YOMEDIA
ADSENSE
giấc mơ hóa rồng - phần 2
55
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
phần 2 của "giấc mơ hóa rồng" trình bày chương 3 và chương 4 của cuốn sách với các nội dung: hội nhập kinh tế, chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu, chuẩn bị tiếp thu ngoại lực, thị trường vốn châu Á và khả năng tiếp thu ngoại lực của việt nam.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: giấc mơ hóa rồng - phần 2
Chương III<br />
<br />
HỘI NHẬP KINH TẾ<br />
Chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu:<br />
Sự chọn lựa dũng cảm và đúng đắn<br />
<br />
Sự chọn lựa mô hình phát triển kinh tế thông qua con đường đẩy mạnh xuất khẩu là<br />
quyết định dũng cảm của một nước. Nó giống như việc chen chân vào bầy sư tử đang háu<br />
đói để giành lấy phần thịt xứng đáng của mình. Làm sao an toàn bằng cách núp mình sau<br />
bức tường thuế quan được dựng lên để tiến hành công nghiệp hóa và dang rộng cánh tay<br />
bảo vệ, nuông chiều những đứa con cưng công nghiệp trong nước? Tuy nhiên, phương sách<br />
này lại dễ dẫn đến sự hư hỏng và yếu đuối của các thế hệ công nghiệp nội địa, không thể lớn<br />
mạnh và đủ sức cạnh tranh với công nghiệp nước ngoài.<br />
Phát triển thông qua xuất khẩu là con đường gian nan, nhưng tích cực. Mậu dịch quốc<br />
tế không phải chỉ đơn thuần là sự trao đổi hàng hóa, nó còn làm phát sinh nhu cầu muốn<br />
phát triển, tạo nên kiến thức, kinh nghiệm giúp cho ước mong phát triển thành hiện thực<br />
và là phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện điều đó. Đài Loan, Hàn Quốc đã vượt vũ môn<br />
của xuất khẩu để hóa thân thành những con rồng châu Á và trở nên mẫu mực điển hình<br />
minh chứng sự thành công của chiến lược phát triển kiểu này.<br />
Thực ra chúng ta không quá chậm trong nhận thức về sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất<br />
khẩu, sự tỉnh ngộ đã xảy ra cách nay gần một thập niên. Nhưng đáng tiếc là chúng ta có quá<br />
nhiều do dự giữa hai ưu tiên chiến lược: tập trung nguồn lực cho xuất khẩu hay cho công<br />
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Chính vì vậy, cho tới nay chúng ta vẫn chưa có đầy đủ<br />
những hành trang cần thiết để vững bước trên con đường xuất khẩu. Đặc biệt, vấn đề tài trợ<br />
xuất khẩu vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong khi đó chính là nguồn năng lượng<br />
không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của hoạt động này.<br />
Trong nhiều năm nay, hệ thống ngân hàng trong nước hầu như bỏ mặc các đơn vị xuất<br />
nhập khẩu tự xoay sở lấy đồng vốn đầu tư hoặc thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu. Có lúc,<br />
cơ chế tự cân đối xuất nhập khẩu được xem như một phép lạ có thể giúp các đơn vị vượt qua<br />
bế tắc về nguồn vốn, dù rằng cơ chế này không phù hợp với lợi ích chung của toàn nền kinh<br />
tế.<br />
Khoảng trống về tài trợ trong nước cho ngành xuất khẩu đã được các thương nhân nước<br />
ngoài nhanh chóng chiếm lĩnh. Sự đột phá tín dụng thương mại dưới hình thức mua hàng<br />
trả chậm khởi đầu từ giữa thập niên 1980 tưởng chừng sẽ giải quyết cùng lúc hai bài toán<br />
<br />
khó: cung ứng máy móc, thiết bị cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp xuất khẩu và<br />
phát triển quỹ hàng hóa tiêu dùng cho việc huy động nguồn hàng xuất khẩu. Các đơn vị<br />
tranh nhau mắc nợ nước ngoài và việc vay nợ trả chậm trở thành “mốt”, sách lược. Hậu quả<br />
cay đắng để lại là khối nợ ngắn hạn tuy không lớn nhưng không trả nổi và một sự suy sụp<br />
uy tín của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc bảo đảm thanh toán quốc<br />
tế.<br />
Quy định mới đây của Hội đồng Bộ trưởng về [nay là Thủ tướng chính phủ] khuyến<br />
khích sản xuất hàng xuất khẩu đã xác lập trách nhiệm của hệ thống ngân hàng là ưu tiên<br />
cho vay vốn hoặc bảo lãnh việc vay vốn cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Trong điều<br />
kiện thực tế hiện nay, ưu tiên tài trợ nên được dành cho hoạt động sản xuất, thu mua hàng<br />
xuất khẩu nhằm thực hiện các đơn đặt hàng đã mở L/C của khách hàng nước ngoài. Đây là<br />
các khoản tín dụng ngắn hạn, hoàn vốn nhanh và giúp tăng cường nguồn thu ngoại tệ của<br />
đất nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, khả năng tài trợ của hệ thống<br />
ngân hàng thương mại hiện nay có giới hạn. Các ngân hàng không thể đáp ứng toàn bộ nhu<br />
cầu tín dụng của nhà xuất khẩu nếu không có sự hỗ trợ cần thiết của Ngân hàng Nhà nước<br />
qua các nghiệp vụ cho vay tái chiết khấu và ứng trước. Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước còn<br />
cần có khoản dự trữ vốn đặc biệt để kịp thời thỏa mãn nhu cầu thu mua xuất khẩu đối với<br />
các mặt hàng chiến lược như gạo, cao su…<br />
Hiện nay, do tình hình khó khăn về ngoại tệ, việc tài trợ đầu tư mới nhằm mở rộng sản<br />
xuất hàng xuất khẩu đang được xem xét thận trọng. Trước hết, cần tận dụng các thiết bị<br />
máy móc có sẵn từ các khoản vay trả chậm trước đây. Về lâu dài, việc tài trợ có tính chiến<br />
lược này nên được giao cho các ngân hàng đầu tư phát triển, trên cơ sở các nguồn vốn<br />
trung, dài hạn lãi suất thấp từ Ngân hàng Nhà nước hoặc các nguồn tài trợ bên ngoài, có<br />
đối phần của chúng là các khoản ngoại tệ được sung dụng từ kế hoạch phát triển xuất khẩu<br />
toàn quốc. Điều hiển nhiên là các chương trình tài trợ xuất khẩu chỉ có thể thành công với<br />
sự hỗ trợ tích cực của Ngân hàng Nhà nước và tính năng động của hệ thống ngân hàng<br />
thương mại, của các ngân hàng đầu tư phát triển.<br />
Việc tài trợ cho xuất khẩu còn được gián tiếp thể hiện qua chính sách tỷ giá và người em<br />
song sinh của nó là chính sách trợ giá xuất khẩu. Sự hạ thấp tỷ giá đồng bạc trong nước so<br />
với các ngoại tệ khác chứng tỏ quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy mạnh xuất khẩu.<br />
Trong mối quan hệ mậu dịch quốc tế, biện pháp này có thể đưa đến chiến tranh tỷ giá giữa<br />
các cường quốc xuất khẩu. Tuy nhiên đối với những nước đang phát triển, việc phá giá đồng<br />
bạc thường được khuyến khích bởi các định chế tài chính quốc tế như IMF vì lẽ ở các nước<br />
đó đồng tiền thường được định giá cao vì tự ái dân tộc hơn là xuất phát từ tình hình thực tế.<br />
Ở nước ta, những thay đổi tỷ giá gần đây đã được Quỹ tiền tệ quốc tế đánh giá cao, tuy rằng<br />
để nó phát huy được hiệu lực đối với ngành xuất khẩu còn cần có nhiều biện pháp song<br />
hành cần thiết khác. Nhưng một tỷ giá mang nội dung khuyến khích cũng chỉ có tác dụng<br />
đối với những nhóm hàng nhất định. Để phát triển những mặt hàng xuất khẩu mới, có tiềm<br />
năng thực sự nhưng đang bị kém thế trên thị trường do giá thành sản xuất cao, cần có<br />
chính sách trợ giá xuất khẩu. Gọi là trợ giá vì ngoài số tiền được hưởng tính theo tỷ giá<br />
chính thức khi bán ngoại tệ cho Nhà nước, nhà sản xuất còn được hưởng một khoản trợ cấp<br />
<br />
bổ sung. Do mang tính đặc quyền có phân biệt, các khoản trợ giá được ấn định khác nhau<br />
tùy theo mức độ khuyến khích đối với từng mặt hàng xuất khẩu. Thí dụ với tỷ giá chính<br />
thức là 8.000 VNĐ đồng một đô la Mỹ, nhà xuất khẩu khi thu về một đô la và nhượng lại<br />
cho ngân hàng sẽ nhận được 8.000 VNĐ đồng. Thông thường, nhà xuất khẩu đã có lãi rồi vì<br />
tổng chi phí bỏ ra để có một đô la dưới mức 8.000 VNĐ đồng. Tuy nhiên, đối với những<br />
mặt hàng mới, có thể chí phí bỏ ra trên 8.000 VNĐ đồng và nhà xuất khẩu bị lỗ. Trong<br />
trường hợp này, quỹ trợ giá xuất khẩu sẽ trả thêm cho nhà xuất khẩu một số tiền, chẳng<br />
hạn 300 VNĐ đồng cho mỗi đô la, nhằm giúp cân đối được chi phí và hưởng một mức lãi<br />
nhất định.<br />
Nguồn thu chính của Quỹ trợ giá xuất khẩu sẽ được lấy từ nhập khẩu. Đây cũng là một<br />
hình thức cân đối nhập khẩu, nhưng là cân đối ở cấp vĩ mô. Đối với các chủng loại hàng<br />
nhập khẩu, Nhà Nước sẽ thu một loại thuế gọi là thuế bình giá, đánh trên mỗi đô la trị giá<br />
nhập khẩu. Mức thuế này cũng thay đổi căn cứ vào tính chất thiết yếu hay xa xỉ và giá bán<br />
ra của các mặt hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa. Tác dụng của thuế bình giá có hai<br />
mặt: một mặt nó nhằm bảo vệ hàng sản xuất nội địa, mặt khác nó cân đối mức lãi có thể trở<br />
nên quá cao của nhà nhập khẩu. Một phần lớn của các khoản thu bình giá nhập khẩu sẽ<br />
được sung vào Quỹ trợ giá xuất khẩu. Sự hiện diện của Quỹ trợ giá sẽ giúp các nhà xuất<br />
khẩu mạnh dạn đầu tư phát triển các mặt hàng mới, đồng thời giúp phục hồi vị thế của một<br />
số mặt hàng đang bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thành công của nó sẽ được thể hiện<br />
bằng sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu và sự đa dạng hóa chủng loại hàng xuất khẩu.<br />
Ngoài ra, chính sách thuế và chính sách hạn ngạch xuất khẩu cũng tạo ra những tác<br />
động tiêu cực gián tiếp đối với việc tài trợ xuất khẩu. Khó có thể quan niệm được rằng một<br />
nước muốn phát triển xuất khẩu lại có chủ trương đánh thuế trên mặt hàng xuất. Thuế suất<br />
cao sẽ làm tăng chi phí xuất khẩu và làm giảm hiệu quả của nỗ lực tài trợ xuất khẩu. Chính<br />
sách về hạn ngạch không hợp lý cũng sẽ dẫn đến những hậu quả tương tự. Đó là phát sinh<br />
việc mua bán quota với hậu quả làm tăng phí xuất khẩu và ảnh hưởng đến khả năng cạnh<br />
tranh của ta trên thị trường quốc tế. Về chính sách thuế, hiện nay đã có những tiến bộ đáng<br />
kể. Quy định của Hội đồng Bộ trưởng về khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu xác định<br />
việc giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu đối với từng loại hàng xuất khẩu phù hợp với luật thuế.<br />
Mới đây, ngày 19/4/1991, Hội đồng Bộ trưởng vừa ra quyết định áp dụng mức thuế suất tối<br />
thiểu đối với các mặt hàng xuất khẩu mậu dịch, và cho xem xét miễn, giảm thuế đối với<br />
một số mặt hàng nông sản xuất khẩu bị lỗ. Tuy nhiên, hầu hết các đơn vị hoạt động xuất<br />
khẩu đều mong muốn một chính sách thuế tích cực hơn.<br />
Việc đẩy mạnh tài trợ xuất khẩu cuối cùng sẽ tác động đến chiều hướng của chính sách<br />
tiền tệ. Sẽ không có chỗ đứng cho các chương trình phát triển xuất khẩu trong một chính<br />
sách tiền tệ hạn chế. Ngược lại, việc chấp hành triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các kế hoạch<br />
đẩy mạnh xuất khẩu có nghĩa là chấp nhận chịu đựng một áp lực lạm phát thường xuyên,<br />
nhất là trong giai đoạn đầu của phát triển. Quả thật đây không phải là một chọn lựa dễ<br />
dàng. Các nước đã thành công trong việc theo đuổi chiến lược xuất khẩu đều phải trải qua<br />
thời kỳ thử thách cay đắng này. Họ đã vượt qua được bằng ý thức tôn trọng quyền lợi chung<br />
của đất nước, bằng khả năng điều hành kinh tế vĩ mô và bằng kỹ thuật tổ chức quản lý sao<br />
<br />
cho những nguồn lợi thu được từ xuất khẩu được sung dụng nhanh nhất và hiệu quả nhất<br />
cho việc phát triển công nghiệp hóa.<br />
Tháng 6/1991<br />
<br />
Chuẩn bị tiếp thu ngoại lực<br />
<br />
Ngày 2 tháng 7 năm 1993, văn phòng Tổng thống Mỹ Washington đã công bố quyết<br />
định của Tổng thống Bill Clinton “Chấm dứt sự phản đối của Mỹ đối với nỗ lực của những<br />
nước khác nhằm giải tỏa các món nợ của Việt Nam tại Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF)”. Quyết<br />
định này được mọi người cùng hiểu là kể từ thời điểm đó, Mỹ sẽ không ngăn cản việc IMF<br />
cho Việt Nam vay tiền. Và nếu thanh toán xong các món nợ đối với định chế tài chính quốc<br />
tế hùng mạnh này, Việt Nam sẽ phục hồi được tất cả những quyền lợi của mình - trong đó<br />
có quyền được vay - với tư cách là hội viên của IMF: Về phía Mỹ, vấn đề IMF tài trợ cho Việt<br />
Nam đã chuyển từ bình diện chính trị sang bình diện kinh tế kỹ thuật. Có vẻ như bây giờ,<br />
mọi chuyện còn lại chỉ là liệu Việt Nam có chuẩn bị đầy đủ để đáp ứng các điều kiện, được<br />
hiểu như thuần tuý kinh tế kỹ thuật của IMF để có thể nhận được các khoản cho vay từ<br />
định chế này và từ Ngân hàng Thế giới (World Bank) nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của<br />
mình hay không?<br />
Về phía Việt Nam, chúng ta sẽ dần dần nhận ra rằng các điều kiện khắt khe được gọi là<br />
kinh tế kỹ thuật không chỉ đơn thuần là kinh tế kỹ thuật và sẽ không dễ dàng gì đáp ứng,<br />
ngay cả khi chúng ta tưởng rằng đã chuẩn bị đầy đủ với hàng tá dự án xây dựng cơ sở hạ<br />
tầng. IMF và World Bank là những định chế cho vay quốc tế nổi tiếng khắc nghiệt, họ chỉ<br />
cho vay những người nào biết và có thể tuân thủ những điều kiện cho vay của họ. Thậm chí<br />
một số quan chức cấp cao của hai định chế này đã nhấn mạnh nhiều lần đến quyền lực của<br />
họ trong việc ảnh hưởng đến chính sách kinh tế của nước đi vay (tất nhiên, theo họ, là<br />
nhằm phục vụ quyền lợi của chính nước đó). Như vậy, tuyên bố của Bill Clinton chấm dứt<br />
phủ quyết việc IMF (và World Bank - WB) cho Việt Nam vay tiền không có nghĩa là chúng<br />
ta sẽ nhận được ngay những khoản tài trợ cho xây dựng kinh tế từ các định chế này. Thời<br />
gian chờ đợi có thể nhanh và cũng có thể rất chậm. Chỉ tính thời gian từ giai đoạn nhận<br />
diện đến phê chuẩn và thực hiện dự án cũng có thể kéo dài từ sáu tháng đến một năm rưỡi.<br />
Ngoài ra, nó tùy thuộc vào sự chuẩn bị thực sự của chúng ta trong việc đáp ứng các yêu cầu<br />
và khả năng thực hiện các khuyến cáo của họ theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế đất<br />
nước.<br />
Trước hết cần thiết lập một mối quan hệ hiểu biết và thông cảm giữa chúng ta và hai<br />
định chế toàn cầu này. Quan điểm của họ về mối quan hệ này cũng rất rõ ràng. Đối với họ,<br />
nước đi vay phải nhận thức rằng những khuyến cáo IMF và WB đưa ra đều dựa trên kiến<br />
thức chuyên môn sâu sắc và kinh nghiệm toàn thế giới của họ và rằng yêu cầu của các định<br />
chế này là các khoản tiền của họ phải được đầu tư khôn ngoan và phù hợp với quyền lợi tốt<br />
nhất của các dự án. Về phía họ, IMF và WB cũng hiểu là phải biết cách thích nghi với các<br />
chính sách tổng quát của họ một cách thực tế và hợp lý theo các điều kiện riêng biệt của<br />
từng dự án, từng vùng kinh tế hay từng quốc gia. Như vậy quyền lợi của mỗi nước có được<br />
đảm bảo đầy đủ hay không sẽ tùy thuộc vào khả năng thuyết phục của nước đó đối với hai<br />
<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn