intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Fintech development and its impact on Vietnam’s financial sector

Chia sẻ: Dạ Thiên Lăng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu "Fintech development and its impact on Vietnam’s financial sector" sử dụng kết hợp phương pháp thống kê và mô tả để làm sáng tỏ nguyên nhân ra đời và sự phát triển Fintech trong những năm gần đây. Số liệu và nhận định trong bài viết được trích dẫn từ các tổ chức quy mô lớn, có uy tín để tăng độ tin cậy và cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tăng trưởng tiềm năng của lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Fintech development and its impact on Vietnam’s financial sector

  1. FINTECH DEVELOPMENT AND ITS IMPACT ON VIETNAM’S FINANCIAL SECTOR TS. Trẩm Bích Lộc1, ThS. Dương Thị Mai Phương2, ThS. Lê Thông Tiến2 Abstract: Introduction: Fintech stands for financial technology, which is a widely used term that encompasses all companies leveraging technology to provide financial services. It can be regarded as a product of the Fourth Industrial Revolution within the financial and banking operations. Fintech encompasses various concepts, but it can be divided into six main segments: Payments, Insurtech, Regtech, Cybersecurity, Wealthtech, and Blockchain/ cryptocurrency. Fintech has attracted substantial investment in recent years. However, in 2022, the investment amount experienced a decline compared to 2021, with variations observed across the six segments. So, what prompted the emergence of Fintech? What are the trends in its development? And what is the impact of Fintech on the financial sectors in Vietnam? These are the specific issues that will be explored and elaborated upon. Methods: This study employs a blend of statistical and descriptive methodologies to elucidate the factors behind the emergence and progression of Fintech in recent years. The article draws upon data and commentary from well-established, reputable organizations to enhance credibility and offer valuable perspectives on the prospective expansion of the Fintech industry in Vietnam. Keywords: Fintech, Finance, Banking SỰ PHÁT TRIỂN FINTECH VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM Tóm tắt: Fintech là viết tắt của cụm từ Financial Technology - công nghệ tài chính, đây là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để chỉ tất cả các công ty tận dụng công nghệ để cung cấp dịch vụ tài chính. Fintech được xem là sản phẩm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong hoạt động tài chính, ngân hàng. Fintech bao gồm nhiều khái niệm khác nhau, nhưng có thể được chia thành sáu phân khúc chính dựa trên lĩnh vực hoạt động, gồm: Thanh toán (Payments), Công nghệ bảo hiểm (Insurtech), Công nghệ quy định (Regtech - Regulatory Technology), An ninh mạng (Cybersecurity), Công nghệ quản lý tài sản (Wealthtech) và Blockchain/tiền điện tử (cryptocurrency). Fintech đã thu hút đầu tư đáng kể trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vào năm 2022, số tiền đầu tư đã giảm so với năm 2021, với sự khác biệt đáng kể trên sáu phân khúc. Vậy điều gì đã thúc đẩy sự ra đời của Fintech? Xu hướng phát triển của nó là gì? Và tác động của Fintech tới lĩnh vực tài chính ở Việt Nam hiện nay ra sao? Đây là những vấn đề cụ thể sẽ được tìm hiểu và làm rõ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp thống kê và mô tả để làm sáng tỏ nguyên nhân ra đời và sự phát triển Fintech trong những năm gần đây. Số liệu và nhận định trong bài viết được trích dẫn từ các tổ chức quy mô lớn, có uy tín để tăng độ tin cậy và cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tăng trưởng tiềm năng của lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Từ khóa: Fintech, tài chính, ngân hàng 1. KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH Fintech (Financial Technology), ứng dụng công nghệ số vào dịch vụ tài chính, đang định hình lại tương lai của ngành tài chính. Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh sức mạnh biến đổi của công nghệ kỹ thuật số, cách mạng hóa các khoản thanh toán, cho vay, đầu tư, bảo hiểm cũng như các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác (Feyen và ctg, 2023). Trong học thuật tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về Fintech. PwC (2016) định nghĩa Fintech là sự hội tụ của dịch vụ tài chính và công nghệ, liên quan đến các doanh nghiệp mới thành lập và các công ty khởi nghiệp tận dụng công nghệ để nâng cao và cách mạng hóa các sản phẩm và dịch vụ do các tổ chức tài chính truyền thống cung cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018) định 1 Trường Đại học Văn Lang, Email: loc.tb@vlu.edu.vn. 2 Trường Đại học Sài Gòn.
  2. 514 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM nghĩa Fintech là việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến và hiện đại trong lĩnh vực tài chính, bao gồm các đơn vị như ngân hàng, nhà cung cấp bảo hiểm, quỹ đầu tư, dịch vụ thanh toán và cơ sở hạ tầng tài chính. Mục tiêu chính là cung cấp cho khách hàng các giải pháp và dịch vụ tài chính minh bạch, hiệu quả và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính truyền thống. Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS, 2018) mô tả Fintech là những đổi mới tài chính được hình thành trên nền tảng công nghệ, tạo ra các mô hình kinh doanh, ứng dụng, quy trình và sản phẩm mới; những đổi mới này có tác động rõ rệt đến thị trường tài chính, các tổ chức và gói dịch vụ tài chính được cung cấp. Sự phát triển của Fintech có thể được theo dõi qua ba giai đoạn riêng biệt, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những cột mốc quan trọng. Fintech 1.0 (1866 – 1987) đặt nền móng cho những tiến bộ tiếp theo. Năm 1866, việc thiết lập thành công tuyến cáp xuyên Đại Tây Dương đã tạo cơ sở hạ tầng nền tảng cho làn sóng toàn cầu hóa tài chính vào cuối thế kỷ 19. Việc lắp đặt tuyến cáp xuyên Thái Bình Dương vào năm 1870 và các kết nối tương tự khi bắt đầu Thế chiến thứ nhất đã góp phần hơn nữa vào sự phát triển của công nghệ tài chính. Sự ra đời của Máy rút tiền tự động (ATM) của Ngân hàng Barclays vào năm 1967 đã đánh dấu một bước ngoặt, báo hiệu buổi bình minh của Fintech hiện đại. Năm 1981 chứng kiến sự ra đời của Home Banking của Citibank và Chase Manhattan, mở ra một kỷ nguyên chuyển đổi nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính. Fintech 2.0 (1987 – 2008) chứng kiến sự trưởng thành của các dịch vụ tài chính số, nơi công nghệ trở thành một phần không thể thiếu trong việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Sự ra đời của cuộc cách mạng Internet vào đầu những năm 1990 đã có tác động sâu sắc đến thị trường tài chính toàn cầu, giúp giảm chi phí, tái cấu trúc bối cảnh dịch vụ tài chính và xúc tác cho tài chính điện tử (E-Finance). Fintech 3.0 (2009 đến nay) hiện thực hóa tiềm năng biến đổi của Fintech, với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đóng vai trò là chất xúc tác cho sự tăng trưởng theo cấp số nhân. Cuộc khủng hoảng đã làm xói mòn niềm tin của công chúng vào lĩnh vực ngân hàng và dẫn đến tình trạng mất phần lớn việc làm của các chuyên gia tài chính. Cùng với làn sóng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp cao, họ đã bị thu hút vào ngành công nghiệp Fintech 3.0 đang phát triển. Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Khởi sự Kinh doanh (The Jump Start Our Business Act - JOBS) năm 2012 nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp và đổi mới kinh doanh bằng đa dạng hóa phương thức thu hút vốn, đã thúc đẩy sự phổ biến của Fintech. Trên toàn cầu, sự tiến bộ nhanh chóng của Fintech được chứng minh qua sự gia tăng số lượng các công ty khởi nghiệp Fintech từ năm 2010 đến năm 2016 (Mokyr, 2015; Lê và Anh, 2021). Năm 2018, IMF và Ngân hàng Thế giới đã đưa ra Chương trình nghị sự Bali Fintech, để giúp các quốc gia thành viên khai thác lợi ích và cơ hội của những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ tài chính, đồng thời quản lý các rủi ro liên quan. Sự xuất hiện của Fintech được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, như sự thay đổi trong xu hướng xã hội, niềm tin suy giảm vào hệ thống tài chính thông thường, hành vi người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi qua các thế hệ và mức độ số hóa ngày càng tăng trong nền kinh tế kỹ thuật số. Những tiến bộ công nghệ đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của Fintech, với hai động lực cơ bản. Thứ nhất, khả năng kết nối vạn vật thông qua thiết bị di động, thiết bị kết nối internet và
  3. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 515 mạng truyền thông đã cách mạng hóa cách thức truy cập và phân phối các dịch vụ tài chính. Thứ hai, điện toán và lưu trữ dữ liệu chi phí thấp đã cho phép phát triển các mô hình kinh doanh mới, chẳng hạn như điện toán đám mây, cung cấp các giải pháp hiệu quả và có thể mở rộng. Những tiến bộ này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo và phân tích lượng dữ liệu khổng lồ, thông qua các ứng dụng như thương mại điện tử và ứng dụng di động. Việc khai thác dữ liệu này để thu thập thông tin chuyên sâu đã thúc đẩy hơn nữa sự tăng trưởng và đổi mới trong ngành Fintech (Feyen và ctg, 2023). 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY FINTECH Các công ty Fintech có những đặc tính cơ bản sau: Fintech tận dụng các công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây (cloud computing), trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence), ứng dụng di động (mobile applications), phân tích dữ liệu lớn (big data analytics), chuỗi khối (blockchain) và công nghệ sổ cái phân tán (DLT - Distributed Ledger Technology), và điện toán lượng tử (quantum computing). Mặc dù một số công nghệ này đã tồn tại trong nhiều thập kỷ nhưng chúng đã trải qua quá trình cải tiến và phát triển. Khía cạnh quan trọng của Fintech nằm ở việc ứng dụng các công nghệ này để cung cấp dịch vụ tài chính cho người tiêu dùng. Fintech có tiềm năng tăng cường, cách mạng hóa hoặc thậm chí phá vỡ các mô hình kinh doanh thông thường về cơ chế giám sát, phương pháp phát triển và phân phối sản phẩm. Về cơ bản, nó định hình lại bối cảnh phát triển dịch vụ tài chính cả về rủi ro và lợi ích. Được hỗ trợ bởi cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Fintech đang thay đổi cách người tiêu dùng thực hiện giao dịch, mở rộng khả năng tiếp cận nhiều loại dịch vụ tài chính và góp phần thu hẹp khoảng cách kinh tế xã hội; điều này khiến Fintech khác biệt với các làn sóng đổi mới công nghệ trước đây chủ yếu tập trung vào thuộc tính sản phẩm. Một đặc điểm khác biệt của Fintech là nó nhấn mạnh vào việc thiết lập mạng ngang hàng phi tập trung, cho phép chia sẻ và đồng bộ hóa dữ liệu mà không cần sự giám sát của chính quyền trung ương; khác biệt rõ rệt so với các ứng dụng công nghệ trước đó dựa vào quản lý trên nền tảng cơ sở dữ liệu tập trung (Sổ cái trung tâm). Nền tảng hệ thống tài chính hợp tác này giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả cho người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ tài chính (Schwuab, 2016; Schwab và Davis, 2018; Lê và Anh, 2021). Công nghệ đóng vai trò then chốt trong việc giảm chi phí đồng thời nâng cao tốc độ, sự rõ ràng, bảo mật và khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính. Số hóa giúp giảm bớt những trở ngại trong suốt vòng đời dịch vụ tài chính, từ thiết lập tài khoản ban đầu đến thẩm định khách hàng, xác thực giao dịch và các thủ tục tự động như đánh giá mức độ tín nhiệm. Kết quả là, Fintech thể hiện chi phí gia tăng tối thiểu trên mỗi tài khoản hoặc giao dịch, cùng với tính kinh tế nhờ quy mô. Hơn nữa, Fintech tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin bằng cách tạo ra các tập dữ liệu toàn diện. Những dữ liệu này cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về hành vi của người tiêu dùng, cải thiện việc cung cấp sản phẩm, quản lý rủi ro và đảm bảo tuân thủ quy định. Bằng cách giảm chi phí và vượt qua các rào cản địa lý, Fintech tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng tiếp cận các dịch vụ tài chính, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. Ban đầu, đầu tư Fintech tập trung vào các thị trường phát triển như Hoa Kỳ và Châu Âu. Tuy nhiên, đã có sự thay đổi đáng chú ý đối với các thị trường châu Á mới nổi, trong đó Singapore dẫn đầu. Các quốc gia
  4. 516 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM như Việt Nam, nơi phần lớn dân số chưa được tiếp cận với các dịch vụ tài chính thông thường, là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của Fintech. Estonia và Ấn Độ là những ví dụ đáng chú ý, nơi danh tính (ID) kỹ thuật số do chính phủ cung cấp đã trở thành một phần không thể thiếu của cơ sở hạ tầng nền tảng, tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ tài chính và thiết yếu. Ở hầu hết các quốc gia, các nhà đổi mới trong khu vực tư nhân đã tích hợp dịch vụ xác minh ID kỹ thuật số với ID chính phủ phi kỹ thuật số hiện có. Ngoài ra, công nghệ đã mở rộng phạm vi bao phủ và tác động đến cơ sở hạ tầng hiện có, chẳng hạn như hệ thống thông tin tín dụng và cơ quan đăng ký tài sản thế chấp (Feyen và ctg, 2023). 3. SỰ PHÁT TRIỂN FINTECH TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM Năm 2021 là năm lĩnh vực Fintech toàn cầu đạt đỉnh chưa từng có cả về tổng vốn đầu tư lẫn số lượng giao dịch, với số liệu lần lượt là 247,2 tỷ USD và 7.843 giao dịch. Song năm 2022 lại chứng kiến ​​ sụt giảm nhẹ, tổng vốn đầu tư và khối lượng giao dịch lần lượt là 209,3 tỷ sự USD và 7.143. Sự sụt giảm hoạt động đầu tư này có thể là do những lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu đã được nhiều chuyên gia dự đoán trước. Bất chấp sự suy thoái tương đối này, năm 2022 vẫn là năm mạnh thứ ba về số vốn đầu tư và cao thứ hai về khối lượng giao dịch vào Fintech được ghi nhận. Hình 1. Tổng vốn đầu tư toàn cầu [gồm vốn mạo hiểm (Venture Capital - VC), vốn cổ phần tư nhân (Private equity - PE), mua bán và sáp nhập (M&A)] vào lĩnh vực Fintech Nguồn: KPMG (2023), * tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2023 Fintech hoạt động trong nhiều lĩnh vực, nhưng có thể chia thành sáu mảng chính sau: Thanh toán (Payments) là lĩnh vực thu hút sự chú ý đáng kể với tỷ trọng đầu tư lớn nhất. Năm 2022, đầu tư vào thanh toán lên tới 56,3 tỷ USD, vượt rất xa lĩnh vực xếp thứ hai (chỉ đạt 25,4 tỷ USD). Mặc dù năm 2022 chỉ giảm nhẹ so với con số 57,5 tỷ USD của năm 2021, nhưng dữ liệu trong sáu tháng đầu năm 2023 hiện cho thấy mức giảm sâu hơn, chỉ đạt 16,2 tỷ USD. Các công ty thanh toán và nhà đầu tư ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã chuyển chiến lược của họ từ việc thu hút khách hàng mới sang tăng cường tương tác với những khách hàng hiện có. Công nghệ bảo hiểm (Insurtech) là sự tích hợp các cải tiến công nghệ vào lĩnh vực bảo hiểm nhằm tối ưu hóa. Năm 2022, đầu tư toàn cầu vào lĩnh vực này chứng kiến sự sụt giảm đáng chú ý, đạt mức thấp nhất trong 7 năm là 6 tỷ USD, đánh dấu mức giảm đáng kể 6,1 tỷ USD, tương đương giảm 50% so với năm 2021. Xu hướng này có thể là do các nhà đầu tư thận trọng trước những thách thức về hiệu quả hoạt động sau IPO mà một số công ty công nghệ bảo hiểm mới IPO gần
  5. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 517 đây đã gặp phải. Tuy nhiên, dữ liệu trong nửa đầu năm 2023 đã đạt 4,7 tỷ USD, báo hiệu sự tăng trưởng trở lại. Ngày càng có nhiều công ty khởi nghiệp ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương tập trung vào việc tận dụng công nghệ như một phương tiện để mở rộng. Công nghệ quy định (Regtech) liên quan đến việc quản lý các quy trình pháp lý trong lĩnh vực tài chính thông qua các phương tiện công nghệ. Trong bốn năm qua, regtech đã chứng kiến ​​ sự tăng trưởng ổn định, đặc biệt là có sự đột biến đáng kể vào năm 2022, với khoản đầu tư tăng từ 12 tỷ USD năm 2021 lên 20,9 tỷ USD, đánh dấu mức tăng ấn tượng 74%. Với bối cảnh pháp lý phức tạp của các dịch vụ tài chính toàn cầu và sự chú trọng ngày càng tăng vào lợi nhuận và hiệu quả chi phí, dự đoán đầu tư regtech sẽ tiếp tục tăng trưởng khi các công ty chuyển sang công nghệ để hợp lý hóa và tăng cường các hoạt động tuân thủ của họ. Tuy nhiên, lượng đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2023 lại sụt giảm mạnh, chỉ đạt 1,1 tỷ USD. An ninh mạng (Cybersecurity) bao gồm các hoạt động nhằm bảo vệ hệ thống điện tử, mạng và dữ liệu khỏi các cuộc tấn công độc hại. Mặc dù tổng số giao dịch tăng đáng kể từ 63 năm 2021 lên 82 năm 2022, nhưng khoản đầu tư vào lĩnh vực này đã giảm đáng kể từ 4,3 tỷ USD xuống còn 1,5 tỷ USD, tương ứng với mức giảm 65%. Xu hướng đầu tư tiếp tục từ năm 2021 là hướng tới các giải pháp hỗ trợ các công ty sử dụng tự động hóa, học máy và phân tích dữ liệu nâng cao trong các trung tâm điều hành bảo mật của họ, từ đó đẩy nhanh việc xác định và phản hồi vấn đề. Nửa đầu năm 2023, đầu tư vào lĩnh vực này đạt 0,9 tỷ USD, trong khi số lượng giao dịch đứng ở mức 25. Công nghệ quản lý tài sản (WealthTech) tận dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo và Dữ liệu lớn để cung cấp các lựa chọn thay thế cho các công ty quản lý tài sản truyền thống, với mục tiêu nâng cao hiệu quả và tự động hóa các dịch vụ đầu tư và quản lý tài sản. Lĩnh vực này đã chứng kiến những biến động đáng kể, với giá trị đầu tư dao động từ 0,2 tỷ USD vào năm 2020 đến 1,7 tỷ USD vào năm 2021, sau đó giảm xuống còn 0,8 tỷ USD vào năm 2022. Trên toàn cầu, vẫn có sự tập trung rõ rệt vào việc phát triển các giải pháp công nghệ hỗ trợ B2B, gồm cả những giải pháp nhằm mục đích nâng cao kiến thức mà các nhà quản lý tài sản có thể tiếp cận và nâng cao năng suất thông qua các công nghệ đổi mới. Dữ liệu trong nửa đầu năm 2023 cũng cho thấy sự sụt giảm tương tự, với 17 giao dịch được ký kết trị giá 0,2 tỷ USD. Blockchain và tiền điện tử (Blockchain and cryptocurrency) là lĩnh vực đầu tư cao thứ hai vào năm 2022. Tương tự như WealthTech, lĩnh vực này đã trải qua những biến động đáng kể, tăng từ 6,1 tỷ USD năm 2020 lên 29,8 tỷ USD vào năm 2021 (tăng gần gấp 4 lần), và chỉ giảm nhẹ trong năm 2022, xuống còn 25,4 tỷ USD (phản ánh mức giảm 15%). Các khoản đầu tư vào lĩnh vực này bao gồm các giải pháp và công nghệ dựa trên blockchain rộng hơn, bao gồm các lĩnh vực như DeFi, thanh toán xuyên biên giới, mã hóa tài sản và chơi game. Người ta dự đoán rằng lĩnh vực này cũng sẽ suy giảm vào năm 2023, với dữ liệu trong sáu tháng đầu tiên cho thấy tổng vốn đầu tư chỉ đạt 4,4 tỷ USD.
  6. 518 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM Hình 2. Vốn đầu tư toàn cầu (gồm VC, PE, M&A) vào sáu lĩnh vực Fintech Nguồn: KPMG (2023), * tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2023 Về mặt địa lý, Hoa Kỳ là nước nhận đầu tư nhiều nhất vào năm 2022, thu về tổng cộng 93,8 tỷ USD. Tuy nhiên, con số này phản ánh mức giảm tương đối so với năm 2021 (giảm 24,7 tỷ USD, tương đương mức giảm 21%). Đứng thứ hai là khu vực EMEA (bao gồm Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi) đạt được 63 tỷ USD vào năm 2022. Tuy số vốn đầu tư này là đáng kể, song nó thể hiện mức giảm đáng chú ý 14,6 tỷ USD (tương đương giảm 19% so với năm 2021). Ngược lại, khu vực Châu Á Thái Bình Dương ghi nhận sự khởi sắc, đạt 52,2 tỷ USD vào năm 2022, đánh dấu mức tăng 2,2 tỷ USD so với năm trước. Sự tăng trưởng này cho thấy sự thay đổi trọng tâm đầu tư từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển trong khu vực.
  7. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 519 Hình 3. Vốn đầu tư toàn cầu (gồm VC, PE, M&A) vào lĩnh vực Fintech theo địa lý Nguồn: KPMG (2023), * tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2023 Như báo cáo ASEAN Fintech 2022, tác động kéo dài của đại dịch trong suốt năm 2021 đã dẫn đến mức độ đầu tư đáng kể vào Fintech trong khu vực ASEAN, kèm theo sự gia tăng áp dụng các giải pháp Fintech như ví điện tử, tiền điện tử và nền tảng đầu tư trực tuyến. Năm 2022, giá trị đầu tư Fintech toàn cầu vào ASEAN tăng 7%, với tổng vốn đạt 4,3 tỷ USD. Trong khi số lượng thương vụ đầu tư giảm từ 194 xuống 163 so với năm trước thì giá trị và quy mô đầu tư bình quân lại tăng lên, từ 23 triệu USD lên 26,5 triệu USD. Các khoản đầu tư vào Fintech vào cuối năm 2022 chiếm 54% tổng số giao dịch đầu tư, tăng đáng kể so với mức 43% của năm trước, khi các nhà đầu tư hướng tới các công ty khởi nghiệp lâu đời có cơ sở khách hàng đáng kể (UOB, PwC và SFA, 2022). Theo Statista, giá trị giao dịch dự kiến trong lĩnh vực thanh toán kỹ thuật số ​​ Việt Nam sẽ ở đứng thứ tư ở Đông Nam Á vào năm 2023, vượt cả Singapore và Malaysia. Ngoài ra, Việt Nam gần đây vượt trội so với các quốc gia phát triển khác (bao gồm Anh, Đức và Mỹ), về tỷ lệ thâm nhập thanh toán POS di động, nhờ việc sử dụng rộng rãi các thiết bị di động làm công cụ thông minh và cổng truy cập Internet. Việt Nam có tỷ lệ khách hàng không sử dụng dịch vụ ngân hàng cao nhất trong sáu thị trường trọng điểm ở Đông Nam Á, thể hiện lợi thế cạnh tranh đáng kể cho các công ty khởi nghiệp trong nước. Hơn nữa, các sáng kiến chủ động của chính phủ nhằm mở rộng tài chính toàn diện và giảm tỷ lệ cá nhân không sử dụng dịch vụ ngân hàng đã nhấn mạnh tiềm năng to lớn của thị trường này trong những năm tới (Nextrans, 2022). Hình 4. Dự kiến tốc độ tăng trưởng kép hàng năm của quy mô thị trường Dịch vụ Tài chính Kỹ thuật số các nước Đông Nam Á, 2021 – 2025 (%). Nguồn: Nextrans (2022)
  8. 520 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM Hình 5. Số lượng công ty và tỷ trọng từng lĩnh vực Fintech tại Việt Nam 2022 Nguồn: Hyperlead (2022) Ngược với năm 2021, năm 2022 chứng kiến dòng vốn đổ vào các công ty Fintech sụt giảm, tổng giá trị các thương vụ đầu tư trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam đạt khoảng 294 triệu USD (Hyperlead, 2022); thấp hơn nhiều so với mức đỉnh đạt được vào năm 2021 là 562,2 triệu USD (Nextrans, 2022). Xét về khối lượng giao dịch, các công ty khởi nghiệp Fintech Việt Nam đã thu hút được khoảng 14 khoản đầu tư, chiếm 6% tổng giao dịch đầu tư ở Đông Nam Á. Đồng thời, năm 2022 đánh dấu sự mở rộng đáng chú ý về số lượng công ty Fintech tại Việt Nam, đạt mức tăng trưởng gần 13% từ 156 công ty vào năm 2021 lên 176 công ty vào năm 2022. Cụ thể, lĩnh vực thanh toán giữ vững vị trí là phân khúc lớn nhất, chiếm 22,6% trong tổng số doanh nghiệp Fintech, tiếp theo là cho vay cá nhân và phân khúc blockchain/tiền điện tử. Hơn nữa, các lĩnh vực chứng tỏ sự tăng trưởng đáng kể về số lượng công ty khởi nghiệp so với năm 2021 bao gồm quản lý tài sản, bảo hiểm công nghệ (insurtech) và các dịch vụ mua trước trả sau (Hyperlead, 2022). 4. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH ĐẾN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM Lĩnh vực thanh toán kỹ thuật số tiếp tục dẫn đầu, sự gia tăng nhanh chóng thị trường thương mại điện tử và công nghệ di động trong thanh toán cho thấy mức độ hiểu biết về công nghệ cao của người dân Việt Nam. Đáng chú ý, kỳ lân Fintech ví điện tử MoMo đã nổi lên được ưa chuộng nhất tại Việt Nam vào năm 2022 (vượt qua các đối thủ VNPay, ViettelPay, ZaloPay, ShopeePay và Moca), chiếm hơn 53% thị phần (Hà Giang, 2022). Nền tảng thanh toán Payoo cũng có mức tăng trưởng đáng kể về việc sử dụng Mã QR tại Việt Nam trong quý 3 năm 2022, với số lượng và giá trị giao dịch tăng lần lượt là 62% và 53% so với giai đoạn trước. Ông Ngô Trung Linh, Tổng Giám đốc VietUnion và nhà phát triển nền tảng thanh toán Payoo, cho rằng sự phổ biến ngày càng tăng của mã QR là do tính hiệu quả về chi phí và dễ thực hiện, thanh toán bằng mã QR không yêu cầu máy móc chuyên dụng (Thế Vinh, 2022). Điều này nhấn mạnh sự ra đời của Fintech đã buộc các tổ chức tài chính truyền thống phải thích nghi và duy trì tính cạnh tranh phù hợp. Nhiều hoạt động cơ bản đã được số hóa hoàn toàn, với nhiều ngân hàng như TPBank, VIB và MB, với hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua các kênh kỹ thuật số, mang lại tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) tối ưu và cải thiện đáng kể so trước đây là 30-40% (VIB, 2022). Ngoài ra, điểm đáng chú ý của các công ty Fintech là ban đầu hoạt động trong một thị trường
  9. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 521 ngách cụ thể, dần dần xây dựng mạng lưới khách hàng và sau đó đa dạng hóa sang các lĩnh vực rộng hơn. Điều này được minh chứng bằng kỳ lân Fintech MoMo đã mua lại 49% cổ phần của công ty Chứng khoán Tín Việt (CVS) vào giữa năm 2022; mua lại Nhanh.vn, một công ty chuyên về dịch vụ quản lý bán hàng đa kênh trên nền tảng đám mây (Hường Hoàng, 2023); ký thỏa thuận hợp tác chiến lược triển khai sản phẩm đầu tư chứng chỉ quỹ với Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ Dragon Capital Việt Nam và Công ty Cổ phần Dịch vụ Di động Trực tuyến nhằm thiết lập một hệ sinh thái tài chính toàn diện (Tuấn Thủy, 2022). Lĩnh vực “Mua ngay trả sau” cũng đang chứng kiến sự gia tăng đột biến của các công ty khởi nghiệp, bao gồm các công ty như Fundiin và Ree-pay (Hường Hoàng, 2023). Lĩnh vực quản lý tài sản cũng thu hút đầu tư đáng kể, được thúc đẩy bởi sự gia tăng áp dụng công nghệ cho các hoạt động đầu tư do đại dịch gây ra. Do đó, nhiều công ty khởi nghiệp quản lý tài sản mới, bao gồm AnFin, Tititada và BUFF, đã xuất hiện trong những năm gần đây, với mức đầu tư vào phân khúc này ngày càng tăng. Đáng chú ý, việc Finhay mua lại Công ty Cổ phần Chứng khoán Vina (VNSC) đánh dấu một cột mốc quan trọng, khẳng định Finhay là một trong những công ty Fintech tiên phong trong lĩnh vực đầu tư cá nhân với quyền sở hữu một công ty chứng khoán được cấp phép (Finhay, 2022). Xu hướng này nêu bật sự phát triển mạnh mẽ của các công ty Fintech trên nhiều lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy các ngành công nghiệp truyền thống định hướng con đường riêng của mình. Nhiều doanh nghiệp đang lựa chọn các hình thức hợp tác, chẳng hạn như nhà mạng viễn thông Việt Nam Viettel Telecom hợp tác với Insurtech Unicorn Bolttech để triển khai các dịch vụ bảo hiểm thông qua nền tảng ứng dụng khách hàng Myviettel (Fintech News Vietnam, 2022). Tương tự, sự hợp tác giữa Tập đoàn Công nghệ Tài chính Umee và Ngân hàng TMCP Kiên Long đặt nền móng quan trọng cho sự ra đời ứng dụng Umee by KienlongBank (Hồng Hạnh, 2022). Có thể nói những thành tựu Fintech tại Việt Nam đạt được là nhờ vào định hướng đúng đắn của Chính phủ. Điển hình, ngày 27/01/2021, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 130/ QĐ-TTg về “Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030”. Trong đó, bốn công nghệ đầu tiên gồm: Trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật, Dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu lớn, và Chuỗi khối (Phụ lục 1 – Quyết định số 38/2020/QĐ-TTg) là những thành tố cực kỳ quan trọng góp phần làm nên sự phát triển mạnh mẽ của Fintech trên nhiều lĩnh vực. Theo số liệu từ Nvidia năm 2022 cho thấy 91% ngân hàng xác nhận sử dụng AI, tỷ lệ đầu tư gấp 1,5- 3,5 lần năm ngoái. Những mô hình nổi tiếng như Chat GPT, đề xuất nội dung trên Youtube - Tiktok, tối ưu hóa danh mục dựa trên lịch sử người dùng (Nasati, 2023). Và nếu chỉ xét riêng ứng dụng AI trong ngân hàng thì có thể chia làm bốn danh mục chính: (1) Tập trung vào khách hàng gồm đánh giá tín dụng, chính sách bảo hiểm, Chatbot phục vụ và kiểm tra khách hàng; (2) Tập trung vào hoạt động ngân hàng gồm tối ưu hóa nguồn vốn, quản lý rủi ro, kiểm tra phát hiện gian lận; (3) Giao dịch và quản lý danh mục đầu tư gồm thực hiện giao dịch, quản lý danh mục đầu tư; và (4) Tuân thủ quy định gồm công nghệ tuân thủ quy định, giám sát an toàn vĩ mô, bảo đảm chất lượng dữ liệu và công nghệ giám sát (Mai Thị Quỳnh Như và Ngô Thị Kiều Trang, 2023). Còn nếu xét về lĩnh vực tài chính nói chung thì AI giúp xây dựng danh mục đầu tư, là cố vấn tài chính, quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhờ sử dụng máy móc làm những công việc mang tính chất lặp lại, tự động xác định khiếm khuyết về chất lượng trước khi sản phẩm rời nhà máy, phân tích hình ảnh và bình luận trên các kênh mạng xã hội để khám phá các xu hướng và kiểu mẫu trong hành vi khách hàng để có chiến lược phù hợp, xây dựng đô thị thông minh… Điều này cho thấy công nghệ trí tuệ nhân tạo nói riêng, cũng như kết nối vạn vật, dữ liệu lớn… nói chung đã tác động rất lớn đến cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng như cuộc sống người dân.
  10. 522 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM 5. HÀM Ý CHÍNH SÁCH Trong bản tin tháng 01/2020, Viện Ổn định Tài chính (Financial Stability Institute) ra mắt khái niệm “Cây Fintech”, một mô hình đa chiều nhằm phân loại không gian Fintech thành ba nhóm rõ ràng: Các hoạt động Fintech, Công nghệ hỗ trợ, và các Chính sách đối với các đối tượng hỗ trợ. Điều này cho thấy để Fintech phát triển bền vững, một hệ sinh thái trù phú với bốn yếu tố là nhu cầu từ thị trường, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, vốn đầu tư kiên cố, và môi trường pháp lý minh bạch là cần thiết. Hiện nay, chính sách của chính phủ đã và đang là động lực thúc đẩy công nghệ cao và cả ứng dụng Fintech. Tuy vậy, luật pháp vẫn tồn tại những “khoảng trống” trong một số lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như gọi vốn cộng đồng hay cho vay P2P, khiến cho việc bảo vệ người tiêu dùng vẫn còn bất cập. Để Fintech vươn xa thì sự am hiểu và quan tâm từ phía người dân nói chung và người tiêu dùng nói riêng, cũng như sự chuyển giao tri thức và các chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao, là chìa khóa thiết yếu cho sự tiến bộ. Vì thế, việc tích hợp tri thức Fintech vào chương trình đào tạo đại học, cùng với việc cung cấp thông tin liên tục qua các phương tiện thông tin đại chúng là rất cần thiết. Dữ liệu là linh hồn của Fintech, việc dự đoán và hỗ trợ quyết định trong ngành gần như buộc phải dựa trên một lượng thông tin khổng lồ. Điều này đặt ra yêu cầu chính phủ cần phải định hướng chính sách cho phép các doanh nghiệp tiếp cận nguồn dữ liệu/ thông tin, trong khi vẫn tuân thủ nghĩa vụ bảo vệ quyền riêng tư người tiêu dùng. Trí tuệ nhân tạo (AI) đã và đang đóng góp rất lớn vào cuộc sống của chúng ta; song AI lại đang tiềm ẩn những rủi ro nhất định; đặc biệt là khi AI đạt đến cấp độ cao hơn, vượt qua cả khả năng suy nghĩ của con người. Thực tế cho thấy AI đang trở nên phức tạp và tinh vi, với các mô hình máy học có khả năng tự học hỏi và tự cải tiến, cùng với những hệ thống có thể tự phát triển mà không cần tới bàn tay của con người, đang làm cho việc dự đoán chính xác hành vi của AI là một thách thức lớn. Trước thực trạng này, việc nghiên cứu và xây dựng những chính sách về AI có đạo đức trở nên cấp bách nhằm giúp xây dựng lòng tin của người dùng, đảm bảo AI được sử dụng vì lợi ích chung của xã hội. Đây cũng chính là chìa khóa để AI và con người có thể phát triển cùng nhau một cách hài hòa. 6. KẾT LUẬN Mặc dù tiến trình phát triển của Fintech ở Việt Nam có thể diễn ra tương đối chậm, song dự kiến quỹ đạo của nó vẫn sẽ phù hợp với các xu hướng phát triển Fintech toàn cầu. Tuy nhiên, tốc độ và mức độ phát triển này còn phụ thuộc vào khung pháp lý của Việt Nam sẽ thúc đẩy và quản lý lĩnh vực Fintech như thế nào. Cụ thể, Fintech tại Việt Nam được dự đoán sẽ không ngừng phát triển trong lĩnh vực thanh toán, cho vay ngang hàng và quản lý tài sản; điều này phù hợp với những nỗ lực của chính phủ nhằm thúc đẩy các giao dịch không dùng tiền mặt và số hóa. Các tổ chức tài chính đang trải qua những chuyển đổi đáng kể, ngày càng tìm kiếm sự hợp tác với các doanh nghiệp Fintech. Trong mô hình hợp tác này, các tổ chức tài chính truyền thống cung cấp cơ sở hạ tầng và quyền truy cập trực tiếp vào cơ sở khách hàng đã có của họ, trong khi các công ty khởi nghiệp Fintech đóng góp công nghệ và đổi mới. Sự đóng góp của Fintech dự kiến sẽ đảm nhận vai trò ngày càng quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BCBS. (2018). Implications of Fintech developments for banks and bank supervisors. 2. Feyen, E., Natarajan, H., and Saal, M. (2023). Fintech and the Future of Finance: Market and Policy Implications. World Bank Group.
  11. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 523 3. Finhay. (2022). Finhay gọi vốn thành công 25 triệu USD. Truy cập 27/10/2023, link https://vnexpress. net/finhay-goi-von-thanh-cong-25-trieu-usd-4479067.html 4. Fintech News Vietnam. (2022). Bolttech Expands Its Vietnam Footprint With Viettel Telecom Partnership. Truy cập 27/10/2023, link https://fintechnews.sg/61475/insurtech/bolttech-expands-its- vietnam-footprint-with-viettel-telecom-partnership/ 5. Hà Giang. (2022). Ví điện tử phổ biến trên mạng xã hội: Momo gấp gần 13 lần ZaloPay. Truy cập 26/10/2023, link https://vneconomy.vn/vi-dien-tu-pho-bien-tren-mang-xa-hoi-momo-gap-gan-13- lan-zalopay.htm 6. Hồng Hạnh (2022). Umee by KienlongBank - Ứng dụng ngân hàng số đa tiện ích hướng đến người dùng cuối. Truy cập 22/10/2023, link https://congthuong.vn/umee-by-kienlongbank-ung-dung-ngan- hang-so-da-tien-ich-huong-den-nguoi-dung-cuoi-226476.html 7. Hường Hoàng. (2023). Bản đồ hệ sinh thái Fintech Việt Nam. Truy cập 25/10/2023, link https:// theleader.vn/ban-do-he-sinh-thai-fintech-viet-nam-1676207019008.htm 8. Hyperlead. (2022). Fintech Vietnam 2022: The Fluctuation. 9. IMF (International Monetary Fund) and World Bank. (2018). The Bali Fintech Agenda. Chapeau paper, September 19, IMF and World Bank, Washington, DC. 10. KPMG. (2023). Pulse of Fintech H1’23 – Global analysis of fintech funding. KPMG Internationl entities. 11. Le, N.T.H and Anh, T.T.X. (2021). Fintech & The influence of Fintech on financial institutions in Vietnam. Social Science Publisher. 12. Mai Thị Quỳnh Như và Ngô Thị Kiều Trang. (2023). Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại các ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam. Tạp chí Tài chính online. 13. Mokyr, J. (2015). The history of Technological anxiety and the Future of Economic Growth: Is this time different?. Journal of Economic Perspectives, 29 (3): 31-50. 14. Nasati. (2023). Ứng dụng AI trong lĩnh vực tài chính. Truy cập 11/11/2023, link https://www.vista.gov. vn/vi/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/ung-dung-ai-trong-linh-vuc-tai-chinh-7350.html 15. Nextrans. (2022). Vietnam Startup Industry Report 2022. 16. PWC. (2016). Blurred lines: How Fintech is shaping Financial Services. 17. Schwab, K. (2016). The Fourth Industrial Revolution: What it means, how to respond. World Economic Forum. 18. Schwab, K. and Davis, N. (2018). Shaping the Future of the Fourth Industrial Revolution. New York: Crown Publishing. 19. State Bank of Vietnam. (2018). Reporting the application potential for Blockchain technology in the payment field. 20. Thế Vinh. (2022). 47% người dùng Việt Nam sử dụng thanh toán kỹ thuật số trong năm 2022. Truy cập 25/10/2023, link https://vietnamnet.vn/47-nguoi-dung-viet-nam-su-dung-thanh-toan-ky-thuat-so- trong-nam-2022-i5009681.html 21. Tuấn Thủy. (2022). Dragon Capital Việt Nam hợp tác MoMo đầu tư chứng chỉ quỹ. Truy cập 25/10/2023, link https://vnexpress.net/dragon-capital-viet-nam-hop-tac-momo-dau-tu-chung-chi- quy-4476722.html 22. UOB, PwC and Singapore Fintech Association. (2022). Fintech in ASEAN 2022: Finance, reimagined. 23. VIB. (2022). Lý giải sự bùng nổ của ngân hàng số tiếp tục tăng theo cấp số nhân. Truy cập 25/10/2023, link https://thanhnien.vn/ly-giai-su-bung-no-cua-ngan-hang-so-tiep-tuc-tang-theo-cap- so-nhan-1851537273.htm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2