tham gia một tổ chức kinh tế là từ năm 1995, bắt đầu từ việc Việt Nam gia nhập Asean. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia rất nhiều các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, tiến hành hội nhập kinh tế theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã k kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một trong những hiệp định thương mại tự do được k kết gần đây nhất đó là chính Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Khi k kết EVFTA sẽ mang lại rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong đó có ngành da giày. Bài viết sẽ đưa ra những kiến thức chung về hiệp định EVFTA, về ngành da giày Việt Nam, để từ đó thấy được những cơ hội và thách thức mà ngành da giày phải đối mặt, qua đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp cho ngành da giày Việt Nam ngày càng phát triển. 492
  2. 1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA và ngành da giày Việt Nam thời gian qua 1.1. Tổng quan về EVFTA 1.1.1. Diễn tiến của Hiệp định EVFTA - Giai đoạn trước 10/2012: hai Bên thực hiện các hoạt động kỹ thuật (nghiên cứu khả thi…) chuẩn bị cho đàm phán - Tháng 06/2012: hai Bên tuyên bố khởi động đàm phán - Từ tháng 10/2012 – tháng 8/2015: hai Bên đã tiến hành 14 vòng đàm phán chính thức và nhiều phiên đàm phán giữa k - Ngày 4/8/2015: hai Bên tuyên bố Kết thúc cơ bản đàm phán EVFTA - Ngày 1/12/2015: hai Bên tuyên bố chính thức kết thúc đàm phán EVFTA - Ngày 1/2/2016: hai Bên công bố văn bản chính thức của EVFTA - Tháng 06/2017: hai Bên hoàn thành rà soát pháp lý ở cấp kỹ thuật - Ngày 26/6/2018: hai Bên thống nhất tách EVFTA làm hai Hiệp định, một là Hiệp định Thương mại (EVFTA), và một là Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA); chính thức kết thúc quá trình rà soát pháp l đối với Hiệp định EVFTA - Tháng 08/2018: hai Bên công bố chính thức hoàn tất việc rà soát pháp l đối với Hiệp định EVIPA. - Ngày 17/10/2018: Ủy ban châu Âu chính thức thông qua EVFTA và EVIPA - Ngày 30/6/2019: hai Bên chính thức ký kết EVFTA và EVIPA. Sau bước ký kết, hai Hiệp định sẽ phải trải qua quá trình phê chuẩn nội bộ ở EU và Việt Nam để có thể chính thức có hiệu lực với hai Bên. 1.1.2. Đối tác - EU là một liên minh gồm 28 quốc gia ở khu vực châu Âu và là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có FTA nào với các quốc gia trong khu vực này. - EU đã từng khởi động đàm phán FTA với khu vực ASEAN từ năm 2007, tuy nhiên đến năm 2009 đàm phán đã bị dừng lại. Về quan hệ song phương với từng quốc gia ASEAN, hiện EU đã hoàn tất đàm phán FTA với Singapore, kết thúc cơ bản đàm phán FTA với Việt Nam và đang đàm phán FTA với Thái Lan và Malaysia. - EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam. Đặc điểm nổi bật trong cơ cấu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU là tính bổ sung rất lớn, ít mang tính cạnh tranh đối đầu trực tiếp. 1.1.3. Các ĩnh vực cam kết chính trong EVFTA EVFTA là một FTA thế hệ mới, với phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao. Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ. Các lĩnh vực cam kết chính trong EVFTA bao gồm: Các lĩnh vực cam kết chính trong EVFTA bao gồm: 493
  3. - Thương mại hàng hóa, bao gồm: + Các quy định chung (gọi là cam kết lời văn) và + Các biểu cam kết thuế quan (cụ thể - gọi là cam kết mở cửa thị trường) - Quy tắc xuất xứ, bao gồm: + Các nguyên tắc xác định xuất xứ chung + Các quy tắc xuất xứ riêng cho những loại hàng hóa nhất định - Hải quan và thuận lợi hóa thương mại - Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) - Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) - Thương mại dịch vụ (lời văn về quy định chung và cam kết mở cửa thị trường) + Các quy định chung (gọi là cam kết lời văn) và + Các biểu cam kết mở cửa dịch vụ (cụ thể - gọi là cam kết mở cửa thị trường) - Đầu tư + Các nguyên tắc chung về đối xử với nhà đầu tư + Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài - Phòng vệ thương mại - Cạnh tranh - Doanh nghiệp nhà nước - Mua sắm của Chính phủ - Sở hữu trí tuệ - Phát triển bền vững (bao gồm cả môi trường, lao động), - Các vấn đề pháp lý - Hợp tác và xây dựng năng lực 1.1.4. Cam kết EVFTA đối với ngành da giày  Cam kết về thuế quan: Trong EVFTA, EU cam kết dành ưu đãi thuế nhập khẩu cho hàng giày dép Việt Nam như sau: - Loại bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực cho 37% số dòng thuế ngành giày dép (các loại giầy chống thấm cao su/nhựa, d p lê và d p đi trong nhà, nguyên phụ liệu ngành giày d p…). - Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm (phần lớn các loại giầy dép mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu thuộc nhóm này). Về phía Việt Nam, mức cam kết thuế quan dành cho sản phẩm ngành giày dép từ EU nhập khẩu như sau: - Khoảng 80% nhóm hàng này sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực (chủ yếu là các loại nguyên phụ liệu ngành giày dép, các loại giầy dép vải, các chất liệu khác). 494
  4. - Phần còn lại sẽ được xóa bỏ thuế sau từ 3 đến 5 năm (một số ít loại giầy dép da). Liên quan tới thuế xuất khẩu, Việt Nam có cam kết trong EVFTA loại bỏ thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu da (bao gồm cả da sống và da thuộc) trong vòng 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, thuế xuất khẩu đối với nhóm hàng này sẽ được cắt giảm dần về 0% từ mức thuế cơ sở hiện nay (1-10% tùy từng mã hàng).  Cam kết về quy tắc xuất xứ: Quy tắc xuất xứ đối với sản phẩm giày dép tuân thủ các quy định tại Chương 4 (quy tắc chung) và Phụ lục 4a (quy tắc riêng đối với từng nhóm hàng hóa, theo HS 02 số hoặc 04). Cụ thể, đối với sản phẩm giày dép, quy tắc xuất xứ áp dụng đối với trường hợp có một phần nguyên liệu không xuất xứ (hầu như tất cả giày dép xuất khẩu của Việt Nam đều là trường hợp này) như sau: - Đối với tất cả các sản phẩm thuộc Chương 64 (giày, d p, ghệt, ủng, các sản phẩm tương tự, các phần của các sản phẩm này) trừ sản phẩm mã 6406: Được sản xuất từ tất cả các loại nguyên liệu ở bất k mã HS nào, ngoại trừ việc lắp ráp mũ với đế thuộc mã 6406. - Đối với sản phẩm thuộc mã 6406 (các bộ phận của giày, d p): Được sản xuất từ tất cả các loại nguyên liệu ở bất k mã HS nào trừ chính mã HS của sản phẩm đó.  Cam kết về hàng rào kỹ thuật: EVFTA chủ yếu bao gồm các cam kết chung hợp tác, minh bạch hóa trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật (TBT); không có cam kết nào cụ thể liên quan tới các biện pháp TBT có thể ảnh hưởng tới giày dép ngoại trừ: - Các cam kết về ghi nhãn hàng hóa. - Hợp tác trong việc công nhận các quy trình đánh giá sự phù hợp của mỗi Bên. - Hậu kiểm. - Đối với Việt Nam: cam kết chấp nhận xuất xứ hàng hóa ghi chung ―Made in EU‖ hoặc ghi rõ xuất xứ từng nước trong EU đối với hàng hóa công nghiệp (trong đó có dệt may). Như vậy, về cơ bản, khi EVFTA có hiệu lực, EU và Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục chủ động trong việc áp dụng các biện pháp TBT đối với hàng nhập khẩu như hiện tại. Doanh nghiệp xuất khẩu vẫn sẽ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của bên nhập khẩu như trước đây. 2.2. Thực trạng ngành da giày Việt Nam thời gian qua Ngành da giày là một trong các ngành đem lại giá trị kinh tế cao, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Cả nước hiện có gần 3000 doanh nghiệp hoạt động trong ngành da giày với hơn 1 triệu lao động làm việc trong ngành thuộc da và 500 nghìn lao động trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Các cơ sở, nhà máy sản xuất da giày tập trung chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Nam như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Bình Dương, Đồng Nai… Đây là những vùng có số lao động tập trung đông nhất cả nước và có hệ thống giao thông cảng biển, hàng không, đường bộ thuận lợi cho hoạt động giao thương, vận tải. 495
  5. Năm 2014, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường EU với tổng kim ngạch gần 28 tỷ USD và nhập khẩu trở lại với giá trị tương ứng là hơn 23 tỷ USD. Đáng chú là các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang EU là giày d p, dệt may, thủy hải sản... kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 6 tỷ USD, tuy nhiên, nhóm giày d p đang chịu mức thuế bình quân là 11,9%, dệt may và thủy hải sản đang lần lượt chịu mức thuế là 9,6% và 5,69%. Cụ thể, ngành da giày Việt Nam đóng góp gần 8,5% tổng kim ngạch xuất khẩu và góp phần làm tăng GDP và cân bằng cán cân thương mại. Ngành đứng thứ 5 trong số các ngành xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Các khu vực sản xuất lớn nhất tập trung tại Hải Phòng, Hải Dương, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Cơ cấu xuất khẩu của nhóm hàng này được chia 35% cho thị trường EU, đứng thứ 2 là Mỹ (32,8%), Nhật (5,2%), Trung Quốc (4,9%). Năm 2014 thị trường EU đứng đầu các nước nhập khẩu giầy d p từ Việt Nam với trị giá 3,52 tỷ USD, tăng 17,3% so với năm 2013 và chiếm tới 34% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy d p của Việt Nam. Trong số 16/28 nước thuộc EU nhập khẩu giầy d p từ Việt Nam, nước nhập khẩu lớn nhất trong EU là Bỉ đạt 659,45 triệu USD, tăng 27,7%; Đức đạt 601,57 triệu USD, tăng 31,2%; Anh đạt 577,64 triệu USD, tăng 5,4%. Trong đó Bỉ, Đức, Hà Lan là các nước có tỷ lệ tái-xuất khẩu cao sang các nước thứ ba. Sở dĩ năm 2014, xuất khẩu giầy d p của Việt Nam sang EU tăng trưởng nhanh là nhờ từ 1/1/2014 mặt hàng giầy d p Việt Nam được hưởng Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU có hiệu lực trong 3 năm (1/1/2014 -31/12/2016), với thuế suất giảm 3 - 4% từ mức trước đó 13 - 14%, tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam so với sản phẩm của Trung Quốc và các nước khác. Theo báo cáo của Hiệp hội da giày, túi xách thì năm 2015 tăng trưởng của ngành luôn ở mức trên 10%. Giá trị xuất khẩu của da giày năm 2015 đạt trên 12,3 tỷ USD, tăng 17% so với cùng k 2014. Mặc dù có tổng giá trị xuất khẩu lớn (nằm trong top 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam), nhưng giá trị gia tăng của toàn ngành, nhất là đối với các doanh nghiệp trong nước lại thấp. Số liệu Tổng điều tra kinh tế 2017 đã cho thấy: Năm 2016, hoạt động gia công giày d p thu về 2,7 tỷ USD, chỉ chiếm 32% tổng phí gia công của Ngành, như vậy, hàng năm, Việt Nam tiêu tốn hàng tỷ USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất da giày. Tỷ lệ nội địa hóa ngành Da giày của Việt Nam mới ở mức 50%, chưa đủ để đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu của các FTA (hầu hết là 55%) đã k kết và đang trong quá trình đàm phán. Đối với sản phẩm giày d p da, tỷ lệ nội địa hóa thậm chí còn thấp hơn do phụ thuộc vào nguồn da thuộc nhập khẩu. Trong khi đó, theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017 các FTA đã có tác động không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể: 81,1% số doanh nghiệp được đánh giá có ảnh hưởng bởi FTA với cộng đồng kinh tế ASEAN, con số này với FTA Việt Nam - Nhật Bản là 69,1%, FTA Việt Nam - Hàn Quốc là 62,4%; FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu là 61%, FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu 57,6% và các hiệp định khác là 5,6%. Năm 2017, Việt Nam hiện đã vươn lên đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 3 về sản xuất da giày. Giá trị xuất khẩu các sản phẩm thuộc da của Việt Nam đạt 496
  6. hơn 18 tỷ USD; trong đó, riêng mặt hàng giày da đạt 16,4 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2016. Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Mỹ chiếm 36%, tiếp đến là EU với khoảng 30,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam hiện đã vươn lên đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 3 về sản xuất da giày. Năm 2017, giá trị xuất khẩu các sản phẩm thuộc da của Việt Nam đạt hơn 18 tỷ USD; trong đó, riêng mặt hàng giày da đạt 16,4 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2016. Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Mỹ chiếm 36%, tiếp đến là EU với khoảng 30,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo thống kê của Hiệp hội Da - giày - túi xách Việt Nam (Lefaso), tính đến hết năm 2018, ngành Da giày Việt Nam đã có thị trường tiêu thụ rộng khắp với hơn 100 quốc gia, trong đó có 72 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất, chiếm trên 82,3% tổng kim ngạch xuất khẩu da giày năm 2018. Đáng lưu là, giá xuất khẩu da giày của Việt Nam cao gấp khoảng 1,6 lần giá trung bình của thế giới. Điều này cho thấy, Việt Nam có khả năng sản xuất các mặt hàng cao cấp, chất lượng sản phẩm mang tính cạnh tranh cao và được thế giới công nhận. Tuy nhiên, hiện nay sản xuất của ngành Da giày vẫn chủ yếu theo hình thức gia công xuất khẩu (có tới 60- 70% doanh nghiệp trong tổng số doanh nghiệp da giày sản xuất theo hình thức gia công) với nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào theo chỉ định của khách hàng nhập khẩu. Do đó, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp và phụ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp từ nước ngoài. Cũng theo số liệu của Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam (Lefaso) trong 6 tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày đạt trên 10,33 tỷ USD. Trong đó, giày d p đạt 8,53 tỷ USD, túi xách đạt 1,8 tỷ USD. Hiện tại, Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm giày dép tới trên 100 nước. Trong đó 50 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. 5 thị trường có kim ngạch lớn nhất, chiếm trên 82,3% tổng kim ngạch xuất khẩu gồm Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đáng chú , đứng đầu danh sách thị trường tỷ USD tiêu thụ giày dép của Việt Nam là Mỹ, EU. Trong 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu sang Mỹ đạt gần 4 tỷ USD, trong đó, mặt hàng giày d p đạt hơn 3,2 tỷ USD, tăng 36,7%, túi xách đạt 775 triệu USD, tăng 42,4% so với cùng kì năm 2018. Thị trường EU ước đạt hơn 2,83 tỷ USD, trong đó mặt hàng giày dép đạt hơn 2,3 tỷ USD, tăng 27,8%; túi xách đạt gần 470 triệu USD, tăng 26%. Năm 2019, khi có thêm một số Hiệp định thương mại được k và có hiệu lực, các chuyên gia dự kiến xuất khẩu da giày Việt Nam sẽ đạt đến con số 21,5 tỷ USD, tăng trên 10% so với năm 2018. Tuy nhiên, cơ hội và thách thức là hai mặt trái ngược luôn đồng hành với nhau, đòi hỏi các doanh nghiệp da giày phải nắm bắt được thời cơ và thấy được thách thức để tìm phương án vượt qua. 3. Cơ hội và thách thức đối với ngành da giày của Việt Nam 3.1. Cơ hội cho ngành da già Việt Nam So với các đối thủ cạnh tranh khác, sản phẩm giày, d p của Việt Nam được hưởng chênh lệch thuế 3,5 - 4,2% khi xuất khẩu vào EU nên tạo lợi thế cạnh tranh rất lớn. Lượng 497
  7. đơn hàng dịch chuyển về Việt Nam là rất nhiều và vấn đề là doanh nghiệp trong nước sẽ đón nhận cơ hội từ Hiệp định này ra sao? Việt Nam đang là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giày d p của Việt Nam tăng liên tục trong những năm qua. Việt Nam đang là thị trường hứa hẹn tiềm năng khi đang trong giai đoạn tăng trưởng cao và là nền kinh tế mới nổi dưới con mắt của nhà đầu tư và kinh doanh EU. Chúng ta có sức nặng để thương lượng với họ. Trước mắt chúng ta có lợi thế nhất định so với các nước khác trong khu vực về các ngành hàng xuất khẩu, đơn cử như da giày đã sang bằng lợi thế về thuế, vấn đề còn lại là kỹ thuật. Đặc biệt, về phần điều kiện, nếu như dệt may gặp khó bởi quy tắc xuất xứ từ vải trở đi, thì những yêu cầu của EU trong EVFTA lại giúp cho da giày "rộng cửa" hơn. "EVFTA cho ph p các doanh nghiệp da giày Việt Nam sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, chỉ yêu cầu từ khâu giặt, may, lắp ráp, đóng gói là phải thực hiện tại Việt Nam. Mặt khác, khi EVFTA có hiệu lực, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu để hưởng ưu đãi theo xuất xứ. Nhờ đó, Việt Nam có thể cải thiện được nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm. Hiện tại, các sản phẩm giày d p của Việt Nam phải chịu mức thuế trung bình 3 - 4% trên thị trường EU theo GSP (hệ thống ưu đãi phổ cập). Theo đó, ngay khi hiệp định có hiệu lực khoảng 37% số dòng thuế nhập khẩu đã được xóa bỏ. Trong đó, chủ yếu là đối với giày không thấm nước có đế bằng cao su hoặc nhựa, d p và giày d p trong nhà khác. Phần còn lại sẽ giảm dần xuống 0% trong vòng 3 - 7 năm kể từ mức khởi điểm 5 - 8%, hầu hết giày d p Việt Nam xuất khẩu sang EU thuộc nhóm này. Tuy nhiên, trong 2 năm đầu sau khi EVFTA có hiệu lực, nhiều sản phẩm giày d p chưa thể hưởng lợi ngay lập tức vì thuế suất khởi điểm đối với một số dòng sản phẩm giày d p của Việt Nam xuất khẩu sang EU sẽ cao hơn mức thuế hiện tại theo GSP. Khi mức thuế đối với giày d p Việt Nam giảm xuống 0%, mặt hàng này sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn 3,5 - 4,2% so với các sản phẩm giày d p Trung Quốc khi xuất khẩu sang thị trường EU và điều này sẽ tạo lợi thế cạnh tranh lớn cho Việt Nam. Việt Nam nằm trong top 4 nước sản xuất giầy d p lớn nhất thế giới, là nước xuất khẩu lớn thứ 3 trên thế giới (về trị giá) thứ 2 về số lượng sau Trung Quốc và Italia. Với lợi thế là được hưởng Chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) cùng lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công r (trung bình 181 USD/tháng), bằng khoảng một nửa so với Trung Quốc... Các doanh nghiệp đã thức được sự cần thiết đáp ứng các yêu cầu về tổ chức sản xuất, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, duy trì và phát triển quan hệ bạn hàng, đáp ứng các yêu cầu vệ sinh, môi trường và nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Hiện ngành sản xuất giày d p của thế giới tiếp tục xu hướng chuyển dịch đầu tư sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường kinh doanh thuận lợi, chính trị ổn định, trong đó có Việt Nam. 498
  8. Khi EVFTA có hiệu lực, hàng rào thuế quan đối với giầy d p Việt Nam nhập khẩu vào EU sẽ giảm dần về 0% theo lộ trình, Việt Nam sẽ có cơ hội lớn để tăng kim ngạch và thị phần xuất khẩu tại EU. Dự kiến tăng gấp đôi lượng kim ngạch hiện nay. Nhờ đó giúp tăng khả năng cạnh tranh so với các nước – thu hút nhiều đơn hàng, tạo ra nhiều công ăn việc làm, sử dụng nhiều lao động. Về khía cạnh thu hút đầu tư nước ngoài,với việc k kết EVFTA, nhiều nhà đầu tư nước ngoài khác cũng đang có động thái tìm hiểu khả năng đầu tư sản xuất giầy d p tại Việt Nam đón đầu các FTA để hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu. Dù chưa ồ ạt nhưng doanh nghiệp FDI có thể triển khai rất nhanh, nhờ có tiềm lực mạnh về tài chính. Với dân số tr , lương tối thiểu thấp hơn Trung Quốc và năng suất lao động trong ngành da giầy tại Việt Nam tương đối ngang bằng so với các nước trong khu vực, cộng với việc nhìn thấy lợi ích từ EVFFTA, Việt Nam có điều kiệu thu hút đầu tư nước ngoài. Đó là cơ hội thu hút đầu tư từ các nước EU vào các lĩnh vực máy móc thiết bị, thuộc da vốn là điểm mạnh từ các nước EU tạo nền tảng cơ sở hạ tầng cho ngành có cơ hội tiếp cận công nghệ sản xuất giày cao cấp lâu đời. Ngoài ra, hiện các doanh nghiêp da giầy chủ yếu vẫn nhập nguyên phụ liệu đầu vào. Nay với EVFTA và các FTA khác, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu để hưởng ưu đãi theo xuất xứ, nhờ đó Việt Nam có thể cải thiện được nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm. Đây là cơ hội lớn, giúp ngành da giày khắc phục điểm yếu là phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. 3.2. Thách thức đối với ngành da giày Việt Nam Hiện ngành da giày trong nước vẫn đang có những điểm yếu cơ bản như thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu năng lực quản trị và năng suất lao động thấp. Đáng chú , tỉ lệ sản xuất gia công của ngành da giày Việt Nam còn cao, chiếm tới 70%, nên lợi nhuận thấp và hạn chế sự năng động của doanh nghiệp. Dây chuyền, máy móc cũ và công suất thấp đang là những yếu tố khiến doanh nghiệp da giày Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, không chỉ vấn đề về giá, về chất lượng, thị trường EU còn đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam có thức bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, nâng cao tự động hóa trong sản xuất và có những sản phẩm đặc trưng. Công tác tiếp thị, phát triển thị trường, thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm yếu k m. Mặt khác, các rào cản kỹ thuật áp đặt từ phía EU, cùng với các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, tuân thủ các thủ tục để được hưởng lợi thế FTA làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Trong khi đó, hiện tỷ lệ nội địa hóa trên sản phẩm xuất khẩu chỉ đạt 40%, công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển nên nguyên phụ liệu (gồm cả da thuộc, vải làm giầy, đế giầy) phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài trên 60%, chủ yếu từ Trung Quốc. Chi phí đầu vào cao (điện, nước, nguyên phụ liệu, vận tải...), chi phí nhân công tăng cao do sức p tăng tiền lương tối thiểu hàng năm (năm 2014 tăng 17%, năm 2015 tiếp tục tăng 15%). 499
  9. Cùng với đó, dù da giày là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, nhưng thị phần xuất khẩu lại hầu hết đang nằm trong tay các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện khối doanh nghiệp FDI đóng góp tới trên 80% trong tỉ trọng xuất khẩu toàn ngành. Trong 20% doanh nghiệp lớn của ngành da giày hiện nay, chỉ có vài doanh nghiệp Việt Nam. Nguyên nhân xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI liên tục tăng cao là do các doanh nghiệp này mở rộng công suất và xây dựng các nhà máy mới tại Việt Nam nhằm đón đầu cơ hội được giảm thuế từ các hiệp định thương mại tự do. Hiện, EU đang chiếm khoảng 30% thị trường xuất khẩu từ Việt Nam, sản phẩm da giày đang được EU cấp quy chế ưu đãi thuế quan (GSP) với mức thuế suất dao động dưới 8%, nhưng ngay khi EVFTA được k và có hiệu lực, GSP sẽ được bỏ ngay. Chỉ các doanh nghiệp xuất khẩu nào đạt yêu cầu theo quy định của EVFTA mới được hưởng mức thuế suất thấp và ngược lại, sẽ phải chịu mức thuế cao. Với các doanh nghiệp lớn, có sự chuẩn bị tốt thì không có gì trở ngại, tuy nhiên, với các doanh nghiệp có sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, nếu doanh nghiệp không nâng cao quy mô, năng lực sản xuất nội tại, không đáp ứng được điều kiện sẽ không tận dụng được cơ hội này. Một trong những thách thức khác đối với các doanh nghiệp Việt Nam là chứng minh xuất xứ nguyên liệu đầu vào. Mặc dù là ngành xuất khẩu chủ lực, nhưng giá trị gia tăng của ngành da giày còn chưa cao do phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Trong khi EVFTA có quy định nguồn gốc xuất xứ với giá trị nguyên phụ liệu sản xuất nội địa là 55%, ngành da giày Việt Nam mới tự chủ được khoảng 50% nguyên phụ liệu, vì vậy, tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm được sản xuất bởi các doanh nghiệp Việt Nam phải được nâng lên bằng mức yêu cầu của EVFTA để đáp ứng được điều kiện về quy tắc xuất xứ trong hiệp định, giúp giảm chi phí logistics và nâng cao sự chủ động của doanh nghiệp Việt. Song song với đó, các doanh nghiệp da giày Việt Nam có thể gặp rủi ro từ việc Mỹ sẽ truy xuất nguồn gốc nguyên liệu và áp thuế bổ sung nếu sản phẩm đó có nguồn gốc nguyên liệu từ Trung Quốc, mà Trung Quốc lại đang là một trong những nước cung cấp nguyên phụ liệu lớn nhất của Việt Nam với giá trị trên 100 triệu USD. Do vậy, muốn giữ chân được mối khách hàng lớn này, trước khi tự chủ được nguồn nguyên phụ liệu, ngành da giày cần mở rộng thị trường nhập khẩu nguyên phụ liệu, nhất là với những nước thứ 3 có chung cam kết FTA với nước nhập khẩu sản phẩm để tận dụng ưu đãi nguồn gốc. Mặc dù có lực lượng lao động dồi dào nhưng năng suất lao động của Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều so với các nước như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia… trong khi chi phí nhân công ngày càng tăng. Đây cũng là một thách thức đối với các doanh nghiệp da giày. Ngoài ra, yêu cầu về nâng cấp trang thiết bị, máy móc hiện đại, tăng cường chuyển giao công nghệ, tự động hóa, đào tạo nâng cao năng lực chuyên gia hoạt động trong ngành cũng là những bài toán lớn đang tìm lời giải của ngành da giày Việt Nam khi tham gia các FTA. 500
  10. Việc thu hút đầu tư nước ngoài từ các quốc gia EU, cũng là một trong các rào cản cho ngành cần thiết đầu tư để có thể cạnh tranh Trung Quốc khi đến năm 2015, thị trường khu vực Asean sẽ mở rộng cửa cho hàng hóa Trung Quốc xâm nhập sâu thì sẽ phát sinh các công ty Trung Quốc núp bóng dưới hình thức pháp l của công ty quốc tịch Indonesia, Thái Lan… để xuất hàng vào EU. Ngành da giày còn đối mặt với cạnh tranh từ các nước Asean có ngành da giày phát triển như Indonesia, Thái Lan. Do mức giảm thuế bằng 0% nên gây khó khăn cho sản xuất nội địa vốn mỏng manh nay càng khó hơn do tâm l chuộng hàng hóa xuất xứ từ châu Âu, hàng nội địa cạnh tranh không lại. Hàng hóa xuất vào EU yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra cho doanh nghiệp sức p cạnh tranh lớn cần phải đầu tư phát triển công nghệ, chất lượng để đáp ứng. Không những thế, hiện nay các chính sách hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ cho doanh nghiệp không còn phù hợp với quy đinh của EVFTA. Việc hỗ trợ chỉ có thể thông qua đào tạo nguồn nhân lực và chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ, trong đó có ưu đãi về thuế, giá thuê đất, lãi suất vay ngân hàng… Tuy nhiên đến nay Bộ Công Thương vẫn còn trong giai đoạn lấy kiến về dự thảo Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực ngành da giầy cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. 4. Một số đề xuất, iến nghị Mục tiêu cụ thể của ngành da giày Việt Nam: Giai đoạn 2020-2025 tăng trưởng giá trị gia tăng ngành da giày đạt khoảng 6,0 đến 6,5%/năm; tăng trưởng xuất khẩu đạt 15%/năm; tỷ lệ nội địa hóa đạt 65%. Nguồn nhân lực được đầu tư và phát triển về chiều sâu, giảm dần lao động phổ thông, đơn giản. Giai đoạn 2025-2030, tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành da giày đạt khoảng 8%/năm; tăng trưởng xuất khẩu đạt 10%/năm; tỷ lệ nội địa hóa đạt 65 đến 70%. Chất lượng nguồn nhân lực được chuẩn hóa và nâng cao. Vậy cần phải có những chính sách cũng như giải pháp như thế nào từ phía Nhà nước và các doanh nghiệp để ngành da giày có thể đạt được những mục tiêu nêu trên. Sau đây, bài viết xin nêu ra một số đề xuất, kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước và về phía các doanh nghiệp. 4.1. Về phía các cơ quan Nhà nước Trước thực trạng trên, Nhà nước cần có các chính sách, giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhằm tiết kiệm chi phí, nguồn lực, phát triển chuỗi cung ứng, tạo liên kết đáp ứng nhu cầu sản xuất, xuất khẩu; có các chính sách đầu tư bài bản vào cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực và vật lực. Ngành Da giày Việt Nam cần sớm chủ động nguồn nguyên phụ liệu để từng bước gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu, tận dụng tối đa được các lợi ích do các FTA mang lại để giữ vững tốc độ phát triển, tiếp tục là điểm sáng cho xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế đất nước. Doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo quy tắc xuất xứ và hàm lượng nội địa hóa; Tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh; Cải thiện năng lực thể chế; Hỗ trợ các thương hiệu quốc gia, khả năng xuất khẩu và phân phối... 501
  11. Cần kiến nghị các thành phố lớn hỗ trợ ngành da giày 15 - 20 ha để xây dựng cụm công nghiệp, tập hợp doanh nghiệp trong ngành vào đó nhằm liên kết hoạt động, chia s nguyên liệu, đơn hàng để cùng thực hiện đơn hàng lớn. Đồng thời, cần sự hỗ trợ để doanh nghiệp da giày tiếp cận chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của nhà nước và của các tỉnh, thành phố. Để giảm chi phí tuân thủ các tiêu chuẩn (SPS và TBT) của EU, Việt Nam cần chủ động k kết các thỏa thuận công nhận chung và thỏa thuận tương đương trong từng trường hợp cụ thể với EU. Việc đạt được các thỏa thuận như vậy, đặc biệt trong những lĩnh vực mà hàng xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội tiếp cận thực sự hoặc còn ở dạng tiềm năng vào thị trường EU, sẽ mang lại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu và kinh doanh Việt Nam những lợi thế so sánh lớn, được ưu tiên tiếp cận thị trường, những lợi thế này có thể tương đương hoặc thậm chí lớn hơn những nhượng bộ thuế quan trong FTA. Bên cạnh đó, Nhà nước cần giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức trong việc đối phó với những rào cản phi thuế quan, hoặc đàm phán lại với đối tác nhập khẩu để họ hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua rào cản. Ví dụ, thị trường EU đưa ra những tiêu chuẩn mới về hóa chất sử dụng trong các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam, nhưng EU cũng sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để giúp doanh nghiệp nắm bắt những điểm mới này. Mỗi thiết chế cần được thiết kế phù hợp với tính chất, chức năng và đảm bảo tính khả thi trong triển khai (ví dụ thiết chế phục vụ việc kiểm soát quá trình điều chỉnh pháp luật thực thi EVFTA cần được thiết kế ở cấp Chính phủ, đủ khả năng bao quát hoạt động pháp luật của tất cả các Bộ ngành; hoặc thiết chế có chức năng làm đầu mối tư vấn, giải thích, hướng dẫn về các cam kết EVFTA phải có đủ thẩm quyền chính thức để đảm bảo hiệu lực của các tư vấn, giải thích liên quan). Tóm lại, với tính chất là một FTA thế hệ mới, EVFTA đặt ra những thách thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong đàm phán mà cả trong quá trình thực thi, đặc biệt là từ góc độ thiết chế. Việc chuẩn bị các yếu tố cần thiết cũng như xây dựng các tiêu chí, dự liệu các giải pháp để vượt qua các thách thức này, thực thi tốt EVFTA là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể đạt được những lợi ích k vọng từ FTA quan trọng này. Các chính sách hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ cho doanh nghiệp cần điều chỉnh cho phù hợp với quy định của EVFTA. Việc hỗ trợ có thể thông qua đào tạo nguồn nhân lực và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, trong đó có ưu đãi về thuế, giá thuê đất, lãi suất vay ngân hàng… 4.2. Về phía doanh nghiệp Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động cập nhật thông tin về các cơ hội thị trường mà EVFTA mang lại, đặc biệt là thông tin về ưu đãi thuế liên quan đến hàm lượng giá trị gia tăng nội địa của các hàng hóa, dịch vụ và các hàng rào kỹ thuật khác. Từ đó, đóng góp kiến trong quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA để đảm bảo được lợi ích chính đáng. 502
  12. Điều quan trọng không k m nữa là, doanh nghiệp phải nỗ lực đổi mới thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã và phải xây dựng được thương hiệu quốc tế của mình, khẳng định vị trí trên sân nhà và tận dụng các cơ hội vươn ra thị trường EU, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững trong dài hạn . Doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo quy tắc xuất xứ và hàm lượng nội địa hóa; Tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh; Cải thiện năng lực thể chế; Hỗ trợ các thương hiệu quốc gia, khả năng xuất khẩu và phân phối...Giảm thuế là chưa đủ, Việt Nam cần ―nắm bắt‖ phần giá trị gia tăng lớn hơn từ việc tạo lập một thương hiệu quốc gia thân thiện với môi trường và xã hội (người tiêu dùng EU) thông qua các kênh phân phối tại EU. Thêm nữa doanh nghiệp cần lường lường trước những điều chỉnh xuất phát từ FTA với EU (lao động, môi trường, quyền sở hữu trí tuệ...). Các doanh nghiệp cũng cần lưu : EU không phải là mục tiêu duy nhất, đặc biệt khi Việt Nam là một trong những nước hội nhập nhất trên thế giới. Thị trường nội địa sẽ được hưởng lợi từ cải cách thể chế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thị Đào (2017), Nghiên cứu giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may – da giày của Việt Nam trong bối cảnh mới, Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại thuộc Bộ Công Thương. 2. Nguyễn An Hà (2013), Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam-EU: Cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu Châu Âu, (5), 12. 3. Nguyễn Thị Mai (2019), Ngành da giày Việt Nam năm 2019 – Những cơ hội và thách thức do FTAs mang lại, Tạp chí Con số và sự kiện. 4. Thúy Ngọc ( 2015), EVFTA: Thách thức lớn với ngành da giày, Báo Công Thương,http://baocongthuong.com.vn/evfta-thach-thuc-lon-voi-nganh-da-giay.html. 5. Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI (2013), Cơ hội cho ngành da giày khi đối thoại FTA với EU ký kết. 6. Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI (2019), Tóm ược Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA). 7. Đinh Công Tuấn (2013), Hiệp định mậu dịch tự do (FTA) Việt Nam – EU trợ lực cho quan hệ hợp tác kinh tế song phương. Nghiên cứu Châu Âu, (11), 14. 8. Lê Vân (2016), Cơ hội ớn cho ngành da giày trong năm 2016, Tạp chí Kinh tế và dự báo, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/100-4982-co-hoi-lon-cho-nganh-da-giay-trong-nam- 2016.html. 503
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2