BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 

ĐỖ THỊ HỒNG ĐƯỢM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG

CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HCM - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 

ĐỖ THỊ HỒNG ĐƯỢM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG

CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU

Chuyên ngành: Quản Trị Kinh Doanh Mã số: 60.34.0102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. NGUYỄN QUANG THU

TP.HCM - 2013

LỜI CAM ĐOAN 

Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề

tài nghiên cứu khoa học nào.

TP.HCM, ngày 15 tháng 01 năm 2014 Học viên thực hiện

Đỗ Thị Hồng Đượm

MỤC LỤC 

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................................................ 1

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................. 2

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................................... 2

3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 2

3.2. Phạm vi nghiên cứu: ...................................................................................... 2

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................ 2

5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................................... 2

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...................................................................... 3

1.1. LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ................................................. 3

1.1.1. Các khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng ............................................ 3

1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng ................................................................................... 3

1.1.1.2. Bản chất của tín dụng ................................................................................... 3

1.1.1.3. Rủi ro tín dụng ................................................................................................ 4

1.1.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng ............................................................... 4

1.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................. 4

1.1.2.2. Nguyên nhân khách quan ............................................................................. 5

1.1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng ................................................ 6

1.2. LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ........................................ 7

1.2.1. Giới thiệu về thông tin bất cân xứng ......................................................... 7

1.2.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng ............................................................ 7

1.2.2.1. Lựa chọn bất lợi ............................................................................................. 8

1.2.2.2. Tâm lý ỷ lại ...................................................................................................... 9

1.3. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ........ 10

1.3.1. Thông tin bất cân xứng và hoạt động tín dụng ........................................ 10

1.3.2. Lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín dụng .............................................. 11

1.3.3. Tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng ..................................................... 13

1.3.4. Các điều kiện hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng ...................................................................................................... 14

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU ..................................... 16

2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU ..... 16

2.1.1. Giới thiệu tổng quan về NHTM CP Á Châu ........................................... 16

2.1.2. Thực trạng về hoạt động của ACB .......................................................... 18

2.1.2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của ACB ......................................... 18

2.1.2.2. Nghiệp vụ huy động vốn ............................................................................. 19

2.1.2.3. Nghiệp vụ cấp tín dụng ............................................................................... 20

2.1.2.4. Tình hình nợ xấu........................................................................................... 23

2.1.3. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của ACB ........................ 24

2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU ................................................................. 26

2.2.1. Đánh giá các cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết để hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB .................. 26

2.2.1.1. Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính ................................. 26

2.2.1.2. Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập .......................................................... 27

2.2.1.3. Hệ thống định giá và đăng ký tài sản đảm bảo .................................... 29

2.2.1.4. Hệ thống công chứng .................................................................................. 31

2.2.1.5. Hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng ................................................ 31

2.2.1.6. Chính sách lãi suất ...................................................................................... 33

2.2.1.7. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu ........................................................ 34

2.2.1.8. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá ..................................... 36

2.2.1.9. Năng lực và trình độ cán bộ tín dụng ..................................................... 38

2.2.1.10. Quyết định cấp tín dụng ............................................................................. 39

2.2.1.11. Kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay .......................................................... 41

2.2.2. Tình hình quản trị rủi ro tín dụng trong trong môi trường thông tin bất cân xứng tại ACB ............................................................................................... 42

2.2.2.1. Quy trình cho vay tại ACB ......................................................................... 42

2.2.2.2. Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng ............... 44

2.2.2.3. Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ tại ACB ................... 46

2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của ACB .. ................................................................................................................. 49

2.2.3.1. Bất lợi trong việc lựa chọn khách hàng ................................................. 50

2.2.3.2. Bất lợi trong việc lựa chọn khoản vay .................................................. 51

2.2.3.3. Bất lợi trong việc đánh giá tài sản đảm bảo......................................... 52

2.2.3.4. Tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng ............................................................... 52

2.2.3.5. Tâm lý ỷ lại từ phía ngân hàng ................................................................. 53

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU .................................................................................................... 56

3.1. CƠ SỞ ĐỀ RA GIẢI PHÁP ........................................................................... 56

3.1.1. Từ định hướng của nhà nước và cơ quan quản lý ................................... 56

3.1.1.1. Định hướng của nhà nước ......................................................................... 56

3.1.1.2. Định hướng phát triển của ACB .............................................................. 58

3.1.2. Từ tình hình thực tế ................................................................................. 59

3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 61

3.2.1. Giải pháp cho NH TMCP Á Châu ........................................................... 62

3.2.1.1. Cơ chế sàng lọc trong tín dụng ................................................................ 62

3.2.1.2. Cơ chế giám sát - kiểm soát tín dụng ..................................................... 70

3.2.1.3. Cơ chế phát tín hiệu trong giao dịch ...................................................... 75

3.2.2. Kiến nghị đối với NHNN và các bộ ngành có liên quan ......................... 78

DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 

Ngân hàng nhà nước : NHNN

Ngân hàng thương mại : NHTM

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu : Ngân hàng TMCP Á Châu/ ACB

Tài sản đảm bảo : TSĐB

Tổ chức tín dụng : TCTD

Xếp hạng tín dụng : XHTD

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU 

Bảng 2.1 - Tổng hợp tình hình nợ xấu của ACB giai đoạn 2010-2012............................................ 23

Bảng 2.2 - Các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong quá trình cấp tín dụng tại ACB .......................... 43

Bảng 3.1 - Các dấu hiệu cảnh báo trong hoạt động tín dụng ........................................................... 65

Trang

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ 

Hình 1.1 - Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng ........................................................................... 8

Hình 2.1 - Tình hình huy động vốn theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 .......................... 19

Hình 2.2 - Tình hình huy động vốn theo loại hình khách hàng của ACB giai đoạn 2010-2012 ...... 20

Hình 2.3 - Tình hình cho vay theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 .................................... 21

Hình 2.4 - Tình hình cho vay theo thời hạn vay của ACB giai đoạn 2010-2012 ............................. 21

Hình 2.6 - Tình hình cho vay theo khu vực địa lý của ACB giai đoạn 2010-2012 .......................... 22

Hình 2.7 - Tình hình nợ xấu (nhóm 3-5) tại ACB giai đoạn 2010-2012 .......................................... 24

Hình 2.8 - Thị phần tín dụng của ACB trong giai đoạn 2010-2012 ................................................. 25

Trang

1

PHẦN MỞ ĐẦU 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp to lớn trong

việc phát triển nền kinh tế nước ta. Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội phát triển

nhưng cũng đem lại không ít những khó khăn, thách thức cho ngành ngân hàng Việt

Nam nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (NH TMCP Á Châu -

ACB) nói riêng. Để có thể tồn tại và phát triển trong một thị trường cạnh tranh ngày

càng quyết liệt và không ngừng biến đổi như hiện nay, các tổ chức tín dụng (TCTD)

không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc mở rộng quy

mô hoạt động, cải tiến chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.

Do hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các ngân hàng là tín dụng nên cùng

với việc mở rộng quy mô hoạt động thì rủi ro tín dụng cũng xảy ra. Nhất là khi tình

trạng tăng nóng tín dụng đã trở nên phổ biến ở nước ta. Do đó nguy cơ rủi ro và nợ

xấu là một thực tế hiển nhiên, có thể xảy ra tại bất kỳ một ngân hàng nào, kể cả các

ngân hàng hàng đầu Việt Nam, bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của

con người. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng là do ngân hàng

luôn là người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng số tiền được cấp so với

khách hàng. Đây chính là hiện tượng “thông tin bất cân xứng”- một trong những

nguyên nhân gây nên thất bại thị trường.

Trong thời gian qua, lãnh đạo ACB đã có những định hướng và chính sách

của riêng mình về vấn đề thống tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng nhưng

vẫn chưa thật sự bền vững. Mục tiêu chiến lược đã đề ra của ACB trong năm 2013

là “đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng hiệu quả và an toàn”. Do vậy, để đảm bảo an

toàn trong hoạt động của mình, ACB cần phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn

chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người, đúng đối tượng, đảm

bảo thu hồi được cả gốc và lãi của khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng.

Trước những đòi hỏi cấp thiết của tình hình quản trị rủi ro hiện nay, tác giả

chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng

2

đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu” để nghiên cứu nhằm giúp

cho hoạt động tín dụng của ACB có thể phát triển an toàn và hiệu quả hơn.

- Phân tích ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của vấn đề thông tin bất

NH TMCP Á Châu.

cân xứng đến hoạt động tín dụng của NH TMCP Á Châu.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu: thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại ACB

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

* Thời gian nghiên cứu: Các thông tin, số liệu của nghiên cứu được thu thập và

phân tích từ tháng 08/2013.

* Không gian: Ngân hàng TMCP Á Châu

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tiếp cận, phân tích

ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB để đưa ra các

giải pháp khắc phục.

Nghiên cứu chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp được tổng hợp từ nhiều nguồn

khác nhau như các báo cáo tổng kết của ACB, các bài báo, tạp chí, luận văn khoa

học… có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề cần nghiên cứu.

5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Kết cấu của luận văn bao gồm:

Phần mở đầu

Chương 1: Cơ sở lý thuyết

Chương 2: Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của Ngân

hàng TMCP Á Châu

Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng

đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu

Kết luận

3

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT



1.1. LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

1.1.1. Các khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng

1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng

Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay

(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và

các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng

trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô

điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng

thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng

các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các

nghiệp vụ khác”.

Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ

chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh

nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.

1.1.1.2. Bản chất của tín dụng

Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho

vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác

để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội.

Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ

dạng nào cũng thể hiện hai mặt cơ bản là người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa

chuyển giao cho người khác trong một thời gian nhất định và đến thời hạn do hai

bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần

tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.

4

1.1.1.3. Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân

hàng, biểu hiện thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ và lãi vay như cam

kết trong hợp đồng tín dụng.

“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng

xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng

không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam

kết” (Khoản 01 Điều 02 - Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng

để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD)

Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan

hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ và khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc

không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn.

Rủi ro tín dụng là một đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong mọi hoạt

động của ngân hàng như cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có

giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.

1.1.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng

Phát sinh từ các đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng bao gồm rủi ro do

nguyên nhân chủ quan (xuất phát từ người vay và ngân hàng) và do nguyên nhân

khách quan (xuất phát từ môi trường kinh doanh)

1.1.2.1. Nguyên nhân chủ quan

- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân

* Rủi ro từ phía ngân hàng cho vay

- Thẩm định sơ sài, đánh giá sai lệch thông tin khách hàng.

- Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay, sai phạm trong việc kiểm tra

tích và đánh giá khách hàng (thông tin bất cân xứng).

- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo

chứng từ và thực hiện công tác thu hồi nợ.

chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.

5

- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện

- Quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của

trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay.

- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý

khách hàng.

hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa

- Cán bộ tín dụng thiếu phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.

nhân viên có hành vi giả mạo hợp đồng kinh tế, tự ý đảo nợ cho khách hàng hay cố

- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, thiếu sự hợp

tình che giấu thông tin bất lợi của khách hàng…

tác với nhau.

- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.

- Năng lực quản lý kinh doanh kém,

- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.

- Mạo hiểm trong đầu tư hay đầu tư vào các lĩnh vực vượt quá khả năng quản

* Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng

- Khách hàng cố tình gian lận, lừa đảo ngân hàng.

lý của mình.

- Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định

+ Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây

1.1.2.2. Nguyên nhân khách quan

+ Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của nền kinh tế như sự

tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.

thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái; lạm phát; giá nguyên vật liệu đầu vào tăng làm

+ Sự tấn công của hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái ảnh hưởng đến hoạt

ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng.

+ Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế.

động và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.

6

- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi.

+ Việc triển khai kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương.

+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả từ phía Ngân hàng Nhà nước

+ Hệ thống thông tin quản lý chưa đầy đủ, minh bạch.

(NHNN).

Như vậy, tín dụng là một nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt khi việc

phân tích các phương án vay vốn hay các dự án đầu tư không chính xác. Thông tin

đầu vào vô cùng quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết

định cấp tín dụng cũng như các quyết định xử lý tín dụng sau giải ngân. Nếu nguồn

đầu vào này kém chất lượng do thông tin không chính xác hoặc thông tin cập nhật

không đầy đủ và kịp thời (thông tin bất cân xứng) thì cho dù ngân hàng có ứng dụng

những phương tiện và công cụ phân tích hiện đại đến đâu đi nữa, kết quả tín dụng

đầu ra cũng sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trên thực tế, đây là một vấn đề phổ biến và

khó quản lý khắc phục nhất là khi tình trạng tăng trưởng nóng tín dụng và nợ xấu

đang là vấn đề nan giải của thị trường tài chính trong giai đọan hiện nay.

- Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý

- Thực hiện đúng quy trình quản lý tín dụng

- Phân tích tín dụng và đánh giá khả năng xảy ra rủi ro của mỗi khoản vay

1.1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng

- Thường xuyên đánh giá, xếp loại khách hàng

- Chọn lọc người vay và giám sát quá trình sử dụng vốn vay

- Chuyên môn hóa việc cho vay và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài

- Thực hiện bảo đảm tín dụng

- Giám sát tín dụng

- Bảo hiểm tín dụng

- Tăng cường công tác thẩm định khách hàng và dự án đầu tư

trước khi ra quyết định cho vay

7

Trên đây là một số biện pháp cơ bản để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín

dụng. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng có thể có những biện pháp hoặc sách lược

riêng phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng.

1.2. LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG (ANSYMMETRIC

INFORMATION)

1.2.1. Giới thiệu về thông tin bất cân xứng

Cha đẻ của lý thuyết thông tin bất cân xứng là ba nhà kinh tế học George A.

Akerlof, Đại học California, Mỹ; Andrew Michael Spence, Đại học Stanford, Mỹ và

Joseph E. Stiglitz, Đại học Columbia, Mỹ. Đây là những nhà nghiên cứu đã đoạt

giải Nobel kinh tế năm 2001 khi đưa ra những phân tích hết sức thuyết phục về

thông tin bất cân xứng - trạng thái mà khi đó “một chủ thể trên thị trường có nhiều

thông tin tốt hơn chủ thể kia”.

Theo Joseph Stiglitz, có hai nguyên nhân gây ra thông tin bất cân xứng.

Thứ nhất là do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối tượng khác

nhau và lượng thông tin của họ về cùng một đối tượng sẽ khác nhau. Thường thì các

chủ thể kinh tế hiểu mình rõ hơn là hiểu người khác. Mức độ chênh lệch về thông

tin tùy thuộc vào cơ cấu, đặc trưng của thị trường. Thứ hai là do chủ thể kinh tế

tham gia giao dịch có thể cố tính che giấu thông tin để đạt được lợi thế trong đàm

phán giao dịch. Tình trạng thông tin bất cân xứng xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác

nhau của nền kinh tế như ngân hàng, bảo hiểm, thị trường bất động sản, thị

trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán, thị trường đồ cũ…

Như vậy, thông tin bất cân xứng được hiểu là tình trạng kinh tế xảy ra khi

một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin

không chính xác dẫn đến những quyết định sai trong quá trình giao dịch. Đồng thời

bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi

thực hiện nghĩa vụ giao dịch.

1.2.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng

Hai hành vi phổ biến do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi

(adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard).

8

THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG

Sau khi ký hợp đồng

Trước khi ký hợp đồng

Tâm lý ỷ lại

Lựa chọn bất lợi

Phát tín hiệu

Sàng lọc

Giám sát

Hình 1.1: Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng

1.2.2.1. Lựa chọn bất lợi

Lựa chọn bất lợi là kết quả của tình trạng bất cân xứng về thông tin, xảy ra

trước khi thực hiện giao dịch (trước khi ký hợp đồng) trong đó người lựa chọn thứ

tốt lại chọn phải thứ không tốt.

Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin

ngang nhau và đầy đủ về đối tượng được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm

được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều

kiện thông tin bất cân xứng, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những

thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch (hành vi che đậy) cho bên

kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành

giao dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn.

Trên thực tế, sự lựa chọn bất lợi có thể được giảm thiểu bằng hai biện pháp

khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau là phát tín hiệu (signaling) và sàng

lọc (screening). Việc áp dụng cơ chế nào phụ thuộc vào bên có thông tin hay bên

không có thông tin đóng vai trò chủ động.

Cơ chế phát tín hiệu là việc bên có nhiều thông tin có thể cung cấp thông tin

của mình (báo phát thông tin) một cách trung thực và tin cậy cho bên có ít thông tin.

Cơ chế phát tín hiệu có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau

như: trên thị trường hàng hóa, người bán những sản phẩm chất lượng cao sẽ sử

dụng những động cơ khuyến khích như triển khai các chương trình quảng cáo đắt

tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm,... làm cho người mua biết được

9

mình bán sản phẩm có chất lượng tốt và bằng lòng trả giá cao hơn cho loại sản

phẩm có chất lượng này; trên thị trường lao động, ứng cử viên đi xin việc phát tín

hiệu về năng lực của mình cho nhà tuyển dụng biết thông qua các bằng cấp, thành

tích đã đạt được; trên thị trường tài chính, người đi vay phát tín hiệu cho người cho

vay biết rằng mình là người có uy tín, có khả năng trả nợ tốt nếu được cấp tín dụng

hoặc trên thị trường chứng khoán, các công ty niêm yết trên thị trường phải cho nhà

đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển của mình

để nâng cao vị thế, bán cổ phiếu với giá cao và hợp lý…

Sàng lọc là các hoạt động do bên không có hoặc có ít thông tin thực hiện để

tách biệt, phân loại các đối tác theo một số tiêu chí nào đó (đặc tính, chủng loại,...)

để từ đó có những chính sách, hành động khác nhau đối với từng nhóm đối tác.

Cũng như phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc cũng được ứng dụng rộng rãi trong

nhiều lĩnh vực khác nhau như trong thị trường lao động (phân nhóm lao động để trả

lương, thưởng cho nhân viên), thị trường tài chính (đưa ra nhiều hạn mức tín dụng,

lãi suất khác nhau đối với từng đối tượng, từng dự án và thời hạn vay), các tổ chức

bảo hiểm phân loại nhóm khách hàng có rủi ro cao và nhóm có rủi ro thấp dễ áp

dụng mức phí bảo hiểm tương ứng...

1.2.2.2. Tâm lý ỷ lại

Tâm lý ỷ lại (hay còn gọi là rủi ro đạo đức) là một thuật ngữ dùng để chỉ một

loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, là một kiểu thất bại

của thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng.

Tâm lý ỷ lại là kết quả của hành vi bị che đậy, xuất hiện sau khi ký hợp đồng.

Nó phát sinh khi bên chiếm ưu thế về thông tin có những hành động có thể gây tổn

hại cho bên có ít thông tin hơn.

Hay nói cách khác, tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được

tình thế thông tin bất cân xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động

cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại

cho bên kém ưu thế thông tin. Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu

10

thế thông tin được bên kém ưu thế thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ

nguy hiểm, rủi ro cho mình.

- Phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên.

- Phải có một cơ sở để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức hợp tác khác

Để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn:

- Phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện thỏa

nhau giữa các cá nhân từ đó làm lộ ra mâu thuẫn về quyền lợi.

thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.

Trong nhiều trường hợp, cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm

soát tâm lý ỷ lại. Thông thường, bên có ít thông tin hơn sẽ chấp nhận bỏ ra nguồn

lực trực tiếp thực hiện (giám sát trực tiếp) hoặc thông qua các kênh thông tin khác

nhau trên thị trường (giám sát gián tiếp) để được kiểm soát thông tin trong suốt quá

trình giao dịch. Chẳng hạn như để tránh các rủi ro phát sinh sau khi vay vốn, các

TCTD thường thực hiện việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng

sau khi giải ngân hay kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay

theo định kỳ; giám sát thông qua các qui định trong các hợp đồng tín dụng hay sử

dụng các hệ thống giám sát khác như hệ thống thông tin tín dụng, thông tin trên thị

trường chứng khoán, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, các cơ quan quản lý....

1.3. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

1.3.1. Thông tin bất cân xứng và hoạt động tín dụng

Thông tin bất cân xứng là một hiện tượng phổ biến trong hoạt động tín dụng.

Nó chính là tình trạng chênh lệch thông tin giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi

vay (khách hàng).

Trên thực tế, người đi vay là bên thường nắm rõ các thông tin về khoản vay

(dự án đầu tư, năng lực trả nợ…) nhiều hơn phía ngân hàng. Ngoài ra, tình trạng

thông tin bất cân xứng cũng xảy ra trong chính nội bộ của một số ngân hàng. Đó là

sự chênh lệch thông tin giữa cấp quản lý và cấp nhân viên do cấp quản lý “giao

quyền” thẩm định cho nhân viên khi cấp tín dụng. Chính sự tồn tại của thông tin bất

11

cân xứng sẽ dẫn đến sự lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại trong quá trình cho vay và

tất yếu cuối cùng là sẽ gây ra rủi ro tín dụng.

1.3.2. Lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín dụng

Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu

một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không

hiệu quả. Khách hàng có độ rủi ro cao thường là những khách hàng tích cực nhất

trong việc xin vay. Hậu quả của sự lựa chọn đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín

dụng cho khách hàng có rủi ro cao (rủi ro không trả được nợ) nên trong trường hợp

này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù

trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng tốt (những trường hợp có thể trả được nợ).

Trong hoạt động tài chính, lựa chọn bất lợi sẽ xuất hiện khi nguồn vốn khan

hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc "rủi ro cao - lợi nhuận cao”

và nguyên tắc loại trừ, khi nguồn cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất cho vay thấp

thì các dự án có suất sinh lợi thấp - rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách

chắc chắn và các dự án có suất sinh lợi cao - rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc

chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực hiện. Nhưng khi nguồn vốn khan hiếm, lãi

suất cho vay bị đẩy lên cao, các dự án an toàn sẽ không chịu nổi áp lực lãi vay sẽ

không vay mà chỉ có những dự án có mức độ rủi ro cao, với suất sinh lợi cao được

vay vốn để thực hiện.

Sự lựa chọn bất lợi xảy ra khi ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn

của khách hàng, bao gồm các thông tin liên quan đến khách hàng, dự án vay vốn và

tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu những thông tin này không chính xác sẽ gây rủi ro

cho quyết định cấp tín dụng của ngân hàng.

Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn

thường đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung

thực, mặc dù những số liệu này đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Điều

này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động

kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị. Đặc biệt, có một số NHTM

quyết định đầu tư chỉ dựa vào những cảm nhận trực quan của mình. Điều này nếu

12

kéo dài sẽ rất nguy hiểm, nhất là khi các cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn

thấp và khách hàng cố ý che đậy thông tin hay tạo thông tin giả, lừa đảo ngân hàng.

Thêm vào đó, ở Việt Nam, nhiều công ty làm ăn thua lỗ vẫn tồn tại trên thị

trường. Nó làm “nhiễu thông tin” hay góp phần tạo ra sự lừa dối từ phía khách

hàng. Đến khi khách hàng đã mất khả năng chi trả thì ngân hàng cũng đã rơi vào

tình thế “chuyện đã rồi”. Ví dụ gần đây nhất là trường hợp của Công ty TNHH

Trường Ngân, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu các mặt

hàng nông sản ở tỉnh Bình Dương, thế chấp 3.360 tấn cà phê để cầm cố cho 07 ngân

hàng vay 600 tỷ đồng. Khi ngân hàng biết công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ thì trong

kho hàng thế chấp chỉ còn 1.500 tấn hàng, trong đó có 700 tấn là cà phê trị giá

khoảng 100 tỷ đồng, số còn lại chỉ là vỏ, rác và tạp chất không có giá trị về kinh tế.

Hay trường hợp của Công ty Chế biến thủy sản An Khang ở Cần Thơ. Khi công ty

này có dấu hiệu mất khả năng chi trả vào năm 2011, 5 ngân hàng cho vay mới phát

hiện bên cạnh tài sản đảm bảo là bất động sản thì hàng hóa tồn kho luân chuyển

tổng cộng hơn 1.000 tấn mà công ty này dùng để thế chấp chỉ là một kho hàng rỗng.

Như vậy, trong quá trình cấp tín dụng, sự lựa chọn bất lợi có thể xảy ra tại bất

kỳ mắt xích thông tin nào khi thẩm định như lúc đánh giá, lựa chọn khách hàng,

đánh giá dự án vay hay đánh giá tài sản đảm bảo.

Bất lợi trong việc đánh giá, lựa chọn khách hàng. Nguyên nhân là do chưa có

đủ cơ sở để đánh giá năng lực của khách hàng (năng lực quản trị và năng lực tài

chính). Về năng lực quản trị, ngân hàng thường đánh giá dựa vào bằng cấp hay

thâm niên. Điều này dẫn đến việc cán bộ thẩm định không đánh giá đúng thực chất

về năng lực của khách hàng. Còn khi đánh giá năng lực tài chính, các ngân hàng

thường dựa vào số liệu của báo cáo tài chính. Nhưng trên thực tế, các báo cáo này

chưa đủ độ tin cậy cao nên nó cũng không phản ánh đúng năng lực tài chính của

khách hàng. Thêm vào đó, tâm lý e ngại của cán bộ thẩm định khi điều tra vì sợ mất

khách hàng cũng ảnh hưởng nhiều đến độ chính xác của kết quả đánh giá.

Bất lợi trong việc đánh giá dự án vay. Đây là một vấn đề phổ biến vì ở Việt

Nam, trình độ xây dựng dự án còn yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ;

13

hệ thống pháp luật và các chính sách thường xuyên thay đổi; trình độ, năng lực

nghiệp vụ cán bộ thẩm định chưa cao hay do khách hàng cố tình che giấu mục đích

vay vốn thực sự của mình.

Bất lợi trong việc đánh giá tài sản đảm bảo do ngân hàng không có nhiều

thông tin hay thông tin không chính xác về tài sản đảm bảo và hạn chế trong chuyên

môn của cán bộ thẩm định.

1.3.3. Tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng

Tâm lý ỷ lại trong các hoạt động giao dịch vay nợ là khá phổ biến. Nó là một

vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau cho vay. Trong đó, người vay có

những hành vi hay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt xét theo quan

điểm của bên cho vay và vì những hoạt động này khiến món vay này ít có khả năng

sẽ được hoàn trả hay nói cách khác là sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.

Tâm lý ỷ lại gây nên xung đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng, giảm

bớt xác xuất hoàn trả nợ vay nên người cho vay có thể quyết định thôi không cho

vay nữa hoặc sẽ thực hiện những biện pháp giám sát để đảm bảo khoản vay sẽ được

thu hồi. Tuy nhiên, việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng thường

vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như người đi vay.

Bản thân các ngân hàng có thể gặp phải những rủi ro do tâm lý ỷ lại ở người đi

vay khi ngân hàng không giám sát được đầy đủ người đi vay, kích thích người này

dùng khoản vay một cách mạo hiểm quá mức hay khi khách hàng có động cơ đầu tư

vào những dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu

được lợi rất lớn, ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu

quả do khách hàng thua lỗ.

Tâm lý ỷ lại cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng

mục đích; đầu tư vào dự án kém hiệu quả; thiếu nỗ lực, không có sự nghiêm túc

trong quá trình thực hiện dự án dễ dẫn đến việc thua lỗ, phá sản hay khách hàng cố

tình lừa đảo ngân hàng.

Ngoài việc tồn tại sự yếu kém trong hoạt động cũng như năng lực quản lý, một

nguyên nhân phổ biến nữa là các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp

14

nhà nước hay có tâm lý ỷ lại khi xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước. Họ cho rằng

ngân hàng không thể từ chối cho vay, thẩm định chỉ mang tính chất hình thức. Và

nếu làm ăn thua lỗ thì cũng tồn tại, trả nợ không được thì ngân hàng phát mãi tài sản

đảm bảo và nhà nước sẽ hỗ trợ. Điều này đưa đến các quyết định mạo hiểm trong

đầu tư hay đầu tư vào các lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý của mình.

Ngoài ra, còn có tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay dẫn đến

những thiếu sót trong quá trình kiểm tra sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó là những rủi

ro về đạo đức của một bộ phận cán bộ tín dụng. Họ sẵn sàng liên kết với khách hàng

để hợp thức hóa thủ tục trong quá trình vay vốn nhằm đạt chỉ tiêu tăng trưởng, lợi

nhuận hay tệ hơn nữa là tham nhũng, ăn chia trong hợp đồng tín dụng.

1.3.4. Các điều kiện hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến

hoạt động tín dụng

Để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín

- Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ.

- Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng

dụng thì nền kinh tế cần phải có cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết như:

- Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập.

- Hệ thống công chứng, đăng ký tài sản bảo đảm tính công khai, minh bạch,

năng lực tài chính của khách hàng.

- Hệ thống thanh tra giám sát của NHNN phải chặt chẽ, phát huy được hiệu quả.

khách quan.

Tuy nhiên, đây chỉ mới là những điều kiện cơ bản của nền kinh tế (điều kiện

cần) để giúp hoạt động tín dụng được diễn ra. Về phía các tổ chức tín dụng cũng

phải đáp ứng thêm một số điều kiện về cơ sở hoạt động của mình (điều kiện đủ) để

- Chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp.

- Hệ thống thông tin đầy đủ có độ tin cậy và tính chính xác cao.

- Các tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng.

- Đội ngũ cán bộ tín dụng có năng lực và trình độ.

đảm bảo an toàn cho quá trình cấp tín dụng của ngân hàng như:

15

- Quyết định cấp tín dụng tại các ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn tín dụng.

- Quá trình kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay của các TCTD được thực hiện và

kiểm soát chặt chẽ.

Tóm tắt chương 1

Chương 2 đã giới thiệu khái quát về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng.

Bên cạnh đó, chương này còn trình bày các lý thuyết về thông tin bất cân xứng và

ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng. Đây là những nền tảng cơ bản để tiến

hành phân tích những ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng

của các NHTM tại Việt Nam và thực tế tại ACB trong chương kế tiếp.

16

CHƯƠNG 2

ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN

HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU



2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU

2.1.1. Giới thiệu tổng quan về NHTM CP Á Châu

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu được thành lập theo Giấy phép số

0032/NH-GP do NHNN Việt Nam cấp ngày 24 tháng 04 năm 1993 và Giấy phép số

553/ DP- UB do UBND TP. HCM cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB

chính thức đi vào hoạt động và được xem là một trong những ngân hàng thương mại

cổ phần đầu tiên trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi kinh tế Việt Nam từ

nền kinh tế tập trung, bao cấp tiến dần lên nền kinh tế thị trường.

- Tên pháp lý: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

- Tên tiếng Anh: Asia Commercial Bank

- Tên giao dịch viết tắt: ACB

- Trụ sở chính: 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3, TP. HCM

- Trang web: www.acb.com.vn

- Slogo:

- Slogan: ACB - Ngân hàng của mọi nhà

*Một số thông tin về ngân hàng:

*Vốn điều lệ: ACB thành lập với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng của 34 cổ

đông. Tính đến ngày 31/12/2012, vốn điều lệ của ACB là gần 9,377 tỷ đồng (chín

nghìn ba trăm bảy mươi bảy tỷ đồng).

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, vượt qua bao khó khăn thử thách, tích

lũy được nhiều bài học, kinh nghiệm, ACB đã trở thành một trong những NHTM

hàng đầu Việt Nam.

17

*Mạng lưới kênh phân phối:

Tính đến đến tháng 11/2013, ACB có 345 chi nhánh và phòng giao dịch trên

toàn quốc, có trên 2,000 đại lý chấp nhận thẻ và 969 đại lý chi trả Western Union.

*Hệ thống công ty con, công ty liên kết và công ty liên doanh:

Hiện tại ACB có bốn công ty trực thuộc (công ty chứng khoán ACB -ACBS,

công ty quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á châu- ACBA, công ty cho thuê tài

chính Ngân hàng Á Châu -ACBL, công ty quản lý quỹ ACB - ACBC); hai công ty

liên kết (công ty cổ phần Dịch vụ Bảo vệ Ngân hàng Á Châu - ACBD), công ty cổ

phần Địa ốc ACB -ACBR) và một công ty liên doanh (công ty cổ phần Sài Gòn

Kim hoàn ACB – SJC)

* Nhân sự:

Tính đến ngày 31/12/2012, tổng số nhân viên chính thức của ACB và các công

ty con là 10,276 người. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93% trong

tổng số nhân viên toàn hệ thống.

*Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Á Châu

Cơ cấu tổ chức của ACB hiện nay gồm có bảy khối (khách hàng cá nhân,

khách hàng doanh nghiệp, ngân quỹ, phát triển kinh doanh, vận hành, quản trị

nguồn lực, quản trị hành chính); bốn ban (kiểm toán nội bộ, chiến lược, chất lượng,

chính sách và quản lý tín dụng); sáu phòng (tài chính, kế toán, quản lý rủi ro thị

trường, thông tin quản trị, quan hệ đối ngoại, đầu tư) và ba trung tâm (công nghệ

thông tin, giao dịch vàng, và trung tâm vàng).

* Nội dung hoạt động:

Các hoạt động chính của ACB và các công ty con là huy động vốn ngắn hạn,

trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; tiếp nhận

vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ

chức tín dụng khác; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; chiết khấu thương

phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định; làm dịch

vụ thanh toán giữa các khách hàng, thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và

thanh toán quốc tế, huy động các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng

18

khác trong quan hệ với nước ngoài khi được NHNN cho phép; hoạt động bao thanh

toán; đại lý bảo hiểm; cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính; kinh doanh chứng

khoán; môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh

nghiệp và bảo lãnh phát hành; các dịch vụ về quản lý quỹ đầu tư và khai thác tài

sản, và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác.

2.1.2. Thực trạng về hoạt động của ACB

2.1.2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của ACB

Trong năm 2012, ACB đã ứng phó tốt và khắc phục nhanh sự cố rút tiền xảy

ra trong tuần cuối tháng 8/2012. Thanh khoản được đảm bảo; tài sản không thất

thoát. Số dư huy động tiết kiệm VND khôi phục trong thời gian ngắn. Các chủ

trương về xử lý trạng thái vàng, về huy động cũng như tín dụng của NHNN được

ACB triển khai nghiêm túc.

Trong năm 2012, các chỉ tiêu kinh doanh của ACB vẫn chưa đạt kế hoạch đề

ra đầu năm. Tuy nhiên, bình quân cả năm, quy mô huy động và cho vay về cơ bản

vẫn tăng khoảng 5% so với năm 2011. Tổng tài sản của ACB chốt tại thời điểm

31/12/2012 đạt 175,196 tỷ đồng, giảm 37% so với đầu năm. Lợi nhuận trước thuế

năm 2012 của ACB chỉ đạt ở mức 1,042.67 tỷ đồng, chỉ đạt 25% so với năm 2011.

Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính tín dụng của ACB tính đến

- Tổng tài sản đạt 159,880 tỷ đồng, giảm 15,316 tỷ đồng so với năm 2012

- Huy động đạt 134,175 tỷ đồng, tăng 8,942 tỷ đồng và đạt 59.5% so với kế

30/09/2013:

hoạch đề ra. Điều này cho thấy ACB đã dần lấy lại được lòng tin của khách hàng sau

- Trong lĩnh vực cho vay, dư nợ ACB đạt 103,503 tỷ đồng, tăng 688 tỷ đồng so

khi xảy ra sự cố vào năm trước.

- Bên cạnh sự hồi phục trong hoạt động kinh doanh, tình hình nợ xấu của ACB

với năm 2012 và đạt 5.56% so với con số kế hoạch đề ra.

cũng bắt đầu tăng nhanh. Tính đến thời điểm 30/09, tổng nợ xấu ACB là 3,451 tỷ

đồng, tăng 880 tỷ đồng so với năm 2012. Và điều đáng quan tâm nhất là trong khi nợ

nhóm 4-5 có xu hướng giảm thì tỷ trọng nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) lại tăng

19

mạnh nhất (tăng gần 1,594 tỷ đồng). Điếu đó cho thấy, tuy ACB có tốc độ tăng trưởng

chậm trong hoạt động tín dụng nhưng tình hình nợ quá hạn đã bắt đầu nhen nhóm và

phổ biến tại các đơn vị trên toàn hệ thống. Điều này cho thấy công tác cho vay và nhất

là công tác quản trị rủi ro của ACB đang rơi vào vùng nguy hiểm.

2.1.2.2. Nghiệp vụ huy động vốn

Nhìn chung, tình hình huy động vốn của ACB giai đoạn 2010- 2012 có sự biến

động mạnh. Chủ yếu là do sự cố rút tiền xảy ra vào trung tuần tháng 8/2012 và do

giảm nguồn vốn huy động vàng theo chủ trương của Chính phủ và NHNN. Chính

hai nguyên nhân này đã làm thay đổi cục diện tăng trưởng huy động của ACB từ

tăng trưởng mạnh ở mức gần 33% vào năm 2011 xuống âm (-) 12% vào năm 2012.

Xét theo loại tiền, số dư ngoại tệ và vàng có giảm nhưng là sự giảm dần đều

trong tỷ trọng huy động. Điều đó chứng tỏ rằng nguyên nhân của nó chủ yếu là do

ACB đã thực hiện việc xử lý trạng thái vàng theo đúng tiến độ và chủ trương của

VND

Ngoại tệ và vàng

8.00%

13.02%

19.66%

92.00%

86.98%

80.34%

Chính phủ và NHNN.

2010

2011

2012

Hình 2.1 - Tình hình huy động vốn theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012 Như vậy, sự cố rút tiền chủ yếu tác động đến công tác huy động VND.

Nhưng với chính sách điều hành linh hoạt, ứng phó tốt và nhanh chóng khắc phục

sự cố, thanh khoản và sự an toàn của ngân hàng được đảm bảo, số dư huy động tiết

kiệm VND đã được khôi phục trong thời gian ngắn. Kết quả huy động tiết kiệm

VND năm 2012 của ACB tuy có sự “lùi” nhẹ so với đầu năm nhưng nó vẫn luôn

chiếm tỷ trọng trên 80% trong tổng số dư huy động, vẫn tiếp tục giữ vai trò là

nguồn vốn ổn định và thế mạnh truyền thống của ACB (hình 2.1).

20

Đặc biệt, trong bối cảnh ACB tuân thủ trần lãi suất huy động trong suốt thời

gian dài và bị ảnh hưởng bởi sự cố rút tiền từ tháng 8 vừa qua, số dư tiền gửi của

khách hàng cá nhân cũng tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm vai trò chủ đạo

(72% - 88%) trong các thành phần kinh tế ủng hộ gửi tiền tại ACB đã cho thấy sức

Các đối tượng khác

0.56%

0.72%

0.86%

Cá nhân

Hợp tác xã

72.07%

84.05%

88.20%

Công ty 100% vốn nước ngoài Công ty liên doanh

0.29%

0.02%

0.28%

0.02%

0.44%

0.53%

26.28%

0.41%

0.38%

Công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp Nhà nước

13.59% 0.79%

0.01% 9.78% 0.35%

0.33%

mạnh của ngân hàng bán lẻ ACB tại Việt Nam (hình 2.2).

2010

2012

2011

Hình 2.2 -Tình hình huy động vốn theo loại hình khách hàng của ACB giai đoạn 2010-2012

2.1.2.3. Nghiệp vụ cấp tín dụng

Trong công tác cho vay, tổng dư nợ năm 2012 của ACB hầu như không có sự

thay đổi so với năm 2011. Bên cạnh ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh tế toàn

cầu phải kể đến tác động của thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của

NHNN về việc chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng,

có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2011. Đây là nguyên nhân gây nên sự quay đầu

mạnh của số dư nợ ngoại tệ và vàng từ tăng 25.36% vào năm 2011 xuống âm (-)

30.33 % trong năm 2012.

Ổn định hơn thị trường ngoại tệ và vàng, ACB có tăng trưởng tương đối ổn

định trong mảng cho vay VND, mảng luôn chiếm trên 70% dư nợ. Tuy tốc độ tăng

trưởng năm 2012 có giảm hơn so với năm 2011 nhưng cũng đã thể hiện được sự cố

gắng của toàn hệ thống ACB trong bối cảnh các cá nhân và doanh nghiệp Việt Nam

đang gặp khó khăn như hiện nay (hình 2.3).

21

VND

Ngoại tệ và vàng

18.23%

24.61%

26.16%

81.77%

75.39%

73.84%

2010

2011

2012

Hình 2.3 -Tình hình cho vay theo loại tiền của ACB giai đoạn 2010-2012

Nếu xét về thời hạn vay, ACB tập trung xem xét tài trợ cho vay ngắn hạn nhiều

hơn và hạn chế cho vay trung dài hạn. Cụ thể, các khoản cho vay ngắn hạn luôn

chiếm trên 50% và tỷ trọng này đều tăng dần qua các năm. Các sản phẩm thế mạnh

là cho vay hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh, vay bổ sung vốn lưu động theo các hình

thức cấp hạn mức tín dụng, vay từng lần hay trả góp với thời gian lên đến 180 tháng

Ngắn hạn

Trung hạn

Dài hạn

21.36%

26.78%

26.88%

26.73%

18.87%

22.79%

54.35%

51.90%

50.34%

(vay tiêu dùng, vay mua/xây dựng sữa chữa nhà, mua bất động sản).

2010

2011

2012

Hình 2.4 -Tình hình cho vay theo thời hạn vay của ACB giai đoạn 2010-2012

Về đối tượng khách hàng mục tiêu, ACB luôn định hướng tập trung vào khách

hàng cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (công ty trách nhiệm hữu hạn, công

ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân). Đây là hai nhóm khách hàng trọng tâm và

luôn chiếm từ 93-96% tỷ trọng khách hàng tại ACB. Trong đó, điều kiện sàng lọc

khách hàng là các cá nhân có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có quan hệ xã hội, lịch

sử bản thân lành mạnh, lịch sử quan hệ tín dụng tốt và có thái độ hợp tác tốt; các

doanh nghiệp có ngành nghề hoạt động rõ ràng, lịch sử quan hệ tín dụng tốt, đội ngũ

22

điều hành có kinh nghiệm, cơ cấu sở hữu và cổ đông rõ ràng và có thái độ hợp tác

Cá nhân và các đối tượng khác

34.87%

37.37%

43.13%

Hợp tác xã

0.02%

0.02%

0.79%

0.02%

0.49%

0.03%

0.45%

0.46%

0.30%

Công ty 100% vốn nước ngoài

56.17%

60.61%

52.91%

Công ty liên doanh

5.75%

3.23%

3.18%

2010

2011

2012

Công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân

tốt với ACB.

Hình 2.5 - Tình hình cho vay theo các thành phần kinh tế của ACB

giai đoạn 2010-2012

Về thị trường mục tiêu, TP HCM với vai trò là trung tâm kinh tế, tài chính,

thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước là khu vực hoạt động

chính của ACB (luôn chiếm trên 60% dư nợ). Tuy nhiên, cũng với vai trò là trung

tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn đầu cả nước về số lượng

ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng nên xét về góc độ cạnh tranh,

TP HCM cũng là nơi có mức cạnh tranh khốc liệt nhất. Cùng với sự phát triển của

TP. HCM, hạt nhân vùng Đông Nam bộ, khu vực miền Đông cũng bắt đầu thể hiện

vai trò của vùng kinh tế trọng điểm bằng sự chuyển mình với tốc độ tăng trưởng

TP.HCM

6.21% 5.06%

5.52% 5.96%

6.85% 7.25%

19.70%

Đồng bằng SCL

23.08%

19.54%

4.03%

4.85%

4.81%

Miền Bắc

Miền Trung

65.00%

61.52%

60.62%

Miền Đông

2010

2011

2012

24% so với năm 2011 (hình 2.6).

Hình 2.6 -Tình hình cho vay theo khu vực địa lý của ACB giai đoạn 2010-2012

23

2.1.2.4. Tình hình nợ xấu

Trong bối cảnh biến động mạnh của tình hình kinh tế - xã hội, thị trường vốn

và thị trường tiền tệ trong nước và thế giới, ACB đã không ngừng nâng cao năng

lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, sửa đổi và hoàn thiện chính sách

tín dụng, các mô hình đánh giá xếp hạng và các biện pháp kiểm soát tín dụng hiệu

quả như: chọn lọc dự án đầu tư, sàng lọc khách hàng, kiểm soát chất lượng tín dụng,

tập trung đầu tư vốn trên cơ sở an toàn. Các chính sách của ACB đã thể hiện và phát

huy được hiệu quả trong việc ngăn ngừa, quản lý rủi ro tín dụng trong thời gian qua.

Bảng 2.1 – Tổng hợp tình hình nợ xấu của ACB giai đoạn 2010-2012

Năm

2010

2011

2012

Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%) Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%) Giá trị (trđ) Tỷ lệ (%)

86,693,232

99.42 101,564,431

98.79 94,822,750

92.23

Nợ đủ tiêu chuẩn

209,067

326,758

0.32

5,421,128

0.24

5.27

Nợ cần chú ý

64,759

274,973

0.27

747,218

0.07

0.73

Nợ dưới tiêu chuẩn

58,399

345,655

0.34

673,361

0.07

0.65

Nợ nghi ngờ

169,648

297,339

0.29

1,150,391

0.19

1.12

Nợ có khả năng mất vốn

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)

Tuy nhiên, khi hoạt động trong một môi trường luôn tồn tại tình trạng thông

tin không hoàn hảo như ngày nay, ACB cũng không thể tránh khỏi tác động tiêu cực

của quy luật rủi ro khi cho vay. Kể từ năm 2010, nợ xấu (nhóm 3-5) bắt đầu tăng

mạnh, kéo chất lượng tín dụng đi xuống. Nợ xấu chiếm từ 0.34% - 0.89% vào năm

2010 và 2011 đã tăng lên 2.46% tổng dư nợ vào năm 2012. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ

cần chú ý (nhóm 2) cũng tăng mạnh chiếm tới 5.19% tổng dư nợ so với tỷ lệ 0.32-

0.34% của hai năm trước đó (hình 2.7). Đây là một điểm đáng báo động khi tính

liên thông giữa thị trường bất động sản và thị trường tín dụng ngày càng hiện hữu.

Vì phần lớn dư nợ của các tổ chức tín dụng nói chung và của ACB nói riêng thường

thế chấp bằng bất động sản nên khi thị trường nhà đất đóng băng, giá trị tài sản suy

giảm nhanh chóng, chất lượng tài sản thế chấp xấu đi nghiêm trọng và nợ xấu lại

tiếp tục gia tăng.

24

Triệu đồng

3,000,000

2,570,970

2,500,000

2,000,000

1,500,000

1,000,000

917,967

500,000

292,806

0

2010

2011

2012

Hình 2.7 – Tình hình nợ xấu (nhóm 3-5) tại ACB giai đoạn 2010-2012

2.1.3. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của ACB

Ngân hàng Á Châu - ACB, với kinh nghiệm và uy tín thương hiệu từ 20 năm

phát triển vượt bậc, là ngân hàng mạnh của ngành ngân hàng Việt Nam với tổ chức

vận hành vững mạnh, năng lực tài chính dồi dào, được tin tưởng và hỗ trợ chặt chẽ

từ các bên hữu quan.

Tháng 5/2012, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã công bố kết quả đánh

giá xếp hạng sức mạnh tài chính riêng biệt (BFSR) của ACB ở mức E+. ACB nằm

trong nhóm các ngân hàng có mức BFSR cao nhất Việt Nam. Trong lần đánh giá

này, Moody’s tiếp tục ghi nhận những thế mạnh của ACB với vị trí của một ngân

hàng lớn có vị thế dẫn đầu: ngân hàng lớn thứ 5 trong toàn hệ thống ngân hàng Việt

Nam và là ngân hàng tư nhân lớn nhất; khả năng sinh lời mạnh, hiệu quả hoạt động

tốt, khả năng thanh khoản mạnh; hệ thống phê duyệt và kiểm soát rủi ro tín dụng

tốt; hệ thống quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ không ngừng được cải tiến.

Trên thực tế, nếu xét trên cơ sở phân tích ước lượng các nhóm tiêu chí sức

mạnh thị trường, sự ổn định về năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh

và tiềm năng phát triển, ACB nằm trong nhóm được xếp hạng A về năng lực cạnh

tranh (mức cao nhất) trong số các NHTM trên cả nước. Còn nếu xét riêng mảng cho

vay, ACB với những thế mạnh sẵn có, đã trở thành một trong những đối thủ nặng

cân đối với các ngân hàng bạn, nhất là những ngân hàng ngoài quốc doanh như

Sacombank, Techcombank, Eximbank….

25

4.50%

4.00%

3.80%

4.00%

3.33%

3.50%

3.00%

2.50%

2.00%

1.50%

1.00%

0.50%

0.00%

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Hình 2.8 – Thị phần tín dụng của ACB trong giai đoạn 2010-2012

Trong những năm qua, mặc dù áp lực cạnh tranh trong ngành ngân hàng rất

cao nhưng ACB vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình

của toàn ngành trong lĩnh vực cho vay các tổ chức kinh tế và dân cư. Năm 2012,

ACB chiếm 3.33% thị phần cho vay của cả nước, giảm 0.63% so với năm 2011

(hình 2.8). Tuy nhiên, đây là một tỷ trọng khá cao so với các NHTM ngoài quốc

doanh như Sacombank (3.19%), Techcombank (2.21%), Eximbank (2,42%)1.

Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra cơ hội phát triển cho thị trường tài chính và

các ngành phụ trợ liên quan đến ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo sự

tấn công của các ngân hàng nước ngoài, tạo thêm sức ép trong hoạt động cho các

ngân hàng trong nước, trong đó có ACB. Nhưng thay vào đó, khi nền tài chính thế

giới và Việt Nam đang gặp khó khăn, các ngân hàng nước ngoài sẽ không quá tích

cực xâm nhập thị trường Việt Nam do các vấn đề từ thị trường chính của họ sẽ làm

cho việc cạnh tranh với các ngân hàng này bớt căng thẳng, nhất là trong lĩnh vực

bán lẻ. Bên cạnh đó, quá trình tái cấu trúc ngành ngân hàng Việt Nam sẽ làm cho

các ngân hàng nhỏ đang làm “rối” thị trường giảm bớt tham vọng tăng trưởng

nhanh của mình. Điều này làm cho thị trường vận hành hiệu quả và minh bạch hơn.

Đồng thời, việc cạnh tranh nguồn nhân lực cũng sẽ bớt gay gắt khi khả năng mở

1 Năm 2012 dư nợ nền kinh tế đạt 3,090,904 tỷ đồng. Trong đó, Sacombank: 98,728 tỷ đồng, Techcombank 68,261 tỷ đồng và Emximbank là 74,922 tỷ đồng.

rộng mạng lưới bị hạn chế bởi chủ trương của NHNN.

26

2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT

ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU

2.2.1. Đánh giá các cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết để hạn chế

ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng tại ACB

2.2.1.1. Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính

Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở quan trọng giúp

cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu

một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không minh bạch và không có

độ tin cậy cao sẽ gây nhiều khó khăn khi sử dụng để làm căn cứ xác định tình trạng

thực tế của doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, quy định về kiểm toán độc lập chưa bắt buộc áp dụng đối với

tất cả các loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xây dựng

báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế nên báo cáo chính thức

thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.

Thậm chí là tại một doanh nghiệp có thể có nhiều hệ thống báo cáo như một bản là

dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn rất nhiều so với thực tế), một

bản dùng để cung cấp cho ngân hàng (báo cáo thường cao hơn thực tế) và một dùng

để dùng cho nội bộ (đúng thực tế). Thêm vào đó, hầu hết các ngân hàng không có

yêu cầu khách hàng đến giao dịch tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm

toán. Nên việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án của các

ngân hàng chưa có đủ độ tin cậy.

Trước tình hình đó, để tránh rơi vào lựa chọn bất lợi khi cấp tín dụng, cho vay

quá ít hoặc quá nhiều so với tình trạng thực tế của doanh nghiệp, ACB không hoàn

toàn dựa vào báo cáo tài chính để làm cơ sở phê duyệt. Trên thực tế, ACB còn dựa

trên các thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn trực tiếp

khách hàng, thông qua các chứng từ, sổ sách theo dõi hoạt động kinh doanh, tham

khảo số liệu ngành chung… để đối chiếu so sánh, thiết lập và chọn ra một bản báo

cáo phù hợp và sát với thực tế hơn từ doanh nghiệp.

27

2.2.1.2. Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập

Hiện tại ở Việt Nam đã có trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN và

một số công ty chứng khoán đã làm công tác xếp loại khách hàng. Bên cạnh đó là

sự ra đời của một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm như: Trung tâm Đánh giá tín nhiệm

Vietnamnet Ratings (CRV) thuộc Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC,

Công ty cổ phần Tư vấn và Dịch vụ Thông tin Tín nhiệm Việt Nam (VNCIS) gọi tắt

là Công ty Thông tin Tín nhiệm Việt Nam, Trung tâm Khoa học thẩm định tín

nhiệm doanh nghiệp (CRC)... nhưng tất cả đã bộc lộ những bất cập trong quá trình

hoạt động của mình.

* Trung tâm tín dụng CIC thuộc NHNN Việt Nam là tổ chức có chức năng

thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu

quản lý nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy

định của NHNN và của pháp luật.

Sản phẩm phân tích xếp hạng tín dụng (XHTD) doanh nghiệp tại CIC được

ra đời và thí điểm từ năm 2002, đến năm 2004 được chính thức cung cấp cho các

TCTD, đến năm 2006 nghiệp vụ phân tích XHTD doanh nghiệp được Thống đốc

NHNN phê duyệt là một nghiệp vụ chính thức của Trung tâm Thông tin tín dụng.

Điều đó đã khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của XHTD doanh nghiệp

trong hoạt động thông tin tín dụng.

CIC là đơn vị duy nhất tại Việt nam có được những thế mạnh về XHTD như:

có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại với một dữ liệu lớn về tài chính doanh

nghiệp; dữ liệu đánh giá lịch sử quan hệ tín dụng của doanh nghiệp được cung cấp

bởi 100% các TCTD hoạt động tại Việt Nam; các đánh giá về phi tài chính mang

tính tổng quát, hệ thống và có kết hợp với đánh giá chuyên gia;… đáp ứng được các

yêu cầu đặt ra của hệ thống XHTD, cập nhật kịp thời khi có bất kỳ biến động nào

của phía doanh nghiệp hoặc các biến động kinh tế liên quan đến doanh nghiệp.

Trên thực tế, trung tâm CIC đã thể hiện được vai trò cần thiết của mình trong

việc cung cấp thông tin đối với các TCTD. Tuy nhiên, chất lượng thông tin chưa

cao, các các chỉ tiêu còn chung chung và có độ cập nhật không cao. Những thông

28

tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của doanh nghiệp và những người điều

hành hầu như không có.

Mặt khác, sự hợp tác giữa các ngân hàng và trung tâm CIC không đồng bộ và

chưa đạt hiệu quả cao. Một số ngân hàng do chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng

của tính cập nhật và chính xác về thông tin nên các TCTD chưa có sự quan tâm

đúng mức đến các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Thậm chí, một số NHTM

vì sợ cạnh tranh nên không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không chính

xác cho trung tâm CIC dẫn đến tình trạng khách hàng có thể phát sinh nhiều quan

hệ vay vốn tại nhiều TCTD trong một thời điểm. Chính vì vậy, ngân hàng rất khó

trong việc giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. Đây chính là vấn đề

rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch xảy ra tại các ngân hàng.

*Trung tâm Đánh giá tín nhiệm Vietnamnet Ratings (CRV) thành lập ngày

4/6/2005 là tổ chức chuyên cung cấp cho thị trường các dịch vụ thu thập thông tin,

đánh giá xếp hạng, định mức tín nhiệm của các tổ chức tài chính và xếp hạng DN.

Quy trình đánh giá của công ty gồm hơn 100 chỉ tiêu tài chính và phi tài chính,

được xử lý bởi phần mềm tính điểm với phương châm “độc lập, khách quan và xác

thực”.

Tuy nhiên, phương pháp định mức tín nhiệm dựa trên cơ sở thống kê của CRV

được cho là cần kho dữ liệu lớn và có thời gian tích lũy thông tin lâu dài. Sau khi

bảng xếp hạng “chỉ số tín nhiệm” của 32 ngân hàng Việt Nam được CRV công bố

lần đầu vào tháng 9/2012, nhiều thông tin trái chiều đã đặt ra hoài nghi về tính xác

thực và năng lực thẩm định của đơn vị này. Vì trong đó có sự khác biệt lớn giữa

bảng xếp hạng của công ty với bảng xếp hạng tín dụng do CIC công bố vào đầu

năm.

* Công ty cổ phần Tư vấn và Dịch vụ Thông tin Tín nhiệm Việt Nam

(VNCIS) là công ty hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và cung cấp các dịch vụ thông

tin kinh tế, thông tin tín nhiệm doanh nghiệp cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng,

nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm ngăn ngừa hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp, góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam.

29

Công ty được biết đến với đội ngũ chuyên gia hàng đầu Việt Nam giàu kinh

nghiệm trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, tư vấn xếp hạng và quản

trị rủi ro tín dụng thương mại doanh nghiệp; quy trình công nghệ hiện đại và kho dữ

liệu doanh nghiệp phong phú gần 300.000 doanh nghiệp Việt Nam; quan hệ đối tác

chặt chẽ với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) – NHNN Việt Nam và các cơ quan

thông tin khác. Tuy nhiên, cho đến nay, công ty này mới xuất bản duy nhất một ấn

phẩm “Xếp hạng tín dụng Top 1000 doanh nghiệp Việt Nam năm 2011” hợp tác với

Trung tâm Thông tin tín dụng - CIC.

* Trung tâm Khoa học thẩm định tín nhiệm doanh nghiệp (CRC) cũng là một

đơn vị thường hợp tác với CIC. CRC cũng có kho dữ liệu đầy đủ với nguồn nhân

lực gồm các chuyên gia nhưng hoạt động lại kém hiệu quả, không giúp ích cho các

tổ chức tín dụng và nhà đầu tư bởi CRC xác định định mức tín nhiệm không theo

hạng mức cao thấp mà chỉ nhằm đánh giá xem tình hình tài chính của đối tượng

đang ở mức an toàn hay không.

Tận dụng những lợi ích hiện có của CIC, những thông tin được cung cấp từ

CIC được ACB sử dụng một cách hiệu quả. Tất cả khách hàng và những cá nhân/ tổ

chức có liên quan (người bảo lãnh, người đồng ký vay, người đồng trả nợ…) đều

được tra cứu thông tin CIC. Và đây là một thao tác bắt buộc và có quy định chặt chẽ

trong quá trình cấp tín dụng. Thông tin CIC phải được tra cứu trước khi lập tờ trình

tín dụng như một bước sàng lọc những khách hàng đã từng phát sinh nợ không đủ

tiêu chuẩn trong quá trình vay vốn.

2.2.1.3. Hệ thống định giá và đăng ký tài sản đảm bảo

Một hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản rõ ràng là vô cùng quan trọng cho

phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng. Nếu

tất cả các tài sản được đăng ký và xác nhận quyền sở hữu, thì người sở hữu nó có

thể đem tài sản này thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng. Hay nói các khác, nếu tất

cả các tài sản (nhất là các bất động sản) được đăng ký quyền sở hữu (hay quyền sử

dụng) thì nó mới thực sự là tài sản, nếu không, nó chỉ là của cải vật chất đơn thuần

của người có nó và việc chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố sẽ gặp nhiều khó khăn.

30

Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực

hiện chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế

khách quan có rất nhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và

không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là

rất khó. Đặc biệt là các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự

phát mà không có bất kỳ một giấy tờ nào. Những loại bất động sản này chỉ có thể

được xem là những công cụ, phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của

người dân mà rất khó đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế. Với sự không minh

bạch và khó xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài

sản gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín

dụng của mình.

Trong khi tại một số TCTD ở Việt Nam, nhân viên thẩm định khách hàng

cũng đồng thời làm công tác thẩm định tài sản khi cho vay. Thì tại ACB, hoạt động

thẩm định tài sản được tách bạch với công tác thẩm định khách hàng. Đội ngũ nhân

viên thẩm định tài sản được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Các thông tin về TSBĐ

được khảo sát thực tế, đầy đủ chi tiết về tính pháp lý cũng như giá trị thực tế đảm

bảo tính minh bạch, rõ ràng, xác thực và an toàn cho cán bộ tín dụng khi cho vay.

Về hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo, để tránh tình trạng khách hàng sử

dụng một tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn nhiều ngân hàng, các TCTD, trong đó

có ACB đều tuân thủ quy định việc đăng ký giao dịch đảm bảo các tài sản này chỉ

được thực hiện tại một số cơ quan có thẩm quyền như: cơ quan đăng ký quốc gia

giao dịch đảm bảo và chi nhánh: cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực;

cục hàng không dân dụng Việt Nam; sở địa chính hoặc tài nguyên môi trường; ủy

ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao

dịch đảm bảo mỗi loại tài sản theo quy định.

31

2.2.1.4. Hệ thống công chứng

Những năm qua, hoạt động công chứng ở nước ta mặc dù đã có nhiều đổi mới

và chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.

Bên cạnh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa ở các văn phòng công

chứng, chất lượng công chứng vẫn còn thấp do trình độ thẩm định, nghiệp vụ của

một số công chứng viên yếu và không đồng đều. Tại một số nơi lực lượng công

chứng viên còn khá mỏng so với nhu cầu thực tế, dễ gây ách tắc thậm chí có thể dẫn

đến những sai sót trong việc công chứng thế chấp gây thiệt hại cho ngân hàng.

Ngoài ra, khi nạn giả mạo giấy tờ để lừa đảo ngày càng gia tăng, sự dễ dãi trong

thẩm định hồ sơ dẫn tới việc công chứng ẩu, công chứng sai gây cản trở và ảnh

hưởng lớn đến uy tín và chất lượng hoạt động của các văn phòng công chứng. Đặc

biệt là có nhiều công chứng viên, văn phòng công chứng còn cố tình lách luật gây ra

hàng loạt những sai phạm nghiêm trọng.

Để hạn chế các rủi ro phát sinh ở giai đoạn công chứng gây thiệt hại cho ngân

hàng cũng như khách hàng, ACB đều rất thận trọng trong tất cả các khâu từ công

tác soạn thảo, chuẩn bị và kiểm soát hồ sơ trước khi thực hiện công chứng. Nhân

viên pháp lý chịu trách nhiệm tính chính xác, minh bạch, đầy đủ và đảm bảo tính

pháp lý của tất cả các thông tin trên hợp đồng. Thêm vào đó là sự kiểm soát chặt

chẽ của kiểm soát viên tín dụng hoặc trưởng bộ phận tín dụng trước khi thực hiện

công chứng tại phòng công chứng. Ngoài ra, để tránh những khiếu nại có thể phát

sinh cũng như đảm bảo công bằng, việc phổ biến và thống nhất nội dung trên hợp

đồng với khách hàng cũng được ACB rất chú trọng trước khi đi công chứng.

2.2.1.5. Hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng

Trong những năm qua, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển và hoạt

động an toàn, hiệu quả; góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, hệ

thống thanh tra giám sát ngân hàng Việt Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định.

Hiện nay, phương pháp thanh tra, giám sát chủ yếu là thanh tra và kiểm tra

tính tuân thủ của các TCTD đối với các qui định pháp lý về hoạt động ngân hàng,

32

chưa tập trung vào mô hình thanh tra hướng đến mục tiêu, đảm bảo an toàn hoạt

động ngân hàng như thanh tra đánh giá rủi ro thị trường, cảnh báo sớm các rủi ro có

thể xảy ra do cơ chế điều hành có vấn đề hay do đầu tư cho vay vào những ngành và

lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Phương pháp này hiện nay đã tỏ ra không còn hiệu quả khi

hệ thống các TCTD đã gia tăng nhanh chóng về số lượng, qui mô và loại hình, đòi

hỏi phải mở rộng và tiếp cận từng bước với phương pháp giám sát dựa trên rủi ro.

Khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ cho hoạt động giám sát còn

nhiều hạn chế như: thiếu thông tin, chưa có hệ thống xử lý thông tin tập trung; quy

trình tiếp nhận thông tin báo cáo tài chính của các TCTD còn nhiều bất cập, tình

trạng cả chi nhánh và hội sở của TCTD đều phải thực hiện báo cáo không chỉ gây ra

sự lãng phí tiền vốn và thời gian, mà còn dẫn đến sự sai lệch dữ liệu; thông tin đi

qua nhiều khâu chuyển tiếp dẫn đến sai lệch dữ liệu và mất nhiều thời gian; việc thu

thập thông tin về TCTD trong quá trình thanh tra tại chỗ chưa được quản lý bằng

một hệ thống thông tin, gây khó khăn trong việc tổng hợp và kiểm soát dữ liệu.

Hoạt động thanh tra, giám sát còn đơn độc trong giám sát hiệu quả kinh doanh

của TCTD, chưa xem xét và nâng cao vai trò giám sát tại chỗ của kiểm toán, kiểm

soát nội bộ trong từng TCTD cũng như phối hợp với những tổ chức khác như bảo

hiểm tiền gửi, các công ty kiểm toán độc lập, nhằm tăng cường hiệu quả giám sát

theo hướng đánh giá và phòng ngừa rủi ro.

Cơ quan giám sát thuộc NHNN vừa thực hiện chức năng cấp phép, vừa ban

hành cơ chế chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ

chế chính sách và thực hiện vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động ngân

hàng. Điều này dễ dẫn đến xung đột lợi ích, hạn chế hiệu quả và hiệu lực giám sát.

Các công cụ phục vụ cho hoạt động giám sát dựa trên rủi ro còn thiếu và chưa

được vận dụng nhiều vào thực tế. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo và

kiểm định đánh giá rủi ro hay cảnh báo sớm đối với từng TCTD và toàn hệ thống

TCTD chưa phát triển, làm giảm tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động thanh

tra, giám sát.

33

Ngoài ra, cơ quan thanh tra giám sát còn hạn chế về phương diện kỹ thuật,

việc ứng dụng công nghệ về thu thập và xử lý thông tin còn lạc hậu, mức độ chính

xác và tính cập nhật dữ liệu còn hạn chế. Thêm vào đó, việc áp dụng mô hình kiểm

định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các TCTD vào thực

tiễn thanh tra, giám sát các TCTD còn gặp khó khăn do nguồn nhân lực còn hạn chế

về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

ACB luôn tuân thủ theo các quy định của cơ quan quản lý, ủng hộ chủ trương

hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh tra giám sát của NHNN được

thực hiện hiệu quả.

2.2.1.6. Chính sách lãi suất

Lãi suất vừa là một công cụ sắc bén thực thi vai trò đòn bẩy điều tiết kinh tế vĩ

mô vừa nâng cao hiệu quả, an toàn vốn tín dụng. Trong thời gian qua cơ chế điều

hành lãi suất chưa được vận hành hữu hiệu, mặc dù lãi suất hiện đã giảm xuống

thấp nhưng chênh lệch giữa lãi suất cho vay với huy động vẫn ở mức cao, cơ chế

điều hành lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ chưa gắn kết chặt chẽ với

nhau và chưa được đặt trong quan hệ hợp lý với điều hành tỷ giá khiến cho nhu cầu

đầu tư, thanh toán, nắm giữ tài sản và tích trữ giá trị bằng bất động sản, vàng, ngoại

tệ còn phổ biến.

Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là khó khăn thường gặp khi triển khai

các chính sách lãi suất của nhà nước. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng

lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi chính sách lãi

suất áp dụng hấp dẫn nhiều doanh nghiệp chấp nhận rủi ro; nhiều doanh nghiệp lành

mạnh sẽ bị loại ra khỏi thị trường tín dụng do không sẵn sàng trả mức lãi suất cao

như các doanh nghiệp đang khó khăn. Rủi ro đạo đức phát sinh khi cơ chế lãi suất

yếu, không kiểm soát được các hoạt động cho vay của ngân hàng, trong trường hợp

người vay nhận được sự bảo trợ ngầm từ Chính phủ.

Tại ACB, chính sách định hướng lãi suất của nhà nước luôn được tuân thủ.

Điều này đôi khi khiến lãi suất ACB có thể thấp hơn một số ngân hàng vượt trần lãi

suất về huy động hay cao hơn các ngân hàng hạ sàn lãi suất tín dụng. Nhưng xét về

34

lâu về dài, nhờ chất lượng dịch vụ và sự uyển chuyển trong hoạt động, ACB đã giữ

được sự gắn kết khách hàng đồng thời vẫn tuân thủ định hướng lãi suất của NHNN.

Ở ACB, lãi suất được quy định cụ thể cho từng nhóm khách hàng, từng sản phẩm

dịch vụ… kết hợp với các chương trình ưu đãi và chính sách chăm sóc khách hàng,

lãi suất của ACB luôn cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác tại Việt Nam.

2.2.1.7. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu

a. Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng

Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá

trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, ban điều hành là cơ sở hết sức

quan trọng giúp cho việc thẩm định, xếp loại lựa chọn khách hàng trong hoạt động

của các TCTD. Nếu hệ thống này không đầy đủ và chính xác sẽ ảnh hưởng rất lớn

đến khả năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.

Hiện nay, trung tâm tín dụng thuộc NHNN Việt Nam (CIC) là tổ chức duy

nhất thực hiện công tác thu thập thông tin khách hàng có quan hệ tín dụng với tất cả

các TCTD. Cơ chế thu thập thông tin của CIC theo quy chế hoạt động thông tin tín

dụng do NHNN ban hành. Trong đó quy định TCTD theo định kỳ có trách nhiệm

báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và các TCTD được quyền

khai thác thông tin của CIC.

Tận dụng những lợi ích hiện có của CIC, thông tin cung cấp từ CIC được ACB

sử dụng một cách hiệu quả. Tất cả khách hàng và những cá nhân/ tổ chức có liên

quan (người bảo lãnh, người đồng ký vay, người đồng trả nợ…) đều được tra cứu

thông tin CIC. Và đây là một thao tác bắt buộc và có quy định chặt chẽ trong quá

trình cấp tín dụng. Thông tin CIC phải được tra cứu trước khi lập tờ trình tín dụng

như một bước sàng lọc những khách hàng đã từng phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn

trong quá trình vay vốn.

Ngoài ra, ACB cũng kết hợp thu thập các thông tin của khách hàng và những

người có liên quan từ nhiều nguồn khác nhau khi thẩm định để phục vụ cho công

tác đánh giá xếp loại khách hàng khi cấp tín dụng tại ACB.

b. Hệ thống thông tin nội bộ của các TCTD

35

Hiện nay, tại một số TCTD ở Việt Nam, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng

chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dư

nợ của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo số) là một vấn đề

rất khó khăn đối với các TCTD.

Trong khi đó, tại ACB tình trạng này đã được khắc phục rất sớm. Kể từ năm

1999, ACB đã triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng,

xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động

giao dịch và đến cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ

ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn

diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau, cùng chung

cơ sở dữ liệu tập trung và xử lý giao dịch theo thời gian thực.

Và đến năm 2010, ACB lại tiếp tục ứng dụng chương trình CLMS vào hoạt

động tín dụng của hệ thống. Đây là một chương tình quản lý tín dụng tập trung.

CLMS giúp cho ACB rút ngắn được thời gian xử lý và quản lý hồ sơ tín dụng.

Bên cạnh đó là hệ thống mail nội bộ (Lotus) luôn trực tuyến. Đây vừa là công

cụ hỗ trợ đắc lực trong việc trao đổi thông tin giữa các thành viên gia đình ACB vừa

là kho dữ liệu, tài liệu hoạt động quan trọng của toàn hệ thống ACB. Giúp mọi nhân

viên có thể lưu trữ, cập nhật và kiểm tra tất cả các tài liệu liên quan đến quy trình,

nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, thuận tiện và với độ bảo mật cao nhất.

c. Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án

Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án,

phương án kinh doanh, các TCTD cần phải có hệ thống thông tin nhằm xác định,

kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị

trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra của các sản phẩm…

Vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các

TCTD hiện nay, trong đó có ACB, vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan

trọng nhất quyết định đến hiệu quả của dự án như thông tin về giá nguyên, vật liệu,

giá bán, khả năng tiêu thụ có thể thu thập qua nhiều kênh như chứng từ, hóa đơn, sổ

sách theo dõi mua bán của hàng hoặc qua internet, các doanh nghiệp và các cơ sở

36

kinh doanh trong và ngoài nước… Tuy nhiên, vì đây là có thể là bí mật của nghề

nghiệp nên các thông tin thu thập được thường không đồng nhất và thiếu tính chính

xác. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của các nhân viên tín dụng.

2.2.1.8. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá

a. Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng

Theo quy định đối với những người điều hành doanh nghiệp đòi hỏi phải có

một số tiêu chuẩn nhất định nào đó về năng lực, trình độ. Nhưng thực tế những quy

định này nặng về hình thức hơn và chủ yếu dựa vào trình độ, kinh nghiệm, chức

vụ…. Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của

một doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có. Còn đối với khách hàng là cá

nhân việc đánh giá năng lực khách hàng cũng mang tính chủ quan và thiên về định

tính nhiều hơn.

Tại ACB, khách hàng được đánh giá chủ yếu về năng lực quản lý, điều hành

doanh nghiệp/ cơ sở kinh doanh và đặc biệt là năng lực tài chính của khách hàng vì

đây là tiêu chí thể hiện khả năng thanh toán nợ vay của khách hàng. Trong đó, năng

lực tài chính của khách hàng cá nhân được đánh giá căn cứ vào tình hình tài chính

chung của khách hàng và người hôn phối và từ các nguồn thông tin thẩm định khác.

Chỉ tiêu được đánh giá là tổng tài sản (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang

chuyển, chứng khoán, đầu tư/góp vốn, khoản phải thu, phương tiện đi lại, bất động

sản…) và tỷ lệ nợ/tổng tài sản trong bảng cân đối tình hình tài chính của khách hàng

do nhân viên thẩm định thu thập và thiết lập. Đối với doanh nghiệp, năng lực tài

chính của khách hàng căn cứ vào các chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán, bảng lưu

chuyển tiền tệ…

b. Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính

Yêu cầu cơ bản nhất để phân tích báo cáo tài chính nhằm đưa ra các đánh giá,

kết luận có độ tin cậy là phải có hệ thống thông tin báo cáo tài chính đủ độ tin cậy

và có hệ thống các chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá. Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn,

chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh đánh giá một báo cáo tài chính của một

khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu chuẩn hay chưa đủ tiêu chuẩn.

37

Hiện nay, bộ tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá

hiệu quả hoạt động tài chính của TCTD nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước.

NHNN Việt Nam đã giao cho trung tâm thông tin tín dụng CIC thực hiện đánh giá

xếp loại khách hàng theo một số tiêu chuẩn. Trên cơ sở những tiêu chí của NHNN

đưa ra, các TCTD cũng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, xếp loại khách hàng.

Đến nay, một số NHTM, trong đó có ACB cũng đã triển khai công tác đánh giá xếp

loại khách hàng, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ và chủ yếu là tính cảm

quan của nhân viên đánh giá.

c. Các tiêu chuẩn thẩm định dự án đầu tư

Đây là những thông số, những tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết

khấu, mức độ rủi ro,… Trong quá trình thẩm định một dự án, có rất nhiều tiêu

chuẩn để đánh giá dự án, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dựa vào giá trị

hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương

hay IRR lớn hơn một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng

cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các TCTD khi tính NPV hoặc đánh

giá theo tiêu chuẩn IRR là việc xác định suất chiết khấu phù hợp.

Thực tế các TCTD, thường lấy lãi suất cho vay trung, dài hạn của chính TCTD

cộng thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Nhưng cơ sở này là rất cảm

tính phụ thuộc nhiều vào chính sách của các TCTD từng thời kỳ.

Vì suất chiết khấu dùng để đánh giá một dự án lệ thuộc vào rất nhều yếu tố

mang sắc thái khác nhau như từ phía chủ đầu tư đến chủng loại đầu tư, từ những

thước đo tiêu biểu của ngành nghề đến suất chiết khấu chung của thị trường hay từ

tính mạo hiểm mà dự án phải chấp nhận đánh đổi… nên ACB sử dụng suất chiết

khấu là chi phí sử dụng vốn bình quân – WACC (Weighted Average Cost of

Capital) khi tính toán NPV của dự án.

d. Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án

Kỹ thuật đánh giá, thẩm định dự án nói riêng, dự báo nói chung hiện nay được

sử dụng phổ biến nhất là dựa vào phân tích mô hình phỏng (phân tích động) để tính

xác suất có khả năng xảy ra các trường hợp tốt và các trường hợp bất lợi cho dự án.

38

Việc nhìn vào biểu đồ phân bố xác suất của dự án có thể biết được xác suất để NPV

dương là bao nhiêu, âm là bao nhiêu.

Hiện nay, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án chưa được

áp dụng phổ biến tại Việt Nam do điều kiện về công nghệ và những người am hiểu

về nó còn rất hạn chế. Vì vậy, khi muốn đánh giá một dự án hoặc một doanh nghiệp

hoạt động không hiệu quả là vấn đề hết sức khó khăn đối với cán bộ tín dụng. Nhất

là đối với những dự án của những doanh nghiệp có “mối quan hệ” tốt.

Khi thẩm định các dự án đầu tư, ACB sẽ tiến hành xác định các khoản mục chi

phí dự án, thị trường đầu vào, đầu ra, chi phí sử dụng vốn, tính khả thi của nguồn

vốn đầu tư, từ đó xác định các yếu tố có tác động mạnh nhất đến hiệu quả của dự án

nhằm phân tích độ nhạy của dự án đồng thời xác định mức độ rủi ro mà dự án có

khả năng chịu đựng khi các yếu tố đó biến động để đưa ra các giải pháp hạn chế rủi

ro của dự án.

2.2.1.9. Năng lực và trình độ cán bộ tín dụng

Kết quả thẩm định khách hàng, dự án, giám sát hoạt động của doanh nghiệp

hoặc cơ sở kinh doanh phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán

bộ tín dụng. Học viện ngân hàng, đại học ngân hàng, đại học kinh tế, học viện tài

chính… là những nơi đào tạo nhân lực chủ yếu cho các TCTD. Tuy nhiên, một thực

trạng là công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các TCTD hiện nay chỉ nặng về lý

thuyết mà ít cập nhật thông tin và ít tiếp cận công tác thực tiển.

Việc tổ chức thi tuyển cán bộ cho các TCTD những năm gần đây mặc dù có

nhiều cải tiến và đổi mới, nhưng vẫn còn không ít hạn chế, bất cập mà dư luận xã

hội quan tâm như thiếu khách quan, công bằng, minh bạch và nghiêm túc trong thi

tuyển. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng và

gây nên sự bất bình đẳng trong xã hội khi mà người có đủ năng lực và phẩm chất

đạo đức lại không được tuyển dụng do có những tiêu cực trong công tác tuyển dụng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các NHTM chưa được quan tâm đầu

tư. Trên thực tế, vẫn còn một số cán bộ tín dụng hiện nay thiếu năng lực về phân

39

tích và xử lý thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay, thậm chí vẫn còn

một số cán bộ làm sai quy trình tín dụng.

Sau 20 năm hoạt động, ACB đã sở hữu được một đội ngũ lãnh đạo, nhân viên

có đủ năng lực và trình độ trong ngành ngân hàng. Đặc biệt, ACB đã thành lập

được Trung Tâm đào tạo dành riêng cho nhân viên của ngân hàng. Tại đây, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng của nhân viên không ngừng nâng cao khi được

ACB thường xuyên tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng cho

nhân viên toàn hệ thống và nhất là đội ngũ nhân viên kinh doanh và quản lý tại các

kênh phân phối, bộ phận chủ chốt trong hoạt động của ngân hàng.

2.2.1.10. Quyết định cấp tín dụng

Căn cứ vào quy định của Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn kèm theo,

tất cả các ngân hàng đều cố gắng xây dựng cho mình quy trình tín dụng tách bạch

giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên, với những vấn đề thực tế

nêu trên, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có

mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối

với các TCTD.

Trên thực tế, hầu như không có TCTD nào, đủ tự tin quyết định cấp tín dụng

chỉ dựa vào những cái vô hình và khó phân tích như giá trị vô hình của doanh

nghiệp, giá trị của vốn chủ sở hữu, giá trị thực của các khoản phải thu, các khoản

tồn kho… để quyết định cho vay. Nhất là lần đầu tiên thiết lập quan hệ tín dụng thì

việc này càng khó khăn hơn.

Các ngân hàng thường quyết định cho vay dựa vào các tài sản hữu hình mà

chủ yếu là tài sản cố định dùng để đảm bảo cho các khoản vay. Bởi lẻ, các tài sản

hữu hình là thứ dễ xác định giá trị nhất. Việc cấp tín dụng sẽ cảm thấy yên tâm hơn

rất nhiều nếu nó được đảm bảo bằng tài sản, nhất là các loại tài sản có tính thanh

khoản và giá trị cao. Việc quản lý các loại tài sản cũng sẽ dễ dàng hơn khi nắm giữ

tài sản hoặc giữ những giấy tờ sở hữu chúng và được nhà nước xác nhận.

Ngoài đóng vai trò là chỗ dựa tin cậy trong việc đưa ra quyết định cấp tín

dụng, tài sản đảm bảo còn có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừa sự xuất hiện của

40

tâm lý ỷ lại sau khi cho vay. Vì khi thực hiện bất cớ một hành vi nào, mỗi cá nhân

luôn xem xét họ sẽ được gì và mất gì. Nếu hành vi luôn mang lại lợi ích mà không

bị tổn thất thì họ sẽ thực hiện, ngược lại nếu hành vi luôn tạo ra tổn thất mà không

có lợi ích gì cho bản thân họ sẽ không thực hiện. Đối với loại còn lại, hành vi được

thực hiện khi lợi ích lớn hơn chi phí và ngược lại hành vi sẽ không được thực hiện.

Khi những khoản tín dụng được cấp mà không có tài sản đảm bảo, phần vốn

của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia vào dự án đầu tư, thì xu hướng tất

yếu là bên vay sẽ thực hiện các dự án có mức độ rủi ro cao để đem lại lợi nhuận cao

vì nếu dự án thất bại thì cái mà họ mất là không đáng kể, ngược lại nếu dự án thành

công thì lợi ích của họ là rất lớn. Hành vi của bên vay sẽ hoàn toàn ngược lại khi họ

phải đem thế chấp các tài sản hiện có của mình để được cấp tín dụng. Khi tài sản

được thế chấp cầm cố tại các TCTD thì người vay sẽ bị mất nó nếu khoản vay của

họ đầu tư không cẩn thận và xảy ra rủi ro. Chính vì vậy mà họ phải thận trọng hơn

khi thực hiện quyết định đầu tư của mình.

Từ một yếu tố có giá trị tham chiếu trở thành yếu tố quan trọng trong các

quyết định cấp tín dụng, tài sản đảm bảo trở thành trở ngại chính đối với nhiều

doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vốn

tín dụng ngân hàng. Mặt khác, việc quyết định cho vay không được căn cứ trên cơ

sở tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư, phương án kinh doanh mà căn cứ vào

tài sản đảm bảo sẽ tác đụng không tốt đến hoạt động tín dụng ngân hàng và có thể

tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất lớn.

Theo định hướng chính sách và hoạt động tín dụng của ACB, có 6 tiêu chí

được áp dụng để thẩm định phân nhóm khách hàng, phê duyệt tín dụng cũng như

kiểm soát, đánh giá chất lượng danh mục tín dụng của ACB được chia thành 02

nhóm: nhóm tiêu chí phân nhóm khách hàng bao gồm đối tượng khách hàng, ngành

nghề kinh doanh, khả năng trả nợ, sản phẩm tín dụng và nhóm tiêu chí phê duyệt tín

dụng gồm tài sản đảm bảo và tỷ lệ cho vay/tài sản bảo đảm. Khi phân tích, đánh giá

và thẩm định/tái thẩm định khách hàng mới, mức cấp tín dụng mới hay tái cấp tín

dụng, tăng cấp tín dụng cho khách hàng hiện hữu, mỗi khoản vay/ khách hàng sẽ

41

được xếp vào một trong bốn nhóm: cấp tín dụng bình thường, hạn chế cấp tín dụng,

kiểm soát cấp tín dụng hoặc không cấp tín dụng. Từ đó, ứng với mỗi nhóm khách

hàng sẽ quy định cấp phê duyệt tương ứng như chuyên viên, ban tín dụng chi

nhánh, ban tín dụng hội sở hay ban tín dụng khu vực… Ngoài ra, dựa trên kết quả

hoạt động, tình hình quản lý nợ xấu của từng đơn vị và tùy cấp bậc của chuyên viên,

ACB sẽ quy định hạn mức phê duyệt tín dụng cụ thể cho từng đơn vị, từng cá nhân.

2.2.1.11. Kiểm tra giám sát, thu hồi vốn vay

Với những vấn đề nêu trên, việc xử lý lựa chọn bất lợi trong hoạt động tín

dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay đang là vấn đề rất lớn. Đó mới là những

vấn đề trước khi quyết định cho vay. Bây giờ chúng ta cùng xem xét vấn đề xử lý

tâm lý ỷ lại của các TCTD sau khi cho vay. Hay nói cách khác là công tác giám sát

sử dụng vốn vay, thu hồi nợ vay của các TCTD.

Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi

hỏi các TCTD phải biết được dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên

vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các TCTD Việt Nam vì việc kiểm

soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích không phải là vấn đề

đơn giản. Khác với các nền kinh tế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán

bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn của các ngân hàng

trong việc giám sát chi tiêu của người vay vốn. Mặt khác, trong khi hệ thống thông

tin trong nội bộ giữa các TCTD chưa được thông suốt, các doanh nghiệp được mở

tài khoản ở nhiều TCTD khác nhau và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hết

sức đa dạng, rất khó phân biệt nên việc qua mặt các ngân hàng trong việc sử dụng

vốn vay sai mục đích hay trường hợp một dự án, một hợp đồng có thể vay ở nhiều

TCTD là điều rất dễ xảy ra. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái

kinh tế toàn cầu đã khiến cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nước ta gặp nhiều

khó khăn, năng lực tài chính của các doanh nghiệp giảm sút, chất lượng tín dụng

suy giảm và nợ xấu tăng nhanh ở khắp hệ thống ngân hàng và không riêng gì ACB.

Thấy được tầm quan trọng của công tác quản lý tín dụng sau giải ngân trong

môi trường thông tin không hoàn hảo như ngày nay, ACB luôn đặc biệt quan tâm

42

đầu tư và giám sát chặt chẽ quy trình này nhằm hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro

có thể thể xảy ra và xử lý nghiêm các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng

cũng như các nhân viên không tuân thủ quy trình.

2.2.2. Tình hình quản trị rủi ro tín dụng trong trong môi trường thông

tin bất cân xứng tại ACB

Trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, có nhiều phương

thức quản lý để đảm bảo an toàn tín dụng cũng như các kỹ thuật thu nhập và xử lý

thông tin có thể áp dụng trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao năng

lực cạnh tranh của các ngân hàng như phương thức quản lý rủi ro bằng cách nâng

cao chất lượng tín dụng, phân tán rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng thị

trường bán nợ hay thông qua dẫn xuất tín dụng… Tùy vào chủ trương, định hướng,

chính sách và khả năng của mình mà các ngân hàng hàng lựa chọn các biện pháp

nhất định.

Riêng tại ACB, định hướng chính sách hoạt động tín dụng rõ ràng, linh hoạt

theo từng thời kỳ. Hiện tại, ngân hàng đang áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro

bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng. Chính sách được thực hiện thông qua việc

giám sát quy trình cho vay; kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và triển

khai chương trình chấm điểm xếp hạng tín dụng.

2.2.2.1. Quy trình cho vay tại ACB

Tại ACB quy trình phối hợp tác nghiệp đối với các hồ sơ tín dụng được thực

hiện chặt chẽ nhằm rút ngắn thời gian và đảm bảo quá trình cấp tín dụng được thực

hiện một cách đồng bộ, nhất quán trong toàn hệ thống.

Tùy theo quy mô, đặc điểm nguồn nhân lực và điều kiện của từng chi nhánh,

phòng giao dịch, ACB triển khai áp dụng 3 mô hình thẩm định tín dụng như mô

hình kênh phân phối tự thẩm định tín dụng, mô hình kênh phân phối thẩm định tín

dụng cho kênh phân phối khác và mô hình Trung tâm tín dụng thẩm định tín dụng

cho kênh phân phối. Nhưng nhìn chung, quy trình cấp tín dụng của ACB là kết quả

của sự phối hợp tác nghiệp của các bộ phận bắt đầu từ lúc khách hàng đề nghị vay

43

vốn đến khi khách hàng thanh lý khoản vay tại ACB bao gồm các bước căn bản

như: tư vấn và nhận hồ sơ vay vốn, thẩm định tín dụng khách hàng và thẩm định tài

sản, trình và phê duyệt hồ sơ tín dụng, nhận kết quả phê duyệt và bước cuối cùng là

giải ngân, thu nợ, quản lý giám sát sau giải ngân (Phụ Lục 3).

Điểm nổi bật trong quy trình này là bên cạnh việc quy định chi tiết từng bước

công việc, ACB cũng có sự phân công, phân quyền rõ ràng theo từng chức danh, bộ

phận theo hướng chuyên môn hóa nghiệp vụ giúp cho công tác thẩm định được tiến

hành nhanh chóng không bị chồng chéo, rút ngắn thời gian thẩm định. Đặc biệt,

việc tách biệt được bộ phận thẩm định tài sản, phân tích tín dụng và phê duyệt giúp

cho ACB tránh được tình trạng lạm dụng thẩm quyền gây ra những sai phạm trong

nghiệp vụ và nhất là hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu khách hàng khi cho vay.

Trong quy trình có nhiều bộ phận cùng tham gia nhưng trong đó bộ phận tư

vấn tài chính cá nhân (PFC*) và quan hệ khách hàng (R*) là đầu mối liên hệ, chăm

sóc khách hàng. Điều này đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong quá trình xử lý hồ

sơ tín dụng cũng như thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa khách hàng và ACB.

Bảng 2.2 – Biện pháp giảm thiểu rủi ro trong quá trình cấp tín dụng tại ACB

Rủi ro được nhận diện Biện pháp giảm thiểu rủi ro

Thông tin không đầy Việc thu thập, thẩm định, phân tích các thông tin, chứng

đủ và chính xác từ, tài liệu phải được thực hiện đúng hướng dẫn.

Khách hàng không Thẩm định chính xác tình hình tài chính của khách hàng

thanh toán đúng hạn tại thời điểm cho vay.

Thường xuyên theo dõi, giám sát khách hàng sau giải ngân

để nắm được những thay đổi về khả năng trả nợ của khách hàng nhằm có giải pháp kịp thời và phù hợp.

Nhắc trước khi đến hạn đối với những khách hàng được đánh giá là có khả năng vi phạm thời hạn thanh toán.

Sử dụng biểu mẫu sai quy định Nội dung tờ trình tín dụng, hợp đồng và các văn bản liên quan phải đảm bảo theo biểu mẫu và đúng theo hướng dẫn.

Phê duyệt không đúng Phê duyệt hồ sơ tín dụng phải được thực hiện theo đúng

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)

quy định quy định, chính sách tín dụng của ACB.

44

Trong công tác thẩm định, có rất nhiều thông tin cần được thu thập để phục vụ

cho việc lập tờ trình và xét duyệt. Các thông tin có thể được thu thập gián tiếp hay

trực tiếp nhưng đa số thông tin được dùng để phân tích chủ yếu dựa vào các tài liệu

mà khách hàng cung cấp. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những kỹ năng

cần thiết để không làm cho khách hàng có cảm giác bị điều tra, xét hỏi và dẫn đến

việc mất khách hàng. Đồng thời, phải luôn cảnh giác với các hành vi giả mạo, lừa

dối từ khách hàng và tuân thủ các biện pháp giảm thiểu rủi ro khi cho vay của ACB

(bảng 2.2).

2.2.2.2. Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng

Quy định về kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay được áp dụng thống nhất tại

Hội sở, Sở Giao dịch, chi nhánh, Phòng giao dịch và các đơn vị có chức năng trong

toàn hệ thống ngân hàng Á Châu.

Mục đích của quy trình này là nhằm đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng

mục đích, phù hợp với thỏa thuận giữa ACB và khách hàng trong các hợp đồng tín

dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và các cam kết (nếu có); chủ động phát hiện và

cảnh báo các rủi ro có thể xảy ra để có những biện pháp xử lý nhằm thu hồi được

vốn gốc và lãi đúng hạn.

Theo nguyên tắc, tất cả các khoản vay của khách hàng tại ACB sẽ được kiểm

tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng đầy đủ và đúng quy định.

ACB quy định tiền vay phải được sử dụng đúng với mục đích thể hiện trên phương

án vay. Tiền vay không được dùng để thanh toán hay trả nợ vay tại ACB và các tổ

chức tín dụng khác (ngoại trừ trường hợp tài trợ xuất khẩu sau giao hàng trả nợ

trước giao hàng của hợp đồng xuất khẩu đã được ACB tài trợ) mà phải được thanh

toán cho người thụ hưởng hoặc đối tác của khách hàng vay và phù hợp với phương

án vay vốn, mục đích sử dụng vốn của khách hàng.

Hình thức, tần suất, nội dung kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay

phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn và đặc điểm kinh doanh của khách hàng.

Trong đó, tùy vào đặc điểm, mục đích, tính chất của khoản vay và đặc điểm kinh

doanh của khách hàng mà việc kiểm tra được thực hiện theo định kỳ hoặc đột xuất

45

thông qua hai hình thức kiểm tra thực tế mục đích sử dụng vốn vay và kiểm tra

thông qua chứng từ hoặc kết hợp sử dụng cả hai hình thức. Điều quan trọng là

chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn phải có tính xác thực vì đây là công cụ

chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích hay không. Các chứng từ do

khách hàng cung cấp sẽ được nhân viên ACB kiểm tra, đối chiếu bản chính hoặc

ACB tự truy xuất các chứng từ từ hệ thống nội bộ. Nội dung chứng từ thể hiện được

giao dịch kinh tế giữa khách hàng và đối tác của khách hàng và phải phù hợp với

phương án vay vốn, mục đích sử dụng vốn của khách hàng.

Khi kiểm tra thực tế, ngoài việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách

hàng, ACB kết hợp xem xét tình hình tài chính và tình hình hoạt động sản xuất kinh

doanh của khách hàng nhằm nắm bắt tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của

khách hàng và xác định tính phù hợp của thực tế với chứng từ, thông tin do khách

hàng cung cấp hay ACB thu thập được. Việc kiểm tra thực tế được nhân viên kiểm

tra lập thành văn bản, trong đó phản ánh đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan

các nội dung kiểm tra đồng thời phải phù hợp với từng sản phẩm, mục đích sử dụng

vốn của khách hàng. Cụ thể, mẫu phiếu kiểm tra phải được điền đầy đủ nội dung, có

chữ ký xác nhận của nhân viên kiểm tra, khách hàng và cấp kiểm soát theo quy

định; mỗi lần kiểm tra chỉ được lập một phiếu kiểm tra cho một khách hàng và việc

cập nhật các thông tin trên phiếu kiểm tra phải được tiến hành ngay tại địa điểm

kiểm tra.

Trường hợp đơn vị phát hiện các dấu hiệu cảnh báo thì sẽ tiến hành kiểm tra,

giám sát mục đích sử dụng vốn vay đột xuất nhằm đánh giá đúng thực tế tình hình

hoạt động sản xuất kinh doanh, mục đích sử dụng vốn, khả năng trả nợ của khách

hàng và xác định được nguyên nhân để có biện pháp phòng ngừa rủi ro kịp thời,

hiệu quả đúng quy định.

Quy định kiểm tra, giám sát sau cho vay được bắt buộc áp dụng trên toàn hệ

thống và đã phát huy được tác dụng khi phát hiện và xử lý kịp thời nhiều trường

hợp cảnh báo, sai phạm trong quá trình tiếp xúc, kiểm tra thực tế khách hàng, giúp

ACB tránh được những rủi ro và thiệt hại đáng tiếc. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có

46

nhiều đơn vị kênh phân phối và nhân viên chưa hiểu được tầm quan trọng của việc

kiểm tra, giám sát sau khi cho vay nên vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc theo

quy định và nếu có cũng chỉ thực hiện mang tính hình thức, đối phó với quy định,

kiểm toán nội bộ hay với thanh tra nhà nước. Cụ thể, sau những lần kiểm toán định

kỳ hoặc đột xuất, Ban kiểm toán nội bộ ACB phát hiện nhiều trường hợp nhân viên

cho khách hàng ký trước phiếu kiểm tra để đến kỳ không phải đến gặp khách hàng,

hay giả mạo chứng từ, cung cấp chứng từ không đúng mục đích sử dụng vốn vay

giúp khách hàng hợp thức hóa mục đích sử dụng vốn… Các vi phạm này đều được

ACB ghi nhận vào kết quả đánh giá nhân viên hàng năm và được thông báo công

khai trên toàn hệ thống.

2.2.2.3. Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ tại ACB

a. Đối với khách hàng doanh nghiệp

Tại ACB, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ doanh nghiệp phục vụ xét duyệt

tín dụng được chính thức triển khai từ ngày 01/11/2010. Hệ thống này bao gồm hai

hệ thống chấm điểm:

Hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp phục vụ xét duyệt tín dụng (Scoring

xét duyệt) nhằm mục đích đánh giá rủi ro tín dụng của khách hàng doanh nghiệp

đồng thời phục vụ cho việc xét duyệt hồ sơ tín dụng, kết quả xếp hạng khách hàng

được sử dụng làm một trong những căn cứ để đưa ra quyết định tín dụng và chính

sách khách hàng. Nó được dùng để thay thế cho kết quả chấm điểm phân loại nợ khi

trình cấp tín dụng và là một trong những tài liệu bắt buộc khi trình cấp tín dụng đối

với KHDN tại ACB.

Hệ thống chấm điểm phục vụ cho phân loại nợ (Scoring phân loại nợ) là công

cụ để thực hiện phân loại nợ theo hệ thống quốc tế và căn cứ vào kết quả phân loại

nợ để tính toán và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định về phân loại nợ và trích

lập dự phòng rủi ro của NHNN Việt Nam

Đối tượng chấm điểm là toàn bộ khách hàng có nhu cầu cấp mới/tái cấp/cấp

tăng mức tín dụng hoặc đang có dư nợ vay/bảo lãnh tại ACB, ngoại trừ khách hàng

là các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, không có báo cáo tài chính; khách hàng

47

có mức cấp tín dụng được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do ACB và các tổ chức tín

dụng khác phát hành (bao gồm STK, số dư tiền gửi, vàng, ngoại tệ mặt, giấy tờ có

giá, trái phiếu do ACB và các tổ chức tín dụng khác phát hành); khách hàng bị giải

thể, phá sản theo quy định pháp luật hay khách hàng có nợ quá hạn trên 360 ngày.

Phần Scoring xét duyệt (cấp mới/tái cấp/tăng thêm). Việc chấm điểm được

thực hiện ngay khi nhận được đầy đủ hồ sơ tín dụng của khách hàng và trước khi

trình các cấp phê duyệt có thẩm quyền. Riêng đối với hồ sơ trình cấp tín dụng tăng

thêm, chỉ tiến hành chấm điểm lại nếu thời gian trình lần này so với lần trước quá 3

tháng. Theo kết quả xếp loại rủi ro tín dụng của Scoring xét duyệt, khách hàng sẽ

được xếp vào từ loại 1 đến loại 10. Trong đó, loại 1 tương tứng với khách hàng có

độ rủi ro thấp nhất và loại 10 tương tứng với khách hàng có độ rủi ro cao nhất.

Phần Scoring phân loại nợ được sử dụng sau khi trình cấp tín dụng. Trong đó,

sẽ thực hiện chấm điểm định kỳ 03 tháng/lần trong vòng 10 ngày làm việc của

tháng thứ 3 của quý tiếp theo (ngày 15-25 của tháng cuối cùng của quý) và sẽ thực

hiện chấm điểm đột xuất ngay khi khách hàng có thay đổi về cơ cấu tổ chức, ngành

nghề kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu, hình thức sở hữu

doanh nghiệp (chia tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức, cổ phần hóa

hoặc thay đổi chủ sở hữu) trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được thông tin thay

đổi trên phải thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng hoặc nếu trong tháng khách

hàng phát sinh nợ quá hạn từ 10 ngày trở lên tại ACB và các tổ chức tín dụng khác

thì phải chấm điểm tín dụng khách hàng trong vòng 5 ngày làm việc đầu tiên kể từ

ngày phát sinh sự kiện. Theo kết quả xếp loại rủi ro tín dụng của Scoring phân loại

nợ, khách hàng sẽ được xếp vào từ loại AAA đến loại D, hệ thống sẽ phân nhóm nợ

theo từng đối tượng khách hàng.

Quy trình chấm điểm của hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp được thực

- Thu thập thông tin: thu thập và tổng hợp thông tin về khách hàng, phương án

hiện như sau:

SXKD, dự án đầu tư và các thông tin khác.

48

- Xác định nhóm khách hàng dùng để xác định bộ tiêu chí chấm điểm: khách

hàng có đầy đủ báo cáo tài chính trên 2 năm (thực hiện đầy đủ các thao tác chấm

điểm tín dụng), chưa có đủ báo cáo tài chính (mới thành lập hoặc đang trong giai

- Xác định ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.

- Xác định quy mô của khách hàng (doanh thu, tổng tài sản, số lượng lao động

đoạn đầu tư chưa chấm điểm tài chính).

- Xác định loại hình sở hữu của khách hàng.

- Chấm điểm các tiêu chí tài chính dựa trên báo cáo tài chính thẩm định, báo cáo

bình quân, vốn chủ sở hữu).

thuế, báo cáo tài chính thời điểm và dự phóng kết quả kinh doanh, bao gồm các chỉ

tiêu: chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu tự tài trợ, nhóm chỉ tiêu

- Chấm điểm các tiêu chí phi tài chính về công ty, tổ chức và quản lý, hoạt động

sinh lời.

sản xuất kinh doanh và quan hệ giao dịch, như nhóm chỉ tiêu trình độ quản lý, môi

trường nội bộ của doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu đặc điểm kinh doanh, nhóm chỉ tiêu

khả năng trả nợ và nhóm chỉ tiêu quan hệ với tổ chức tín dụng của doanh nghiệp,

- Chấm điểm tài sản đảm bảo (tình hình nợ quá hạn, tổng mức cấp tín dụng, tài

đánh giá tính ổn định của môi trường kinh doanh, rủi ro ngành…

sản đảm bảo...).

b. Đối với khách hàng cá nhân/ hộ kinh doanh

Quy trình thực hiện đơn giản hơn so với khách hàng doanh nghiệp. Nhân viên

chấm điểm sẽ tiến hành thu thập và phân tích các thông tin về nhân thân khách hàng

hoặc hộ kinh doanh, phương án kinh doanh, thu nhập, khả năng trả nợ, thông tin về

tình hình quan hệ với các TCTD để đánh giá và xem xét cấp tín dụng.

Nhìn chung, hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng của ACB cũng tương

đối hoàn thiện so với các ngân hàng khác. Với hệ thống này, khách hàng vay vốn tại

ACB được các cán bộ tín dụng đánh giá thông qua các chỉ tiêu tài chính và phi tài

chính. Bên cạnh việc phân tích dựa trên công nghệ giản đơn, hệ thống lưu trữ thông

tin ổn định, sử dụng hồ sơ sẵn có, sử dụng các yếu tố không mang tính lượng hoá,

49

hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng của ACB cũng tận dụng được kinh

nghiệm và kiến thức chuyên sâu của các cán bộ tín dụng, các chuyên gia tài chính

để phân tích các chỉ tiêu tài chính .

Tuy nhiên, kết quả đánh giá xếp loại phụ thuộc vào mức độ chính xác của

nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá

của cán bộ tín dụng. Mô hình này khi áp dụng cho các khoản vay riêng lẻ, mang

tính đặc thù, chịu ảnh hưởng các yếu tố vùng miền, phong tục, tập quán thì việc

dựa trên các yếu tố định lượng, không đưa ra được quyết định chính xác mà phải

dựa trên ý kiến và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Còn việc đánh giá các chỉ tiêu

phi tài chính chủ yếu dựa vào đánh giá theo ý chủ quan của cán bộ tín dụng. Ngoài

ra, hệ thống này rất khó đo lường vai trò của các yếu tố đến hạng tín nhiệm của

khách hàng và vì vậy không có tác dụng tư vấn đối với khách hàng cũng như đối

với việc thẩm định hồ sơ khoản vay.

2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của ACB

Theo kinh nghiệm của nhiều nước, trừ những cú sốc bất ngờ như khủng hoảng

kinh tế, thiên tai… nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các ngân

hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất

nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định. Nói một cách đơn giản là do cơ chế sàng lọc,

giám sát chưa đủ hiệu lực nên các ngân hàng đã để "lọt" khách hàng có khả năng

che đậy hành vi và thông tin của họ trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự

án có rủi ro cao. Một nguyên nhân nữa là do tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng khi đã

có trong tay vốn tín dụng từ phía ngân hàng cấp và do bản thân ngân hàng ỷ lại vào

tài sản đảm bảo của khách hàng.

Trên thực tế, ACB cũng đã quan tâm đầu tư nguồn lực cho việc nghiên cứu,

thiết kế và hoàn thiện các phương tiện và biện pháp ngăn ngừa ảnh hưởng của thông

tin bất cân xứng từ các giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay như xây dựng được

một quy trình cho vay khép kín kết hợp quá trình kiểm tra giám sát mục đích sử

dụng vốn vay của khách hàng sau khi giải ngân và bên cạnh đó là xây dựng thêm

một hệ thống chấm điểm xếp loại khách hàng để phục vụ cho công tác cho vay

50

nhưng ACB vẫn không tránh khỏi những rủi ro, thiệt hại do sự lựa chọn bất lợi và

tâm lý ỷ lại gây ra. Minh chứng cho vấn đề này được thể hiện cụ thể thông qua

những con số về nợ xấu đều tăng lên qua các năm. Đây là một trong các thông số

dùng để đánh giá mức độ an toàn của hoạt động tín dụng.

Cũng giống như những ngân hàng cho vay khác. ACB cũng phải đối mặt với

những vấn đề do thông tin bất cân xứng gây ra như những bất lợi trong việc đánh

giá, lựa chọn khách hàng, đánh giá khoản vay (cho vay không đúng nhu cầu, thời

hạn vay không phù hợp...) hay những bất lợi khi đánh giá tài sản đảm bảo, tâm lý ỷ

lại từ phía khách hàng và bản thân ngân hàng… Trong đó, nguyên nhân chủ yếu của

nó là do không tuân thủ quy chế, quy trình cho vay, không thực hiện đúng quy định

kiểm tra, giám sát sau cho vay. Ngoài ra, tại ACB cũng xảy ra trình trạng cấp quản

lý chỉ đơn thuần kiểm soát và xét duyệt hồ sơ tín dụng dựa trên hồ sơ, giấy tờ do

nhân viên cấp dưới mang về mà không khảo sát thực tế để cho một số nhân viên

dưới quyền lợi dụng sự tin tưởng, liên kết với khách hàng lừa dối cấp trên, cho vay

không đúng nhu cầu và tình trạng thực tế của khách hàng, gây rủi ro cho ACB. Sau

đây là một vài tình huống thực tế về tình hình quản trị rủi ro tín dụng của ACB khi

có ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng.

2.2.3.1. Bất lợi trong việc lựa chọn khách hàng

Những bất lợi khi đánh giá, lựa chọn khách hàng là vấn đề không chỉ riêng của

ACB mà hầu như ngân hàng nào cũng phải đối mặt. Nguyên nhân chủ yếu là do

ngân hàng chưa có đủ cơ sở cũng như những tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện. Vì

những thông tin để đánh giá khách hàng chủ yếu phụ thuộc vào cảm tính của người

đánh giá nên kết quả thẩm định và đề xuất cho vay phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,

năng lực của cán bộ tín dụng khi đứng trước nhiều yếu tố tác động như môi trường,

áp lực doanh số và rủi ro…

Tuy quy trình tuyển dụng nhân sự của ACB khá chặt chẽ nhưng vẫn tồn tại

một số lượng không nhỏ cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ kém, không đủ khả

năng để chọn lọc khách hàng, đã đem về cho ACB những khách hàng không tốt,

gây thiệt hại cho ngân hàng. Bên cạnh những rủi ro do nguyên nhân cho vay khi

51

không biết tình trạng thật sự của khách hàng thì cũng có nhân viên ACB cho vay

ngay cả khi biết rõ khách hàng và đó là khoản vay có vấn đề chỉ vì để đạt chỉ tiêu,

thăng chức hay vì nể nang mối quan hệ…cố tình liên kết, hợp thức hóa khoản vay

cho khách hàng. Thời gian gần đây, những sai phạm này đã được ACB phát hiện và

xử lý nghiêm nhưng đó chỉ là phần nổi của tản băng tiêu cực.

2.2.3.2. Bất lợi trong việc lựa chọn khoản vay

Thực tế, tại ACB cũng đã xảy ra hàng loạt những sai phạm do vi phạm quy

chế cho vay. Vụ việc được phát hiện khi Thanh tra chính phủ công bố kết luận

thanh tra số 3957/KL-TTCP vào ngày 30/12/2010. Nó chỉ ra nhiều sai phạm của

ACB trong hoạt động cho vay hỗ trợ lãi suất. Cụ thể có 83/111 hồ sơ xác định thời

gian cho vay, số lượng vốn vay lớn hơn nhu cầu vốn lưu động thực tế của khách

hàng, dẫn đến việc hỗ trợ lãi suất cho cả những khoản vay không có nhu cầu sử

dụng vốn; số tiền đã hỗ trợ lãi suất không đúng quy định phải thu hồi về ngân sách

Nhà nước tại 83 doanh nghiệp lên đến 22,113 triệu đồng. Đặc biệt có đến 14/83

doanh nghiệp được vay vốn lưu động lớn hơn nhu cầu thực tế hoạt động kinh doanh

đã sử dụng vốn vay để gửi tiết kiệm, gửi có kỳ hạn, hưởng lãi trong thời gian được

hưởng tiền hỗ trợ lãi suất từ NHNN.

Trong trường hợp này, ngoài nguyên nhân chủ quan là do có sự chênh lệch lãi

suất tiền gửi và lãi suất tiền vay có hỗ trợ lãi suất là đáng kể thì nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến những sai phạm này là do ACB chưa tuân thủ các quy định về quy chế

cho vay dẫn đến việc một số nhân viên ACB và khách hàng lợi dụng khe hở của cơ

chế nhà nước, sự lơi lỏng trong quản lý của ngân hàng để trục lợi. Đây chỉ là một

trong những số ít trường hợp “vô tình” được phát hiện. Trên thực tế, con số này lớn

hơn rất nhiều lần, thậm chí là còn rất phổ biến tại các đơn vị khi chỉ tiêu tăng trưởng

luôn được coi trọng như hiện nay. Những vấn đề này cho thấy được tầm quan trọng

của việc tuân thủ quy chế, quy trình cho vay cũng như những hệ quả khôn lường mà

ngân hàng cũng như nền kinh tế phải đối mặt nếu không tuân thủ.

52

2.2.3.3. Bất lợi trong việc đánh giá tài sản đảm bảo

Có một bộ phận chuyên trách việc thẩm định tài sản, nhân viên thẩm định

được đào tạo bài bản, tài sản thế chấp được định giá theo phương pháp so sánh, có

tham khảo giá thị trường, không thu phí thẩm định khách hàng… là những lợi thế

mà ít ngân hàng nào có được như ở ACB. Tuy nhiên, công tác thẩm định tài sản ở

ACB vẫn tồn tại một số bất cập. Vẫn còn tình trạng nhân viên thẩm định định giá

ẩu, định giá không chính xác, định giá tùy theo mối quan hệ... dẫn đến việc giá tài

sản đưa ra cao hoặc thấp hơn giá thực tế. Điều này khiến cho ACB gặp rất nhiều

khó khăn khi quyết định mức cấp tín dụng đối với khách hàng cũng như việc xử lý

tài sản để thu hồi nợ sau này. Cụ thể, tại một số đơn vị ở khu vực miền tây, nhân

viên thẩm định tài sản vì bất cẩn hay cố tình không thẩm định tình trạng thực tế

trong khi trên đất có mộ hay đang trong tình trạng tranh chấp đã dẫn đến việc ra giá

tài sản cao hơn giá trị thực. Hay tình trạng “thương đồng nghiệp” tìm hồ sơ vất vả

nên định giá cao để khách hàng được vay. Một thực tế cũng khá phổ biến nữa là có

những nhân viên do ít kinh nghiệm, có tâm lý e ngại rủi ro, định giá quá thấp so với

giá thị trường dẫn đến mức cho vay thấp, không cạnh tranh được với các ngân hàng

bạn dẫn đến việc không giữ chân được khách hàng.

2.2.3.4. Tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng

Khi nắm bắt được lợi thế về thông tin bất cân xứng, khách hàng có thể lợi

dụng sự ỷ lại từ ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn vay

để phát những tín hiệu thông tin sai lệch theo hướng có lợi cho mình. Sau khi nhận

được tiền từ phía ngân hàng, khách hàng sẽ sử dụng tiền theo ý riêng của mình mà

ngân hàng không kiểm soát được và dẫn đến rủi ro, thiệt hại cho ngân hàng. Quy

định của NHNN về việc sử dụng các phương tiện giải ngân phù hợp với mục đích

vay vốn, ngân hàng giúp cho ACB kiểm soát phần nào dòng tiền của khách hàng.

Tuy nhiên, vẫn có tình trạng khách hàng hoặc nhân viên ngân hàng lợi dụng khe hở

của chính sách chưa hoàn thiện, hợp thức hóa phương án và mục đích sử dụng vốn.

Trong thời gian gần đây, do nắm được điểm yếu của các ngân hàng là không

muốn làm xấu hệ thống sổ sách của mình, các doanh nghiệp đã tận dụng biện pháp

53

“lấy nợ nuôi nợ” để ép ngân hàng phải cho vay, đảo nợ liên tục. Một ví dụ điển hình

là trường hợp của Công ty CP ĐT &XD T.Đ, chủ đầu tư của một dự án khu công

nghiệp ở Long An. Năm 2011, công ty được ACB cấp mức tín dụng lên đến gần

550 tỷ đồng để đầu tư xây dựng dự án khu công nghiệp T.Đ. Do dự án đầu tư không

hấp dẫn nên có rất ít doanh nghiệp tham gia, sau nhiều năm vẫn không phát triển

được. Hoạt động công ty không hiệu quả nhưng định kỳ công ty phải trả nợ vay cho

ngân hàng. Công ty, một mặt lấy uy tín của ông X - thành viên hội đồng quản trị của

công ty đồng thời cũng là một sếp lớn ở ACB, một mặt lấy tư cách là một khách

hàng lớn gây sức ép cho ngân hàng tiếp tục cho vay nếu không muốn giảm số dư nợ

lớn một cách đột ngột hay tệ hơn là phát sinh nợ xấu. Lãi mẹ đẻ lãi con, lấy nợ mới

nuôi nợ cũ nên công ty T.Đ được nhiều người ví von như hình ảnh của “con cá voi

bị sình bụng sẽ bị vỡ lúc nào không hay”. Dư nợ của công ty này có thời điểm lên

đến hơn 700 tỷ đồng. Hiện tại, ACB đang cố gắng giảm dần số dư nợ của công ty về

mức phù hợp với tình hình họat động kinh doanh của nó.

Như vậy, dù thấy được rủi ro trước mắt nhưng ACB vẫn tiếp tục cho vay. Một

phần nguyên nhân là do khi tiến hành thẩm định, phía ngân hàng không có cơ sở để

đánh giá chính xác tính khả thi của dự án đầu tư nên dự án được xếp vào nhóm có

tính khả thi và một nguyên nhân nữa là do “nễ nang mối quan hệ” và xa hơn là tham

vọng tăng trưởng trong tín dụng của ngân hàng.

2.2.3.5. Tâm lý ỷ lại từ phía ngân hàng

Một số cán bộ tín dụng thường ỷ lại vào tài sản đảm bảo của khách hàng kho

cho vay. Họ cho rằng khách hàng sẽ không dễ gì mạo hiểm hay buông xuôi để mất

đi những tài sản đang cầm cố thế chấp tại ngân hàng. Việc quá chú trọng tài sản

đảm bảo không những ảnh hưởng đến kết quả thẩm định, sự lơ là trong kiểm tra,

giám sát sau cho vay mà nó còn tạo động cơ cho các đối tượng giả mạo giấy tờ tài

sản thế chấp, gây thất thoát cho ngân hàng. Trách nhiệm đó không chỉ đến từ sai

phạm của nhân viên mà còn phải kể đến sự kiểm tra, giám sát của cấp quản lý trong

quá trình vận hành.

54

Trong các sai phạm của ACB khi cho vay hỗ trợ lãi suất đã được trình bày ở

trên, Thanh tra Chính phủ đã công bố và kết luận một trong những nguyên nhân

chủ yếu là do ACB đã không thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra tình hình kinh

doanh của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng lợi dụng chính sách nhà nước.

Một vấn đề khác nhưng cũng thường gặp ở nhiều đơn vị của ACB là các kênh

phân phối cho vay đối với khách hàng có nơi cư trú hoặc nơi sản xuất kinh doanh xa

địa bàn hoạt động của ACB. Khách hàng tận dụng lịch sử uy tín thanh toán nợ vay

tốt khiến nhân viên quản lý khoản vay ỷ lại, không tuân thủ quy định kiểm tra giám

sát khoản vay dẫn đến rủi ro cho ACB.

Chẳng hạn như trường hợp khoản vay của khách hàng Châu Thị L cư trú ở

Tiền Giang được ACB Long An cho vay 500 triệu đồng, với mục đích kinh doanh

lúa gạo. Do khách hàng cư trú xa địa bàn hoạt động của ACB, khách hàng đóng lãi

rất đúng hạn nên nhân viên quản lý khoản vay đã ỷ lại, không tuân thủ quy định

kiểm tra giám sát khoản vay, cuối cùng khi đến ngày đáo hạn mới phát hiện cơ sở

sản xuất kinh doanh của khách hàng đã ngừng hoạt động từ 6-7 tháng trước, vợ

chồng khách hàng do thiếu nợ quá nhiều nên đã rời khỏi nơi cư trú từ lâu khiến việc

xử lý khoản vay rất khó khăn và kéo dài vì phải thanh lý tài sản thế chấp để thu hồi

nợ. Trong trường hợp này, ngoài việc khách hàng cố tình che giấu thông tin vay

vốn, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của mình, một nguyên nhân khác

cũng không kém phần quan trọng dẫn đến rủi ro này là trong quy trình cho vay

trước đây, nhân viên tín dụng đã thẩm định sơ sài, không khảo sát thực tế địa điểm

sản xuất kinh doanh của khách hàng nên không có thông tin về sự sa sút trong kinh

doanh, tình hình nợ nần bên ngoài cũng như mục đích sử sụng vốn thực tế của

khách hàng như thế nào.

Hay trường hợp rủi ro của một số chi nhánh của ACB khi nhận thế chấp sà lan

để đảm bảo cho khoản vay. Một số rủi ro đã xảy ra sau khi cho vay như giá tài sản

có biến động mạnh, sà lan bị bán trong tình trạng đang thế chấp, chủ sở hữu tận

dụng tính lưu động của nó để trốn khỏi sự giám sát của ngân hàng và tệ hơn nữa là

khách hàng rã sà lan thành từng bộ phận nhỏ để bán… Ngoài những nguyên nhân

55

do công tác định giá, một nguyên nhân phổ biến khác nhưng không kém phần quan

trọng là do nhân viên ngân hàng không tuân thủ quy trình kiểm tra tài sản để có biện

pháp xử lý, điều chỉnh món vay dẫn đến nợ quá hạn và gây thiệt hại cho ACB.

Tóm tắt chương 2

Chương này giới thiệu tổng quan về tình hình hoạt động và vị thế cạnh tranh

tín dụng của ACB trong môi trường thông tin bất cân xứng, phân tích các cơ sở vật

chất và điều kiện cần thiết hỗ trợ hoạt động tín dụng và thực tế tình hình quản trị rủi

ro tín dụng ở ACB để thấy được những ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến

hoạt động tín dụng của ngân hàng, làm cơ sở đề xuất các giải pháp hạn chế tác động của thông tin bất cân xứng, nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng của ACB.

56

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG

CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG CỦA NH TMCP Á CHÂU



3.1. CƠ SỞ ĐỀ RA GIẢI PHÁP

3.1.1. Từ định hướng của nhà nước và cơ quan quản lý

3.1.1.1. Định hướng của nhà nước

Trước bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình kinh tế Việt Nam nói

chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng gặp nhiều khó khăn, Chính phủ

đã đề ra nhiều giải pháp nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,

hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát của Chính phủ, NHNN đã thực hiện chính sách

tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt và đạt được một số thành tựu nhất định như:

lạm phát được kiềm chế về một con số, đồng thời vẫn đảm bảo được tăng trưởng

kinh tế hợp lý, tính thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện và tăng cường,

niềm tin vào đồng nội tệ được khôi phục, xuất khẩu được khuyến khích nhờ tỷ giá

ổn định, lãi suất huy động và cho vay đã giảm góp phần tháo gỡ khó khăn cho các

doanh nghiệp, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng.

Bên cạnh những thành quả đạt được, một số thách thức lớn được đặt ra đối với

hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung như: vấn đề nợ

xấu ngày càng gia tăng, tiến độ tái cấu trúc nền kinh tế nói chung, tái cấu trúc hệ

thống ngân hàng nói riêng còn chậm so với kế hoạch đề ra.

Tuy thị trường tiền tệ đang có diễn biến tích cực, nhưng nền kinh tế vẫn còn

đứng trước nguy cơ quay trở lại của lạm phát. Do vậy, điều hành chính sách tiền tệ

của NHNN vẫn luôn theo hướng thận trọng, tiếp tục kiên định theo mục tiêu về

kiểm soát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

57

Khi điều hành, NHNN sẽ bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều tiết

lượng tiền cung ứng một cách hợp lý qua các kênh để đảm bảo thanh khoản cho các

TCTD, đồng thời đảm bảo kiểm soát tiền tệ, lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Trong đó, một số công tác trọng tâm là: theo sát diễn biến thị trường tiền tệ, thanh

khoản của hệ thống các TCTD để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD một cách kịp

thời; đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; tăng cường sự kết hợp đồng

bộ và nhất quán giữa chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, cùng thực hiện mục

tiêu lạm phát thấp hơn, tăng trưởng kinh tế cao hơn của Quốc hội và Chính phủ;

tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các

hành vi vi phạm pháp luật bảo đảm an toàn hệ thống; nhằm góp phần nâng cao hiệu

quả điều hành chính sách tiền tệ.

Về điều hành lãi suất, nếu diễn biến của lạm phát không có biến động nhiều,

công tác điều hành lãi suất sẽ tiếp tục được điều hành theo hướng định hướng điều

hành lãi suất và triển khai đồng bộ các biện pháp để đạt mục tiêu là giảm mặt bằng

lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân.

Trên cơ sở mục tiêu định hướng, NHNN điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất

điều hành; kết hợp với áp dụng biện pháp hành chính phù hợp với điều kiện thị

trường biến động, quy định trần lãi suất huy động bằng VND và trần lãi suất cho

vay ngắn hạn bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên nhưng đã điều chỉnh giảm

dần, từng bước nới lỏng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ...

Về tỷ giá, với mục tiêu kiểm soát sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối,

giảm thiểu tình trạng đô la hóa, ngăn chặn sự mất giá của đồng Việt Nam, các giải

pháp điều hành tỷ giá của NHNN được thực hiện nhất quán, kết hợp đồng bộ với

chính sách lãi suất để hài hòa giữa thị trường ngoại hối và thị trường nội tệ.

Đối với nhóm giải pháp tín dụng, các giải pháp được tập trung thực hiện theo

hướng mở rộng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đi đôi với an toàn hoạt động của

TCTD, tăng cường xử lý nợ xấu tín dụng

Theo đó NHNN sẽ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD đồng thời

có sự điều chỉnh linh hoạt, thực hiện các giải pháp hướng dòng vốn tín dụng vào các

58

lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh đó, NHNN

cũng chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai các giải pháp tháo gỡ

khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Đồng thời, phải tập trung giải quyết được cơ bản vấn đề nợ xấu của các tổ

chức tín dụng để khơi thông được dòng tín dụng, ổn định tính thanh khoản toàn hệ

thống, góp phần nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Vì nếu nợ xấu gia

tăng và kéo dài sẽ ảnh hưởng và tác động đến nền kinh tế: làm giảm vai trò trung

gian tài chính của các ngân hàng; các doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn để tiến

hành sản xuất kinh doanh; nguy cơ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng và thị

trường tài chính; làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế... Đặc biệt, nợ xấu gia tăng sẽ

ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiện tệ. Do đó, cần tập trung xử lý

nhanh nợ xấu, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong năm

2013 và những năm tiếp theo.

3.1.1.2. Định hướng phát triển của ACB

Tinh thần chủ đạo của định hướng chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2015

nhằm đưa ACB phát triển là “Ngân hàng của mọi nhà,” chiếm vị trí hàng đầu trong

hệ thống ngân hàng Việt Nam. Định hướng chiến lược này bao gồm chiến lược hoạt

động kinh doanh với tinh thần cốt lõi là tập trung phát triển hoạt động ngân hàng

thương mại đa năng với các phân đoạn khách hàng mục tiêu, nâng cao năng lực

cạnh tranh của ACB để tăng cường vị thế trên thị trường và chiến lược tái cấu trúc,

nâng cao năng lực thể chế.

Đến nay, ACB đã đạt được một số thành tựu nhất định khi thực hiện chiến

lược này. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân

hàng nói riêng đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn, sự cố xảy ra với ACB trong

tháng 8/2012 đặt ra những thách thức càng lớn hơn đối với ACB trong việc thực

hiện mục tiêu phát triển giai đoạn 2011-2015.

Ba vấn đề trọng tâm được xác lập trong những năm tiếp theo là kiên trì định

hướng phát triển ACB là “ngân hàng của mọi nhà”, tiếp tục nghiên cứu xây dựng và

thực hiện các chương trình nâng cao năng lực thể chế; tiếp tục định hướng tập trung

59

vào hoạt động kinh doanh lõi là hoạt động ngân hàng thương mại ở địa bàn đô thị;

tuân thủ các định hướng chiến lược là yếu tố cần thiết để đảm bảo khả năng phát

triển bền vững, an toàn, hiệu quả của ngân hàng trong giai đoạn sắp tới.

3.1.2. Từ tình hình thực tế

Thông qua việc phân tích điều kiện hoạt động, năng lực cạnh tranh và thực

tế quá trình cấp tín dụng, quá trình giám sát sử dụng vốn vay của khách hàng tại

ACB cho chúng ta một cái nhìn tổng quan hơn về các biện pháp ACB áp dụng để

giảm thiểu ảnh hưởng của tình trạng bất cân xứng thông tin và ngăn ngừa rủi ro

trong hoạt động tín dụng của ACB.

ACB với 20 năm vượt qua biết bao sóng gió trên thương trường đã tạo được

cho mình một vị thế vững chắc trong lòng của khách hàng trong và ngoài nước. Các

sản phẩm dịch vụ của ACB đa dạng, được cung cấp đồng nhất bởi các kênh phân

phối trên toàn quốc. Nhờ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc quản lý

cũng như các hoạt động chính của ACB (trực tuyến hóa giao dịch), hoạt động bán

hàng và marketing của ACB ngày càng phát triển và hoàn thiện.

Sức mạnh tài chính cũng là một thế mạnh của ACB nói chung và hoạt động

tín dụng nói riêng. Đây là một lợi thế giúp ACB có thể tiếp cận và hợp tác với các

doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh tín dụng bị hạn chế

tăng trưởng trong khi trần lãi suất huy động tiếp tục được duy trì, ACB càng có

nhiều cơ hội chọn lọc khách hàng và duy trì hiệu quả hoạt động tín dụng. Nó được

thể hiện rõ nhất thông qua khả năng thanh khoản của ACB sau đợt khủng hoảng

năm 2003 và gần đây nhất là sự cố tháng 8/2012 - một sự kiện đã tác động đáng kể

đến nhiều mặt của ACB (ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động). Tuy nhiên, nếu xét về

độ ổn định thì tính thanh khoản của ACB vẫn còn yếu, quan ngại nhất là thanh

khoản VND. Nguyên nhân là do huy động VND đang có xu hướng giảm sút đặc

biệt là trước tình trạng vượt trần lãi suất khá phổ biến, lực đỡ từ huy động vàng

không còn, việc thu hồi các khoản nợ liên ngân hàng đến hạn khá khó khăn trong

lúc thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng tiếp tục căng thẳng.

60

Bên cạnh đó, ACB đang sở hữu một hệ thống kênh phân phối đa dạng với

những cơ sở vật chất hiện đại. Tùy theo địa bàn, quy mô và tiềm năng phát triển của

từng đơn vị, ACB quyết định đầu tư thuê dài hạn hoặc mua đất xây trụ sở để tạo

dựng lòng tin của khách hàng. Thời gian qua, việc áp dụng các biện pháp thắt chặt

tiền tệ, giới hạn trần tăng trưởng tín dụng và chính sách hạn chế mở rộng chi nhánh

NHTM của NHNN đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc chủ động công tác

chuẩn bị cơ sở vật chất, điều hành hoạt động cũng như quản lý nhân sự. Nhưng bù

lại, ở đây ACB có cơ hội chọn lọc khách hàng, duy trì hiệu quả hoạt động tín dụng

khi tín dụng bị hạn chế tăng trưởng trong khi trần lãi suất huy động tiếp tục được

duy trì và mức độ cạnh tranh nguồn nhân lực bớt gay gắt hơn khi khả năng mở rộng

mạng lưới bị hạn chế.

Theo đánh giá của các định chế tài chính nước ngoài, một trong những sức

mạnh của ACB là sự kết hợp giữa tri thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của Hội đồng

quản trị và Ban điều hành ngân hàng và chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp tham

gia các hoạt động kinh doanh. Là những người giữ vai trò đầu tàu trong sự phát

triển của một ngân hàng, đội ngũ cán bộ quản lý giữ vai trò quyết định trong việc

xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Năng lực quản lý lãnh

đạo của đội ngũ cán bộ thể hiện thông qua sự chính xác, kịp thời và nhạy bén của

các chiến lược, chính sách cũng như các quyết định của các cấp lãnh đạo trong quá

trình hoạt động của ngân hàng. Điều này đã được thể hiện rõ nhất qua sự kiện

khủng hoảng của ngân hàng. Một trong các yếu tố giúp ACB hồi phục uy tín và ổn

định hoạt động là thái độ ứng xử của quản lý cấp cao trong việc tạo được niềm tin

trong nội bộ ngân hàng cũng như với khách hàng và các đối tác. Kế đó là từng con

người của ACB đã tiếp xúc với khách hàng và thuyết phục được họ tiếp tục tin

tưởng, gắn kết và giúp ACB vượt qua khó khăn.

Ngoài ra, sức mạnh con người ACB đã được thể hiện qua chất lượng về

trình độ nghiệp vụ, hiệu quả của các chính sách nhân sự như chính sách thu hút

nhân tài, công tác tuyển dụng đào tạo… Trải qua thời gian 20 năm đầy thử thách,

ngân hàng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhân viên tương đối vững mạnh, với

61

trình độ chuyên môn được duy trì và ngày càng nâng cao thông qua các chương

trình đào tạo tại trung tâm đào tạo ACB kết hợp với công tác đào tạo tại chỗ tạo

điều kiện thích ứng với yêu cầu phát triển hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên, tại

ACB vẫn còn tình trạng một số nhân viên chưa có ý thức nâng cao chất lượng dịch

vụ của mình. Thêm vào đó là hệ thống đánh giá chất lượng hoạt động dịch vụ của

ngân hàng còn nhiều hạn chế, nên chưa có cơ chế khen thưởng và kỷ luật kịp thời

dẫn đến việc ACB phải đối mặt với những rủi ro con người và rủi ro đạo đức.

Bên cạnh đó, rủi ro vận hành trong hệ thống kênh phân phối vẫn tồn tại và

bắt đầu gia tăng, đặc biệt là trong công tác giao dịch. Tính tuân thủ quy trình nghiệp

vụ của cán bộ nhân viên đang có dấu hiệu suy giảm dù chưa gây ra hậu quả xấu.

Nhận thức và tuân thủ kỷ luật của các giám đốc kênh phân phối và một số đơn vị

nghiệp vụ trong kinh doanh chưa tương xứng với rủi ro mà ACB đang đối mặt.

Trong hoạt động tín dụng, công tác quản lý rủi ro trong thời gian qua cũng

đã gặt hái được những thành công nhất định nhờ ACB có định hướng chính sách

hoạt động tín dụng rõ ràng, linh hoạt theo từng thời kỳ, có sự phân công, phân

quyền và phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong quá trình cho vay, hệ thống

chấm điểm xếp loại khách hàng tương đối hoàn thiện và quá trình kiểm tra, giám sát

quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng được quy định cụ thể, rõ ràng.

Tuy nhiên, do thị trường luôn tồn tại thông tin bất cân xứng, tình trạng lừa

đảo, gian lận trong tín dụng ngày càng nhiều; vai trò hoạt động của các cơ quan

đăng ký, công chứng, kiểm toán và trung tâm CIC chưa phát huy hiệu quả; hoạt

động thanh tra, giám sát của NHNN còn nhiều bất cập đã dẫn đến mối đe dọa lớn

của ngành ngân hàng nói chung và của ACB nói riêng là nợ xấu gia tăng, tạo thêm

gánh nặng cho nền kinh tế. Vì hoạt động của ngân hàng luôn chịu ảnh hưởng của

thông tin bất cân xứng nên vấn đề cấp bách ở đây là cần phải có biện pháp giải

quyết triệt để nợ xấu, nâng cao chất lượng của công tác quản lý rủi ro tín dụng.

3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

Qua những phân tích cùng các số liệu chứng minh ở chương 2 ta thấy hoạt

động kinh doanh của ACB trong những năm vừa qua đã gặt hái được những thành

62

công nhất định. Đặc biệt là hoạt động tín dụng luôn giữ một vị trí then chốt trong

hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, tại ACB vẫn tồn tại một số khó

khăn, bất cập dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong đó, thông tin bất cân xứng là một

trong những nguyên nhân phổ biến.

Bất cân xứng thông tin là một vấn đề mang tính khách quan của nền kinh tế.

Thực tế, sẽ không có một biện pháp nào có thể xử lý hoàn toàn hay loại trừ nó vĩnh

viễn mà chỉ có thể ngăn ngừa, hạn chế tác động, giảm thiểu rủi ro và cuối cùng là

xử lý những hệ quả do nó gây ra.

Vì thế, với mong muốn ACB có thể cải thiện công tác quản trị rủi ro và đi

lên mạnh mẽ hơn nữa góp phần thực hiện thắng lợi định hướng đề ra đến năm 2015,

đồng thời có đủ điều kiện và tư cách hoà nhập vào hệ thống ngân hàng thế giới, một

số giải pháp kiến nghị được đề xuất nhằm góp phần tối thiểu hóa ảnh hưởng của

thông tin bất cân xứng, hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng quản lý tín dụng trong

hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

3.2.1. Giải pháp cho NH TMCP Á Châu

Giải pháp được đề xuất là những ứng dụng của cơ chế sàng lọc, phát tín hiệu

và cơ chế giám sát để hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến hoạt động

tín dụng của ACB.

3.2.1.1. Cơ chế sàng lọc trong tín dụng

Tăng trưởng tín dụng tốt có thể đem lại nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng.

Nhưng bên cạnh đó ngân hàng cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Trong đó,

nguyên nhân phổ biến nhất là đối tượng được cấp tín dụng cố tình lừa đảo, trây ỳ,

không trả nợ đúng hạn, hoặc sử dụng vốn sai mục đích, do yếu kém trong kinh

doanh và quản lý. Mà sâu xa hơn là do ngân hàng không rơi vào trạng thái thông tin

không đầy đủ hay thông tin không hoàn hảo. Rủi ro này hoàn toàn có thể giảm

thiểu, nếu các ngân hàng thực hiện tốt khâu “phòng bệnh”, tức là sàng lọc khách

hàng, sàng lọc khoản vay ngăn ngừa gian lận từ trước khi cấp tín dụng và thậm chí

là ngay cả trong và sau khi giải ngân cho khách hàng.

63

a. Nghiên cứu và dự báo tình hình kinh tế - xã hội

Dựa trên việc nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước ngân

hàng sẽ đánh giá dự đoán được những diễn biến sẽ xảy ra trong tương lai như: tốc

độ tăng trưởng kinh tế, các ngành có xu hướng phát triển tốt, đà suy thoái kinh tế,

tình hình lạm phát… Trên cơ sở đó ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng thích

hợp bao gồm qui mô tín dụng và đầu tư, ngành khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư,

một số cảnh báo khi cấp tín dụng hay những chính sách ưu tiên và đa dạng hoá lĩnh

vực kinh doanh. Việc dự báo nên được thực hiện định kỳ (6 tháng/ lần) và phải kết

hợp với công tác tuyên truyền, thông đạt đến toàn hệ thống để tất cả nhân viên nắm

được thông tin thị trường và hiểu được chính sách của ACB.

b. Quản lý rủi ro gian lận

Đây là khía cạnh khó quản lý nhất trong công tác cho vay vì nó liên quan đến

việc cố ý gian lận của khách hàng. Nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh gian lận

trong tín dụng là do tính không minh bạch của thông tin tài chính và xung đột động

cơ giữa bên đi vay và bên cho vay, ngân hàng lựa chọn phương án cho vay bất lợi

do thiếu thông tin và khách hàng do không phải chịu mọi rủi ro nên có động cơ tăng

mức độ rủi ro sau khi vay để tăng lợi nhuận, ảnh hưởng đến ngân hàng.

Hai hình thức gian lận phổ biến là gian lận báo cáo tài chính và gian lận tài sản

thế chấp. Gian lận báo cáo tài chính xảy ra khi khách hàng vay khai man các số liệu

trên báo cáo tài chính và xảy ra thường xuyên hơn đối với trường hợp cho vay trên

cơ sở quan hệ như việc ghi nhận doanh thu/chi phí không đúng, ghi nhận sai các

khoản công nợ, định giá tài sản không đúng. Gian lận tài sản thế chấp xảy ra khi

khoản vay được bảo đảm bằng tài sản và khách hàng khai man về tài sản thế chấp

để đáp ứng theo yêu cầu của hợp đồng vay. Thường xảy ra đối với khoản mục công

nợ và hàng tồn kho như tạo khống hoặc khai man công nợ và hàng tồn kho để tăng

khả năng vay nợ.

Để giảm thiểu gian lận trong tín dụng phải có những hệ thống phòng ngừa và

phát hiện sớm áp dụng tại ngân hàng.

64

* Phòng ngừa gian lận

Trong quá trình đánh giá khách hàng vay vốn, việc phân tích các chỉ tiêu tài

chính như các tỷ số thanh khoản, hiệu quả hoạt động kinh doanh, các tỷ số đòn bẩy

tài chính các chỉ tiêu sinh lời… cần phải được đánh giá kết hợp với những chỉ tiêu

phi tài chính để nâng cao hiệu quả và độ chính xác. Nhờ đó, ngân hàng có thể đánh

giá cơ bản về mức độ rủi ro của khách hàng, sàng lọc được khách hàng tốt để phục

vụ việc ra quyết định cấp tín dụng. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể tập trung

vào các đặc điểm riêng của khách hàng, để có biện pháp quản lý tín dụng hiệu quả.

Trong quá trình tiếp xúc, thẩm định khách hàng, nhân viên phân tích cần nắm

rõ các thông tin về lĩnh vực hoạt động kinh doanh, uy tín trong quan hệ tín dụng với

các TCTD, khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ, trình độ quản lý của nhà lãnh đạo,

môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng ứng phó của doanh nghiệp trên

thương trường… Đây là các thông tin phi tài chính có thể thu thập từ các nguồn

thông tin trong và ngoài doanh nghiệp.

Thông thường việc phân tích khách hàng và dự án đầu tư được thể hiện thông

qua mô hình 6C gồm: phẩm chất, tư cách người vay (character), năng lực của người

vay (capacity), thu nhập của người vay (cashflow), tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay (collateral), các điều kiện (conditions) và kiểm soát (control). Trong đó, tính

cách, phẩm chất được xếp đầu tiên vì thiếu yếu tố này thì xác suất xảy ra tổn thất

tăng đáng kể và tài sản thế chấp xếp cuối cùng vì đây chính là cứu cánh cuối cùng

của chủ nợ.

Phân tích các tiêu chí phi tài chính (6C) này có ý nghĩa đối với ngân hàng và

là một bước quan trọng trong phân tích tín dụng. Kết quả của phân tích phi tài chính

sẽ tăng thêm cơ sở chắc chắn cho các quyết định tài trợ của ngân hàng.

Xét trên phương diện quản lý rủi ro tín dụng thì phân tích phi tài chính mới là cái

ngân hàng quan tâm hơn, bởi nó là cái không hiện hữu và khó phát hiện hơn so với

các chỉ tiêu tài chính. Thông qua việc tiếp xúc và thu thập thông tin sẽ giúp cho

ngân hàng phát hiện ra các hành vi gian lận hoặc các thông tin mà các chỉ số tài

chính không thể hiện được. Cho nên đây được xem là bước đệm cơ bản giúp phòng

65

ngừa gian lận trong việc thu thập thông tin từ khách hàng. Việc này đòi hỏi cán bộ

tín dụng phải nhạy bén, sắc sảo và linh hoạt thì mới có được kết quả đáng tin cậy.

* Phát hiện sớm các hành vi gian lận

Bảng 3.1 – Các dấu hiệu cảnh báo trong hoạt động tín dụng

DẤU HIỆU PHI TÀI CHÍNH

DẤU HIỆU TÀI CHÍNH

- Khách hàng cư xử kỳ lạ. - Có những thay đổi lớn trên số dư

tài chính, trong lãi hoạt động hoặc - Lối sống không tương xứng với khả năng sinh

hệ số tài chính không giải thích lời của doanh nghiệp theo báo cáo.

được. - Tránh gặp ngân hàng và thiếu hợp tác với ngân

- Thay đổi đột ngột về phương hàng.

pháp kế toán. - Trì hoãn hay bất ngờ trong việc gởi các thông

- Tái cơ cấu nợ hoặc hủy bỏ việc tin, sổ sách, chứng từ cho ngân hàng, khó hay

chia cổ tức. không thể cung cấp các báo cáo tài chính, lảng

tránh trả lời những câu hỏi về tình hình hoạt động - Làm ăn thua lỗ.

gần đây của DN. - Các thay đổi bất lợi về cơ cấu

vốn. - Khó trả lời những câu hỏi liên quan đến dự báo

sản xuất kinh doanh như doanh số bán, biên lợi - Sai lệch giữa doanh số thực và

nhuận, khả năng sinh lời…. dự đoán.

- Thể hiện sự không hài lòng với cách đối xử của - Tài khoản tiền gửi có các hoạt

các ngân hàng khác hoặc với những nhà kiểm toán động bất thường không giải thích

hiện nay. được.

- Thay đổi nhà kiểm toán, nhà điều hành cao cấp. - Thấu chi được sử dụng như một

phương tiện thường xuyên. - Không có sẵn những thông tin nội bộ hoặc thông

tin nội bộ kém chất lượng.

Ngày nay, bên cạnh việc nhận thức của người dân được nâng cao, thì thói quen

sử dụng dịch vụ ngân hàng của các cá nhân và tổ chức cũng được cải thiện. Với chủ

trương tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân được tiếp cận với nguồn vốn tín

dụng, các ngân hàng đều công khai thực hiện tư vấn quy trình, thủ tục cho khách

66

hàng khi họ có nhu cầu vay vốn. Nên đã có không ít trường hợp khách hàng lợi

dụng sự am hiểu về thủ tục và quy trình vay vốn để qua mặt cán bộ tín dụng trong

việc cung cấp các thông tin sai lệch trên hồ sơ vay vốn, làm giả các phương án, dự

án đầu tư, kinh doanh, làm giả chứng từ, sổ sách kinh doanh hay có hành vi gian lận

liên quan đến tài sản đảm bảo... Vì vậy, ngoài việc đối chiếu bản chính các chứng từ

khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cần đánh giá và phân tích kỹ lưỡng các thông

tin thu thập được khi thẩm định khách hàng xem có điều gì bất thường không nhằm

phát hiện ngay từ đầu các hành vi cố ý gian lận, lừa đảo từ khách hàng (bảng 3.1) để

có biện pháp xử lý kịp thời.

c. Nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích tín dụng

Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn

trọng và thiếu chính xác dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Đây là bước

cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả cao nhất, ít tổn

thất nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng các yêu cầu về chất lượng phân tích và

thời gian ra các quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở phân tích lợi

nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng.

Thực hiện phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể thông qua các dữ

liệu về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh và triển vọng phát triển của doanh

nghiệp… để nhận dạng được các rủi ro của doanh nghiệp, định ra một giới hạn tín

dụng hợp lý đối với khách hàng.

Cần chú trọng đến phân tích định lượng nhằm lượng hóa rủi ro của khách

hàng qua đánh giá các số liệu đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích vi

mô, vĩ mô, môi trường cạnh tranh và nội bộ của DN, lịch sử quan hệ với các ngân

hàng…). Trong phân tích định lượng cần ứng dụng và hoàn thiện hệ thống chấm

điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng. Hệ thống này cần được thường xuyên điều

chỉnh cho phù hợp với thực tế và điều kiện kinh tế Việt Nam, không nên cứng nhắc

theo những tính toán của các nước có điều kiện không tương đồng. Thông qua việc

sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý, phản ánh

67

một cách rõ ràng hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến và xây dựng những

biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín dụng cho khách hàng.

Bên cạnh đó, cần tập trung phân tích rủi ro của phương án vay. Trong đó, cần

chú ý phân tích tính pháp lý của phương án/ dự án vay, nguồn cung cấp, thị trường

và khả năng tiêu thụ… Đồng thời cần đưa ra những dự kiến, khả năng kiểm soát của

ngân hàng và kịch bản xử lý khi những tình huống xấu xảy ra.

Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ các điều kiện trong hợp đồng tín dụng như lãi

suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào phương án hoặc dự án đầu tư, các tài sản đảm

bảo… để đảm bảo lợi ích thu được phải tương xứng với mức độ rủi ro.

d. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của 3 kênh phòng vệ trong hoạt

động tín dụng tại ACB

Nhân viên quản lý khách hàng/ thẩm định, nhân viên phân tích tín dụng/ thẩm

định tài sản và nhân viên pháp lý chứng từ được xem là 3 kênh phòng vệ của ACB

trong hoạt động tín dụng. Bởi lẻ mỗi bộ phận là một mắc xích quan trọng trong quy

- Nhân viên quản lý khách hàng hoặc thẩm định tín dụng (nhân viên PFC*/R*):

trình cho vay tại ACB, cụ thể:

là bộ phận tiếp nhận nhu cầu, tư vấn và hướng dẫn khách hàng thực hiện các thủ tục

vay vốn tại ACB. Ngoài ra, đây cũng là đầu mối chăm sóc, quản lý khách hàng

- Nhân viên phân tích tín dụng và thẩm định tài sản: bộ phận phân tích tín dụng

trong suốt thời gian quan hệ tại ACB.

có nhiệm vụ thu thập thông tin và chứng từ có liên quan đến hồ sơ tín dụng; thẩm

định hoặc tái thẩm định và phân tích thông tin đã thu thập; nhận xét và lập tờ trình

đề xuất cấp tín dụng cho cấp có thẩm quyền phê duyệt; kiểm tra giám sát mục đích

sử dụng vốn vay của khách hàng. Thẩm định tài sản là bộ phận kiểm tra, đảm bảo

tính hợp pháp, hợp lệ về chứng từ sở hữu tài sản, đo đạc, thẩm tra tình hình thực tế

- Nhân viên pháp lý chứng từ chịu trách nhiệm soạn thảo hợp đồng và các chứng

nơi tài sản tọa lạc, đảm bảo tính toán giá trị tài sản đúng và chính xác theo quy định.

từ có liên quan (các văn bản/ cam kết của khách hàng), trực tiếp thực hiện thủ tục

công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản tại các cơ quan nhà nước có thẩm

68

quyền; xác nhận, phong tỏa TSĐB; quản lý và thực hiện các thủ tục liên quan đến

TSĐB trong thời gian thế chấp, cầm cố tại ACB.

Một trong những thế mạnh trong công tác quản lý rủi ro tín dụng ở ACB là có

sự phân công, phân quyền, hạn mức kinh doanh cho từng bộ phận tham gia vào hoạt

động cho vay. Thứ nhất, nó đảm bảo tính khách quan, thúc đẩy tính minh bạch và

trách nhiệm của từng bộ phận trong công tác thẩm định và cho vay. Thứ hai, mỗi bộ

phận tương ứng với mỗi bước trong quy trình tín dụng như một tấm lá chắn có

nhiệm vụ sàng lọc khách hàng tại khâu của mình. Chẳng hạn như PFC*/ R* sẽ chọn

lọc khách hàng ngay từ đầu trong giai đoạn tư vấn và nhận hồ sơ vay vốn. Nhân

viên phân tích tín dụng sẽ thẩm định lại khách hàng một lần nữa khi phân tích tín

dụng và song song đó nhân viên thẩm định tài sản cũng sẽ giúp ngân hàng xác định

đúng giá trị tài sản mà khách hàng dự định đảm bảo cho khoản vay. Đây là khâu

quan trọng nhất, trong giai đoạn này, những khách hàng không đủ điều kiện sẽ bị từ

chối cấp tín dụng. Và cuối cùng là việc soạn thảo những hợp đồng, văn bản và hoàn

thiện các thủ tục pháp lý đối với khách hàng được thực hiện bởi bộ phận pháp lý

chứng từ. Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm

bảo các quyền lợi của ACB khi rủi ro xảy ra đồng thời nâng cao trách nhiệm của

khách hàng torng việc sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra. Thứ ba, xác suất xảy

ra rủi ro trong ba giai đoạn này là rất cao và có thể gây thiệt hại cho ngân hàng.

Chính vì vậy, công tác hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc

của ba bộ phận này là rất quan trọng và cần thiết để giúp ngân hàng tối thiểu hóa rủi

ro trong hoạt động của mình.

Để thực hiện được điều đó, ACB cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính

sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và

cán bộ quản lý có trình độ giỏi thông qua việc xây dựng hệ thống khuyến khích và

chế độ quản lý lao động phù hợp; xây dựng đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực hoạt

động ngân hàng; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ mọi mặt cho

cán bộ ngân hàng; đồng thời nâng cao năng lực quản trị chiến lược, điều hành kinh

doanh của cấp lãnh đạo ngân hàng.

69

e. Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng phục vụ mô hình chấm điểm

và xếp hạng tín dụng tại ACB

Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân gây nợ xấu cao ở các NHTM

là do công tác xếp hạng tín dụng chưa được quan tâm và chưa thực hiện tốt vai trò

của nó. Có thể thấy, cho đến nay, hầu hết các NHTM đều đã xây dựng cho mình

một hệ thống xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên, đa số các mô hình này rất đơn giản, chỉ

mang tính hình thức, chưa mang lại kết quả cao. Mặt khác, công tác này còn mang

tính chủ quan và chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu định tính với tính khoa học và độ

chính xác chưa cao.

Trên thực tế, bên cạnh những hạn chế nhất định, hệ thống xếp hạng tín dụng

nội bộ doanh nghiệp phục vụ xét duyệt tín dụng của ACB được xem là hệ thống có

nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với các ngân hàng khác.

Để khắc phục những hạn chế của mô hình chấm điểm và nâng cao tính khách

quan qua việc lượng hóa, ngân hàng có thể nghiên cứu và tiếp cận thêm phương

pháp xếp hạng tín dụng qua phương pháp định lượng chẳng hạn như mô hình

Logistics hay mô hình điểm số Z của của Giáo Sư Edward I. Altman… Việc áp

dụng kết hợp mô hình định tính với định lượng dựa trên việc mô hình hoá các mối

quan hệ giữa các biến nhằm phản ánh chất lượng tín dụng và các yếu tố ảnh hưởng

đến chất lượng tín dụng từ phía khách hàng. Và hơn nữa, nó có thể giúp ngân hàng

đo lường xác suất vỡ nợ của khách hàng hoặc của từng khoản vay thông qua các đặc

điểm cơ bản của khách hàng.

Muốn như vậy, ngân hàng cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin về

khách hàng đáp ứng các yêu cầu: khoa học, đầy đủ, cập nhật và chính xác và được

lấy từ nhiều nguổn thông tin khác nhau (bao gồm cả những thông tin chính thống và

không chính thống). Bên cạnh đó cần phải nâng cao chất lượng phân tích và xử lý

thông tin trên một phần mềm đủ mạnh với hệ thống các tiêu chí đầy đủ, khách quan

và khoa học cả về định tính lẫn định lượng, cả về góc độ tài chính và góc độ phi tài

chính. Có như vậy, công tác xếp hạng khách hàng mới có thể trở thành công cụ hỗ

trợ đắc lực cho các nhà quản trị ngân hàng có những quyết định đúng đắn trước khi

70

cấp tín dụng và khi đó, chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng mới đạt yêu

cầu và chỉ khi đó, nợ xấu, nợ quá hạn mới được hạn chế và đẩy lùi và ngân hàng

mới phát triển bền vững.

3.2.1.2. Cơ chế giám sát - kiểm soát tín dụng

Hoạt động cho vay không chỉ dừng lại ở việc giải ngân cho khách hàng mà nó

còn tiếp tục cho đến khi khách hàng thanh toán hết nợ vay và giải chấp tài sản. Và

rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào. Cho nên, ngân hàng cần phải thực hiện

việc kiểm tra, giám sát thực tế để theo dõi việc sử dụng vốn của khách hàng nhằm

phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp có thể gây rủi ro,thiệt hại cho ACB.

a. Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để hạn chế rủi ro

Quản lý theo dõi khoản vay và xác minh công nợ. Mục đích chủ yếu của thao

tác này là để kiểm soát các thông tin nhận được từ bên đi vay, tình trạng tài chính

của bên đi vay hay tình trạng và mức độ đầy đủ của tài sản thế chấp trong quá trình

thẩm định. Nhân viên thẩm định, phân tích tín dụng không nên chỉ dựa vào các số

liệu, sổ sách khách hàng gởi mà nên kết hợp thẩm định trực tiếp để đảm bao tính

thực tế và an toàn. Đến thăm, kiểm tra thực tế khách hàng trước khi cấp tín dụng

giúp cho ngân hàng biết được chất lượng cơ sở vật chất của khách hàng, chất lượng

quản lý doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động, tổ chức nơi làm việc, văn hóa doanh

nghiệp, quy mô và năng lực của lực lượng lao động… Điều này có ý nghĩa quan

trọng vì qua đó có thể thu được nhiều thông tin hữu ích về khách hàng, phát hiện

các dấu hiệu cảnh báo để ra quyết định có cho vay hay không. Ngoài ra, nhân viên

PFC* và CA cần phối hợp với nhau để xác minh thông tin về công nợ nhằm phát

hiện các hóa đơn gian lận trong quá trình cấp tín dụng. Đặc biệt, tần suất xác minh

phải tăng khi tình hình tài chính của khách hàng sa sút.

Quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quá trình giải ngân. Thực hiện giải

ngân theo đúng quyết định cấp tín dụng của cấp phê duyệt, đối chiếu mục đích vay,

yêu cầu giải ngân và cơ cấu chi phí trong nhu cầu vốn của khách hàng, đảm bảo

việc sử dụng vốn vay có đầy đủ chứng từ chứng minh. Đồng thời phải tuân thủ chặt

71

chẽ điều kiện sử dụng các phương tiện giải ngân theo quy định. Phương tức giải

ngân phải phù hợp với từng đối tượng và tùy vào mục đích vay vốn của khách hàng.

Đảm bảo lập các văn bản, chứng từ đúng quy định. Các bộ phận tham gia quá

trình cấp tín dụng phải đảm bảo về mặt thời gian, tính đầy đủ, chính xác của các

chứng từ có liên quan trước khi giải ngân. Quan trọng hơn nhất là bộ phận phụ trách

công tác giải ngân cho khách hàng cần đảm bảo các văn bản, hợp đồng và các

chứng từ có liên quan được lập chính xác, đầy đủ theo đúng quy định. Vì đây chính

là những chứng từ chứng minh, là cơ sở pháp lý giúp ACB đảm bảo được tính tuân

thủ của khách hàng trong suốt quá trình quan hệ tại ngân hàng cũng như đảm bảo

được quyền lợi, tránh những tổn thất khi có tranh chấp hay vi phạm xảy ra.

b. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quản lý nợ vay

Sau khi giải ngân cho khách hàng, nhân viên phụ trách quản lý hồ sơ cần tiếp

tục theo dõi quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng thông qua các chứng từ được

bổ sung và kiểm tra thực tế khách hàng.

Do mỗi khoản vay của khách hàng có những đặc điểm khác biệt nhất định nên

cần xây dựng và lựa chọn một kế hoạch kiểm tra quá trình sử dụng vốn hợp lý đảm

bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng cũng như tạo thuận lợi cho hoạt động kinh

doanh của khách hàng và mối quan hệ giữa các bên.

Việc bổ sung chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay phải được đảm

bảo theo quy định. Nhân viên phụ trách phải kiểm tra, đối chiếu bản chính các

chứng từ do khách hàng cung cấp, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi gian

lận, giả mạo chứng từ của khách hàng.

Những rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi cho vay không chỉ do bản thân

phương án kinh doanh kém hiệu quả, khách hàng sử dụng sai mục đích mà còn do

ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền trong hoạt động kinh doanh của khách

hàng dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng nguổn tiền này vào mục đích kém hiệu

quả hay không minh bạch. Vì thế, kiểm tra tại chỗ, theo dõi tình hình hoạt động

kinh doanh của khách hàng là công tác quan trọng mà ngân hàng không thể bỏ qua.

72

Tùy vào đặc điểm của mỗi khoản vay, nhân viên quản lý nên thiết kế và thực

hiện các cuộc kiểm tra trên thực tế - kiểm tra tại chỗ bằng các hình thức như khảo

sát, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đặc biệt/đột xuất về việc sử sụng vốn của khách hàng

cũng như về tài sản đảm bảo sau khi cấp tín dụng để tìm hiểu xem khách hàng có

vần đề gì không, nhằm xác định rủi ro, xu hướng, dấu hiệu xuống cấp của khách

hàng, xác định lại thông tin/giá trị của tài sản thế chấp, đánh giá mức độ đầy đủ của

hệ thống kiểm soát, các báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh của khách

hàng… để từ đó đưa ra những khuyến cáo và các biện pháp can thiệp nếu cần.

c. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cảnh báo tín dụng

Hệ thống cảnh báo tín dụng được xem là công cụ hữu hiệu đối với ngân hàng

trong việc nâng cao chất lượng giám sát, phòng ngừa rủi ro của mình. Cảnh báo rủi

- Giám sát biến động về giá đối với tài sản đảm bảo: là việc kiểm soát biến

ro tín dụng được xây dựng bao gồm:

động về tỷ giá dẫn đến trị giá TSĐB thay đổi và có thể ảnh hưởng đến việc đảm bảo

cho khoản vay hoặc không đủ đảm bảo cho khoản vay theo quy định của ACB.

Theo đó,tùy theo đặc điểm của TSĐB mà ACB sẽ thực hiện định kỳ hoặc đột xuất

việc kiểm tra hoặc tái thẩm định lại TSĐB nhằm phát hiện và xử lý các thay đổi về

- Cảnh báo nợ sớm: là việc ghi nhận, phát hiện các thông tin bất lợi của khách

tài sản thế chấp.

hàng có khả năng gây rủi ro không thu hồi được nợ vay tại ACB nhằm giám sát và

áp dụng các hành động, ứng xử kịp thời, phù hợp với từng rủi ro của khách hàng.

Tùy vào đặc điểm của khoản vay mà ngân hàng sẽ xây dựng các nhóm tiêu chí cảnh

báo có thể dẫn đến rủi ro của khách hàng và thị trường như:

+ Nhóm tiêu chí về tình hình giao dịch/ tín dụng của khách hàng tại ACB và

các TCTD.

+ Nhóm tiêu chí về tình trạng nhân thân, công việc, cư trú của khách hàng

hoặc đại diện doanh nghiệp và những người có liên quan như đồng ký vay, người

bảo lãnh, đồng trả nợ.

+ Nhóm tiêu chí tình hình môi trường, ngành nghề, địa điểm sản xuất kinh

73

doanh thay đổi.

+ Nhóm tiêu chí tình hình hoạt động của doanh nghiệp hoặc nguồn trả nợ

(doanh thu, lợi nhuận, thu nhập, chi phí) của khách hàng và những người có liên

quan có biến động.

+ Nhóm tiêu chí về tình trạng tài sản đảm bảo như biến động về tỷ giá;TSĐB

bị thiệt hại,tranh chấp; TSĐB rơi vào diện giải tỏa, nằm trong khu quy hoạch phát

- Giám sát đặc biệt các khoản vay có khả năng gây rủi ro: là việc giám sát các

sinh sau giải ngân; TSĐB bị giả mạo hay có nguy cơ không xử lý được…

khoản vay có rủi ro cao (khoản vay không có tài sản bảo đảm, khoản vay được phê

duyệt ngoại lệ…) để có biện pháp xử lý kịp thời ngay khi khoản vay có dấu hiệu

xấu. Công việc này khác với cảnh báo nợ sớm ở đặc điểm là đối với các khoản vay

này, ACB đã nhận biết các rủi ro và vẫn đồng ý cho khách hàng vay vốn.

Để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất và tạo thuận lợi cho quá trình giám sát

toàn bộ quá trình cấp tín dụng, hệ thống cảnh báo cần được sử dụng ngay từ lần đầu

tiên khi khách hàng liên hệ yêu cầu cấp tín dụng để sàng lọc khách hàng cũng như

trong toàn bộ quá trình cấp tín dụng để giám sát quá trình sử dụng vốn của khách

hàng tại ACB.

d. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ

Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng tại các NHTM nói chung và ACB nói

riêng có rất nhiều sai phạm có thể xảy ra và gây thiệt hại cho ngân hàng. Để ngăn

chặn các sai phạm này, việc hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ với các

thủ tục kiểm soát được thiết kế đầy đủ và vận hành thường xuyên liên tục tại ngân

hàng là điều cần thiết. Ban kiểm toán cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán

nội bộ đối với tất cả các đơn vị kênh phân phối nhằm đảm bảo cho hoạt động của

đơn vị tuân thủ đúng quy định hiện hành, ngăn ngừa hạn chế rủi ro cho ACB.

Trong công tác kiểm tra nội bộ, ngoài việc thực hiện kiểm tra định kỳ, cần tập

trung và tăng tần suất kiểm tra các khách hàng có nợ xấu, đánh giá việc thực thi các

biện pháp quản lý nợ có vấn đề và khả năng thu hồi nợ. Ngoài ra, công tác kiểm tra,

kiểm toán trong tín dụng cần được thực hiện theo phương thức kiểm tra chéo. Theo

74

đó, ngoài việc phụ trách công việc kiểm tra, kiểm toán tại một kênh phân phối

chính, kiểm toán viên nên được phân công kiểm tra chéo giữa các kênh phân phối

khác nhau trong hệ thống với thời gian, tần suất và tuyến công tác được bảo mật

nhằm đảm bảo tính khách quan, xử lý kịp thời các vi phạm và quan trọng là tránh

được tâm lý ỷ lại khi cho vay cũng như trong hoạt động của các đơn vị.

e. Đa dạng hoá các hình thức bảo hiểm trong hoạt động tín dụng tại ACB

Hiện nay các doanh nghiệp cũng như các cá nhân chưa thấy hết được tầm quan

trọng của việc mua bảo hiểm đối với hoạt động kinh doanh và cuộc sống của mình

cũng như bảo hiểm các tài sản đang được thế chấp để vay vốn ngân hàng. Điều này

làm cho các doanh nghiệp, cá nhân khó xoay trở khi gặp rủi ro, tai nạn và tệ hơn

nữa là tình trạng phá sản xảy ra. Do đó, vấn đề đặt ra là việc đa dạng hóa các loại

hình bảo hiểm kết hợp với công tác tuyên truyền ý thức mua bảo hiểm giúp cho các

doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo hiểm đối với hoạt động của

doanh nghiệp là vấn đề hết sức cần thiết. Ngoài các loại bảo hiểm phổ biến hiện nay

như các loại hình bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm máy móc thiết bị, bảo hiểm xe cơ

giới, tàu sông, tàu biển, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm vận chuyển, bảo hiểm rủi ro

trong thi công, xây dựng, bảo hiểm thiệt hại tài chính, gián đoạn kinh doanh… ngân

hàng có thể yêu cầu người nhận nợ phải có một khoản chi phí phụ thêm cho việc

mua bảo hiểm nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp trong trường hợp phá sản. Chất

lượng tín dụng càng cao thì tỷ lệ bảo hiểm rủi ro tín dụng càng thấp, khi rủi ro tín

dụng của một doanh nghiệp tăng lên, các ngân hàng thương mại sẽ yêu cầu tỷ lệ bảo

hiểm tín dụng cao hơn. Việc đánh giá rủi ro tín dụng sẽ dựa trên kết quả xếp hạng

tín dụng của khách hàng tại ACB. Trong đó, chi phí bảo hiểm sẽ được san sẻ từ cả

khách hàng và ACB. Việc tăng lên của các khoản bảo hiểm này là cần thiết để bù

đắp cho mất mát dự kiến cao hơn về khoản vay vì khả năng khoản vay sẽ không

được hoàn trả. Kết quả là mức độ thấp về chất lượng tín dụng có thể làm tăng chi

phí vay của khách hàng. Từ đó, sẽ giảm thiểu được mức độ thiệt hại khi xảy ra rủi

ro tín dụng do tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng hay do những nguyên nhân khách

quan từ môi trường.

75

f. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về chất lượng nghiệp vụ và đạo đức

nghề nghiệp.

Tiếp tục quan tâm đầu tư vào công tác tuyển dụng, trong đó, đạo đức phải

được coi như một tiêu chí tiên quyết trong công tác tuyển chọn. Tăng cường đào tạo

(tái đào tạo), bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là khả

năng đánh giá và phân tích khách hàng nhằm nâng cao hơn nữa công tác thẩm định

và xét duyệt cho vay, giảm thiểu rủi ro tác nghiệp và rủi ro đạo đức trong tín dụng.

Bên cạnh việc nâng cao năng lực quản trị chiến lược, điều hành kinh doanh của cấp

lãnh đạo, ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý

lao động phù hợp nhằm tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, lành mạnh nhằm

nâng cao và giữ gìn phẩm chất đạo đức của cán bộ nhân viên ACB và kiểm soát

được những hành vi trong công tác huy động vốn và cho vay.

Ngoài các biện pháp nêu trên, tâm lý ỷ lại còn được giảm thiểu bằng cơ chế

khuyến khích. Các tổ chức tín dụng sẽ cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi về

lãi suất, phí, hạn mức tín dụng, tài sản đảm bảo... cho những khách hàng có uy tín

trong quan hệ, vay trả sòng phẳng. Ngược lại, đối với các khách hàng không có uy

tín trong quan hệ sẽ bị hạn chế hạn mức tín dụng và thậm chí chấm dứt quan hệ tín

dụng, phải chịu lãi suất cao và những điều kiện khắt khe hơn về đảm bảo tiền vay...

Những chính sách này sẽ tạo động lực để khách hàng phấn đấu trở thành khách

hàng tốt của ngân hàng trong tương lai.

3.2.1.3. Cơ chế phát tín hiệu trong giao dịch

Cơ chế phát tín hiệu là một giải pháp hai chiều. Nó cần có sự hỗ trợ đến từ cả

hai phía ngân hàng và khách hàng để cân bằng thông tin tín dụng.

a. Về phía ngân hàng

Rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng đến từ phía bên đi vay nhiều hơn. Nó

thể hiện ở hành vi bên đi vay sử dụng vốn không đúng mục đích đã cam kết trong

hợp đồng tín dụng. Nguyên nhân chính là trong hợp đồng tín dụng chỉ đòi hỏi bên

đi vay thanh toán một sồ tiền cố định đã được quy định trước và cho phép họ hưởng

tất cả các phần lợi nhuận còn lại. Do đó sẽ khiến những khách hàng đi vay nảy sinh

76

ý muốn đầu tư vào những dự án mạo hiểm, có nhiều rủi ro. Vì những dự án có độ

rủi ro cao một khi thành công sẽ mang lại lợi nhuận rất cao cho bên đi vay. Hay nói

cách khác là họ sẽ ỷ lại vào quyết định đầu tư đó vì tin nguồn thu trong kế hoạch

của mình sẽ dư khả năng trả nợ vay cho ngân hàng. Ngoài ra, chính vì thói quen sử

dụng tiền mặt của nền kinh tế càng làm tăng sự khó khăn cho công tác kiểm tra,

giám sát của ngân hàng về việc khách hàng sử dụng khoản vay đúng mục đích và

càng tạo động cơ cho rủi ro đạo đức xảy ra.

Để hạn chế việc khách hàng rơi vào tâm lý ỷ lại ngân hàng phải phát tín hiệu

để người đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như thông báo

lãi suất cho vay, thời hạn vay, phương thức thanh toán nợ vay, các loại phí/phạt,

điều kiện giải ngân và giám sát sau cho vay.

Bên cạnh đó, với môi trường thông tin bất cân xứng, trong hợp đồng tín dụng

ngân hàng có thể đưa ra các yêu cầu, cam kết, đề nghị liên quan như thế chấp các

phần diện tích không hợp lệ, hoàn chỉnh các thủ tục pháp lý có liên quan, các điều

kiện khác về thế chấp và giải chấp tài sản cũng như cơ chế xử lý tài sản khi khách

hàng vi phạm hợp đồng… Các điều kiện này sẽ góp phần tạo sự tin tưởng và an tâm

cho ngân hàng khi cho vay ngoài các giá trị vô hình của khách hàng như uy tín,

thương hiệu hay các số liệu trong báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Đồng

thời, giúp ngân hàng giảm thiểu tổn thất một khi khách hàng không còn đủ khả năng

thực hiện các nghĩa vụ trả nợ, nâng cao thiện chí trả nợ của khách hàng, ngăn chặn

rủi ro đạo đức từ phía khách hàng thông qua việc gián tiếp thông báo cho khách

hàng biết rằng họ bị mất đi TSĐB hoặc bị xử lý tài sản nếu không trả được nợ hay

không tuân thủ theo các phê duyệt của ngân hàng.

b. Về phía khách hàng

Trong hoạt động tín dụng, để giao dịch được hiệu quả, người đi vay có thể vay

được vốn với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ thì

người cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình.

Thông thường, người đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ

được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay

77

nếu như họ không biết rõ về khách hàng của mình. Cho nên, khách hàng cần nhận

thức rõ tình trạng thông tin bất cân xứng ảnh hưởng trên thị trường, từ đó phải biết

“phát tín hiệu” cho các ngân hàng biết rằng mình là người có khả năng trả nợ tốt và

cho họ nhận thấy được sự an toàn khi cho vay thông qua các hình thức khác nhau

như: tỷ lệ tham gia của vốn tự có vào dự án đầu tư hay phương án kinh doanh của

doanh nghiệp; những thành tích đạt được trong hoạt động kinh doanh; uy tín trong

ngành cũng như lịch sử quan hệ tín dụng với các TCTD; tính khả thi của dự án,

phương án kinh doanh; khả năng điều hành, tầm nhìn của cấp quản lý… Đó là

những thông tin cần thiết để ngân hàng đánh giá một khách hàng tốt hay xấu.

Nhưng quan trọng là những thông tin được cung cấp này là có thực hay chỉ là trên

lý thuyết giả tạo. Vì trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp, cá nhân, muốn được

ngân hàng cấp tín dụng hay muốn được cho vay với số tiền lớn nên sẵn sàng lên

trước những kịch bản hoàn hảo mà họ là đóng vai một “khách hàng độc” vì quá tốt

ở mọi mặt. Vì thế, điều cần thiết ở đây chính là sự trung thực, sẵn sàng hợp tác của

khách hàng trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng. Có như vậy, khách hàng

sẽ được tin tưởng thực sự trong giao dịch.

Bên cạnh đó, việc quan tâm đầu tư, xây dựng và phát triển thương hiệu, uy tín

cho doanh nghiệp (tham gia bình chọn hàng Việt Nam chất lượng cao, giải thưởng

Sao vàng đất Việt…) cũng không kém phần quan trọng. Nó ngoài việc giúp cho

doanh nghiệp thể hiện vị thế của mình trên thương trường mà còn tạo thuận lợi

trong cả giao dịch tín dụng.

Ngoài ra, việc đầu tư thực hiện công tác kiểm toán, kiểm tra báo cáo tài chính

hàng năm hay sử dụng hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính rõ ràng, minh

bạch, đồng thời có sổ sách, chứng từ chứng minh độ tin cậy của báo cáo khi có yêu

cầu sẽ là một giải pháp giúp doanh nghiệp thông tin về thực trạng hoạt động kinh

doanh của mình trong môi trường thông tin bất cân xứng.

78

3.2.2. Kiến nghị đối với NHNN và các bộ ngành có liên quan

Nhằm tạo các cơ sở nền tảng cũng như những điều kiện thuận lợi cho hoạt

động ngân hàng, đảm bảo an toàn tín dụng cho toàn hệ thống, NHNN và các bộ

ngành có liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng, hoàn thiện các

chính sách và thể chế liên quan đến hoạt động ngân hàng mà cụ thể là trong công

tác cho vay như:

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, số lượng

công ty kiểm toán trong nước ở một mức độ khá khiêm tốn, chưa đáp ứng được nhu

cầu ngày càng tăng của nền kinh tế. Chính vì vậy có rất nhiều các doanh nghiệp

không được kiểm toán. Nó tạo nên sự thiếu minh bạch trong việc cung cấp thông tin

của doanh nghiệp cho ngân hàng và tình trạng thông tin bất cân xứng có thể gây ra

những rủi ro không lường trước được cho ngân hàng. Do đó, cần phải nâng cao chất

lượng hoạt động kiểm toán cả về chất lượng và số lượng để góp phần làm sạch và

chuẩn hóa hệ thống thông tin trong hoạt động tín dụng nói riêng cũng như nền kinh

tế Việt Nam nói chung.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra giám sát ngân hàng.

Công tác thanh tra cần được thực hiện theo hướng hiện đại hóa và thống nhất từ

trung ương đến địa phương. Hoạt động với nguyên tắc thanh tra giám sát toàn bộ

hoạt động của TCTD, kết hợp thanh tra giám sát việc chấp hành chính sách, pháp

luật về tiền tệ ngân hàng với thanh tra giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng

thanh tra giám sát. Đây sẽ là biện pháp giúp NHNN kiểm soát, ngăn ngừa và xử lý

các trường hợp vi phạm do phía ngân hàng phát sinh tâm lý ỷ lại trong quá trình cho

vay, đảm bảo an toàn tín dụng của hệ thống.

Nâng cao chất lượng hoạt động công chứng cả về số lượng lẫn chất lượng.

Không ngừng nâng cao nghiệp vụ, trách nhiệm của hoạt động công chứng, cải tiến

quy trình nghiệp vụ nhằm phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế nói chung và hoạt động

ngân hàng nói riêng. Bên cạnh việc đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa hoạt động công

chứng; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh những sai phạm và những biểu

79

hiện tiêu cực trong hoạt động công chứng thì công tác trọng tâm là phải nâng cao

chất lượng và trách nhiệm của công chứng viên. Vì đây là bộ phận trực tiếp tham

gia, hỗ trợ và có thể giúp cho ngân hàng tránh được những thiệt hại phát sinh ở giai

đoạn công chứng, chứng thực các hợp đồng tín dụng và các văn bản liên quan trong

quá trình cấp tín dụng.

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo

đảm. Tăng cường và nâng cao năng lực của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo

đảm. Trong đó, công tác trọng tâm là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ

của cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm và triển khai cơ chế kiểm tra, giám sát việc

thực hiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại các cơ quan đăng ký giao dịch

bảo đảm nhằm phát huy tính dân chủ, minh bạch và công khai trình tự, thủ tục đăng

ký giao dịch bảo đảm, phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật

của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là của các cơ quan đăng ký, cán bộ đăng ký.

Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng

CIC trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt

động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát của NHNN đối với các

TCTD. Thời gian qua hoạt động của CIC mới chỉ phát huy hiệu quả trong việc

thông báo các khoản dư nợ của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đối với từng

TCTD trên địa bàn. Còn đối với công tác xếp hạng tín dụng, CIC cần phát huy hơn

nữa vai trò và quyền hạn của mình nhằm đạt được sự minh bạch, công bằng và

chính xác đối với các kết quả XHTD, đáp ứng yêu cầu, chuẩn mực trong quản trị

ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động thông tin tín dụng cần được tăng cường cải thiện

hơn nữa để tạo nên thế cân bằng trong việc nắm giữ thông tin giữa các bên tham gia

vào hoạt động tín dụng đồng thời đảm bảo thông tin được cung cấp kịp thời, chính

xác, thông suốt giữa các TCTD trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng.

Xây dựng một chính sách lãi suất công khai, minh bạch và hiệu quả sẽ hạn chế

được vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức khi các tổ chức tín dụng kém

hiệu quả lợi dụng sức ép của tự do cạnh tranh làm doanh nghiệp lành mạnh và các

80

doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại khỏi thị trường tín dụng, bởi vì họ không sẵn

sàng trả mức giá cao như các doanh nghiệp đang gặp khó khăn.

Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách và quy định về phương tiện thanh

toán. Tạo điều kiện thuận lợi phát hành, lưu thông và mở rộng sử dụng các phương

tiện thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Việc phát

triển tốt dịch vụ thanh toán không dùng tiền sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân

hàng trong việc kiểm soát nguồn thu cũng như quá trình sử dụng vốn của khách

hàng giúp giảm bớt được rủi ro trong hoạt động tín dụng cho ngân hàng.

Tóm tắt chương 3

Dựa trên cơ sở định hướng phát triển của nhà nước và cơ quan quản lý kết hợp

với tình hình thực tế đã phân tích trong chương 2, một số giải pháp được đề xuất

nhằm hạn chế tác động của thông tin bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của ACB,

bao gồm các giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện các hệ thống cơ sở phục vụ

cho công tác tín dụng từ phía nhà nước, các ứng dụng triển khai của cơ chế sàng

lọc, giám sát và phát tín hiệu giúp “cân bằng thông tin” trong hoạt động tín dụng từ phía ngân hàng và khách hàng.

81

KẾT LUẬN 

Tiến trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra không ít

những thách thức cho ngành ngân hàng nói chung và ACB nói riêng, nhất là khi

tham vọng mở rộng quy mô hoạt động, tối đa hoá lợi nhuận của các ngân hàng đang

trở nên phổ biến. Vì trong hoạt động tín dụng luôn tồn tại thông tin bất cân xứng

nên việc đẩy mạnh tăng trưởng cũng tiềm ẩn không ít những rủi ro, nó có thể mang

đến những thiệt hại lớn cho TCTD thậm chí cho cả nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao

chất lượng tín dụng, giải quyết triệt để nợ xấu là một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết.

Trong thời gian qua, hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của ACB đã đạt được

những thành quả nhất định nhờ các biện pháp kiểm soát trong quá trình cấp tín

dụng, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng và do hệ thống

đánh giá xếp hạng tín dụng khách hàng bắt đầu phát huy hiệu quả.

Tuy nhiên, do sự có mặt của thông tin bất cân xứng, hoạt động tín dụng ACB

cũng đã đối mặt với những bất lợi trong việc lựa chọn khách hàng, lựa chọn khoản

vay và khi tiến hành đánh giá tài sản đảm bảo. Bênh cạnh đó, sau khi cho vay, ACB

cũng phải gánh chịu những thiệt hại do tâm lý ỷ lại từ phía khách hàng cũng như từ

phía bản thân ngân hàng. Nên vấn đề mà ACB cần tập trung giải quyết là xây dựng

được những giải pháp cụ thể trong việc sàng lọc, giám sát khoản vay đồng thời tạo

ra những động cơ để khách hàng phát tín hiệu về mình, sẵn sàng hợp tác, cung cấp

thông tin một cách trung thực, đáng tin cậy khi đi vay nhằm tiến tới mục tiêu phát

triển tín dụng một cách an toàn và hiệu quả trong lương lai.

Nhìn chung, công tác quản lý rủi ro nhằm hạn chế ảnh hưởng của thông tin bất

cân xứng đến hoạt động tín dụng không chỉ là vấn đề của riêng ACB mà là của tất

cả các TCTD. Nó phải được thực hiện dựa trên cơ sở tự giác của từng ngân hàng.

Tuy nhiên, ở đây cần có sự kết hợp của các TCTD, giữa các TCTD và NHNN cũng

như các cơ quan ban ngành có liên quan, nhằm tạo ra một hệ thống thông tin minh

bạch cùng các cơ sở hạ tầng vững chắc. Đây sẽ là tiền đề cho việc phát triển bền

vững của hoạt động tín dụng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

* Danh mục tài liệu tiếng Việt:

1. Hồ Thiên Thanh và Nguyễn Chí Đức, 2012. Vấn đề tài sản đảm bảo tại các ngân

hàng thương mại Việt Nam. Tạp Chí phát triển và hội nhập, số 6 (16), tr. 46-49.

2. Huỳnh Thế Du và cộng sự, 2005. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín

dụng tại Việt Nam. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.

3. Lê An Khang, 2008. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư

trên thị trường chứng khoán TP.HCM. Luận Văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại học

kinh tế TP.HCM.

4. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2011. Báo cáo thường niên năm 2010.

5. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2012. Báo cáo thường niên năm 2011.

6. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2013. Báo cáo thường niên năm 2012.

7. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2013. Báo cáo tài chính quý 3 năm 2013.

8. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam, 2013. Báo cáo thường niên năm 2012.

9. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín , 2013. Báo cáo thường niên năm 2012.

10. Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, 2013. Báo cáo thường niên năm 2012.

11. Nguyễn Minh Kiều, 2009. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Nhà xuất bản

Thống kê.

12. Nguyễn Minh Kiều, 2006. Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng. Nhà xuất

bản Tài chính.

13. Nguyễn Xuân Trường, 2006. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng

của Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng.

số 52, tr. 33-40

14. Trần Hải Vân, 2007. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của Chi

nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Đà Nẵng - Một số gợi ý chính

sách. Luận Văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại học kinh tế TP.HCM.

15. Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết, 2011. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi

ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương chi nhánh Thành phố Cần

Thơ. Tạp chí Ngân hàng, số 5, tr. 38-41.

* Danh mục tài liệu tiếng Anh:

1. George A. Akerlof ,1970. The Market for “Lemons”: Quality Uncertainty and

the Market Mechanism”. The Quarterly Journal of Economic, 84 (3): 488-500.

2. Joseph E. Stiglitz, 1975. The Theory of “Screening”, Education and the

Distribution of Income. The American Economics Review, 65 (3): 283-300.

3. Michael Spence, 1973. “Job Market Signaling”. The Quarterly Journal of

Economic, 87 (3): 355-374.

* Danh mục tài liệu trên Internet:

1. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2013. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế và tốc

độ tăng trưởng tháng 12 năm 2012.

vipages_trangchu/tkttnh/dntd?_adf.ctrl-state=112znlgqob_4&_afrLoop=3305537

846038900>. [ Ngày truy cập: tháng 9 năm 2013].

PHỤC LỤC 1 

TỔNG HỢP TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA ACB

GIAI ĐOẠN 2010-2012

Chênh lệch

Chênh lệch

2011/2010

2012/2011

HUY ĐỘNG

2010

2011

2012

VỐN

Giá trị

Tỷ lệ

Giá trị

Tỷ lệ

(trđ)

%

(trđ)

%

Theo loại tiền

- VND

85,908,375 123,708,243 115,209,333 37,799,868 44.00

-8,498,910

-6.87

- Ngoại tệ và vàng 21,028,236 18,509,848 10,024,262 -2,518,388 -11.98

-8,485,586 -45.84

Theo loại hình khách hàng

- Doanh

nghiệp

849,487

473,463

443,656

-376,024

-44.26

-29,807

-6.30

Nhà nước

- Công ty cổ phần,

công

ty TNHH,

14,537,693 37,377,372 12,245,436 2,839,679 157.11 -25,131,936 -67.24

doanh nghiệp tư

nhân

- Công

ty

liên

568,057

403,773

480,363

-164,284

-28.92

76,590

18.97

doanh

- Công ty 100%

474,329

415,870

517,606

-58,459

-12.32

101,736

24.46

vốn nước ngoài

- Hợp tác xã

20,512

23,191

17,900

2,679

13.06

-5,291

-22.81

- Cá nhân

89,885,177 102,498,322 110,452,244 12,613,145 14.03

7,953,922

7.76

- Các đối tượng

601,356

1,026,100

1,076,390 424,744

70.63

50,290

4.90

khác

Tổng cộng

106,936,611 142,218,091 125,233,595 35,281,480 32.99 -16,984,496 -11.94

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)

PHỤC LỤC 2  TỔNG HỢP TÌNH HÌNH CHO VAY CỦA ACB

GIAI ĐOẠN 2010-2012

Chênh lệch

Chênh lệch

2011/2010

2012/2011

TÍN DỤNG

2010

2011

2012

Giá trị

Tỷ lệ

Giá trị

Tỷ lệ

(trđ)

(%)

(trđ)

(%)

Theo loại tiền

- VND

65,739,661 75,911,911 84,075,981 10,172,250

15.47 8,164,070 10.75

- Ngoại tệ và vàng 21,455,444 26,897,245 18,738,867 5,441,801

25.36 -8,158,378 -30.33

Theo thời hạn

- Ngắn hạn

43,889,956 53,361,314 55,878,105 9,471,358

21.58 2,516,791

4.72

- Trung hạn

19,870,669 27,484,058 19,406,298 7,613,389

38.31 -8,077,760 -29.39

- Dài hạn

23,434,480 21,963,784 27,530,445 -1,470,696

-6.28 5,566,661 25.34

Theo thành phần kinh tế

- Doanh

nghiệp

5,017,568

3,316,785

3,269,011 -1,700,783

-33.90

-47,774

-1.44

Nhà nước

- Công

ty

cổ

phần,

công

ty

48,978,636 62,315,955 54,395,988 13,337,319

27.23 -7,919,967 -12.71

TNHH,

doanh

nghiệp tư nhân

- Công

ty

liên

388,615

501,340

306,256

112,725

29.01

-195,084 -38.91

doanh

- Công ty 100%

20,482

807,489

467,995

787,007 3842.43

-339,494 -42.04

vốn nước ngoài

- Hợp tác xã

21,412

20,611

26,688

-801

-3.74

6,077 29.48

- Các đối tượng

32,584,054 35,846,976 44,348,910 3,262,922

10.01 8,501,934 23.72

khác

Theo khu vực địa lý

- TP.HCM

56,678,402 62,325,615 63,252,152 5,647,213

9.96

926,537

1.49

- Đồng bằng SCL

3,513,027

4,944,726

4,986,001 1,431,699

40.75

41,275

0.83

- Miền Bắc

17,178,661 23,729,871 20,085,035 6,551,210

38.14 -3,644,836 -15.36

- Miền Trung

4,410,894

6,132,013

7,451,336 1,721,119

39.02 1,319,323 21.52

- Miền Đông

5,414,121

5,676,931

7,040,324

262,810

4.85 1,363,393 24.02

Tổng dư nợ

87,195,105 102,809,156 102,814,848 15,614,051 17.91

5,692

0.01

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)

PHỤC LỤC 3 

QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG CỦA ACB

(1) Tư vấn & nhận HSTD

(2a) Thẩm định TSBĐ

(2b) Thẩm định tín dụng

(3)

Phê duyệt

HSTD

Chưa

Duyệt

Chưa

(4) Nhận KQ phê duyệt

Đồng ý

(5) Giải ngân, thu nợ, quản lý giám sát sau giải ngân

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)

Diễn giải các bước thực hiện:

CHỨC

CÔNG DANH BƯỚC DIỄN GIẢI VIỆC THỰC

- Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ tín dụng,

HIỆN

PFC*/R*

thu thập thông tin khách hàng, hẹn thẩm

-

định….

- Tạo thông tin khách hàng trên CLMS,

Nhận HSTD từ khách hàng theo quy định.

Tư vấn và

- Chuyển hồ sơ TSBĐ cho đơn vị thẩm định

TCBS. nhận hồ sơ 1 vay vốn

TSBĐ để thực hiện thẩm định TSBĐ thao quy

- Chuyển cho Trưởng đơn vị/ người có thẩm

định của ACB trong từng thời kỳ.

quyền kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của

HSTD và phân công hồ sơ.

Gồm các công việc từ khi nhận đầy đủ hồ sơ NV Thẩm định tài sản, khảo sát giá tài sản… cho đến khi TĐTS 2A tài sản hoàn tất tờ trình thẩm định tài sản.

a/ Truy xuất thông tin: tra soát lịch sử giao NVTĐ

dịch tiền gởi/ tín dụng theo quy định trên CIC, (CA*,

CLMS, TCBS… R*)

- Đọc và tìm hiểu HSTD, xác lập thời gian

b/ Thẩm định tín dụng: Thẩm định

2B tín dụng

- Thẩm định TSBĐ (nếu có - trong trường

thẩm định với khách hàng.

-

hợpTSBĐ thuộc nhóm do NVTĐ thẩm định).

Thu thập thông tin, chứng từ. Ttrường hợp

thu thập chưa đủ, xác nhận các chứng từ cần

- Thẩm định, phân tích, đánh giá thông tin

bổ sung thêm với PFC*/R*.

- Nhập liệu thông tin tín dụng đã thu thập và

tín dụng theo quy định.

- Kiến nghị đồng ý/ từ chối cấp tín dụng

thẩm định vào CLMS

hoàn tất tờ trình tín dụng và các phụ lục đính

- Chuyển tờ trình thẩm định và HSTD cho

kèm theo quy định.

cấp kiểm soát/ phê duyệt theo quy định.

- Xác định cấp phê duyệt và phiên họp phê

a/ Trình HSTD: NVTĐ

(CA*/R*)

- Trình HSTD cho cấp thê duyệt theo thẩm

duyệt để đăng ký trình HSTD.

quyền.

- Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của HSTD

b/ Phê duyệt HSTD: Thư ký

phiên họp Trình và

trình duyệt. 3 phê duyệt

+ TH1- nếu đạt: trình bày và giải trình nội HSTD

dung kiến nghị, đề xuất cấp tín dụng trước cấp

phê duyệt.

+ TH2- nếu không đạt: Hủy trình, nêu lý do

hủy trình và yêu cầu bổ sung/ làm rõ/ tái thẩm Cấp phê

- Phê duyệt HSTD theo thẩm quyền.

định. duyệt

a/ KPP nhận kết quả phê duyệt từ cấp phê Nhận kết

- TH1- nếu đồng ý kết quả phê duyệt: thông

duyệt 4 quả phê

PFC*/R* duyệt

báo kết quả phê duyệt cho khách hàng theo

- TH2- nếu chưa đồng ý với kết quả phê

quy định.

Trưởng

duyệt, KPP đàm phán với cấp phê duyệt để đơn vị/

thay đổi quyết định hoặc trình cấp phê duyệt cấp kiểm

có thẩm quyền cao hơn theo quy định. soát

b/ Thông báo cho khách hàng kết quả phê

duyệt đồng ý/ từ chối cấp tín dụng

- Thực hiện các điều kiện, thủ tục pháp lý

PFC*/R*

PLCT

-

trước giải ngân

- Thực hiện quy trình nhắc nợ, thúc nợ,

Giải ngân, quản lý HSTD Loan

CSR Giải ngân,

chuyển HSTD cho đơn vị chuyên trách xử lý PFC*/R* thu nợ,

- Kiểm tra sau khi cấp tín dụng

nợ (nếu có)… quản lý

-

giám sát

- Thanh lý HSTD và giải chấp TSBĐ

Tiếp nhận và hỗ trợ yêu cầu của khách PFC*/R* sau giải 5 hàng trong suốt thời gian vay PFC*/R* ngân và kết

- Chuyển trả HSTD cho KH ( nếu KH có yêu

PLCT thúc hồ sơ

PFC/PLC tín dụng

- Lưu HSTD theo quy định

cầu) T quy theo

định

Loan

CSR

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu)