Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp thương mại hóa sáng chế trong bối cảnh chuyển đổi số ở miền Trung và Tây Nguyên, Việt Nam
lượt xem 7
download
Nghiên cứu, ứng dụng sáng chế vào đời sống sản xuất là quá trình khó khăn, thử thách đối với các doanh nghiệp trong cả nước, và doanh nghiệp trong khu vực miền Trung và Tây nguyên, Việt Nam. Nghiên cứu này tìm hiểu về sáng chế và thương mại hóa sáng chế thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu và hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế trong khu vực.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp thương mại hóa sáng chế trong bối cảnh chuyển đổi số ở miền Trung và Tây Nguyên, Việt Nam
- 306 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI HÓA SÁNG CHẾ TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Ở MIỀN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊN, VIỆT NAM NCS.ThS. Đỗ Thị Diện Trường Đại học Luật, Đại học Huế Email: diendt@hul.edu.vn Tóm tắt: Nghiên cứu, ứng dụng sáng chế vào đời sống sản xuất là quá trình khó khăn, thử thách đối với các doanh nghiệp trong cả nước, và doanh nghiệp trong khu vực miền Trung và Tây nguyên, Việt Nam. Nghiên cứu này tìm hiểu về sáng chế và thương mại hóa sáng chế thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu và hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế trong khu vực. Thông qua phân tích và đánh giá thực tiễn thương mại hóa sáng chế, những khó khăn, nguyên nhân mà doanh nghiệp thường gặp, bài viết đưa ra một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong khu vực thương mại hoá sáng chế, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, góp phần tạo ra sự phát triển vững mạnh cho các doanh nghiệp trong khu vực nói riêng và cả nước nói chung. Từ khóa: doanh nghiệp, miền Trung, Tây nguyên, thương mại hóa, sáng chế, chuyển đổi số SOLUTIONS FOR SUPPORTING COMMERCIALIZATION OF INVENTIONS IN THE CONTEXT OF DIGITAL TRANSFORMATION: A STUDY OF ENTERPRISES IN THE CENTRAL AND CENTRAL HIGHLANDS, VIETNAM Abstract: Researching and applying inventions to production life is a challenging process for businesses throughout the country, and businesses in the Central and Central Highlands, Vietnam in particular. This paper focuses on inventions and the commercialization of inventions through title transfer contracts, and regional patent licensing contracts. Through analysing and evaluating the practice of commercializing inventions, and pointing out the difficulties and related causes that businesses often encounter, this paper aims to recommend some solutions to support businesses in the area of commercialization of inventions, especially in the current digital transformation context, contributing a suitable development for businesses in Vietnam, particularly Central and Central highlands.
- THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 307 Keywords: Enterprise, Central region, Central Highlands, commercialization, invention, digital transformation 1. Đặt vấn đề Doanh nghiệp khu vực miền Trung và Tây nguyên, Việt Nam được ví như ở trong “vùng trũng” của hiểu biết, nghiên cứu, ứng dụng, triển khai và phát triển sáng chế, làm hạn chế đến quá trình thương mại hóa sáng chế diễn ra trong khu vực. Vì vậy, mục tiêu của bài nghiên cứu là đưa ra những giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong khu vực miền Trung và Tây nguyên thương mại hóa sáng chế. Để đạt được mục tiêu, bài nghiên cứu triển khai các nội dung như: Quy định của pháp luật về sáng chế và thương mại hóa sáng chế; Thực tiễn thương mại hóa sáng chế trong hai lĩnh vực là nông, lâm, thủy sản và khoa học, giáo dục (1), thông qua hai hình thức hợp đồng là chuyển nhượng quyền sở hữu và hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế. Từ đó, đánh giá những nguyên nhân và đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong khu vực miền Trung, Tây nguyên thương mại hóa sáng chế đạt kết quả cao, đặc biệt trong quá trình chuyển đổi số hiện nay. 2. Quy định của pháp luật về sáng chế và thương mại hoá sáng chế 2.1. Quy định của pháp luật về sáng chế Theo khoản 12 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ (2)“Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Theo Thông tư số 05/2013/TT-B KH&CN của Bộ khoa học và Công nghệ thì “giải pháp kỹ thuật” được hiểu là tập hợp cần và đủ các thông tin về cách thức kỹ thuật và/hoặc phương tiện kỹ thuật nhằm giải quyết một nhiệm vụ hay vấn đề xác định. Giải pháp kỹ thuật có thể thuộc một trong các dạng sau đây: Sản phẩm dưới dạng vật thể (dụng cụ, máy móc, thiết bị, linh kiện, mạch điện...) được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu (đặc điểm), về kết cấu, sản phẩm đó có chức năng (công dụng) như một phương tiện nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định của con người; hoặc sản phẩm dưới dạng chất thể (vật liệu, chất liệu, thực phẩm, dược phẩm...) được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu (đặc điểm) về sự hiện diện, tỉ lệ và trạng thái của các phần tử, có chức năng (công dụng) như một phương tiện nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định của con người; hoặc sản phẩm dưới dạng vật liệu sinh sinh học (gen, thực vật/động vật biến đổi gen...) được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin về một sản phẩm chứa thông tin di truyền bị biến đổi dưới tác động của con người, có khả năng tự tái tạo; Quy trình (quy trình công nghệ; phương pháp chuẩn đoán, dự báo, kiểm tra, xử lý...) được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định cách thực tiến hành một quá trình, một công việc cụ thể được đặc trưng bởi các dấu hiệu (đặc điểm) về trình tự, điều kiện, thành phần tham gia, biện pháp, phương tiện thực hiện các thao tác nhằm đạt được một mục đích nhất định.
- 308 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Như vậy, sáng chế có bản chất là tạo ra phương tiện mới, sản phẩm mới về nguyên lý kỹ thuật, chưa từng tồn tại hoặc đã tồn tại trong một nhóm nhỏ song không phổ biến và là bí mật đối với cộng đồng. Bên cạnh đó, sáng chế còn có một số đặc điểm nổi bật như: khả năng áp dụng trực tiếp hoặc qua thử nghiệm để ứng dụng vào sản xuất và đời sống; có giá trị thương mại, thông qua bằng sáng chế (patent) và giấy phép (license); được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; và bị tiêu vong theo sự tiến bộ của công nghệ. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp văn bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng được các điều kiện có tính mới so với thế giới; có trình độ sáng tạo; có khả năng áp dụng công nghiệp (Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 60, 61, 62). Đồng thời, không phải tất cả các lĩnh vực công nghệ đều là đối tượng bảo hộ của sáng chế như phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học, giải pháp chỉ mang tính thẩm mỹ... không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế (Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 59). Như vậy, sáng tạo ra sáng chế là một việc không hề đơn giản, đòi hỏi các chủ thể phải bỏ ra một khối lượng thời gian, công sức và tiền bạc đáng kể. Tuy nhiên, việc bắt chước sáng chế lại quá dễ dàng. Do vậy, ngay sau khi sáng tạo thành công một sáng chế thì việc đầu tiên mà các chủ thể cần phải làm là đăng ký bảo hộ cho sáng chế đó tại Cục sở hữu trí tuệ. Việc làm này sẽ giúp người tạo ra sáng chế nhận được sự công nhận và bảo hộ của Nhà nước, qua đó có thể khai thác và thu được lợi ích từ sáng chế của mình. 2.2. Thương mại hoá sáng chế Thuật ngữ “thương mại hóa sáng chế” được hiểu là quá trình đổi mới công nghệ bao gồn các giai đoạn nghiên cứu, triển khai, phát triển công nghệ để thương mại hóa. Kết quả nghiên cứu là giải pháp kỹ thuật được bảo hộ thông qua việc cấp bằng độc quyền sáng chế (gọi tắt là patent), đây là đối tượng được thương mại hóa thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết này. Như vậy, thương mại hóa sáng chế là quá trình đưa sáng chế là kết quả nghiên cứu ứng dụng thành sản phẩm hàng hóa và gắn với thị trường (được thực hiện bởi các công ty vệ tinh thuộc tổ chức R&D - nơi sáng tạo nên sáng chế hoặc chuyển giao sáng chế cho các tổ chức khác nhằm mục đích thương mại (Trần Văn Hải, 2022). Sản phẩm ở đây được hiểu có thể là hàng hóa hoặc dịch vụ, theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO đã phân loại 34 nhóm hàng hóa và 11 nhóm dịch vụ (WIPO, 1957) và sản phẩm phải gắn với thị trường nhằm mục đích thương mại. Chuyển giao sáng chế được hiểu là chuyển nhượng quyền sở hữu đối với sáng chế hoặc chuyển quyền sử dụng (License) đối với sáng chế, và đây là hai hình thức hợp đồng thương mại hóa sáng chế theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Một là, về chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế là việc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế) (Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 138); Hai là, về chuyển quyền sử dụng sáng chế là việc chủ sở hữu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng sáng chế thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Việc chuyển quyền sử dụng sáng chế phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (gọi là hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế) (Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 141)
- THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 309 Để thương mại hóa thành công một sáng chế, có thể gặp hai rủi ro (Trần Văn Hải, 2015, 24-32) là “rủi ro công nghệ” phát sinh trong quá trình nghiên cứu và “rủi ro thương mại” phát sinh trong quá trình đưa kết quả nghiên cứu vào sản phẩm gắn với thị trường. Điều này cho thấy vai trò của các tổ chức đầu tư cho nghiên cứu và vai trò của các doanh nghiệp trong quá trình thương mại hóa sáng chế là rất quan trọng. 3. Thực tiễn thương mại hoá sáng chế trong các doanh nghiệp ở miền Trung và Tây nguyên, Việt Nam 3.1. Tổng số sáng chế được cấp patent thống kê đến năm 2020 Để đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khu vực miền Trung và Tây nguyên về thương mại hóa sáng chế, cần tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu và trả lời cho các câu hỏi có liên quan như: Tại sao số lượng sáng chế được cấp patent trong khu vực (3) lại ít hơn so với cả nước? Tại sao những lĩnh vực mà sáng chế được cấp bằng lại ít được thị trường quan tâm? Phải chăng dẫn đến vấn đề này là do những sáng chế này không đáp ứng được nhu cầu của trị trường? Kết quả tra cứu từ wes cục SHTT cho thấy, số bằng sáng chế được cấp trên hai lĩnh vực là khoa học giáo dục và nông, lâm, thủy sản của một số tỉnh tiêu biểu trong khu vực là: Thừa Thiên Huế: 9 patent, trong đó: Khoa học giáo dục: 03 patent; Nông, lâm, thủy sản: 06 patent Đà Nẵng: 27 patent, trong đó: Khoa học giáo dục: 01 patent; Nông, lâm, thủy sản: 26 patent Bình Định: 02 patent, trong đó: Khoa học giáo dục: 0 patent; Nông, lâm, thủy sản: 02 patent Khánh Hòa: 14 patent, trong đó: Khoa học giáo dục: 04 patent; Nông, lâm, thủy sản: 10 patent Đak Lak: 18 patent, trong đó: Khoa học giáo dục: 0 patent; Nông, lâm, thủy sản: 18 patent Như vậy, có thể thấy với số lượng bằng sáng chế được cấp ở một số tỉnh như trên nếu so sánh với cả nước thì số patent này quá hạn chế. Tuy nhiên, qua đây cũng thấy được thế mạnh của các tỉnh trong khu vực miền Trung và Tây nguyên là các nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Nếu các tỉnh trong khu vực biết tận dụng triệt để lợi thế này sẽ tạo cơ sở phát triển các nghiên cứu ứng dụng được cấp bằng sáng chế đối với sản phẩm trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh trong khu vực. 3.1. Thương mại hóa sáng chế trong lĩnh vực khoa học, giáo dục Một là, biểu đồ thể hiện tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu, và hợp đồng chuyển quyền sử dụng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành trong lĩnh vực khoa học, giáo dục.
- 310 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Hình 1. Tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực khoa học, giáo dục Tác giả tra cứu từ số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ https://ipvietnam.gov.vn/web/guest/so-lieu-thong-ke. Truy cập ngày 08/2/2023 Theo biểu đồ trên cho thấy, trong những năm qua tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế trong lĩnh vực này rất thấp, năm 2017 đạt 1,4%, có xu hướng tăng dần đều qua các năm, và tính trong năm 2020 đạt 1,2%. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế chiếm đa số và có sự phát triển đồng đều qua các năm; trong đó, có xu hướng tăng từ năm 2017 đến năm 2019 (5,6% - 6,3%), và đạt 2,1% vào năm 2020. Biểu đồ thể hiện xu hướng chuyển giao sáng chế thông qua hình thức hợp đồng trong khu vực ngày càng phát triển, đặc biệt là hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế. Hai là, biểu đồ thể hiện về số lượng hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực khoa học, giáo dục tại miền Trung và Tây nguyên so với cả nước. Hình 2. Hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực khoa học, giáo dục ở miền Trung - Tây nguyên so với cả nước Tác giả tra cứu từ số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ https://ipvietnam.gov.vn/web/guest/so-lieu-thong-ke. Truy cập ngày 08/2/2023
- THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 311 Theo biểu đồ trên, về tương quan số hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực khoa học, giáo dục trên địa bàn khu vực miền Trung - Tây nguyên so với cả nước ta thấy, trong khi tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế trên cả nước chiếm từ khoảng 25% - 30% thì trên địa bàn khu vực miền Trung và Tây nguyên chỉ chiếm khoảng 6% - 12% - một sự chênh lệch khá lớn. Xu hướng tăng trưởng của hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế trong khu vực tăng dần đều từ năm 2017 đến năm 2019. Từ năm 2017 - 2019 tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế có sự gia tăng và đạt 12 hợp đồng vào năm 2019. Mặc dù tỉ lệ nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực khoa học giáo dục thấp, nhưng tỉ lệ xác lập hợp đồng chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng sáng chế có xu hướng tăng trưởng tương đối đồng đều, chứng tỏ các doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học, giáo dục ở khu vực đang dần bắt kịp nhịp độ thương mại hóa trên thị trường. Ví dụ như: Patent về “Chế phẩm sinh học Pseudomonas putida” tác giả Trần Thị Thu Hà, chủ sở hữu Trường Đại học Nông Lâm Huế đã xác lập hợp đồng chuyển quyền sử dụng với Công ty Cổ phần Bình Điền Mêkong. 3.2. Thương mại hóa sáng chế trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản Một là, biểu đồ thể hiện tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng” sáng chế trong lĩnh vực nông lâm - thủy sản. Hình 3. Tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản Tác giả tra cứu từ số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ https://ipvietnam.gov.vn/web/guest/so-lieu-thong-ke. Truy cập ngày 08/2/2023 Qua biểu đồ trên, thể hiện về tương quan tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu so với hợp đồng chuyển quyền sử dụng trong lĩnh vực nông lâm - thủy sản ta thấy, trong giai đoạn 2017 - 2019 tăng nhẹ trong lĩnh vực này. Số hợp đồng chuyển quyền sử dụng chiếm tỷ lệ tương đối ít từ 3% - 5% đồng đều từ năm 2017 - 2019, và 01 hợp đồng trong năm 2020. Hai là, biểu đồ thể hiện tỷ lệ hợp đồng chuyển giao sáng chế trong lĩnh vực nông lâm - thủy sản tại địa bàn các doanh nghiệp khu vực miền Trung và Tây nguyên so với cả nước.
- 312 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Hình 4. Hợp đồng chuyển giao sáng chế trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản ở miền Trung - Tây nguyên so với cả nước Tác giả tra cứu từ số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ https://ipvietnam.gov.vn/web/guest/so-lieu-thong-ke. Truy cập ngày 08/2/2023 Qua biểu đồ trên, trong khi số hợp đồng chuyển giao trong khu vực có xu hướng tăng trưởng tương đối đồng đều qua các năm; thì số hợp đồng trên địa bàn cả nước gia tăng từ sau năm 2018. Có sự chênh lệch khoảng 10% giữa số hợp đồng chuyển giao trên địa bàn so với cả nước. Sự tăng trưởng trên phương diện hợp đồng chuyển giao tại địa bàn trong lĩnh vực này không cao; mặc dù có sự gia tăng nhẹ vào năm 2019 nhưng với tốc độ này thì không có sự bứt phá vào những năm tới trong lĩnh vực tại khu vực. Qua mục này, tác giả rút ra một vài nhận xét sau: + Tỷ lệ hợp đồng chuyển giao sáng chế trong khu vực có sự chênh lệch khá rõ so với cả nước, nhất là đối với hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu. + Trong nội bộ khu vực miền Trung và Tây nguyên cũng có sự không đồng đều trong hai hình thức hợp đồng, hình thức hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế được bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao ưu tiên lựa chọn hơn so với hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu. + Trong hai lĩnh vực được đưa vào để so sánh thì lĩnh vực nông lâm thủy sản có tỷ lệ xác lập hợp đồng chuyển giao sáng chế cao hơn so với lĩnh vực khoa học giáo dục. 4. Nguyên nhân dẫn đến số bằng sáng chế được cấp và số hợp đồng thương mại hóa sáng chế thấp trong khu vực miền Trung và Tây nguyên Thứ nhất, nguyên nhân từ pháp luật Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, sáng chế muốn được thương mại hóa phải được cấp bằng độc quyền sáng chế (patent) với thời hạn bảo hộ là 20 năm (Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 93.2). Văn bằng bảo hộ sáng chế là điều kiện tiên quyết để tiến hành chuyển nhượng quyền sở hữu, hoặc chuyển quyền sử dụng. Nếu một kết quả nghiên cứu có khả năng ứng dụng, nhưng chưa được cấp văn bằng thì các nhà sáng chế sẽ ít quan tâm đến việc thương mại hóa nó. (Bành Quốc Tuấn & Nguyễn Thị Thái Hà, 2021, 117-128)
- THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 313 Tuy nhiên, để được cấp văn bằng thì phải đáp ứng các điều kiện là tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Trong đó, tính mới của sáng chế được quy định tại Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ đôi khi bị hạn chế trong những nghiên cứu ứng dụng, triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo với quy định kết quả nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế hoặc trong nước, nhưng không biết việc công bố đó cũng là một trở ngại trong việc xác lập quyền, và rất dễ rơi vào lý do bị từ chối bảo hộ độc quyền sáng chế do kết quả nghiên cứu đã đăng báo quốc tế trước đó, làm mất tính mới, ví dụ: phần lớn các thuyết minh nhiệm vụ KH&CN, phần sản phẩm chỉ yêu cầu: bài báo đăng trên tạp chí khoa học (kể cả tạp chí quốc tế) + quyết định của Cục SHTT chấp nhận đơn sáng chế hợp lệ (có nghĩa là đăng trên Công báo SHCN tập A), trong khi đó patent thì phải đăng trên Công báo SHCN tập B - một tiêu chí để được bảo hộ theo Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ. Một lý do làm hạn chế các sáng chế được cấp văn bằng, như tác giả đã đề cập đó là, khu vực miền Trung và Tây nguyên được coi là “vùng trũng” của sự hiểu biết, quan tâm đầu tư kiến thức về sáng chế, thương mại hóa sáng chế của cơ quan nhà nước dành cho khu vực này. Điều này, được thể hiện qua các hội thảo, tập huấn về kiến thức sở hữu trí tuệ, thương mại hóa sáng chế, quy trình cấp văn bằng bảo hộ của các cơ quan nhà nước chủ yếu diễn ra ở hai đầu đất nước là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, rất ít, thậm chí không có các chương trình tập huấn về đăng ký, thương mại hóa sáng chế dành cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong khu vực này. Thứ hai, nguyên nhân đến từ các chính sách hỗ trợ Theo lý mà nói, các nghiên cứu khoa học chủ yếu do các nhà nghiên cứu tự lên ý tưởng, tự tìm tòi, sáng tạo. Nhưng trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng gặp rất nhiều rủi ro, trong đó hai rủi ro tiêu biểu tác giả bài viết đã đề cập ở trên, điều này rất cần đến sự quan tâm từ phía nhà nước. Mặc dù, trong kế hoạch thực hiện “Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2023”, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đưa ra rất nhiều các chính sách hỗ trợ tối đa quá trình khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ. Để thực hiện được các chính sách, chiến lược này, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đưa ra nội dung tăng cường đào tạo quản trị viên tài sản trí tuệ, đội ngũ này hỗ trợ đắc lực cho quá trình thương mại hóa sáng chế. Nhưng, vấn đề cần quan tâm ở đây là, để thực hiện đào tạo đội ngũ quản trị viên có kiến thức, kinh nghiệm hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong khu vực miền Trung và Tây nguyên về thương mại hóa sáng chế thì cần phải nghiêm túc thực hiện, trước tiên phải có kiến thức, chuyên môn về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Như vậy, chính sách hỗ trợ cần thiết phải quan tâm đến nguồn lực con người, thì chính sách mới áp dụng có hiệu quả. Thứ ba, mối quan hệ giữa các trường đại học và doanh nghiệp trong khu vực Trên thực tế, các nhà sáng chế và các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tìm kiếm các sáng chế đáp ứng nhu cầu của mình. Các doanh nghiệp và nhà sáng chế trong khu vực chưa có mối liên hệ tìm đến nhu cầu của đôi bên, chưa có sự hợp tác, lắng nghe, hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính. Vì vậy, để nâng cao khả năng thương mại hóa sáng chế, các nhà sáng chế phải hợp tác, lắng nghe nhu cầu của doanh nghiệp, và ngược lại, doanh nghiệp có những đầu tư về tài chính, hỗ trợ về kỹ thuật cho nhà sáng chế, xây dựng mối liên hệ mật thiết, có thể chủ động đặt hàng cho nhà sáng chế sáng tạo các giải pháp, kỹ thuật phục vụ nhu cầu lợi ích của doanh nghiệp. Thứ tư, trong khu vực chưa có tổ chức chuyên môn về thương mại hóa sáng chế (Đoàn Đức Lương, Đỗ Thị Diện, 2017, 01-08)
- 314 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Các nhà sáng chế trong khu vực đôi khi chỉ quan tâm đến việc nghiên cứu, ít quan tâm kết quả nghiên cứu đó được ứng dụng hay không trong thực tế, các doanh nghiệp, nhà sản xuất lại quan tâm đến việc ứng dụng kết quả nghiên cứu mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp (lợi nhuận). Do đó, cần một cầu nối có tính chuyên nghiệp là tổ chức tư vấn về thương mại hoá sáng chế từ khảo sát nhu cầu thị trường, định hướng nghiên cứu, tìm kiếm doanh nghiệp sản xuất thử nghiệm, định giá và tư vấn chuyển giao. Thông qua cầu nối này thì việc thương mại hóa sáng chế mới được thúc đẩy thông qua số lượng đơn đăng ký sáng chế, số lượng hợp đồng chuyển giao sáng chế tăng cao. Thứ năm, các doanh nghiệp ở khu vực miền Trung và Tây nguyên chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên không thành lập bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D), dẫn đến cách thương mại hóa sáng chế là nhận triển khai từ các trường đại học, nhưng phần lớn các nghiên cứu trong trường đại học hiên nay vẫn nặng về lý thuyết, không bắt kịp được nhu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm và là cầu nói liên kết giữa doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu để tạo ra những sáng chế đáp ứng cho nhu cầu phát triển của địa phương. 5. Giải pháp hỗ trợ thương mại hoá sáng chế cho các doanh nghiệp ở miền Trung và Tây nguyên trong bối cảnh chuyển đổi số Thứ nhất, đối với chính tác giả sáng chế. Bản thân các tác giả, nhà sáng chế cần tìm hiểu nhu cầu thị trường để tiến hành cho ra những kết quả nghiên cứu có khả năng ứng dụng được trong thực tế cuộc sống, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, nhất là những nhà sáng chế ở khu vực có nền kinh tế phát triển hơn như Đà Nẵng, Khánh Hoà, Đắk Lắk, đây cũng là những tỉnh có số bằng sáng chế được cấp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ lệ cao trong khu vực. Thứ hai, đối với các doanh nghiệp miền Trung và Tây nguyên - Phải hiểu và nắm bắt chặt chẽ, đầy đủ các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về cơ chế, căn cứ xác lập quyền đối với sáng chế, các quy định của pháp luật về thương mại hóa sáng chế. - Cần có bộ phận (có thể chuyên trách hoặc kiêm nhiệm tùy thuộc điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp), cán bộ cần được tham gia các khóa đào tạo về quản trị, định giá sáng chế từ cơ bản đến nâng cao, để có đủ các kỹ năng tổ chức triển khai thương mại hóa sáng chế. Biết cách nhận diện, xác lập quyền, soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền, hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế. Trong những trường hợp cần thiết, cần xem xét thuê chuyên gia tư vấn chuyên sâu để đảm bảo có được phương án thương mại hóa sáng chế có lợi nhất cho doanh nghiệp (Trịnh Thu Hoài, 2021). - Doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ tiềm lực thực hiện được mô hình nhóm nghiên cứu trên thì các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực nông, lâm, thủy sản hoặc cùng địa phương như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng liên kết lại với nhau, kết hợp với các trường đại học. Tạo cơ sở doanh nghiệp có ý tưởng (không có tài chính) liên kết với doanh nghiệp có nguồn tài chính mạnh (không có trung tâm nghiên cứu) kết hợp với trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu thuộc trường đại học. Khi ý tưởng thành sản phẩm doanh nghiệp tiến hành đánh giá nhu cầu thị trường, hoặc tìm đối tác để chuyển giao kết quả nghiên cứu, tạo thế hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa doanh nghiệp - trường đại học trong khu vực.
- THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION 315 - Xem xét và áp dụng giải pháp “Sự lan toả công nghệ” (Allison Mages) tức là công nghệ được cấp patent đang được áp dụng tốt tại một địa phương nên được chia sẻ với những địa phương khác, với người lao động trong cùng lĩnh vực ở cùng địa phương hoặc địa phương khác để học cách ứng dụng công nghệ đó, đồng thời được phép nghiên cứu, sáng tạo và phát triển dựa trên công nghệ đang ứng dụng. Thứ ba, đối với chính quyền các tỉnh miền Trung và Tây nguyên - Triển khai phát triển thị trường khoa học công nghệ hoàn thiện trên tất cả các phương diện như hỗ trợ đào tạo nhân lực khoa học công nghệ phục vụ chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ. Quy định nhiều ưu đãi cho các tổ chức trung gian thị trường khoa học công nghệ - là kênh thúc đẩy hiệu quả quá trình thương mại hóa sáng chế nhằm giúp cho sáng chế không chỉ thương mại hóa sáng chế đạt hiệu quả trong nước mà còn thúc đẩy chuyển giao sáng chế ra nước ngoài. - Đẩy nhanh việc hỗ trợ về thủ tục, quy trình cho các nhà khoa học, các tổ chức, các trường đại học, viện nghiên cứu, đặc biệt là các nhà sáng chế không chuyên đăng ký và xác lập quyền sở hữu kết quả nghiên cứu để hình thành nguồn cung sáng chế, như hỗ trợ tra cứu tài liệu kỹ thuật có liên quan, hỗ trợ hoàn thiện hồ sơ đăng ký bảo hộ sáng chế, hỗ trợ lập bản mô tả sáng chế, tờ khai và hướng dẫn nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ sáng chế. - Hình thành và phát triển các tổ chức trung gian như các sàn giao dịch sáng chế, công nghệ, các tổ chức tư vấn, thẩm định, giám định công nghệ để thúc đẩy hoạt động kết nối cung - cầu về sáng chế trong các doanh nghiệp, doanh nghiệp với nhà nghiên cứu, doanh nghiệp với các trường đại học trong khu vực và trên cả nước. Ví dụ ở Thừa Thiên Huế, Sở Khoa học và Công nghệ (Sở Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên Huế) đã có chủ trương xây dựng sàn giao dịch công nghệ. Hy vọng đây sẽ là “tổ chức trung gian” đầu tiên ở Huế để hỗ trợ hoạt động này. Ngoài ra, nên mở rộng phạm vi sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ Đầu tư Phát triển của tỉnh đối với hoạt động nghiên cứu, khai thác, giải mã công nghệ, và thương mại hóa sáng chế thông qua các tổ chức trung gian về sáng chế. 6. Kết luận Bài viết đã phân tích các các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về sáng chế, thương mại hóa sáng chế thông qua thông qua hai hình thức hợp đồng là chuyển nhượng quyền và chuyển quyền sử dụng. Tiến hành tra cứu, thống kê và so sánh bằng sáng chế được cấp của một số tỉnh như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Đak Lak trên hai lĩnh vực là khoa học giáo dục và nông, lâm, thủy sản. Từ số bằng sáng chế được cấp để thấy được thế mạnh của khu vực miền Trung và Tây nguyên trong khai thác, phát triển các sản phẩm thuộc lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Đồng thời, để làm rõ hơn về hoạt động thương mại hóa sáng chế, bài viết tiến hành tra cứu, so sánh số hợp đồng chuyển nhượng quyền/số hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế trong khu vực, so sánh với cả nước để thấy tỷ lệ thương mại hóa sáng chế diễn ra trong khu vực chiến tỷ lệ rất thấp so với cả nước, mặc dù tác giả chỉ thống kê trong 4 năm 2017, 2018, 2019 và 2020. Nhưng điều đó cũng cho thấy được những nguyên nhân của thực trạng này, làm cơ sở đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong khu vực nhận thức được vấn đề đăng ký cấp bằng sáng chế và thương mại hóa sáng chế. Do trong phạm vi bài viết, nên tác giả không tiến hành thống kê số lượng bằng sáng chế tổng hợp các tỉnh trong toàn khu vực miền Trung và Tây nguyên. Xin phép được bàn sâu thêm ở một bài nghiên cứu khác.
- 316 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023 Các ghi chú (1). Tác giả chọn hai lĩnh vực là khoa học, giáo dục và nông, lâm, thủy sản vì đây là hai lĩnh vực có số lượng sáng chế nhiều nhất trong khu vực mà tác giả tra cứu được thông qua cơ sở dữ liệu từ Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam: www.ipvietnam.ogv.vn (2). Luật Sở hữu trí tuệ: Được hiểu là Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022, có hiệu lực 01/01/2023 (3). Tác giả chỉ thống kê một số tỉnh trong khu vực miền Trung và Tây nguyên như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Đak Lak có số bằng độc quyền sáng chế (patent) được cấp chiếm số lượng lớn trong khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sử đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022 (trong bài viết tác giả thống nhất sử dụng Luật sở hữu trí tuệ. Tra cứu tại https://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn 2. Trần Văn Hải, “Xác định giá trị của sáng chế trong chuyển giao công nghệ tại Việt Nam: Khía cạnh pháp lý và một số khuyến nghị”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tập. 64 Số 10B (2022) 3. Theo WIPO (1957) The Nice Classification, established by the Nice Agreement 1957 4. Trần Văn Hải, “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng trong các trường Đại học tại Australia - Những đề xuất cho Việt Nam” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 31, Số 2 (2015), tr24-32 5. Bành Quốc Tuấn & Nguyễn Thị Thái Hà, “Nhân tố ảnh hưởng đến thương mại hóa tài sản trí tuệ trong trường đại học”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 47/2021, tr117-128 6. Đoàn Đức Lương, Đỗ Thị Diện (2017) Thương mại hóa quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế - nhìn từ góc độ các trường đại học nói chung và đại học huế nói riêng, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 2/2017, tr01-8. 7. Trịnh Thu Hải, “Thương mại hóa tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp nhỏ và vừa: Một số lưu ý”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, điện tử, 15:44, ngày 13/7/2021. https://vjst.vn/vn/tin-tuc/4947/thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-trong-doanh-nghiep-nho-va-vua--mot- so-luu-y.aspx. Truy cập ngày 10/2/2023 8. Allison Mages, “Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ: Những thách thức chung - Giải pháp xây dựng”. https://www.wipo.int/edocs/mdocs/mdocs/en/wipo_ip_ngo_ge_14/wipo_ip_ngo_ge_14_p2.pdf+&cd =10&hl=vi&ct=clnk&gl=vn. Truy cập ngày 08/2/2023. 9. https://skhcn.thuathienhue.gov.vn/?gd=3&cn=765&cd=128. Truy cập ngày 08/2/2023.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Pháp luật Việt Nam về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh
13 p | 18 | 11
-
Thực tiễn triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số Bộ, ngành, địa phương, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp hiện nay - Khó khăn, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ
173 p | 19 | 8
-
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Động lực tăng trưởng kinh tế
6 p | 13 | 8
-
Thực trạng và giải pháp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tại Hải Phòng
17 p | 50 | 7
-
Giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
8 p | 71 | 6
-
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch
9 p | 76 | 6
-
Ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phẩn phát triển kinh tế tư nhân
6 p | 11 | 5
-
Thúc đẩy chuyển đổi số thông qua các hỗ trợ từ chính phủ
6 p | 15 | 5
-
Xây dựng cổng thông tin xuất khẩu - giải pháp hỗ trợ xuất khẩu nông sản cho tỉnh Cao Bằng
13 p | 30 | 4
-
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa - Sổ tay hỏi đáp về pháp luật: Phần 1
59 p | 67 | 4
-
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
7 p | 38 | 4
-
Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
5 p | 23 | 4
-
Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trước Cộng đồng Kinh tế ASEAN
3 p | 55 | 4
-
Giải pháp hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ - góc nhìn từ chỉ số dự báo phá sản doanh nghiệp Z-SCORE
7 p | 29 | 4
-
Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong AEC
8 p | 19 | 3
-
Giải pháp phát triển doanh nghiệp tư nhân
5 p | 290 | 3
-
Phân tích và dự báo các tác động của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến các doanh nghiệp Bình Định
10 p | 40 | 2
-
Giải pháp tài chính tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
4 p | 76 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn