BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ XUÂN VINH
CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT AN NINH
TÀI CHÍNH TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA
TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60.31.12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS NGUYỄN THANH TUYỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2007
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC BẢNG VÀ HÌNH
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG
TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1.1 TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH .................................................................................................... 1
1.2 LỢI ÍCH VÀ CƠ HỘI TỪ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH....................................................... 3
1.3 RỦI RO VÀ BẤT ỔN ĐỊNH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH ........... 5
1.3.1 Dòng vốn chảy ồ ạt .....................................................................................................6
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn........................................................................................7
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn .........................................................................8
1.4 THÁCH THỨC CỦA QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH....................................... 9
1.5 AN NINH TÀI CHÍNH........................................................................................................... 9
1.5.1 Khái niệm....................................................................................................................9
1.5.2 Sự cần thiết phải kiểm soát an ninh tài chính ...........................................................10
1.5.3 Nguyên nhân gây ra bất ổn định ...............................................................................10
1.5.4 Kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài chính .............................10
1.5.4.1 Rủi ro tài chính đối với các khoản nợ nước ngoài không kiểm soát .............11
1.5.4.2 Rủi ro tài chính trong kinh doanh chứng khoán............................................12
1.6 SỰ THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA CÁC NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH TỰ
DO HÓA TÀI CHÍNH................................................................................................................ 12
1.7 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM .................................................................. 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................................21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH
TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 THỰC TRẠNG CẢI CÁCH VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM SAU
HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI........................................................................................................... 22
2.1.1 Chủ trương hội nhập của Đảng ta .............................................................................22
2.1.2 Các bước đi trong quá trình hội nhập .......................................................................23
2.1.3 Những kết quả đã đạt được trong tiến trình hội nhập ...............................................24
2.1.3.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế............................................................................24
2.1.3.2 Chính sách tài khóa .......................................................................................25
2.1.3.4 Về xuất nhập khẩu .........................................................................................26
2.1.3.5 Về tình hình thu hút vốn đầu tư .....................................................................27
2.1.3.6 Về dự trữ bắt buộc .........................................................................................28
2.2 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ THẢ NỔI CÓ SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC .................................................. 28
2.2.1 Những thành tựu đạt được .......................................................................................29
2.2.2 Những tồn tại trong việc xây dựng và điều hành chính sách tỷ giá..........................29
2.2.2.1 Việc xác định tỷ giá chưa thích ứng với cung cầu ngoại tệ...........................30
2.2.2.2 Chậm thay đổi tỷ giá theo mức độ cần thiết ..................................................30
2.2.2.3 Chính sách tỷ giá thiếu gắn bó chặt chẽ với chính sách lãi suất ..................31
2.2.2.4 Tỷ giá giao dịch ở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng chưa thể hiện hết vai trò điều tiết của mình .........................................32
2.3 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM .......................................................................................................... 32
2.3.1 Những thành tựu đạt được từ chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong thời gian qua ....................................................................................................34
2.3.1.1 Chính sách lãi suất góp phần đẩy lùi lạm phát ............................................34
2.3.1.2 Chính sách lãi suất góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam .......................35
2.3.1.3 Chính sách lãi suất quyết định chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân
sách cho ngân sách sử dụng ..............................................................................................35
2.3.1.4 Chính sách lãi suất góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế..........................35
2.3.1.5 Chính sách lãi suất góp phần thu hút được vốn và mở rộng tín dụng .........36
2.3.1.6 Chính sách lãi suất tiến dần tới tự do hóa lãi suất........................................36
2.3.2 Những tồn tại của chính sách lãi suất trong thời gian qua .......................................37
2.3.2.1 Duy trì quá lâu việc điều hành chính sách lãi suất dựa trên phương pháp
điều chỉnh truyền thống .....................................................................................................37
2.3.2.2 Chính sách lãi suất hạn chế khả năng cạnh tranh của các NHTM ..............38
2.3.2.3 Tồn tại trong việc tổ chức thực hiện quan điểm về tự do hóa lãi suất ..........38
2.3.2.4 Chính sách lãi suất chưa được phối hợp đồng bộ với các công cụ khác
của chính sách tiền tệ.........................................................................................................39
2.4 TÌNH HÌNH VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM ............................................... 39
2.4.1 Thực trạng .................................................................................................................40
2.4.2 Đánh giá ..................................................................................................................41
2.4.3 Những hạn chế trong quá trình điều hành nợ vay nước ngoài..................................44
2.5 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN . 44
2.5.1 Hoạt động của hệ thống ngân hàng...........................................................................44
2.5.2 Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam ....................................48
2.5.3 Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư ..................................................................50
2.6 NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................................. 51
2.6.1 Kết quả ......................................................................................................................51
2.6.2 Hạn chế .....................................................................................................................52
2.6.3 Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................................53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG TIẾN
TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 NHỮNG DỰ BÁO VỀ LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC ĐẾN KIỂM SOÁT AN NINH
TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HẬU WTO................................................................................... 54
3.1.1 Những lợi thế ............................................................................................................54
3.1.2 Những thách thức......................................................................................................55
3.2 CÁC GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ .............................. 57
3.2.1 Quan điểm hoạch định chính sách tài khóa của chính phủ.......................................57
3.2.2 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.......58
3.2.2.1 Khắc phục bội chi Ngân sách Nhà nước ......................................................59
3.2.2.2 Minh bạch hóa việc xây dựng và thực thi chính sách ...................................58
3.2.2.3 Hoàn thiện việc xây dựng cơ chế giám sát hợp lý .........................................59
3.2.2.4 Hoàn thiện hệ thống luật pháp và xử lý các xung đột mâu thuẫn giữa quy
định của quốc gia và quốc tế. ............................................................................................60
3.2.2.5 Thực hiện thắng lợi cải cách DNNN hoạt động kém hiệu quả bằng biện
pháp cổ phần hóa ..............................................................................................................61
3.3 CÁC QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ .................................... 62
3.3.1 Chính sách tỷ giá ở Việt Nam phải từng bước thích ứng với các điều kiện tự do
hóa thương mại trên thị trường tài chính quốc tế...............................................................62
3.3.2 Chính sách tỷ giá phải kích thích phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ........63
3.3.3 Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối
ngoại...................................................................................................................................63
3.3.4 Thực hiện chính sách đa ngoại tệ..............................................................................64
3.3.5 Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng .......................................................64
3.3.6 Khắc phục những yếu kém trong giá xuất nhập khẩu hàng hóa để tiết kiệm ngoại
tệ, gia tăng nguồn thu ngoại tệ. ..........................................................................................65
3.3.7 Thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng Việt Nam trên thị trường Việt Nam ......66
3.3.8 Tạo tiền đề để đồng Việt Nam chuyển đổi được ......................................................66
3.3.9 Thực hiện đổi mới chính sách cho vay bằng ngoại tệ ở thị trường trong nước........67
3.4 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT......................................... 67
3.4.1 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với chính sách cung ứng tiền .....................67
3.4.2 Kiến nghị chính sách lãi suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ ............68
3.4.3 Xây dựng chính sách lãi suất theo xu hướng góp phần ổn định tiền tệ và phát triển
thị trường tài chính.............................................................................................................69
3.4.4 Loại bỏ chương trình tín dụng chỉ định ....................................................................70
3.4.5 Điều hành chính sách lãi suất phù hợp với tỷ lệ lạm phát .......................................70
3.4.6 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với các công cụ khác của chính sách tiền
tệ.........................................................................................................................................71
3.4.6.1 Đối với công cụ thị trường mở ......................................................................71
3.4.6.2 Đối với công cụ tái chiết khấu.......................................................................72
3.4.6.3 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc....................................................................72
3.5 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ NƯỚC NGOÀI ...... 73
3.5.1 Tăng trưởng kinh tế...................................................................................................73
3.5.2 Mức dự trữ ngoại tệ quốc gia....................................................................................73
3.5.3 Giải pháp làm giảm chi phí nợ vay ...........................................................................74
3.5.3.1 Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý vay, sử dụng và hoàn trả vốn vay
nước ngoài .........................................................................................................................74
3.5.3.2 Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài ....................................................74
3.6 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN WTO .............................................. 76
3.6.1 Đối với hệ thống tổ chức tín dụng ............................................................................76
3.6.2 Thị trường chứng khoán............................................................................................80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................................... 81
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tóm tắt nội dung một số cam kết chủ yếu trong lĩnh vực ngân hàng khi Việt
Nam gia nhập WTO
Phụ lục 2: Định hướng chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn trung và dài hạn
Phụ lục 3: Nguyên nhân bùng nổ thị trường chứng khoán Việt Nam
Phụ lục 4: Lựa chọn lãi suất chủ đạo để thay thế cho lãi suất cơ bản
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH
Danh mục các Bảng
Bảng 1.1: Dòng vốn tư nhân vào 20 nước đang phát triển trong thập niên 1990 (vốn
quốc tế dài hạn trong khu vực tư nhân tính bằng % trên GDP) ..........................7
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá hiện hành ................................25
Bảng 2.2: Cán cân tài khóa Việt Nam 1997-2005 (bằng % của GDP)..............................26
Bảng 2.3: Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 1997 -2006..................................28
Bảng 2.4: Diễn biến lãi suất từ 2001-2004 ........................................................................34
Bảng 2.5: Chỉ số lạm phát các năm 2001-2005 (ĐVT: %)................................................34
Bảng 2.6: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước so sánh 1994 phân theo khu
vực kinh tế .........................................................................................................35
Bảng 2.7: Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam (ĐVT: Triệu USD) .....................40
Bảng 2.8: Cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam (ĐVT: triệu USD)..................................42
Bảng 2.9: Tình hình nợ của một số quốc gia trong khu vực..............................................43
Bảng 2.10: Số liệu ba ngân hàng cổ phần hàng đầu tính đến 30/4/2007 (tỷ đồng) ...........47
Bảng 2.11: Tình hình tăng giảm chứng khoán trong kỳ (từ ngày 11/6/2006 –
11/16/2007) .......................................................................................................49
Bảng 2.12: Quy mô niêm yết thị trường hiện tại: tính đến 11/6/2007...............................49
Bảng 2.13: Quy mô giao dịch của nhà ĐTNN trong 12 tháng ..........................................50
Danh mục các Hình
Hình 2.1: Tăng trưởng GDP năm 2000 – 2005..................................................................24
Hình 2.2: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội 2001-2005.........................................................28
Hình 2.3: Cơ cấu cán cân vốn của Việt Nam 2002-2005 ..................................................42
Hình 2.4: Tín dụng đối với nền kinh tế..............................................................................46
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do Châu Á (Asean Free Trade Area)
APEC Tổ chức hợp tác Châu Á TBD (Asia - Pacific Economics Cooperation)
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank)
WB Ngân hàng thế giới
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund)
WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trading Organization)
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
CSTT Chính sách tiền tệ
TGHĐ Tỷ giá hối đoái
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
TCTD Tổ chức tín dụng
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
TTTC Tổ chức tài chính
TTCK Thị trường chứng khoán
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
GNP Tổng sản phẩm quốc dân (Gross nation product)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross domestic product)
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu là sách giáo khoa
1. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, TS. Nguyễn Thị Ngọc
Trang, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa (2005), “Giáo trình tài chính quốc tế”.
NXB thống kê.
2. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (2005), “Kinh tế Việt Nam trên đường hội nhập-
Quản lý quá trình tự do hóa tài chính”, NXB Thống kê.
3. MC Kinnon, Ronald I (2005), “Trình tự tự do hóa kinh tế - Quản lý tài chính
trong nền kinh tế chuyển đổi”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
4. John P. Bonin and Yiping Huang, “Foreign Entry into Chinese Banking:
Does WTO Membership Threaten Domestic Banks”
Tài liệu là báo, tạp chí, bài viết trên Internet
1. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, TS. Phan Thị Bích Nguyệt (2003), “Tự do hóa dịch
vụ tài chính”, Tạp chí phát triển kinh tế số 154.
2. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng (2006), “Quản lý nợ nước ngoài trên góc độ lý
thuyết và thực tiễn”, Nghiên cứu trao đổi trên trang web NHNN Việt Nam.
3. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, “Nghiên cứu lộ trình tự do hóa tài chính ở Việt
Nam giai đoạn 2001-2010”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. Trường
Đại học Kinh tế TP.HCM.
4. TS. Phan Thị Bích Nguyệt, “Kiểm soát an ninh tài chính trong quá trình hội
nhập”.
5. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Những cơ hội và thách thức cho lộ trình tự do
hóa dịch vụ tài chính”.
6. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (2003), “Giải pháp cho việc điều hành chính sách
tỷ giá ở Việt Nam”. Tạp chí phát triển kinh tế tháng 2/2003.
7. TS. Nguyễn Đại Lai (2006), “Chiến lược hội nhập quốc tế và bình luận
những nội dung cơ bản về định hướng phát triển các tổ chức tín dụng Việt
Nam trong kỷ nguyên WTO”, Nghiên cứu trao đổi trên trang web NHNN Việt
Nam.
8. Lưu Hoài Nam, Nguyễn Kim Khánh (2000), “Tự do hóa tài chính, nấc thang
hội nhập và tăng trưởng của Việt Nam trong thế kỷ XXI”, Đề tài nghiên cứu
khoa học.
9. Trần Thị Mỹ Vân (2003), “Tài chính Việt Nam trên đường tự do hóa – thực
trạng và những giải pháp cần thiết”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường
ĐHKT TP.HCM.
10. Th.sỹ Lê Văn Hinh (2006), “Đánh giá tính bền vững của thị trường chứng
khoán Việt Nam”, Nghiên cứu trao đổi trên trang web NHNN Việt Nam.
11. Chu Khánh Hưng (VP NHNN) (2006), “Đề xuất giải pháp triển khai hội
nhập kinh tế quốc tế đối với ngành Ngân hàng Việt Nam”, Nghiên cứu trao
đổi trên trang web NHNN Việt Nam.
12. XT (VP NHNN) (2006), “Tự do hóa tài chính – xu hướng và giải pháp chính
sách”, Nghiên cứu trao đổi trên trang web NHNN Việt Nam.
13. Phạm Ngọc Ánh (2002), “Vay nợ nước ngoài với an ninh tài chính”, Tạp chí
nghiên cứu kinh tế, số 288.
14. Nguyễn Xuân Thành (2003), “Việt Nam trên con đường tiến tới tự do hóa lãi
suất”, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam.
15. Tào Khánh Hợp (2002), “Đảm bảo an ninh tài chính trong vay nợ nước
ngoài của Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, Tạp chí Tài chính số 456.
trên trang web của Tổng cục thống kê: 16. Các số thống kê
liệu
http://www.gso.gov.vn.
17. Các số liệu thống kê trên trang Web của Bộ Tài chính:
http://www.mof.gov.vn.
18. Các số liệu thống kê trên Báo cáo thường niên năm 2005 Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn.
19. Nhiều tạp chí kinh tế tài chính và các tờ báo có liên quan.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bước vào kỷ nguyên mới của nền kinh tế, kỷ nguyên của sự hội nhập và xu hướng
toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và rộng lớn. Tự do hóa tài chính sẽ
là đặc trưng của nền tài chính thế giới trong thiên niên kỷ mới và đang trở thành một quy
luật tất yếu khách quan. Việt Nam cũng không nằm ngoài các quy luật đó vì chúng ta là
một phần của nền tài chính toàn cầu và nền tài chính Việt Nam đang chủ động hội nhập với
nền tài chính khu vực và thế giới theo quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đặc biệt là chủ trương trong Đại hội IX của Đảng và Nhà nước.
Tự do hóa thương mại đã được cam kết và đang khẩn trương thực hiện, tự do hóa tài
chính cần phải được xúc tiến từng bước thận trọng và vững chắc. Vấn đề là chúng ta phải
nắm bắt và vận dụng tốt các quy luật vận động của nền tài chính quốc tế để vạch ra cho
mình một lộ trình tự do hóa thích hợp.
Việt Nam chúng ta đang từng bước tiến nhanh đến nấc thang hội nhập dựa vào nền
tảng sẵn có và trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về hội nhập kinh
tế và tự do hóa thương mại. Thực tế cho thấy rằng quá trình tự do hóa tài chính đồng thời
mang lại những thuận lợi vô cùng to lớn. Tuy nhiên vẫn không thể tránh khỏi những rủi ro
bất ổn định tài chính đe dọa an ninh nền kinh tế. Vì vậy, muốn đảm bảo an ninh tài chính,
chúng ta cần nắm bắt được các nguyên nhân sâu xa gây ra bất ổn định tài chính để từ đó có
thể áp dụng hàng loạt các giải pháp có hệ thống và mang tính khả thi cao. Các giải pháp
đều xuất phát trên cùng bệ phóng có tên là đảm bảo an ninh tài chính, triệt tiêu các nguyên
nhân tiềm tàng và ngăn ngừa các nguy cơ gây tổn hại cho hệ thống tài chính trong bối cảnh
toàn cầu hóa nền kinh tế.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của tự do hóa tài chính trong quá trình
phát triển và hội nhập của đất nước, từ thực trạng đổi mới thể chế tài chính tiền tệ trong
nước theo cơ chế thị trường, từ bối cảnh kinh tế – tài chính trong và ngoài nước, tiến hành
tự do hóa tài chính trong điều kiện an ninh tài chính được đảm bảo trong phạm vi an toàn
nhất. Tôi đã chọn đề tài
CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG TIẾN
TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Đưa ra cơ sở lý luận về tự do hóa tài chính thận trọng; những thuận lợi và những rủi
ro phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống lý luận về kiểm soát an ninh
tài chính trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
Phân tích thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua; Phân tích việc thực
thi các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách lãi suất, lạm phát, tình hình nợ vay nước
ngoài để đo lường được mức độ thực hiện tự do hóa tài chính của Việt Nam; Phân tích tác
động cùa an ninh tài chính và kiểm soát an ninh tài chính thực tế thời gian qua cũng như
đưa ra các rủi ro tiềm tàng, nguy cơ tiềm ẩn có thể phát sinh đe dọa hệ thống an ninh kinh
tế.
Đề tài cũng đưa ra các giải pháp thực hiện lộ trình tự do hóa tài chính thận trọng và
phù hợp với các điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam. Đặt vấn đề tự do hóa tài chính
trong sự ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững là mục đích nghiên cứu
chính của đề tài. Bên cạnh đó, đề tài cũng truyền tải vấn đề thay đổi cách thức quản lý kinh
tế, đặc biệt là cách thức quản lý tài chính trong xu thế mới nhằm giảm thiểu rủi ro tiềm
tàng đe dọa hệ thống an ninh tài chính quốc gia.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài đề cập đến lý thuyết tự do hóa tài chính và an ninh tài chính đã được thừa
nhận rộng rãi. Nghiên cứu tính chất của các cuộc khủng hoảng tài chính thời gian gần đây
để hoàn thiện hơn cơ sở lý luận của lý thuyết. Tiếp đến, đề tài tập trung đi vào phân tích
khả năng tự do hóa tài chính và quá trình kiểm soát an ninh tài chính của Việt Nam. Xem
xét các yếu tố có liên quan như: lãi suất, tỷ giá hối đoái, tình hình nợ vay nước ngoài, thực
trạng hoạt động của các định chế tài chính… Do đó, phạm vị đề tài là sự kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh tế khác nhau như : chính sách kinh tế vĩ mô, chương trình cổ phần hóa, ngoại
thương, ngân hàng, các chính sách khác của Chính phủ.
4. CÁC KẾT QUẢ CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đã đưa ra hệ thống lý luận về tự do hóa tài chính, trình tự thực hiện tự do hóa tài
chính, an ninh tài chính và những rủi ro những tiềm tàng. Nghiên cứu những thành công
cũng như thất bại của các nước về tự do hóa tài chính và rút ra các bài học cho quá trình
tự do hóa tài chính ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, mạnh dạn đưa ra một quan điểm mới về
lộ trình tự do hóa áp dụng cho Việt Nam.
Phân tích thực trạng tình hình tự do hóa tài chính trong thời gian gần đây ở Việt Nam,
tìm kiếm những khó khăn còn tồn tại và nguyên nhân hạn chế để đề ra những giải pháp
tháo gỡ thích hợp. Đồng thời rút ra bài học từ các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế
giới để đưa ra một hệ thống giải pháp tự do hóa tài chính thận trọng và hiệu quả cho
Việt Nam.
Đưa ra các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro gây ra bất ổn định kinh tế nhằm thực hiện
tốt các chính sách kiềm soát an ninh tài chính trong điều kiện kinh tế hiện nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài vận dụng tổng hợp cách tiếp cận hệ thống, phương pháp duy vật biện chứng
và lịch sử. Đồng thời kết hợp phương pháp logic, phân tích tổng hợp các phương pháp suy
diễn, phương pháp thống kê,… nhằm nêu lên những thành tựu, những hạn chế, sự kế thừa
và phát triển của quá trình đổi mới tài chính của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài
cũng sử dụng phương pháp đối chiếu, vận dụng một số lý thuyết để giải thích những hiện
tượng kinh tế để từ đó đưa ra các đề xuất giải quyết thích hợp.
Đề tài gồm 3 phần không kể mở đầu và kết luận:
Chương 1: “Tổng quan về kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài
chính”
Chương 2: “Thực trạng tình hình kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do
hóa tài chính của Việt Nam hiện nay”
Chương 3: “Các giải pháp kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài
chính của Việt Nam hiện nay”
Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Kính mong thầy cô và người đọc góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG
TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1.1 TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Trong một quốc gia, hệ thống tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội. Quốc gia có hệ thống tài chính mạnh có thể làm cho quá trình lưu thông tiền
tệ được diễn ra suôn sẻ hơn, kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển.
Có nhiều ý kiến khác nhau về quan điểm tự do hóa tài chính trong nền kinh tế. Thực
ra, tự do hóa tài chính là việc nới lỏng những ràng buộc hay việc kiểm soát khu vực tài
chính của Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước hết, tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này
hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do
hóa tài chính bao gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các NHTM, tự
do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường
tài chính.(1)
Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với
nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự
do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính trong
nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín
hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai
và tự do hóa giao dịch vốn.
(1) Hội thảo khoa học với chủ đề “Tự do hóa tài chính và giải pháp, chính sách” do NHNN tổ chức ngày 4/5/2007
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại
vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường,
mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường
được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM)
trên thu nhập quốc dân.
Ngoài ra, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc về
số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này được thay
thế bởi một cơ chế giá: tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính quyền tự do xác định
các mức lãi suất tiền gởi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất. Trên lý thuyết, tự do
hóa dẫn đến chấm dứt các mức trần lãi suất cũng như những ràng buộc trong việc sử dụng
các nguồn vốn huy động được. Tự do hóa cũng chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi(2).
Ngoài ra, việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm dứt
sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế cũng được xem là một khía cạnh
của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, tự do hóa không có nghĩa là chấm dứt mọi qui định hay
giám sát các hoạt động tài chính. Ngược lại, tự do hóa đòi hỏi phải tăng cường cơ sở hạ
tầng qui chế và các cơ quan giám sát(3). Việc đặt ra các qui định là cần thiết để đảm bảo
cho sự vận hành hiệu quả của các thị trường tài chính và ngân hàng.
Tùy theo tình hình thực tế của từng quốc gia, tự do hóa tài chính bao gồm nhiều yếu
tố khác nhau. Nhìn chung có 5 yếu tố quan trọng nhất: tự do hóa lãi suất và giá cả; tự do
hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín dụng nhà
nước; tự do hoạt động ngoại hối; tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị
trường tài chính; cắt giảm thuế và lạm phát trên thị trường tài chính quốc gia.
Tự do hóa lãi suất và giá cả là cho phép các định chế tài chính, ngân hàng tự do xác
định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, tự do ấn định các mức phí trong phạm vi
hoạt động tài chính.
(2) Báo cáo của Jean-Pierre Landau, Tổng thanh tra tài chính, Tổng giám đốc Hiệp hội Ngân hàng Pháp trong chương
trình Hội thảo “Tự do hóa và an ninh tài chính” ngày 10/01/2001 tại Hà Nội.
(3) J.Stiglit trong “Vai trò của hệ thống tài chính trong quá trình phát triển”. Hội nghị thường niên về phát triển ở Châu
Mỹ Latin và Caribbean, 29/6/1998.
Tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín
dụng nhà nước là việc xóa bỏ các hạn chế, định hướng chủ quan hay ràng buộc về số lượng
trong quá trình cấp và phân phối tín dụng nhằm nâng câng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
và mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế.
Tự do hóa hoạt động ngoại hối là việc xóa bỏ các hạn chế về quản lý ngoại hối và
thực hiện điều hành tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc thị trường.
Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính là việc tiến
hành mở rộng tự do cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính thông qua việc xóa
bỏ những hạn chế về phạm vi hoạt động, phạm vi kinh doanh của các tổ chức tài chính.
Cắt giảm thuế và mở rộng quan hệ tự do thương mại nhằm khắc phục những tổn thất
kinh tế mà các quốc gia phải gánh chịu nếu có hàng rào thuế quan. Đồng thời tạo ra một
môi trường ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho các nguồn lực của quốc gia được tận
dụng triệt để và hiệu quả.
Mở cửa hội nhập đồng nghĩa là việc tiếp nhận các định chế tài chính nước ngoài và
hoạt động và thừa nhận các dịch vụ tài chính của họ. Việc mở cửa cho nước ngoài tham gia
các ngành dịch vụ tài chính đảm bảo đa dạng hóa lựa chọn và nâng cao chất lượng phục vụ
người tiêu dùng. Tuy nhiên tùy thuộc vào tình hình thực tế của mỗi quốc gia mà việc tiếp
nhận trên có quy mô và cường độ khác nhau. Đối với Việt Nam, tôi thiết nghĩ có thể đẩy
mạnh tự do hóa tài chính trên cơ sở thận trọng từng bước tiến tới cạnh tranh hoàn toàn đối
với các định chế tài chính mạnh trên toàn cầu.
1.2 LỢI ÍCH VÀ CƠ HỘI TỪ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Tự do hóa thương mại trong ngành dịch vụ tài chính, được thể hiện một cách minh
bạch và có cơ chế chính sách ổn định, sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác nhau cho các
nước, cho bản thân ngành tài chính, các ngành liên quan và cho cả nền kinh tế. Lợi ích của
việc tự do hóa các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể được nhìn
nhận trên một số giác độ sau:
Trong phạm vi một quốc gia, một hệ thống tài chính mạnh và sống động đặc biệt rất
quan trọng đối với nền kinh tế hội nhập để có được cơ sở cho hoạt động thương mại một
cách đa dạng về dịch vụ hàng hóa. Cam kết về dịch vụ tài chính sẽ giúp nhà cung cấp dịch
vụ tài chính và quốc gia trở nên hấp dẫn, thu hút đầu tư qua kênh thương mại điện tử và
công nghệ hỗ trợ.
Tự do hóa dịch vụ tài chính tạo điều kiện về công ăn việc làm, giải quyết nạn thất
nghiệp và phát triển lao động của các ngành dịch vụ lệ thuộc.
Tự do hóa dịch vụ tài chính còn thúc đẩy tăng trưởng và tiếp cận kỹ thuật công nghệ
mới. Nó đã phát triển hệ thống ngân hàng trực tuyến (online), giao dịch chứng khoán, dịch
vụ bảo hiểm và dịch vụ thông tin tài chính.
Một thuận lợi nữa trong tự do hóa, đó là các thị trường hội nhập đóng vai trò to lớn
khi xuất khẩu dịch vụ tài chính. Ví dụ, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Mexico, và
Brazil là các nhà cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính mang tính chất khu vực và
quốc tế.
Tự do hóa tài chính sẽ tăng thêm chất lượng dịch vụ tài chính được cung cấp. Đa
dạng hóa sự lựa chọn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người tiêu dùng. Đồng thời trên cơ
sở cạnh tranh lẫn nhau, các khu vực dịch vụ tài chính phải hoàn thiện tư duy đổi mới và
hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.
Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở hầu hết các nước cũng góp phần thúc đẩy
chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi
cách thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hành lang pháp lý và
hệ thống kiểm tra, giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Theo nhiều nghiên cứu, tự do hóa dịch vụ tài chính tác động đầu tiên và mạnh mẽ đến
hệ thống Ngân hàng. Việt Nam có sức mạnh và ưu thế hẳn so với các Ngân hàng nước
ngoài do có được mạng lưới chi nhánh rộng khắp, có được mối quan hệ truyền thống với
khách hàng và đặc biệt là hiểu được tâm lý khách hàng thông qua những hiểu biết văn hóa
mà các Ngân hàng nước ngoài không có được. Chính vì vậy sự tham gia của các Ngân
hàng nước ngoài ở Việt Nam sẽ tạo ra một động lực để các Ngân hàng Việt Nam cải thiện
nhanh chóng các hoạt động của mình trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cùng với
việc đổi mới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Tự do hóa dịch vụ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho người dân trong
nước tự do lựa chọn các dịch vụ bảo hiểm từ người cung cấp tốt nhất, hạn chế dần sự bất
cân xứng thông tin giữa người mua và người bán. Trong giao dịch chứng khoán, việc tự do
hóa các dịch vụ tài chính cùng với việc nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của người nước
ngoài có thể giúp vực dậy một thị trường Việt Nam vốn rất ảm đạm trong những năm gần
đây.
Về phương thức các lợi ích mang lại từ tư do hóa tài chính gia tăng theo hai phương
thức chính như sau:
Thứ nhất, tự do hóa tài chính có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng do gia tăng mức độ
đầu tư và nâng cao tỷ suất sinh lời của đầu tư thông qua việc các nước này tiếp cận được
với kinh nghiệm quản lý hiện đại, các thành quả khoa học trên thế giới và đặc biệt tiếp cận
được tác động của thị trường hiệu quả là thị trường mà các thông tin được phản hồi một
cách đầy đủ và kịp thời.
Thứ hai, tự do hóa tài chính cho phép mọi cá nhân tự bảo hiểm chống lại sự phát triển
không cân đối của nền kinh tế bằng cách đa dạng hóa đầu tư và khai thác thị trường toàn
cầu để làm dịu đi sự suy giảm tạm thời trong thu nhập.
Tự do hóa tài chính cũng thúc đẩy tăng trưởng do khuyến khích các nhà đầu tư
chuyển hướng vào đầu tư những dự án có rủi ro cao hơn vì nhà đầu tư có thể đa dạng danh
mục đầu tư của mình để hưởng tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Sự lựa chọn các cơ hội đầu tư
phụ thuộc vào 3 nhân tố: sự tụt hậu về kỹ thuật, mức độ rủi ro quốc gia và mức độ phát
triển thị trường vốn.
Một khía cạnh khác làm gia tăng tự do hóa tài chính một cách nhanh chóng hơn là
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Điều này góp phần phân bổ lại nguồn lực, gia tăng lợi
ích của mỗi quốc gia và kích thích đầu tư trong nước phát triển.
Tóm lại, tự do hóa tài chính là liều thuốc phân bổ lại nguồn lực một cách hợp lý hơn
giữa các quốc gia, đồng thời gia tăng sự cạnh tranh bình đẳng, từ đó giảm thiểu chi phí,
phân tán rủi ro, nâng cao chất lượng phục vụ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tạo môi
trường thay đổi chính sách quản lý kinh tế trong bối cảnh hội nhập.
1.3 RỦI RO VÀ BẤT ỔN ĐỊNH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Theo các nhà nghiên cứu, tự do hóa tài chính bản thân nó không gây ra khủng hoảng
tài chính nhưng việc thiếu vắng cơ chế giám sát tài chính thích hợp và không có phương
thức điều hành chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp thì tự do hóa tài chính có thể tạo ra nhiều
vấn đề. Không có quy định và giám sát hợp lý thì các định chế tài chính có khả năng ứng
xử một cách bừa bãi cộng với những bất cập trong quản lý kinh tế vĩ mô có thể gây ra
khủng hoảng niềm tin và châm ngòi cho khủng hoảng kinh tế. Ở các nước đang phát triển,
nơi mà quy mô và chiều sâu của thị trường tài chính còn thấp thì việc khủng hoảng niềm
tin có thể trầm trọng hơn nữa bởi hành động theo “xu hướng bầy đàn” và “dòng vốn cộng
sinh chảy ồ ạt” của các nhà đầu tư. (TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Những cơ hội và thách
thức cho lộ trình tự do hóa dịch vụ tài chính”)
Chính vì vậy, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ trong WTO (GATS) cho phép
Chính phủ các nước được áp dụng các biện pháp thận trọng để đảm bảo sự thống nhất và
an toàn của hệ thống tài chính. Ngoài ra trong trường hợp một quốc gia thành viên gặp phải
những khó khăn nghiêm trọng trong cán cân thanh toán quốc tế thì những điều khoản của
GATS cũng cho phép các quốc gia này được duy trì những hạn chế tạm thời đối với thương
mại dịch vụ.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên cứu khác
đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới. Những
nhân tố này bao gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động
thương mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho
vay; sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn
sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính lôgic và trình tự của những cải cách tài
chính. Nói tóm lại, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là
những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính
sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai
lệch trong đường lối cải cách, chứ không xuất phát từ bản thân quá trình tự do hóa tài
chính.
Kinh nghiệm thực tiễn hơn hai thập kỷ qua cho thấy tự do hóa tài chính dẫn đến vay
nợ nước ngoài quá mức. Vấn đề này biểu hiện rõ nét đối với những nền kinh tế thực hiện
tiến trình tự do hóa tài chính nội địa cùng với tự do hóa tài chính trên tài khoản vốn. Một
khi mở rộng quy mô nợ tăng nhanh sẽ gia tăng rủi ro quốc gia: rủi ro tiền tệ và rủi ro thanh
toán.
Ba yếu tố chính liên quan đến vấn đề rủi ro khi thực hiện quá trình tự do hóa tài chính
đó là việc dòng vốn chảy ồ ạt trong thời kỳ đầu của tự do hóa; sự đối phó với những đảo
lộn nghiêm trọng và sự gia tăng tính biến động khi một quốc gia tự do hóa tài chính.
1.3.1 Dòng vốn chảy vào ồ ạt
Thời kỳ đầu của tự do hóa tài chính là công việc tiếp nhận các dòng vốn quốc tế đổ
vào các nước có nền kinh tế đang phát triển, một mặt là do lãi suất quốc tế thấp, cộng với
chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của các nước này cũng như việc bành trướng quy
mô của các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới.
Điểm qua lại thời kỳ đầu mở cửa của 20 nền kinh tế các nước đang phát triển trong
thập niên 1990 cho thấy dòng vốn chảy vào chiếm khoảng 4% GDP. Các nước Đông Âu có
dòng vốn chảy vào lớn nhất sau năm 1992. Và Chi Le, Malaysia, ThaiLand, Mexico là
những nước sớm đón nhận dòng chảy quốc tế mạnh mẽ nhất.
Bảng 1.1: Dòng vốn tư nhân vào 20 nước đang phát triển trong thập niên 1990
(vốn quốc tế dài hạn trong khu vực tư nhân tính bằng % trên GDP)
Vốn tích lũy/GDP Dòng vốn vào Quốc gia Thời kỳ dòng vốn
vào
(Nguồn: Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế-Tổng quan kinh tế thế giới năm 1997)
Argentina
Brazil
ChiLe
Colombia
Hungary
Ấn độ
Indonesia
Hàn Quốc
Malaysia
Mexico
Marocco
Pakistan
Peru
Philippines
BaLan
Srilanka
ThaiLan
Thổ Nhĩ Kỳ
Turkey
Venezuela 1991-1994
1992-1995
1989-1995
1992-1995
1993-1995
1992-1995
1990-1995
1991-1995
1989-1995
1989-1994
1990-1995
1992-1995
1990-1995
1989-1995
1992-1995
1991-1995
1988-1995
1992-1995
1992-1993
1992-1993 vào cuối kỳ
9,7
9,4
25,8
16,2
41,5
6,4
8,3
9,3
45,8
27,1
18,3
13
30,4
23,1
22,3
22,6
51,5
17,6
5,7
5,4 hàng năm tối đa
3,8
4,8
8,6
6,2
18,4
2,7
3,6
3,5
23,2
8,5
5
4,9
10,8
7,9
12
8,3
12,3
7,1
4,1
3,3
Riêng Việt Nam, sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và tổ chức
thành công hội nghị APEC đã có 5 hiệp định khung được ký kết với các nhà đầu tư Mỹ
nâng tổng số vốn đầu tư 3 tỷ USD, riêng dự án của tập đoàn Intel tại khu vực thành phố Hồ
Chí Minh đã đầu tư 1 tỷ USD. Theo thủ tướng Nhật tại hội nghị APEC cho biết “sắp tới
đây là làn sóng đầu tư lớn thứ hai của Nhật vào Việt Nam”.
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn
Hiện tượng bay hơi tài chính – Volatility là khía cạnh mặt trái của tự do hóa tài chính.
Hiện tượng bay hơi tài chính được biết vào những năm 70 ở những thị trường mới nổi
Châu Mỹ Latin và sau đó vào những năm 90 ở thị trường mới nổi các nước Đông Nam Á.
Những nền kinh tế Đông Á thành công về cải cách kinh tế trong những năm đầu thập kỷ
90. Đến năm 1997, nhiều nước phải chấp nhận thua cuộc sự suy thoái tồi tệ nhất.
Tự do hóa tài chính – chính sách kinh tế - sự bay hơi tài chính có mối quan hệ với
nhau. Tự do hóa tài chính + chính sách kinh tế tồi = bay hơi. Chính sách kinh tế tồi là nền
kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, bội chi ngân sách, đồng tiền bị đánh giá quá cao, định chế tài
chế yếu kém, v.v.. Hệ quả là sự đảo ngược dòng vốn tư nhân xuất hiện và trở nên mạnh mẽ
hơn.
Sự đảo ngược dòng vốn vào thập niên 1990 xảy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela, và
cả hai trường hợp đều do sự mất niềm tin của nhà đầu tư vào chính sách kinh tế vĩ mô
trong nước.
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn
Ở các nước đang phát triển, hệ thống thông tin bất hoàn hảo và mất cân xứng cũng
như sự yếu kém về thể chế đã tác động mạnh mẽ đến thị trường vốn và thị trường tài chính
hơn là những nước công nghiệp. Trong môi trường này, xu hướng bầy đàn của các nhà đầu
tư lớn hơn, và những nhà đầu tư trong nước có thể bị ảnh hưởng bởi những nhà đầu tư
nước ngoài, dẫn đến sự biến động càng lớn hơn. Các thị trường mới nổi nằm trong cận biên
danh mục vốn của các nhà đầu tư quốc tế nghĩa là chỉ cần một thay đổi nhỏ trong lãi suất
quốc tế sẽ dẫn đến việc chảy ra nhanh chóng của dòng vốn khỏi thị trường mới nổi.
Xu hướng bầy đàn có thể làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong một quốc gia ngay cả
khi những nền tảng cơ bản của một nước vẫn không thay đổi. Mặc dù sự thay đổi trong lãi
suất quốc tế vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến dòng vốn đầu tư gián tiếp, nhưng mức độ ảnh
hưởng này sẽ giảm đi nếu các yếu tố đặc thù của từng quốc gia trở nên quan trọng hơn. Có
một vài bằng chứng cho thấy rằng ở những thị trường mới nổi thì xu hướng bầy đàn của
các nhà đầu tư nước ngoài dễ xuất hiện hơn, nhưng kinh nghiệm của các nước bắt đầu quá
trình tự do hóa cho thấy rằng đỉnh cao của hành vi bầy đàn chỉ có thể tồn tại trong thời gian
ngắn ngủi.
Về phía trong nước, các quốc gia đang phát triển dễ bị tổn thương bởi những cú sốc
thật (do thay đổi các điều kiện mậu dịch như sự thay đổi trong giá cả nguyên vật liệu quốc
tế, sự thay đổi trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu, tỷ giá hối đoái thực được
định giá quá cao làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai). Thêm vào đó, cũng có một vài đặc
điểm của thị trường mới nổi có thể khuếch đại những cú sốc nội địa và quốc tế trong thời
kỳ đầu của tự do hóa.
1.4 THÁCH THỨC CỦA QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Thứ nhất, về trình độ công nghệ cho thấy các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước
ngoài luôn có ưu thế nổi trội hơn so với các tổ chức dịch vụ tài chính trong nước. Chính vì
vậy, chất lượng sản phẩm, kênh phân phối, các sản phẩm tiện ích và hệ thống chăm sóc
khách hàng luôn đạt được chất lượng cao nhất.
Thứ hai, các tổ chức tài chính nước ngoài có ưu thế về nguồn chất xám, về khả năng
thu hút và đào tạo nguồn nhân lực, trong khi đó các tổ chức tài chính trong nước không có
được. Chúng ta có thể thấy rõ nét trong các khía cạnh như chế độ đãi ngộ, môi trường làm
việc, cơ hội thăng tiến và học tập mà người lao động có được khi họ làm việc cho các tổ
chức tài chính nước ngoài.
Thứ ba, về tiềm lực tài chính là một khía cạnh bất cân xứng giữa các tổ chức tài chính
trong nước và nước ngoài. Có thể thấy rõ nét, các tổ chức tài chính của Việt Nam có quy
mô nhỏ và hoạt động rời rạc chưa hình thành được các tập đoàn tài chính lớn và có quy mô
cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế.
Thứ tư, các tổ chức tài chính trong nước chưa áp dụng đồng bộ và quán triệt các tiêu
chuẩn, chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, việc hòa nhập vào môi trường quốc tế chuyên nghiệp
chưa được thực hiện sâu rộng trong tiến trình hội nhập. Từ đó, khả năng thu hút nguồn lực
tài chính với chí phí thấp, địa vị thương mại trên thị trường quốc tế chưa đạt được hiệu quả
cao.
Thứ năm, các sản phẩm tài chính phái sinh là khái niệm khá là mới mẻ trong hệ thống
ngân hàng nước ta và hầu như chúng được nghiên cứu và triển khai không đồng bộ trong
một số tổ chức tài chính đơn lẻ. Vì vậy, khả năng cạnh tranh về các sản phẩm tài chính phái
sinh là rất thấp và đây cũng được coi là lĩnh vực cực kỳ nguy hiểm đối với các tổ chức tài
chính và nền kinh tế. Do đó, chúng ta cần phải đánh giá hết mức độ phức tạp và tinh vi của
giao dịch sản phẩm phái sinh, tránh hiện tượng đầu cơ, độc quyền chiếm lĩnh thị trường của
các tổ chức tài chính nước ngoài và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ
chức tài chính trong nước.
1.5 AN NINH TÀI CHÍNH
1.5.1 Khái niệm
An ninh tài chính là tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh của thị trường
tiền tệ và thị trường tài chính. Ổn định thị trường tiền tệ dẫn đến giá cả ổn định, ổn định
của thị trường tài chính dẫn đến sự ổn định công cụ tài chính và do đó thị trường có thể lập
nên hệ thống tài chính đa dạng và ổn định để hỗ trợ.
1.5.2 Sự cần thiết phải kiểm soát an ninh tài chính
Xuất phát từ sự bất ổn tài chính do những cú sốc phát sinh trong hệ thống tài chính rồi
từ đó lây lan khắp hệ thống. Sự bất ổn gây ra những khoản thiệt hại cho nền kinh tế như
sau:
Tình trạng tài chính của những tổ chức tài chính, các doanh nghiệp -
và chính phủ bị suy yếu.
- Hoạt động của các định chế tài chính và thị trường tài chính bị
gián đoạn.
Sự bất ổn của thị trường tài chính thể hiện trên các thị trường như thị trường ngoại
hối, thị trường vốn, thị trường trái phiếu, thị trường bất động sản. Xu hướng thể hiện là xu
hướng mất cân bằng trong thị trường tài chính hay một loại thị trường nào khác.
1.5.3 Nguyên nhân gây ra bất ổn định
- Chính sách kinh tế vĩ mô lỏng lẻo không phù hợp xu thế hội nhập.
- Thực hiện tự do hóa tài chính quá nóng vội mà chưa có biện pháp phòng ngừa rủi
ro.
- Chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
- Các định chế tài chính hoạt động rời rạc và không hiệu quả.
- Hệ thống giám sát tài chính yếu kém.
1.5.4 Kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài chính
Dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế mà đặc biệt là tự do hóa
tài chính, các nước phải đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài
chính đã trở thành mối đe dọa chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới. Thực tế khủng hoảng
tài chính khu vực vừa qua càng cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này.
Ngoài ra, sự gia tăng hội nhập tài chính và phụ thuộc vào dòng vốn tư nhân có thể
làm cho những nước đang phát triển dễ mất ổn định do sự đảo ngược của dòng vốn, đặc
biệt đối với những quốc gia có chính sách tài khoá yếu, hệ thống ngân hàng được bảo vệ
quá mức cần thiết hoặc quản lý yếu kém kết hợp với một thị trường vốn nội địa lại bị bóp
méo cao độ.
Tình trạng khủng hoảng tài chính phát sinh còn có thể do nguyên nhân quá trình tự do
hóa thương mại và tự do hóa tài chính đi quá nhanh so với sự phát triển trong nước về cơ
sở hạ tầng, về luật pháp, hệ thống quản lý thận trọng và các quy định về phát triển thể chế
thị trường khác.
Tự do hoá tài chính có thể làm tăng tính bất ổn theo hai cách:
- Làm cho nền kinh tế tiếp cận trực diện với những nguồn gốc mới của những cú sốc
trong kinh tế quốc tế;
- Khuếch đại và làm trầm trọng thêm những cú sốc trong nước.
Nhận định những tác động tiêu cực của quá trình tự do hóa tài chính ảnh hưởng như
thế nào đến nền kinh tế của một quốc gia, từ đó cho chúng ta thấy được sự cần thiết của
việc kiểm soát an ninh tài chính để phòng tránh những rủi ro tài chính.
1.5.4.1 Rủi ro tài chính đối với các khoản nợ nước ngoài không kiểm soát
Một trong những nguồn lực phát triển kinh tế xã hội của các nền kinh tế đang phát
triển là nguồn vốn vay từ bên ngoài, tuy nhiên nợ nước ngoài tiềm ẩn rủi ro tác động đến
tình hình tài chính của quốc gia. Chính vì vậy, sự đảm bảo hiệu quả sử dụng và khả năng
hoàn trả vay nợ nước ngoài kết hợp với một cán cân thanh toán quốc tế bền vững, tỷ giá
hối đoái ổn định và dự trữ ngoại hối hợp lý là một yêu cầu cấp thiết để phát triển nền kinh
tế nước ta một cách bền vững.
Hiện nay, với nhiều dự án vay nợ nước ngoài không tinh hết nhu cầu thực tiễn, khả
năng hấp thụ vốn, khả năng trả nợ, quản lý nợ vay lỏng lẻo, tình hình tham nhũng, thất
thoát kéo dài làm gia tăng tính bất ổn của nền kinh tế, kéo theo là sự bất ổn của thể chế
chính trị - xã hội. Ngoài ra, sức ép từ phía chủ nợ làm chệnh hướng phát triển kinh tế, cũng
như ảnh hưởng méo mó đến tình hình chính trị của quốc gia.
Để kiểm soát nguồn vốn tính dụng tư nhân, vốn ngắn hạn, khả năng rút vốn ồ ạt của
nhà đầu tư, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát vốn hiệu quả, có “van an toàn” bằng khuôn
khổ pháp lý đồng bộ quy định mức lãi suất, phân loại nợ, trích lập dự phòng, v.v. nhằm
giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Do quá trình tự do hóa tài chính và mở cửa thị trường vốn đã khuyến khích quá trình
vay nợ bằng ngoại tệ, vì lãi suất thấp hơn, rủi ro thấp hơn. Thủ tục vay nợ của tư nhân phải
thông qua sự bảo lãnh của Chính phủ hoặc các tổ chức ngân hàng. Tuy nhiên do thiếu
thông tin nên Chính phủ không thể kiểm soát nổi nợ nước ngoài của tư nhân, do đó cũng có
thể xảy ra các rủi ro tài chính. Bên cạnh các khoản nợ nước ngoài của tư nhân, nợ nước
ngoài của Chính phủ nếu không có khả năng trả nợ cũng có thể đưa đến rủi ro và châm
ngòi cho khủng hoảng tài chính.
1.5.4.2 Rủi ro tài chính trong kinh doanh chứng khoán
Việc giảm sút của giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, kéo theo việc rút vốn đột
ngột ra khỏi các tài sản đẩu tư gián tiếp có thể gây ra áp lực đối với tỷ giá ngoại tệ, đặc biệt
khi các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chuyển đổi tiền tệ thu được từ bán cổ phiếu
thành ngoại tệ mạnh. Tính ổn định của hoạt động tài chính trong nước sẽ bị đe dọa nếu như
hệ thống tài chính này không có khả năng đảm bảo để chống lại các rủi ro.
1.6 SỰ THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA CÁC NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH TỰ
DO HÓA TÀI CHÍNH
Có thể nói các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đã gây ra những thiệt hại
lớn cho các nước trong khu vực. Tuy nhiên, đây chính là những bài học kinh nghiệm bổ ích
cho quá trình thực hiện tự do hoá tài chính.
1.6.1 Trường hợp thất bại – Chi Lê tự do hóa tài chính nóng vội
Vào cuối những năm 1970, Chi Lê đã giảm điều tiết hệ thống ngân hàng một cách
mạnh mẽ trước khi kiểm soát và đạt được sự tăng trưởng đáng kể. Thực vậy, tình hình tài
chính của Chi Lê vào năm 1978 chưa ổn định, luật lệ kiểm soát ngân hàng không chặt chẽ,
các ngân hàng có quá nhiều ràng buộc lẫn nhau trong quan hệ sở hữu và có nhiều khoản
cho vay không hiệu quả. Đó là nguyên nhân khiến cho Chi Lê phải chịu đựng sự mất ổn
định kinh tế vĩ mô lớn tại thời điểm xoá bỏ các trần lãi suất tiền gởi và cho vay, và các
ngân hàng được cạnh tranh hoàn toàn trong thị trường vốn.
Điều đáng chú ý ở đây là Chi Lê đã duy trì một lãi suất thực rất cao trong khi lạm
phát còn ở mức cao và không ổn định. Khi Chi Lê tiến hành tự do hoá lĩnh vực thanh toán
tài chính vào năm 1978, đã có nhiều dự đoán khả quan về sự phát triển kinh tế dẫn đến gia
tăng nhu cầu đầu tư kéo theo sự gia tăng về nhu cầu tín dụng. Do đó, các ngân hàng đã tăng
lãi suất cho vay để bù đắp cho các khoản vay không hiệu quả.
Lãi suất trong nước cao hơn khiến cho nguồn vốn nước ngoài vào Chi Lê tăng nhanh,
tạo nên một áp lực lạm phát và đồng pê-sô tăng lên khá cao. Nếu theo thuyết ngang giá lãi
suất, lãi suất trong nước Chi Lê phải giảm. Tuy nhiên, do thị trường tiền tệ và ngân hàng
chưa hoàn chỉnh, cách biệt giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay không giảm. Ngoài ra,
các nhà đầu tư cho vay với ấn tượng rủi ro về tỷ giá hối đoái đã đòi hỏi lợi tức cho vay cao
hơn. Các khoản cho vay không hiệu quả bắt buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất và làm
giảm đi khả năng vay mượn tín dụng ưu đãi ở các tổ chức quốc tế. Do vậy, lãi suất trong
nước vẫn còn giữ ở mức cao, nguồn vốn bên ngoài vẫn tiếp tục tăng nhanh làm xuất hiện
mối đe dọa về lạm phát gia tăng. Vì thế, ngân hàng nhà nước phải sử dụng tài chính dự trữ
để vô hiệu hoá sức ép về lạm phát. Kết quả là ngân sách nhà nước bị rút cạn, ngân hàng bị
phá sản bởi các khoản cho vay không hiệu quả, nền sản xuất bị đình trệ và nạn thất nghiệp
gia tăng. Cuối cùng, Chi Lê đành phải quay lại áp dụng các qui định về kiểm soát tài chính.
1.6.2 Thái Lan – nơi khởi đầu cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997
Trong những năm từ 1985 đến 1995, Thái Lan đã giữ đồng bạt ổn định theo một giỏ
tiền chủ yếu là đôla Mỹ. Sự ổn định đồng tiền khơi dậy niềm tin giữa các nhà thương mại
và các nhà đầu tư nước ngoài bởi vì mối quan hệ kinh tế giữa họ có vẻ ít rủi ro. Nhờ đó mà
Thái Lan đã có một dòng vốn vào khổng lồ, đủ loại. Nó được đáp lại bằng sự gia tăng thâm
hụt tài khoản vãng lai – thâm hụt của việc mua hàng hóa và dịch vụ bên ngoài - đến 8%
GDP. Sự kết hợp giữa tiết kiệm quốc gia và các dòng vốn vào lớn đã tạo ra một nguồn tài
chính khổng lồ mà các nhà kinh doanh dùng để lèo lái sự tăng trưởng kinh tế. Chính phủ
Thái Lan đã không mấy quan tâm đến tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng lớn
bởi vì họ lập luận rằng nếu thâm hụt tài khoản vãng lai chủ yếu phản ánh đầu tư cao hơn,
thì cuối cùng nó sẽ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, và do đó làm tăng khả năng
hoàn trả nợ vay. Chính vì vậy mà Thái Lan đã mở rộng tài khoản vốn, tiếp nhận vốn đầu tư
mà không cần một biện pháp kiểm soát nào. Bên cạnh đó, với chính sách cố định đồng nội
tệ theo ngoại tệ đã khiến cho chính phủ Thái Lan bất chấp áp lực đè lên đồng bạt từ sự
thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, quyết định tăng lãi suất lên cao tới mức kinh khủng. Lãi
suất cao gây tác hại đối với nền kinh tế bằng nhiều cách. Nó làm tồi tệ thêm những khó
khăn cho những người đầu tư bất động sản và cho khu vực ngân hàng bằng những khoản
nợ mất khả năng thanh toán, khả năng thanh toán của khu vực tài chính trở nên khó khăn,
làm cho thu nhập công ty và giá cổ phiếu của các công ty tài chính Thái Lan rớt giá thê
thảm, tổn thương đến các nhà sản xuất vì nó khiến người tiêu dùng chi tiêu tiết kiệm hơn,
làm thu hẹp tổng cầu. Quan trọng hơn, lãi suất trong nước cao khiến cho các công ty trong
nước chuyển sang vay nước ngoài với giá rẻ hơn, khiến cho nợ nước ngoài tăng cao,
khoảng 70 tỷ đôla vào năm 1996, chiếm đến một nửa GDP của đất nước. Dòng vốn vào
khổng lồ này là để thanh toán cho thâm hụt tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, thực chất vấn đề
không phải đơn giản như vậy. Nếu như Thái Lan nhận được nhiều đầu tư trực tiếp nước
ngoài thì với đồng tiền ổn định sẽ góp phần ổn định tài chính. Thay vì thế, Thái Lan đang
sử dụng một tỷ lệ phần trăm vốn tăng cao một cách nguy hiểm để giải quyết thâm hụt tài
khoản vãng lai.
Những dấu hiệu của một nền kinh tế Thái Lan đang suy yếu đã dần dần xuất hiện rõ
ràng. Đầu tư vốn sở hữu ròng của Mỹ vào Thái Lan bắt đầu giảm trong năm 1996. Vì thế,
đã có áp lực đè nặng lên thị trường ngoại hối xuất phát từ các nguồn này. Thay vì thừa
nhận thực trạng và điều chỉnh thích ứng với nó, chính quyền Thái Lan quyết định hỗ trợ giá
trị bằng đôla của đồng bạt bằng hành động rút dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương
bắt đầu vào cuối năm 1996. Đến tháng 6-1997, dự trữ gần như đã cạn kiệt.
Vấn đề đặt ra là, cộng đồng quốc tế ở đâu trong suốt toàn bộ sự việc này? Chúng ta có
câu trả lời. Trong khoản IV hội đàm hàng năm của IMF vào tháng 7-1996, đúng một năm
trước khi cuộc khủng hoảng nổ ra, IMF đã chính thức cảnh báo Thái Lan về độ lớn và thời
hạn ngắn của nợ bên ngoài, tình trạng yếu kém trong việc giám sát ngân hàng, tầm vóc lớn
lao đầy nguy kịch của thâm hụt tài khoản vãng lai và tình trạng tương đối kém linh hoạt
của chính sách tỷ giá hối đoái. Tất cả những lời cảnh báo này đều được truyền đạt đến
chính quyền Thái Lan. Nhưng vì những lý do nào đó, chính quyền này quyết định lờ đi
những lời cảnh báo. Kết quả cuối cùng là khủng hoảng xảy raGiờ đây, chính phủ Thái Lan
phải bắt làm lại từ đầu bằng việc cải tổ lại hệ thống tài chính với những yếu kém đã được
phơi bày sau khủng hoảng, đồng thời phải hoạch định một chiến lược phát triển thận trọng
hơn và an toàn hơn.
1.6.3 Indonesia tưởng chừng đã vượt qua cơn bão khủng hoảng
Thoạt đầu, Indonesia thoát khỏi tình trạng tồi tệ nhất của cơn hỗn loạn tài chính nhờ
những thành quả và chính sách kinh tế vĩ mô mẫu mực( )2 . Trong một thời gian, Indonesia
tự hào về tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh, ngân sách cân bằng và một chính sách tiền tệ
nhạy bén. Quan trọng nhất, Indonesia ngay từ năm 1995 đã bắt đầu mở rộng biên độ dao
động đồng ru-pi theo đôla Mỹ. Điều này cho phép đồng ru-pi giảm giá dần, giúp ngăn ngừa
những biến dạng tỷ giá hối đoái nghiêm trọng. Những chính sách có tinh thần trách nhiệm
này tạo ra một thành quả kinh tế vĩ mô chung thật ấn tượng. Ngoài ra, thâm hụt tài khoản
vãng lai cũng không đáng lo ngại vì phần lớn được bù đắp bằng đầu tư dài hạn hơn là bằng
những khoản vay ngắn hạn( )3 . Hơn nữa, Jakarta cũng đang an tâm với một khoản dự trữ
ngoại hối là 20 tỷ đôla. Tất cả những điều này đã nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư và
giúp cho đồng ru-pi khắc phục bão tố.
(2) Đọc thêm những vấn đề nền tảng về Inđonesia trong Hal Hill, The Inđonesia Economy since 1996: Southeast
Asia’s Emerging Giant (Melbourne: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1996).
(5) Khoảng 80% tài khoản vãng lai của Indonesia được tài trợ bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xem FT, 19-8-1997.
Nói vắn tắt, mọi thứ vẫn tốt ở Indonesia. Tuy nhiên, đến nửa sau tháng 7 và đầu tháng
8-1997, đồng ru-pi bắt đầu giảm giá, thị trường chứng khoán Indonesia bắt đầu rơi và niềm
tin của công chúng vào khả năng chống đỡ của chính phủ suy yếu. Đứng trước tình hình
đó, các nhà phân tích ở Jakarta đã đổ lỗi do căn bệnh lây lan của khu vực là nguyên nhân
gây ra sự tháo chạy, bỏ rơi đồng ru-pi. Có lẽ những ưu điểm kinh tế vĩ mô trong quá khứ đã
làm mờ mắt các quan chức Indonesia khiến họ không thấy được khả năng là có bất kỳ một
sai lầm cơ bản nào trong các yếu tố then chốt khác của nền kinh tế. Đợt tấn công đầu tiên
vào đồng ru-pi ngày 21-7 đã làm cho thị trường chứng khoán từng bền vững phải rớt giá
trong suốt hai tuần đầu của tháng 8. Để kìm chế sự tan chảy thị trường chứng khoán, ngân
hàng Indonesia (BI) đã buộc phải cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản vào ngày 8-8. Điều này
làm nổ ra một đợt tấn công mới vào đồng ru-pi. Đồng ru-pi bị xô xuống dưới 2.682 ru-pi
một đôla, sàn biên độ can thiệp. Trong một thời gian, BI đã thành công trong việc nhấc
đồng ru-pi lên bằng cách tăng lãi suất lên 100 điểm cơ bản, đồng thời bán ra khoảng 200
triệu đôla đến 500 triệu đôla dự trữ. Nhưng chẳng bao lâu người ta nhận thấy rõ ràng BI sẽ
phải chi ra nhiều dự trữ ngoại hối hơn nữa và tăng lãi suất thậm chí cao hơn để chống đỡ
trước cuộc tấn công. Quyết tâm giữ lãi suất cao để cứu vãn đồng ru-pi có thể mở ra một
cuộc khủng hoảng ngân hàng và tạo ra một đợt phá sản các công ty. Cuối cùng, BI đã
không còn cách nào khác ngoài việc bỏ rơi biên độ điều chỉnh và thả nổi đồng ru-pi. Hành
động này của BI đã làm cho giá đồng tiền và giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
giảm mạnh.
Đồng ru-pi rớt giá như vậy không thể đổ lỗi cho căn bệnh lây lan trong khu vực hay
sự phá giá có tính cạnh tranh. Lý do thực sự làm tổn thương đồng ru-pi chính là những yếu
kém nghiêm trọng về kinh tế vi mô ở Indonesia. Ngân hàng Indonesia chọn biện pháp quản
lý chặt chẽ trên thị trường ngoại hối nhưng sự rút lui của các nhà đầu tư vẫn tăng nhanh.
Thị trường ngoại hối kỳ hạn nhanh chóng cạn kiệt. Một lần nữa đồng ru-pi bị rớt giá. Tiếp
sau đó, việc Indonesia công bố cải tổ kinh tế cũng không làm tình hình khả quan hơn được.
Cuối cùng, Indonesia đành phải bó tay trước khủng hoảng và buộc phải tìm đến sự giúp đỡ
của IMF.
1.6.4 Malaysia cũng không tránh khỏi khủng hoảng
Rối loạn tài chính ở Thái Lan nhanh chóng lan rộng sang các “con hổ châu Á” khác,
và Malaysia cũng không thể tránh khỏi. Đồng ring-git mất giá so với đôla Mỹ hơn 15%,
điểm thị trường chứng khoán tụt mạnh, cổ phiếu của Malaysia bị lỗ hơn 300 tỷ ring-git
(108 tỷ đô-la). Trước tình hình đó, thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã đổ mọi thứ
cho nhà đầu cơ George Soros( )4 . Và dĩ nhiên những giải thích của ông đã không thuyết
phục được những người am hiểu cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực. Thực vậy, một
cách thức hiển nhiên để củng cố đồng ring-git đang rơi là tăng lãi suất. Thay vì làm như
thế, Malaysia lại duy trì lãi suất thấp, điều này càng làm cho đồng tiền thêm yếu đi, và cuối
cùng Malaysia buộc phải thi hành chính sách tỷ giá cố định và áp dụng các biện pháp quản
lý ngoại hối cực kỳ chặt chẽ. Điều này không thể đổ lỗi cho các nhà đầu cơ.
(6) FT, 23-9-1997; và The Economist, 6-9-1997.
Cho dù những trục trặc của Malaysia kém nghiêm trọng hơn nước láng giềng Thái
Lan, nhưng chúng có chung một gốc rễ. Sự tăng trưởng định hướng xuất khẩu của
Malaysia vào cuối thập niên 1980 đã làm bùng nổ xây dựng. Sự bùng nổ đó phát sinh từ
một quyết định dứt khoát là chú trọng vào việc tăng trưởng nhanh hơn là ổn định tài chính.
Việc bùng nổ xây dựng trong quá khứ được duy trì nhờ vào vay mượn ngân hàng để đầu tư
vào bất động sản hơn là dựa vào sản xuất. Giờ đây, tăng trưởng xuất khẩu đang đuối sức
khi tình trạng thừa mứa bất động sản đe dọa hạ thấp giá trị và chất thành núi nợ không có
khả năng thanh toán, gây tác động xấu đến ngân hàng. Các ngân hàng đang mang nặng nợ
nần trong nước lên đến con số giật mình là 170 %GDP. Những dự án cơ sở hạ tầng khổng
lồ đòi hỏi phải nhập khẩu nhiều, khiến cho thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng cao hơn.
Thế nhưng không có một sự cắt giảm đáng kể trong chi tiêu cho cơ sở hạ tầng và không có
một chiến lược chặt chẽ để giảm thâm hụt tài khoản vãng lai đã đánh mất niềm tin của các
nhà đầu tư vào nền kinh tế Malaysia.
Tuy nhiên, bên cạnh những thất bại to lớn của các nước Đông Nam Á và các nước
Châu Mỹ La tinh khi tiến hành tự do hoá tài chính, vẫn còn những nước đã tiến hành tự do
hóa tài chính thành công và đạt được một sự tăng trưởng ổn định.
1.6.5 Đài Loan thành công với lãi suất thực cao
Thông qua các chính sách giá cả và lãi suất ban hành từ năm 1960, Đài Loan đã thúc
đẩy tăng trưởng tài chính thực một cách kiên định hơn bất kỳ một nước đang phát triển nào
khác. Tuy bắt đầu chậm hơn một thập kỷ so với Nhật Bản nhưng Đài Loan đã thiết lập một
chính sách tiền tệ thành công trong việc loại bỏ các nguồn gốc gây ra áp lực lạm phát trong
nước vào năm 1960. Từ năm 1963 đến 1973, tỷ giá đồng đôla Đài Loan đã được cố định
với lạm phát giá hàng tiêu dùng bình quân khoảng 3,4 % mỗi năm và chỉ số bán buôn thực
sự ổn định. Tiếp theo đó, các đợt lạm phát lớn vào năm 1974 và lặp lại vào thời kỳ 1980 -
1981 gắn liền với hai cú sốc dầu lửa. Sau đó, từ năm 1982 đến 1987, chỉ số giá tiêu dùng
giữ nguyên không thay đổi, trong khi chỉ số bán buôn thực tế giảm 10% vì đồng tiền Đài
Loan đã phá giá một chút so với đồng đôla Mỹ. Vì thế, trong suy nghĩ của người tiết kiệm
Đài Loan, nguy cơ của lạm phát trong nước trở nên không đáng kể.
Để bổ sung sự kiểm soát đáng kể đối với mức giá trong nước, Đài Loan đã quản lý lãi
suất danh nghĩa vốn đã và đang tương đối cao so với một số nước công nghiệp khác. Lãi
suất tiền gởi tiết kiệm một năm được giữ ở mức khoảng 10% vào những năm 60 khi giá cả
ổn định, và sau đó nâng lên một chút vào các năm 70, giảm xuống trở lại vào đầu năm
1982 khi chỉ số giá bán buôn trong nước bắt đầu giảm. Đây chính là các động lực khuyến
khích người tiết kiệm ở Đài Loan mở rộng quan hệ khách hàng với hệ thống ngân hàng
trong nước.
Chỉ mãi đến đầu những năm 80, việc phát triển các công cụ thị trường tiền tệ như
thương phiếu, bảo lãnh của ngân hàng … mới trở nên quan trọng. Để có thể có được các
khoản ngân quỹ cạnh tranh với các công cụ thị trường tiền tệ có lãi suất biến đổi này, các
ngân hàng thương mại đã được phi kiểm soát và phi tập trung hóa theo hướng tiến bộ. Như
vậy, chỉ sau gần hai thập kỷ tiến hành các biện pháp tăng cường tài chính đặc biệt gắn với
sự ổn định mức giá, cuối cùng Đài Loan đã buông lỏng sự kiểm soát chặt chẽ của chính
phủ đối với những gì mà các ngân hàng có thể làm.
Như vậy, Đài Loan tiến hành tự do hóa sau khi kìm giữ được lạm phát ở mức ổn định
và có được một thị trường tài chính phát triển lành mạnh. Đây là yếu tố quan trọng quyết
định sự thành bại của các chính sách tự do hóa nhằm đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao.
1.6.6 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Chính sách tài chính ở Nhật Bản thời kỳ 1950 – 1970 được xem là “kỷ nguyên tăng
trưởng kinh tế nhanh” cùng với sự tăng trưởng tài chính thực lành mạnh – lại là chính sách
kìm chế tài chính. Nhật Bản đã theo đuổi một chính sách lãi suất thấp nhằm cung cấp
những khoản tín dụng ngân hàng rẻ theo sự chỉ định của chính phủ để trợ giúp cho các dự
án đầu tư công nghiệp được công khai khuyến khích. Các trần lãi suất cho vay và tiền gửi
chuẩn được tất cả các ngân hàng quan trọng tuân thủ, việc bán ra thị trường mở các trái
phiếu công ty và các chứng từ ghi nợ khác bị chính phủ hạn chế và giám sát chặt chẽ. Tuy
nhiên, lãi suất thực bị kiểm soát công khai ở Nhật Bản là tương đối cao so với chuẩn mực
quốc tế. Luồng vốn tín dụng do chính phủ chỉ định trực tiếp tương đối nhỏ bé và chủ yếu
cung cấp cho các ngành công nghiệp “chợ chiều” hoặc đang xuống dốc. Các doanh nghiệp
cạnh tranh quốc tế không gặp khó khăn nào trong việc đấu thầu các nguồn vốn có lãi suất
sát với lãi suất thị trường. Như vậy, hệ thống tài chính Nhật Bản bị kìm hãm không đáng
kể. Thế nhưng, chính phủ Nhật Bản đã không tiến hành tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân
hàng bằng cách thay đổi trần lãi suất tiền gởi, không hạn chế lãi suất cho vay chuẩn đối với
các tổ chức phi ngân hàng, hoặc bằng cách cho phép các ngân hàng tự do vay mượn nước
ngoài. Mặc dù ngân sách dư thừa nhưng lại thiếu một thị trường công trái chính phủ nên
ngân hàng Nhật Bản tăng tiền cơ bản chủ yếu bằng cách chiết khấu các khoản cho vay tư
nhân của ngân hàng thương mại. Mãi cho tới những năm 70 và cho đến thời điểm hiện nay,
Nhật Bản đã tiến hành tự do hoá mạnh mẽ những gì mà các ngân hàng thương mại trong
nước có thể làm được ở cả thị trường tài chính trong và ngoài nước. Hơn nữa, chính phủ
Nhật Bản không còn phải quản lý khoản dư thừa ngân sách, ngân hàng Nhật Bản giờ đây
tăng tiền cơ bản thông qua việc mua công trái chính phủ ở thị trường mở.
Có thể nói, Nhật Bản đã tiến hành tự do hóa tài chính bằng các biện pháp chặt chẽ và
cẩn thận. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi cho rằng các nước khác và Việt Nam có thể
rút ra được một số bài học kinh nghiệm của Nhật Bản trong quá trình tự do hóa tài chính
như sau :
Chính phủ đã không bòn rút hệ thống tiền tệ như một nguồn tài chính dành cho riêng
mình. Hoàn toàn ngược lại, các khoản thu bằng tiền đã được rót trở lại thông qua hệ thống
ngân hàng để gia tăng dòng tiền cho khu vực tư nhân vay.
Sự ổn định tiền tệ bằng một mức giá trong nước ổn định - được hỗ trợ bởi cam kết giữ
tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định – là phương thức chủ yếu bảo đảm lãi suất thực cao và
sự tăng trưởng tài chính thực cao. Chính phủ Nhật Bản đã không bị đẩy đến một tình huống
phải cho phép trả lãi suất danh nghĩa cao để bù lại sự lạm phát trong nước cao và biến động
mạnh.
Chỉ sau khi tăng cường tài chính một cách cơ bản ở các bộ phận phi ngân hàng của thị
trường vốn, các cơ quan chính phủ mới nới lỏng các hạn chế hoạt động của các ngân hàng
thương mại và các trung gian nhận tiền gởi khác. Các khoản tiền gửi của các tổ chức này
được chính phủ bảo hiểm ngấm ngầm hay công khai.
Hệ thống ngân hàng trong nước chưa bao giờ bị đẩy đến tình trạng là trung gian tài
chính chủ yếu đối với các khối lượng lớn của dòng vốn ròng từ nước ngoài đổ vào với
những rủi ro ngoại tệ trực tiếp hoặc gián tiếp đi kèm. Lượng vốn nước ngoài có hạn đến với
Nhật Bản là dưới hình thức đầu tư trực tiếp, hoặc thông thường hơn là theo dạng các hợp
đồng chuyển giao giữa các công ty với nhau.
1.7 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Là nước đi sau trong quá trình tự do hóa tài chính, Việt Nam có được lợi thế là có thể
học hỏi được từ những thành công và thất bại quá khứ của các quốc gia khác. Việc nghiên
cứu kinh nghiệm tự do hóa tài chính của các nước trên thế giới là rất quan trọng và cần
thiết nhằm góp phần làm cho chính sách tự do hóa tài chính thận trọng của Việt Nam có thể
tiến triển hiệu quả và vững chắc, tránh được những cú sốc bất lợi cho nền kinh tế. Qua quá
trình nghiên cứu, chúng tôi đánh giá, xác định và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong quá trình tự do hóa tài chính.
1.7.1 Bài học về cải cách kinh tế vĩ mô
Rõ ràng là tự do hóa tài chính trong một bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định có thể
khiến cho lợi ích của tự do hóa bị triệt tiêu và tình trạng tự do hóa trở nên trầm trọng. Tự
do hóa hoàn toàn lãi suất ở những nước có tỷ lệ lạm phát cao và chính phủ không kiểm soát
được có thể dẫn đến mức lãi suất thực cao và chênh lệch lớn giữa lãi suất tiền gửi và lãi
suất cho vay. Vì vậy, việc xóa bỏ kiểm soát vốn sẽ làm cho các luồng vốn trở nên không ổn
định và giảm hiệu quả việc kiểm soát tiền tệ. Ngược lại, các nước có nền kinh tế vĩ mô khá
ổn định có thể tránh được nguy cơ lãi suất thực cao, dao động trong tỷ giá hối đoái thực và
tình trạng không trả được nợ của các doanh nghiệp và ngân hàng.
1.7.2 Bài học về sự phối hợp các chính sách
Bài học này cho rằng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, cải cách thương mại và chính sách
doanh nghiệp hóa nhà nước nên thực hiện trước, hay ít nhất cũng đồng thời với tự do hóa
tài chính. Lý do đưa ra là trong khi giá cả bị lệch lạc do các biện pháp bảo hộ hoặc kiểm
soát giá thì tự do hóa tài chính có thể sẽ không cải thiện được vấn đề phân phối nguồn lực,
một trong những mục tiêu chủ yếu của nó. Thực tế, xóa bỏ điều tiết có thể làm cho vấn đề
tồi tệ hơn do hệ thống tài chính phản ứng linh hoạt hơn với những tín hiệu xấu. Chẳng hạn,
tỷ giá tăng quá cao ở Chi Lê đầu thập kỷ 80 rất có lợi cho khu vực phi thương mại dẫn đến
đầu tư quá mức vào bất động sản. Tự do hóa tài chính khiến các nguồn lực đổ vào khu vực
này tăng lên. Trong cuộc khủng hoảng tiếp đó, bất động sản là một trong những khu vực bị
thiệt hại nặng nề nhất.
1.7.3 Bài học về cải cách hệ thống pháp luật và có quy định giám sát phù hợp
Sự can thiệp trực tiếp vào khu vực tài chính trong một hệ thống tự do hóa phải được
thay thế bởi một hệ thống pháp luật và quy định phù hợp, nếu không nói là mức độ can
thiệp ít hơn. Việc không đưa ra được các quy định phù hợp và thận trọng cũng như thất bại
trong việc giám sát ngân hàng đã góp phần dẫn đến tình trạng không trả được nợ của các
nước Bán Cầu Nam, Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Malaysia …. Ơ Chi Lê chẳng hạn,
việc tư nhân hóa ngân hàng khi không có một khuôn khổ hợp lý các quy định thận trọng đã
khiến các ngân hàng bị mua lại bởi các tập đoàn công nghiệp để sử dụng cho vay quá mức
đối với các hãng trong tập đoàn.
1.7.4 Bài học về những thay đổi sẽ xảy ra khi tự do hóa tài chính
Khi thực hiện tự do hóa tài chính, chính phủ phải lường trước được cải cách sẽ thay
đổi giá cả tương đối như thế nào và những thay đổi đó sẽ ảnh hưởng ra sao đến các ngành
khác nhau. Việc cân nhắc tính công bằng và tính khả thi chính trị khiến việc hỗ trợ do sự
chuyển đổi cho những ngành bị ảnh hưởng nặng trở nên cần thiết.
1.7.5 Bài học về tự do hóa tài khoản vốn trong quá trình hội nhập
Tài khoản vốn có đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là đối với
một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được lợi ích của việc tự
do hóa trong khi tối thiểu hóa rủi ro yêu cầu phải tự do hóa tài khoản vốn một cách từ từ,
từng bước kết hợp với các chính sách quản lý tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý kinh tế
vĩ mô. Điều quan trọng trong việc quản lý và kiểm soát số lượng dòng vốn vào là sự
khuyến khích rộng rãi để có thể thu hút và làm tăng dòng vốn vào. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến chính sách quản lý từng bước dòng lưu chuyển vốn, hệ thống tài chính trong sạch và
vững mạnh.
Tự do hóa tài khoản vốn chỉ có thể thực hiện khi nền kinh tế có một nhà nước trong
sạch đứng sau lợi ích phát triển toàn cục của đất nước, thay vì đứng sau lợi ích của một vài
nhóm tài chính hoặc sản xuất nào đó; hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, hoạt động
tín dụng được kiểm soát chặt chẽ theo các tiêu chuẩn khách quan mà các ngân hàng phát
triển trên thế giới thực hiện.
Tự do hóa tài khoản vốn được phản ánh thông qua các công cụ mới trong thị trường
tài chính (mua bán tương lai, dựa trên tín dụng ngân hàng, chỉ số), đặc biệt là thị trường cổ
phiếu. Do đó, phát triển thị trường cổ phiếu phải thận trọng, tuần tự khi các điều kiện cân
nhắc ở trên cho phép.
Và như vậy, một nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào nguồn vốn nước
ngoài, đặc biệt là nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng nước ngoài hoặc vốn đầu tư vào thị
trường chứng khoán là những loại vốn có thể chảy ra nhanh chóng.
Bên cạnh đó, việc xác định đúng đắn tỷ giá có ý nghĩa quan trọng trong cán cân
thương mại và cán cân thanh toán. Chính sách tỷ giá nếu không phản ánh đúng cung cầu
của sản xuất sẽ tiếp tục duy trì tình hình mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thương
mại, chồng chất thêm nợ nước ngoài, đồng thời duy trì tâm lý đầu cơ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Quá trình tự do hóa tài chính là một xu thế tất yếu của thời đại, và hầu như là nó đã
đem đến những thuận lợi cho tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập. Bên cạnh
đó, cũng tồn tại và nảy sinh những rủi ro dễ gây tổn thương đến thể chế tài chính trong
nước và khu vực bởi những biến động bất ổn định. Vì vậy, nhu cầu kiểm soát, tăng cường
khả năng an ninh tài chính nhằm hạn chế một cách tối thiểu luôn là một đề tài nóng bỏng
cho các nhà kinh tế. Phân tích quá trình tự do hóa tài chính và kiểm soát an ninh tài chính ở
Việt Nam sẽ được tập trung mổ xẻ trong Chương 2 của đề tài này.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH
TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG CẢI CÁCH VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM SAU
HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc giành được nhiều lợi ích và giảm thiểu
tối đa những tác hại rủi ro được quyết định bởi chỗ mỗi nước phải có một chiến lược xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và cơ cấu lại nền kinh để tranh thủ được các nguồn lực
quốc tế, phát huy có hiệu quả mọi nguồn nội lực và kiểm soát được nền kinh tế - xã hội của
mình. Với nhận định như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế phù hợp trong tình hình mới.
2.1.1 Chủ trương hội nhập của Đảng ta
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội VI (năm
1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan
hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 (khoá VI) chỉ rõ: Việt Nam sẵn sàng mở rộng
quan hệ hợp tác với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở cùng có lợi và
không có điều kiện chính trị ràng buộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải trả.
Đại hội VII (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh của Đảng và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời cũng nêu ra tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế là: Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển.
Đại hội VIII (năm 1996) đã khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xây
dựng một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 (khoá VIII) đã nêu nhiệm vụ cụ thể cho quá
trình này là tích cực chủ động xâm nhập và mở rộng vào thị trường quốc tế vững chắc, tích
cực, khẩn trương đàm phán với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Có kế hoạch cụ thể để chủ động
cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Như vậy, Đại hội VIII và các
Nghị quyết Trung ương khoá này đã chỉ đạo tiến trình hội nhập khẩn trương hơn.
Đến Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định: Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường.
Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từng bước được hình
thành cùng với sự phát triển của đất nước.
2.1.2 Các bước đi trong quá trình hội nhập
Về các bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng ta cần
xem xét đến hai mặt.
2.1.2.1 Đối với bên ngoài
Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là: Năm 1993 đã khai thông
quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB); 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO (cho đến nay, chúng ta đã tiến hành
được 10 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán với 20 đối tác song phương.
Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), đồng
thời tham gia vào AFTA và Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT);
3/1996 tham gia Diễn đàn Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; 15/6/1996
gửi đơn xin gia nhập APEC; 11/1998 được công nhận là thành viên của APEC; năm 2000
ký Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ…
2.1.2.2 Đối với trong nước
Chúng ta đã làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn bản dưới
luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty,
Luật Đầu tư nước ngoài…); thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và
hệ thống kinh tế vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế; để thống nhất việc chỉ
đạo quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này
có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều hành các bộ, ban, ngành trong việc tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.3 Những kết quả đạt được trong tiến trình hội nhập
Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng
cũng đã mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
2.1.3.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Từ năm 1991 đến năm 2000, GDP tăng liên tục qua các năm với nhịp tăng bình quân
hàng năm 7,5%. So với năm 1990, năm 2000 GDP tăng gấp 2,07 lần. Tuy xảy ra cuộc
khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, nhưng từ năm 2001 đến 2004, GDP của Việt
Nam vẫn có nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,25%. Trong năm 2005, tốc độ tăng
trưởng GDP quí I đạt 7,23%, 6 tháng đầu năm đạt 7,63% (tuy nhiên, tốc độ tăng này chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước - mặc dù có chịu ảnh hưởng do thiên tai, dịch
bệnh). Như vậy liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng
cao so với các nước trong khu vực.
Hình 2.1: Tăng trưởng GDP năm 2000 - 2005
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005 của NHNN Việt Nam)
Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng
trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu
vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp
3,34 điểm phần trăm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu
vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực
dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02%
xuống còn 20,40%.
Thực hiện (Tỷ đồng)
Cơ cấu (%).
Chỉ tiêu
Tổng số (giá hiện hành)
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Khu vực công nghiệp và xây dựng
Khu vực dịch vụ
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2005 Năm 2006
100,00
20,40
41,52
38,08
839.211
176.401
343.807
319.003
973.791
198.676
404.344
370.771
100,00
21,02
40,97
38,01
(Nguồn: Tổng Cục thống kê - Ghi chú: Tỷ giá bình quân năm 2006 là 15.950 VNĐ/USD)
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá hiện hành
2.1.3.2 Chính sách tài khóa
Quy mô chi NSNN bình quân các năm 2000-2005 đạt 25,4%GDP, cao hơn mức bình
quân 22,1%GDP của giai đoạn 1996-2000. Năm 2000, quy mô chi NSNN là 23,4%GDP,
năm 2001 đạt 24,8%GDP, năm 2002 đạt 25%GDP, đến năm 2003 đạt 26%GDP và 2004
đạt 25,6%GDP. Về kết cấu, chi thường xuyên tuy vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi
NSNN nhưng có xu hướng giảm dần. Bình quân 5 năm 2001-2005, chi thường xuyên
chiếm 64,3% tổng chi NSNN.
Về cơ cấu thu có tiến bộ và mang tính bền vững. Tỷ trọng các nguồn thu nội địa
(không kể dầu thô) tăng liên tục từ 49,5% (2002) lên 52,3% (2003) và đạt 55,1% trong năm
2004. Trong khi đó, tỷ trọng thu từ thuế xuất nhập khẩu trong tổng thu NSNN lại có xu
hướng giảm do thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo tiến trình hội nhập quốc tế. Thu
từ thuế nhập khẩu đã giảm từ 22,1% (2001) xuống 17,7% (2002), 16,8% (2003), 12,3
(2004).
Cân đối tài khóa của chúng ta luôn là số âm bội chi, và đây là nguyên nhân gây nên
nợ vay của Chính phủ, làm gia tăng rủi ro. Xuất phát từ sự mất cân đối trong hệ thống thu
thuế, tình trạng tham nhũng, lãng phí và thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản là những
nguyên nhân trực tiếp và cũng là những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam trong việc
giảm đi gánh nặng tài khóa lên người dân.
Năm
Tổng thu và viện trợ
Chi và cho vay ròng
Cân đối tài khóa
Tài trợ
+ Trong nước (ròng)
+ Ngoài nước (ròng)
2000
20,5
25,5
-5
5
1,3
3,7
2001
21,6
26,6
-5
5
2,9
2,1
2002
22,2
26,8
-4,6
4,6
2,4
2,2
2003
23,4
28,4
-5
5
3,0
2,0
2004
23,3
26,8
-3,5
3,5
0,7
2,8
2005
23,4
28,1
-4,7
4,7
2,0
2,7
(Nguồn: Bộ tài chính và IMF)
Bảng 2.2: Cán cân tài khóa Việt Nam 1997-2005 (bằng % của GDP)
Tuy việc điều hành chính sách tài khóa của Chính phủ có nhiều bước tiến triển nhưng
vẫn còn một số hạn chế sau:
Tình trạng cấp hạn mức giữa các địa phương không đồng đều, ngân sách địa phương
còn trông chờ nhiều vào NSTW, không phát huy khả năng tự chủ về thu chi tài chính.
Các dự án lớn, công trình xây dựng cơ bản với tiến độ giải ngân chậm gây tình trạng
lãng phí, hoặc được rót vốn vô tội vạ nhưng chưa được thẩm định kỹ. Việc sử dụng vốn
vay nước ngoài quá lớn dễ xảy ra tình trạng nợ quá hạn, dây dưa kéo dài.
Các thủ tục hành chính trong phân quyền thu chi ngân sách còn rườm rà. Thông tin tài
chính không minh bạch và kịp thời.
2.1.3.4 Về xuất nhập khẩu
Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997,
đồng thời cũng đã mở rộng được thị trường xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 39,6 tỷ USD và vượt 4,9% so với kế
hoạch năm 2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước 16,7 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm
trước, đóng góp 39,8% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể
dầu thô 14,5 tỷ USD, tăng 30,1%, đóng góp 46,9% và dầu thô 8,3 tỷ USD, tăng 12,9%,
đóng góp 13,3%. Năm 2006, có thêm cao su và cà phê đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ
USD nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên là 9, trong đó
4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt
hàng đạt trên 3,3 tỷ USD. Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2006 tăng mạnh, do
phát triển nông nghiệp đúng hướng, đồng thời giá thế giới tăng cao, trong đó kim ngạch
cao su tăng cao nhất (+58,3%); cà phê tăng 49,9%; riêng gạo giảm cả kim ngạch và lượng,
chủ yếu do nguồn cung không tăng.
Nhập khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 44,9 tỷ USD, tăng 21,4% so với năm
2005, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 27,99 tỷ USD, tăng 19,9% và đóng góp
62,6% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 16,42 tỷ USD, tăng 20,4%,
đóng góp 37,4%.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị tăng 24,1%; xăng dầu 5,8 tỷ USD, tăng 16,4% (nhưng
lượng nhập giảm 3,8%); phân bón tăng 5,1%; chất dẻo tăng 26,8%; hoá chất tăng 18,6%;
giấy các loại tăng 30,5%; vải tăng 23,1%; riêng nguyên phụ liệu dệt, may, da giảm 14,1%,
và đang có xu hướng giảm do tăng sản xuất trong nước để thay thế; sắt, thép 2,9 tỷ USD,
giảm 0,9%, nhưng lượng tăng 1,8% nhờ giá giảm.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,1 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm 2005,
trong đó một số dịch vụ có tỷ trọng cao đạt mức tăng trên 20% như: du lịch, tăng 23,9%;
vận tải hàng không tăng 35,5%; dịch vụ hàng hải tăng 27,5%; dịch vụ tài chính tăng 22,7%.
Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,12 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước,
trong đó du lịch tăng 16,7% và cước phí vận tải, bảo hiểm (cif) chiếm 33,7%, tăng 20,1%.
Nhập siêu dịch vụ năm 2006 chỉ còn khoảng 22 triệu USD (năm 2005 là 220 triệu USD).
2.1.3.5 Về tình hình thu hút vốn đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư năm 2006 theo giá hiện hành ước tính đạt 398,9 nghìn tỷ đồng,
bằng 105,9% kế hoạch năm, trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng 50,1%, bằng 103,2%;
vốn ngoài Nhà nước chiếm 33,6%, bằng 105,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm
16,3%, bằng 116,1%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính đến hết năm 2006,
cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57
tỷ USD, bình quân 1 dự án đạt 9,5 triệu USD, tính chung cả cấp mới và tăng vốn cả năm
2006 đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là một trong những sự
kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006. Trong tổng vốn đăng ký thuộc các dự án ĐTNN
được cấp phép năm 2006, công nghiệp và xây dựng chiếm 68,4%; dịch vụ chiếm 30%;
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 1,6%. Có 43 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư nước ngoài
mới cấp phép trong năm 2006, trong đó có 12 tỉnh, thành phố có số vốn đăng ký từ 100
triệu USD trở lên. Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép đầu tư vào Việt
Nam trong năm 2006.
Hình 2.2: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội 2001-2005 (%)
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005 của NHNN Việt Nam)
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho 8,2 vạn lao động,
đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 75 vạn người.
Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và thực hiện các
hiệp định song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động thái mới về đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam thể hiện qua việc gia tăng số lượng nhà đầu tư vào Việt Nam khảo sát,
tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh. Xu hướng nói trên đã tạo điều kiện để hình thành các
dự án đầu tư mới trong năm 2007.
2.1.3.6 Về dự trữ bắt buộc
Dự trữ của nước ta còn thấp so với tiêu chuẩn chung theo nghiên cứu của IMF (tương
đương 10 tuần nhập khẩu). Cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn còn thâm hụt khoảng 1%
đến hơn 4%, như vậy đòi hỏi tỷ lệ dữ trữ ngoại hối rất cao để đảm bảo khả năng an toàn về
thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên chúng ta có thể áp dụng đồng bộ các biện pháp về kiểm
soát vốn ngắn hạn và điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt để điều chỉnh lượng ngoại hối
thiếu hụt giảm bớt sức ép lên dự trữ quốc gia.
Bảng 2.3: Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 1997 -2006
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng dự trữ ngoại hối 3.030 3.601 3.971 4.557 5.101 5.692 6.341
(Nguồn: NHNN và tính toán của IMF)
8,6 9,4 9,1 9,5 9,6 9,8 10 Tương đương tuần NK
2.2 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ THẢ NỔI CÓ SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC
2.2.1 Những thành tựu đạt được
Việc đổi mới chế độ một tỷ giá, mà trong đó tỷ giá luôn luôn được điều chỉnh linh
hoạt phù hợp với tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, là bước tiến đáng kể trong quá
trình đổi mới nền kinh tế của nước ta, những thành tựu đạt được là:
- Cơ chế quản lý ngoại hối đã chuyển hướng hoàn toàn với quan điểm tiếp cận cơ chế
thị trường, xóa bỏ độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, thực hiện mở cửa kinh tế đối
ngoại, các doanh nghiệp được phép mở tài khoản ngoại tệ và sử dụng ngoại tệ theo nhu
cầu.
- Thực thi chế độ tỷ giá thống nhất có điều chỉnh linh hoạt theo sát giá thị trường, phù
hợp với tình hình cung cầu ngoại tệ và được xã hội chấp nhận. Từng bước phù hơp với nhu
cầu phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, lạm phát đã
được kiềm chế và đẩy lùi từ mức 3 con số xuống còn 1 con số.
- Cán cân thanh toán quốc tế ngày càng được cải thiện, chính sách tỷ giá ngày càng
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Qua theo dõi diến biến của TGHĐ giữa VND và
USD chúng ta thấy nhà nước đã dần nắm được công cụ tỷ giá để điều hành kinh tế vĩ mô,
cụ thể là khoảng cách giữa tỷ giá hối đoái do NHNN công bố với tỷ giá hối đoái thị trường
tự do không đáng kể.
- Việc giữ ổn định giá trị đồng tiền, cùng với việc nhà nước cho phát hành một số văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, là nhân
tố quan trọng nhằm thu hút vốn tín dụng và đầu tư nước ngoài.
- Do tỷ giá hối đoái ngày càng sát với giá thị trường, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu, đã tác động mạnh mẽ đến thương mại. Đồng thời đáp ứng nhu
cầu ngoại tệ để nhập khẩu, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội góp phần tăng nguồn dự trữ
ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn những tồn tại cần nghiên cứu và tháo gỡ, để từ đó tìm
ra những biện pháp, những hướng đi cụ thể nhằm khắc phục hơn nữa những khiếm khuyết
trong vận hành kinh tế theo cơ chế mới, cơ chế thị trường.
2.2.2 Những tồn tại trong việc xây dựng và điều hành chính sách tỷ giá
Việc xây dựng và điều hành chính sách tiển tệ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam chỉ
mới bắt đầu ở điểm sơ khai, do đó không sao tránh khỏi được những sai sót, những tồn tại
khuyết điểm, mà ta cần phải hoàn thiện.
2.2.2.1 Việc xác định tỷ giá chưa thích ứng với cung cầu ngoại tệ
Cung cầu ngoại tệ đóng vai trò quyết định tới những biến động của TGHĐ, đặc biệt
đối với nước đang phát triển kinh tế như ở Việt Nam, khi mà đồng Việt Nam chưa có giá
trị chuyển đổi và tương đối “yếu” cả trên thị trường trong nước và ngoài nước. Trong đó có
nhiều yếu tố ảnh hưởng tỷ giá, nhưng do điều kiện lịch sử nhà nước chưa nắm chắc các yếu
tố đó, dẫn đến sự xác dịnh tỷ giá vẫn còn chưa thích ứng với cung cầu ngoại tệ. Đặc biệt là
các yếu tố tiêu cực.
Các yếu tố tiêu cực đã ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ ở Việt Nam trong thời gian
qua là:
- Chuyển ngân giả bằng các hình thức như: hoán chuyển ngoại tệ và nội tệ giữa các
chủ thể trong và ngoài nước.
- Thanh toán bằng ngoại tệ giữa các cá nhân, tổ chức trên thị trường nội địa.
- Buôn lậu qua biên giới (đây là nguồn cầu ngoại tệ rất khó đánh giá do tính chất hoạt
động của nó, và là nhân tố quan trọng ảnh hưởng thị trường ngoại hối tự do).
Do nhà nước chưa có quy chế quản lý ngoại hối hoàn chỉnh, và do tỷ giá tương đối ổn
định, nên thị trường chợ đen về ngoại tệ ngày càng có xu hướng phát triển, trong khi những
cơ quan được phép kinh doanh ngoại tệ lại không thu hút được ngoại tệ bằng cách mua bán
trực tiếp và thường xuyên. Do vậy mà cung cầu ngoại tệ chưa được điều tiết một cách thỏa
đáng.
Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp bán ngoại tệ thu được cho ngân hàng, khi
có biến động tỷ giá thì người chịu thiệt vẫn là doanh nghiệp. Ngoài ra khi đầu tư vào các
dự án như khu vui chơi, bất động sản, du lịch các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng ngoại
tệ nhưng nguồn thu là VND, do vậy họ gặp khó khăn trong việc chuyển đổi khi có nhu cầu
cần thiết.
2.2.2.2 Chậm thay đổi tỷ giá theo mức độ cần thiết
Đầu những năm 90, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam rất cao, vì vậy lãi suất nội tệ khá
cao, dẫn đến những đối tượng sở hữu USD đều cố gắng bán hoặc chuyển đổi sang VND để
kiếm lợi, dẫn đến thị trường xáo trộn. Nhiều nhà nhập khẩu thay vì dùng ngoại tệ trả nợ họ
lại cho vay để kiếm lãi.
Bước qua năm 1998, do khủng hoảng tiền tệ của các nước trong khu vực, Việt Nam
cũng bị ảnh hưởng nhiều mặt như: hệ thống ngân hàng yếu kém với số nợ không thu hồi
quá lớn, các doanh nghiệp nhà nước, các công ty làm ăn kém hiệu quả, tỷ lệ đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng, lại bị thiên tai bão lụt thường xuyên.
Sự mất giá nhanh chóng của các loại tiền tệ trong khu vực như Bath Thái, Won Hàn
quốc, Ringgit Malaysia, … và cả sự mất giá của USD, đáng lẽ ra VND cũng phải giảm giá
theo để đảm bảo tỷ giá hối đoái thực, song VND lại không bị giảm giá nhiều. Điều này đã
dẫn đến khó khăn cho các nhà xuất khẩu, bên cạnh đó ta lại không có những dự án hấp dẫn
đầu tư nước ngoài.
2.2.2.3 Chính sách tỷ giá thiếu gắn bó chặt chẽ với chính sách lãi suất
Lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, nó tách động tức thời và ảnh hưởng sâu
rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do giữa chúng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá phải được xử lý
đồng bộ trong quan hệ phù hơp, và biện pháp điều chỉnh lãi suất VND cần đi đôi với việc
điều chỉnh tỷ giá thích hợp, để phát huy tối đa vai trò của công cụ lãi suất tỷ giá trong điều
hành chính sách tiền tệ.
Trong thời gian qua nhà nước đã nhiều lần hạ lãi suất ngân hàng, đồng thời điều chỉnh
tỷ giá tăng lên chút ít. Sự điều chỉnh lãi suất giảm xuống là nhằm khuyến khích đầu tư,
khuyến khích xuất khẩu. Trong lúc đó giá trị VND có khuynh hướng giảm đi, cầu ngoại tệ
có khuynh hướng tăng lên đã làm cho việc nhập khẩu để phục vụ sản xuất trở nên khó
khăn. Vì rằng các nhà sản xuất sẽ lo ngại sau một thời gian tiến hành sản xuất, thu hồi được
chi phí họ sẽ gặp phải rủi ro về tỷ giá do giá ngoại tệ tăng lên.
Đây là mâu thuẫn quan trọng trong các nước đang phát triển, vừa cần xuất khẩu, vừa
cần nhập khẩu, mà tỷ giá tăng lên hay giảm xuống đều ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Nhìn chung trong việc điều hành tỷ giá có nhiều điều phải bàn, tuy có sự thay đổi, có
điều chỉnh nhưng chưa gắn với quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, những diến biến
của tỷ giá vẫn còn hết sức phức tạp, mang tính đặc thù trở thành mối quan tâm không
những của nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của
mọi thành viên trong xã hội. Tỷ giá hối đoái chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, chưa trở
thành đòn bẩy kích thích phát triển kinh tế đối ngoại và điều tiết kinh tế trong nước.
2.2.2.4 Tỷ giá giao dịch ở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng chưa thể hiện hết vai trò điều tiết của mình
Do cung cầu ngoại tệ tại các TTGDNT thời gian này chưa phản ánh đầy đủ, chưa
chứng tỏ được sự linh hoạt trong việc điều hòa cung cầu ngoại tệ. Tỷ giá giao dịch trên
TTNTLNH chưa thể hiện hết vai trò điều tiết của mình, nhất là vao những thời điểm gay
cấn về ngoại tệ cũng như VND khi cung cầu mất cân bằng về vốn, vì dự trữ ngoại tệ của
Ngân hàng Nhà nước còn quá mỏng so với yêu cầu của nền kinh tế.
Số lượng giao dịch trên TTNTLNH thực chất bị hạn chế một phần do hai TTGDNT
(Hà Nội và TP.HCM) hoạt động tách biệt nhau và đại riêng cho từng khu vực, nên gây khó
khăn trong việc thống nhất điều hành tỷ giá theo chỉ đạo của Thống đốc NHNN.
Đến năm 1994, hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng khá sôi nổi, nhưng vẫn chưa phản ánh được cung cầu của thị trường. Mặt
khác, vai trò của NHNN đối với thị trường này còn yếu, nên gặp khó khăn trong việc điều
hành lãi suất, tỷ giá theo thị trường điều tiết lượng tiền cung ứng linh hoạt phù hợp với diễn
biến thực tế.
Qua năm 1997, hoạt động của TTNTLNH đóng băng trong một thời gian dài, nhất là
do ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ khu vực Đông Nam Á, hoạt động của TTNTLNH chỉ
còn là hình thức, chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội tụ và định hướng
chuyển dịch dòng vốn nhàn rỗi giữa các NHTM. Do đó thiếu những điều kiện căn bản để
đối phó linh hoạt với những biến động của lãi suất và tỷ giá hối đoái. NHNN chỉ đơn thuần
điều tiết về mặt tỷ giá, mà không chú ý việc quản lý, tạo thị trường cần thiết cho các hoạt
động kinh doanh ngoại hối tích cực, đáp ứng cung cầu ngoại tệ, phục vụ đắc lực cho nền
kinh tế.
2.3 NHỮNH THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, lãi suất bị áp đặt bởi các quyết định theo kiểu mệnh
lệnh hành chính của NHNN, chính sách lãi suất tách rời với hoạt động kinh tế tài chính,
bao cấp tín dụng, hình thành lãi suất thực âm. Mặt khác, NHNN ban hành nhiều chính sách
lãi suất khác nhau, áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau, tạo nên sự bất bình đẳng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, thời kỳ đổi mới trong hoạt động ngân hàng được chính thức bắt đầu từ
tháng 10 năm 1990 khi 2 pháp lệnh ngân hàng ra đời, hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Từ năm 1990 đến nay, chúng ta có thể phân chia cơ chế điều hành chính sách lãi suất qua
các giai đoạn như sau:
Trong gần 2 năm từ tháng 10/1990 đến tháng 6/1992 NHNN điều hành chính sách lãi
suất bằng cách ban hành nhiều loại lãi suất khác nhau. Mặt khác, lãi suất cho vay còn phân
biệt theo thành phần kinh tế như kinh tế quốc doanh (với mức lãi suất cho vay thấp), hộ
nông dân và kinh tế tư nhân (với mức lãi suất cho vay cao nhất). Ngoài ra, tính bao cấp vẫn
còn thể hiện qua việc cho các doanh nghiệp vay với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động.
Đặc biệt, thời kỳ này lãi suất thực âm vẫn còn tồn tại.
Từ tháng 6/1992 đến năm 1995: Lãi suất thực dương bắt đầu hình thành vào tháng
10/1992; đồng thời sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng được xóa bỏ, đã đánh
dấu một bước ngoặc của hoạt động ngân hàng từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, NHNN vẫn điều hành chính sách lãi suất bằng những quyết định
hành chính như ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
Kể từ năm 1996 đến nay là một khoảng thời gian tương đối dài, NHNN đã có những
bước đi thận trọng trong việc điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa lãi suất
như quyết định xóa bỏ lãi suất sàn, chỉ ấn định lãi suất trần cho vay ngắn hạn cao nhất và
cho vay trung dài hạn cao nhất (hai trần) vào tháng 1/1996; khống chế mức chênh lệch giữa
lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân là 0,35%/tháng (do quốc hội ban
hành). Đến tháng 10/1996, NHNN VN lại ấn định đến 4 trần lãi suất khác nhau: cho vay
ngắn hạn vùng thành thị, cho vay ngắn hạn vùng nông thôn, cho vay trung vá dài hạn và
trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân và Hợp tác xã tín dụng có mức cao nhất.
Luật NHNN VN và Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành kể từ tháng
10/1998, nhưng NHNN vẫn quy định mức lãi suất trần, mãi cho đến tháng 8/2000, NHNN
mới áp dụng lãi suất cơ bản cộng với biên độ trên thay thế cho lãi suất trần.
Từ tháng 6/2002 cho đến nay, NHNN quyết định thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận,
các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay trên cơ sở cung
cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với từng khách hàng. NHNN chấm dứt phần
nào việc can thiệp vào lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Bảng 2.4: Diễn biến lãi suất từ 2001-2004
Thời điểm Lãi suất của
Feb (%/năm) Sibor
(%/năm) LiBor
(%/năm) Lãi suất cơ
bản (%/tháng)
(Nguồn: Kinh tế 2004-2005 - Thời báo Kinh tế Việt Nam)
12/12/2001
6/11/2002
26/6/2003
1/7/2004
11/8/2004
21/9/2004
12/11/2004
14/12/2004 1,75
1,25
1,00
1,25
1,50
1,75
2,00
2,25 1,761
1,284
1,130
1,384
1,787
1,822
2,121
2,410 1,764
1,265
1,119
1,389
1,783
1,821
2,128
2,407 0,600
0,620
0,625
0,625
0,625
0,625
0,625
0,625
2.3.1 Những thành tựu đạt được từ chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trong thời gian qua
2.3.1.1 Chính sách lãi suất góp phần đẩy lùi lạm phát
Nếu như trước năm 1989 tỷ lệ lạm phát là 3 con số xuống còn 2 con số (năm 1989-
1992) thì kể từ năm 1993 cho đến nay tỷ lệ lạm phát được kiểm soát ở mức dưới 2 con số.
Bảng 2.5: Chỉ số lạm phát các năm 2001-2005 (ĐVT: %)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Năm
Lạm phát 2001
8,00% 2002
4,00% 2003
3,00% 2004
9,50% 2005
8,40%
Chúng ta có thể nhận định rằng thành tựu lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước trong
việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua là đã góp phần đẩy lùi được lạm phát,
dù cho tỷ lệ lạm phát trồi sụt bất thường qua từng năm. Năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn
5,2% năm 1994 và 1995 lại tăng đột biến lên 14,4% và 12,7% năm 1996 và 1997 lại xuống
thấp hơn năm 1993, rồi lại tăng lên vào năm 1998; cuối cùng từ năm 1999 cho đến nay lại
có nguy cơ giảm phát. Việc đẩy lùi lạm phát tạo nên khả năng chuyển chính sách lãi suất
thực âm sang chính sách lãi suất thực dương, nâng cao giá trị đồng Việt Nam, hạ thấp được
lãi suất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.3.1.2 Chính sách lãi suất góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua đã đẩy lùi
được lạm phát, nên đồng nội tệ trở nên có giá trị, thu nhập của người dân cũng như của các
tổ chức kinh tế ít bị lạm phát xói mòn. Giờ đây, tâm lý tích trữ vàng của người dân dường
như đã giảm xuống do giá trị đồng Việt Nam vẫn được đảm bảo. Mặt khác, dù có lúc tỷ giá
giữa VND/USD tăng lên trong thời kỳ khủng hoảng tài chính -tiền tệ Đông Á hoặc trong
thời gian gần đây; nhưng sự giao động của tỷ giá vẫn được kiểm soát hợp lỳ, khiến cho giá
trị đồng Việt Nam tương đối ổn định.
2.3.1.3 Chính sách lãi suất quyết định chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân
sách cho ngân sách sử dụng
Điều này được rút ra từ kinh nghiệm trong thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1992: Do
NHNN luôn phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt của ngân sách, gây nên lạm phát trầm trọng.
Từ năm 1993, NHNN chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân sách nhà nước sử dụng; thay
vào đó là các hình thức vay của nhân dân như: phát hành tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu,
hoặc vay nước ngoài.v.v.. Khối lượng tiền phát hành bổ sung hàng năm chỉ nhằm đáp ứng
hai nhu cầu là để tăng trưởng tín dụng và tăng quỹ dự trữ ngoại tệ; tạo ra một hệ thống
huyết mạch đủ sức thích ứng với sự phát triển có hiệu quả của toàn bộ cơ chế thị trường.
2.3.1.4 Chính sách lãi suất góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Bảng 2.6: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước so sánh 1994 phân theo
khu vực kinh tế
Năm Tổng số Dịch vụ
(Nguồn: NHNN Việt Nam)
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006 Nông nghiệp Công nghiệp
107,68
110,07
110,39
109,48
110,48
110,22
110,69
110,37 105,23
104,63
102,98
104,17
103,62
104,36
104,02
103,40 104,77
106,79
106,89
107,08
107,34
107,79
108,44
108,17 102,25
105,32
106,10
106,54
106,45
107,26
108,48
108,29
Nếu lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì các doanh nghiệp sẽ mở
rộng việc sản xuất kinh doanh, hoặc có nhiều doanh nhân thành lập các doanh nghiệp mới;
có nghĩa là nền kinh kinh tế sẽ có mức tăng trưởng cao hơn. Mặt khác, nếu tỷ suất lợi
nhuận bình quân không thay đổi thì việc hạ thấp lãi suất cho vay sẽ tác động nhiều hơn đến
tăng trưởng kinh tế.
2.3.1.5 Chính sách lãi suất góp phần thu hút được vốn và mở rộng tín dụng
Do lãi suất thực dương đã được phát sinh, nên các Ngân hàng thương mại có thể huy
động được tiền gửi và từ đó mở rộng được các khoản cho vay. Như chúng ta đã biết, một
khi lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, đồng thời lãi suất cho vay bình quân lớn hơn
lãi suất huy động vốn bình quân sẽ dẫn đến lãi suất thực dương. Một khi có lãi suất thực
dương thì nhân dân và các tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng. Do đó, ngân hàng thu
hút được tiết kiệm để có thể cho các tổ chức kinh tế vay mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo
đà cho sự phát triển kinh tế.
Đến cuối năm 2003, tăng trưởng tín dụng lên đến 28% và đến tháng 7 năm 2004 tiếp
tục tăng lên 36%. Tính riêng tốc độ tăng trưởng tín dụng của cả bốn ngân hàng cổ phần lớn
tính đến cuối tháng 4 năm 2007 so với đầu năm rất cao: ACB tăng 12,6%; Sacombank tăng
28,23%/; Eximbank tăng 16,29%; Đông Á tăng 16,6%. Trong khi đó chênh lệch lãi suất
đầu vào –đầu ra của các ngân hàng lại vô cùng hấp dẫn. Lãi suất huy động vốn bình quân
của Ngân hàng ACB là 5,64%/năm; Sacombank là 6,06%/năm. Eximbank là 6,76%/năm;
Đông Á là 6,13%/năm. Lãi suất cho vay của ACB là 11,32%/năm; Sacombank là
12,67%/năm; Đông Á là 11,22%/năm; Eximbank là 9,5%/năm
2.3.1.6 Chính sách lãi suất tiến dần tới tự do hóa lãi suất
Từ năm 1988 với Nghị định 53/HĐBT cho đến nay, việc điều hành chính sách lãi suất
của NHNN đã được đổi mới dần. Từ chính sách lãi suất thực âm sang chính sách lãi suất
thực dương vào cuối năm 1992, từ chính sách lãi suất quy định trần sàn cụ thể đến chính
sách lãi suất chỉ quy định lãi suất chỉ quy định lãi suất trần, từ chính sách lãi suất có phân
biệt giữa các thành phần kinh tế đến chính sách lãi suất phần nào được bình đẳng hóa và
cho đến nay NHNN đã tiến đến việc ấn định lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao động.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN đã chuyển
biến dần từ cơ chế đơn thuần áp dụng các biện pháp hành chính đến các cơ chế chính sách
lãi suất cơ bản, có xu hướng tiến dần tới cơ chế tự do hóa lãi suất.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kể trên vẫn còn những tồn tại, kể cả những tồn
tại không còn có thể sửa chữa được vì nó đã qua rồi, lẫn những tồn tại có thể khắc phục
được trong thời gian tới, nhằm nâng cao những thành tựu to lớn hơn nữa trong việc điều
hành chính sách lãi suất của NHNN.
2.3.2 Những tồn tại của chính sách lãi suất trong thời gian qua
Những thành tựu do chính sách lãi suất mang lại trong thời gian qua là đáng kể.
Nhưng nó chỉ mới dừng lại ở mức độ tạo ra những bước đi thích hợp mang tính “quá độ”
để tiến tới chủ trương cải cách cơ bản về chính sách lãi suất. Những cải cách sắp tới cần
thiết phải thích ứng với nhu cầu khách quan đang đặt ra hiện nay trong nền kinh tế thị
trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong nước lẫn nước ngoài. Do chính
sách lãi suất thay đổi theo từng thời kỳ, nên một số tồn tại cũng chỉ có trong một thời kỳ
nhất định. Sau đây là những tồn tại trong thời gian qua.
2.3.2.1 Duy trì quá lâu việc điều hành chính sách lãi suất dựa trên phương pháp
điều chỉnh truyền thống
Từ hơn 10 năm qua, chính sách lãi suất do NHNN quy định đều dựa trên cơ sở tính
toán một cách đơn giản, mang tính đối phó theo từng thời kỳ, chưa tính hết được những
yếu tố sẽ tác động đến lãi suất, cũng như chính sách lãi suất sẽ tác động đến việc thực hiện
chính sách tiền tệ. Việc quy định lãi suất trong thời gian qua của NHNN chưa hoàn toàn
được dựa trên những căn cứ mang tính khoa học.
Trong thời gian qua, NHNN với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan
thay mặt Chính phủ có thể khống chế bằng biện pháp hành chính, quyết định mức lãi suất
tiết kiệm và lãi suất cho vay. Điều này khiến cho NHNN có lúc chủ quan quy định mức lãi
suất một cách đối phó chạy theo thị trường. Sự tác hại của biện pháp hành chính này đã
khiến cho lãi suất có lúc lên cao, có khi hạ xuống một cách bất thường dường như theo cảm
tính, gây mất niềm tin trong đại bộ phận nhân dân và các tổ chức kinh tế.
NHNN là cơ quan điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nói chung và chính sách lãi
suất nói riêng, nhưng NHNN đã làm gì để công khai những chính sách này trước công
chúng? Trong số báo và tạp chí gần đây, các nhà lãnh đạo cao cấp của NHNN chỉ thông
báo những thành tựu, những hoạch định chính sách sắp tới nhưng chưa thật sự đề cập
những tồn tại, thiếu sót. Với chính sách lãi suất dựa trên biện pháp hành chính và phương
pháp điều chỉnh truyền thống là một tồn tại trầm trọng, nó đã kéo dài trong suốt thời kỳ bao
cấp và vẫn còn tồn tại tới cuối thế kỷ XX; mặc dù nền kinh tế bao cấp đã chuyển sang nền
kinh tế thị trường đã được 22 năm.
Nhưng tại sao trong một nền kinh tế thị trường, chúng ta đã công nhận qui luật cung
cầu chi phối, lại phải qui định mức lãi suất theo tín hiệu thị trường? NHNN theo như cách
nói: một tổ chức pháp nhân có quyền khống chế lãi suất thông qua nhiều công cụ sẵn có
trong tay mình như: dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, tỷ giá hối đoái,vv… Xét
ra, NHNN có cần thiết phải áp dụng biện pháp hành chính mang tính bao cấp để điều hành
chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường trong một thời gian dài khá lâu hay không?
2.3.2.2 Chính sách lãi suất hạn chế khả năng cạnh tranh của các NHTM
Trong thời kỳ NHNN qui định một mức lãi suất xơ cứng như lãi suất trần và lãi suất
sàn đã thủ tiêu mọi khả năng cạnh tranh sinh động của các NHTM. Các đơn vị kinh tế quốc
doanh, với vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường, đã được vay theo lãi suất
qui định của các NHTM quốc doanh. Còn các NHTM cổ phần làm sao có thể cho vay theo
lãi suất qui định khi mà lãi suất huy động vốn đã vượt cao hơn mức qui định. Bài toán lãi
suất luôn ở trong tình trạng nan giải. Dường như sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế âm ỷ bộc phát từ rất lâu nhưng chưa được khai thông, ngay cả trong lĩnh
vực hoạt động ngân hàng.
NHTM cổ phần phải cho vay theo lãi suất thỏa thuận trong khi đó NHTM quốc doanh
có thể cho vay theo lãi suất qui định. Điều này tạo nên khe hở cho tình trạng tiêu cực trong
hệ thống doanh nghiệp quốc doanh cả cho 2 phía: các đơn vị sản xuất kinh doanh và các
NHTM quốc doanh, khiến cho vai trò chủ đạo của doanh nghiệp quốc doanh bị lệch lạc.
2.3.2.3 Tồn tại trong việc tổ chức thực hiện quan điểm về tự do hóa lãi suất
Trong năm 1999, NHNN đã phải điều chỉnh lãi suất trần đến 5 lần và đã có định
hướng điều hành lãi suất cơ bản vào tháng 1/1999. Nhưng mãi cho đến 2/8/2000 NHNN
mới có quyết định ban hành thay đổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất: từ cơ chế điều
hành lãi suất trần chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất bằng việc công bố lãi suất cơ bản
theo Luật NHNN qui định. Điều này cho thấy NHNN đã chậm trễ trong việc ban hành cơ
chế điều hành chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản.
Tuy nhiên chúng ta dễ dàng nhận thấy lãi suất cơ bản tương tự như lãi suất trần có
cộng thêm biên độ trên. Điều này gây cản trở cho việc điều hành chính sách lãi suất theo xu
hướng tự do hóa lãi suất, vì biên độ được qui định đó chẳng những tỏ ra mất ý nghĩa mà
còn tạo thêm sự bất bình đẳng trong việc cho vay đối với các doanh nghiệp và các tầng lớp
dân cư.
Lãi suất cơ bản hiện nay có thể hiểu như lãi suất trần cho vay và như vậy chúng ta có
thể nói việc điều hành chính sách lãi suất hiện nay vẫn chưa được điều hành theo lãi suất
trần, tương tự việc điều hành tỷ giá hối đoái với tỷ giá cố định kèm theo biên độ giao động
cho phép. Tất nhiên các tổ chức tín dụng có được tự do hơn khi quyết định lãi suất cho vay,
nhưng chính sự tự do này làm cho lãi suất cơ bản mất hết ý nghĩa như sự cải cách lớn mà
NHNN đã đề ra, bởi vì nó mang tính chấp vá, hình thức.
Như vậy, biên độ trên của lãi suất cơ bản tỏ ra không cần thiết vì nó cũng chưa chắc
chứng tỏ được rằng: Việc điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản hướng
đến tự do hóa lãi suất nhiều hơn so với việc điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế lãi
suất trần cò biên độ dao động tương tự như việc điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay. Trái lại
nó còn hạn chế nhiều đến việc điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa lãi suất
vì thực chất nó còn mang cả tính biện pháp hành chính.
2.3.2.4 Chính sách lãi suất chưa được phối hợp đồng bộ với các công cụ khác của
chính sách tiền tệ
Các công cụ khác của chính sách tiền tệ bao gồm: tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ
bắt buộc, thị trường mở… Trong thời gian qua công cụ tái cấp vốn và thị trường mở hầu
như không hoạt động, công cụ dự trữ bắt buộc và tỷ giá hối đoái hầu như bị tách rời khỏi
chính sách lãi suất. Thực tế cho thấy, sau hơn 20 năm đổi mới hoạt động của ngân hàng chỉ
có công cụ lãi suất và tỷ giá hối đoái được sử dụng nhiều hơn hết trong việc điều hành
chính sách tiền tệ. Nhưng NHNN đã điều hành hai công cụ này bằng biện pháp hành chính,
không mang tính khoa học và không theo cơ chế thị trường. NHNN đã xem chính sách lãi
suất như là công cụ trực tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Những mặt tồn tại trong việc thực hiện chính sách lãi suất nói trên cũng chính là
những vấn đề bất cập đối với tình hình mới của nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ
mở rộng giao thương với nước ngoài, chuẩn bị hấp thu ngày càng nhiều hơn nguồn vốn lớn
của nước ngoài. Chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói riêng tất yếu phải
được cải cách toàn diện, toàn diện, triệt để và thích ứng với những nhu cầu khách quan của
quá trình phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện mới, thời cơ mới và tiềm lực mới.
2.4 TÌNH HÌNH VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
Quản lý nợ nước ngoài thường được xét trên hai khía cạnh: Khía cạnh thể chế và khía
cạnh kỹ thuật. Về khía cạnh thể chế gồm ba phần gắn kết chặt chẽ với nhau: Khuôn khổ
luật pháp hướng dẫn hoạt động vay và trả nợ, cơ cấu tổ chức quản lý nợ nước ngoài và các
chức năng mà các cơ quan quản lý cần đảm bảo nhằm quản lý nợ hiệu quả. Về khía cạnh
kỹ thuật gồm hai phần chính: Chính sách quản lý quy mô và cơ cấu nợ; giám sát và duy trì
thông tin nợ nước ngoài.
2.4.1 Thực trạng
VN cũng như các nước đang phát triển khác có tỉ lệ tiết kiệm trong nước thấp và nhu
cầu đầu tư cao. Vì vậy, VN phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để bù đắp cho khoản
chênh lệch giữa tích lũy và đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xét
riêng khoản vay từ bên ngoài, theo ông Klaus Rohland, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại
VN, tính đến tháng 12.2004, tổng số nợ nước ngoài của VN là 15 tỉ USD (tức khoảng
225.000 tỉ VND), trong đó 3,5 tỉ USD là nợ của Ngân hàng Thế giới. Tính theo đầu người,
mỗi người dân VN đang nợ nước ngoài khoảng 180 USD. Mức nợ này so với các nước
chưa phải là cao. Mỗi người chỉ phải trả nợ khoảng 5 USD một năm, vì có đến 90% nợ là
vốn vay ưu đãi. Theo Báo cáo tài chính phát triển toàn cầu năm 2005, VN được xếp vào
nhóm nước thu nhập thấp, nợ ít. Tuy nhiên, theo Báo cáo tài chính phát triển toàn cầu năm
2001, tổng nợ của VN đã từng lên đến 23,21 tỉ USD và Ngân hàng Thế giới đã xếp VN vào
một trong ba nước ở châu Á và một trong 42 nước trên thế giới, rơi vào nhóm nước nghèo,
nợ nghiêm trọng. Theo báo cáo năm 2002, nợ năm 2000 của VN ở mức 12,7 tỉ USD, bằng
43% so với GDP và 89% so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Bảng 2.7: Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam (ĐVT: Triệu USD)
1998 2002 2003 2001 1999 2000
Năm
Số tiền 2004
1997
21.70 22.502 23.260 12.787 14.400 13.300 15.817 17.374
(Nguồn: ADB 2005)
Gần đây nhất, hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra trong hai ngày 1 và
2.12.2004 tại Hà Nội đã cam kết tài trợ cho VN một số vốn ODA kỷ lục 3,4 tỉ USD cho
năm tài khóa 2005 (tăng 600 triệu USD so với năm 2003). Đây là điều đáng mừng vì cộng
đồng tài chính quốc tế đã đánh giá cao những thành quả về kinh tế – xã hội mà VN đã đạt
được trong những năm qua. Tuy nhiên, điều đó cũng đặt ra những thách thức đối với VN
trước cộng đồng quốc tế về việc nâng cao hiệu quả nguồn vốn ODA, nâng cao khả năng trả
nợ và nâng cao năng lực quản lý nợ.
Thực trạng vay, trả nợ và quản lý nợ nước ngoài của VN từ sau khi đất nước thống
nhất đến nay có thể phân thành 03 giai đoạn :
+ Giai đoạn 1 : (1975 – 1988), nền kinh tế gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn
vốn bên ngoài.
+ Giai đoạn 2 : (1988 – 1993), đây là giai đoạn khó khăn nhất khi các nước XHCN
cắt hầu hết các khoản viện trợ và các nước TBCN đang cấm vận.
+ Giai đoạn 3 : (1993 đến nay), đây là giai đoạn VN bình thường hóa quan hệ với các
định chế tài chính quốc tế, chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, mở ra
nhiều triển vọng và phương hướng mới trong quan hệ hợp tác phát triển giữa VN và các
định chế tài chính quốc tế cũng như hàng loạt các quốc gia phát triển khác.
2.4.2 Đánh giá
Đánh giá thực trạng quản lý nợ nước ngoài theo khía cạnh thể chế như sau :
° Thứ nhất, khung pháp lý đã có những tiến bộ vượt bậc về mặt thể chế. Tuy nhiên
vẫn còn bỏ sót rất nhiều lĩnh vực chưa điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng chưa đồng bộ
và thiếu biện pháp đảm bảo thực thi hiệu quả.
° Thứ hai, tổ chức quản lý và chức năng, nhiệm vụ: Cơ cấu tổ chức có những tiến bộ
vững chắc nhưng sự phân chia nhiệm vụ, chức năng giữa các cơ quan chính phủ vẫn chưa
hợp lý, hiệu quả. Do vậy, vẫn chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đảm bảo quản lý tập
trung thống nhất việc vay mượn nợ nước ngoài.
Đánh giá thực trạng quản lý nợ nước ngoài về khía cạnh kỹ thuật có các vấn đề sau :
Một là, phân tích nhu cầu vay mượn dựa trên ba cân đối chính của nền kinh tế : Cân
đối giữa tiết kiệm – đầu tư; Cân đối trong cán cân thanh toán; Cân đối ngân sách nhà nước.
Tiết kiệm trong thời gian qua đã cải thiện đáng kể nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu vốn
đầu tư cần thiết, mặc dù NSNN đã chấm dứt việc tài trợ thâm hụt bằng phát hành tiền
nhưng hàng năm Chính phủ vẫn phải vay bên ngoài để bù đắp thâm hụt ngân sách, để trả
lãi và vốn vay những năm trước.
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam năm 2005)
Hình 2.3: Cơ cấu cán cân vốn của Việt Nam 2002-2005
Hai là, phân tích khả năng trả nợ dựa trên đánh giá mức độ nợ và khả năng thanh
toán nợ. Theo nhiều nguồn số liệu và nhiều cách đánh giá khác nhau của WB và IMF đều
cho thấy mức độ nợ hiện tại của VN tương đối thấp, áp lực trả nợ so với nguồn thu để trả
nợ ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên về lâu dài cần chú ý đến xu hướng nợ tăng trở lại
và khả năng tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi ngày càng hẹp dần theo đà tăng thu nhập
bình quân đầu người của VN.
Ba là, phân tích danh mục nợ : Theo thời hạn, trên 90% nợ của VN là nợ dài hạn. Với
cơ cấu này rủi ro khá thấp nhưng nền kinh tế sẽ kém linh hoạt do thiếu các hoạt động sôi
động của thị trường tài chính hiện đại; Theo việc áp dụng các công cụ tài chính trong tái
cấu trúc nợ, VN đã thành công trong việc áp dụng chính sách đối ngoại linh hoạt cũng như
các công cụ tài chính trong việc xử lý nợ và đã giảm được một lượng dư nợ lớn, đưa VN từ
quốc gia được xếp vào nhóm nợ nghiêm trọng năm 1999 trở thành quốc gia nợ ít năm
2000.
Năm
Tổng nợ
1990
1995
1994
23.270 24.800 25.427
1996
26.257
1997
21.780
1998
2000
1999
22.502 23.260 12.787
Nợ dài hạn
Nợ tín dụng IMF
21.378 21.855 21.777
377
112
282
21.964
539
18.986
452
20.918 20.529 11.546
316
391
355
Nợ ngắn hạn
1.780
2.663
3.272
3.754
2.342
2.193
2.376
952
(Nguồn: Global Development Finance - Financing the Poorest Countries 2002)
Bảng 2.8: Cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam (ĐVT: triệu USD)
Tuy nhiên, việc xử lý nợ vẫn chưa có được tính chủ động cần thiết; Theo cơ cấu tiền
vay, USD và yên Nhật là hai đồng tiền chiếm tỉ trọng cao nhất trong dư nợ vay. Đây là hai
đồng tiền thường xuyên biến động trên thị trường thế giới nhưng so với đồng VN lại lên
giá, vì vậy áp lực tỷ giá là một gánh nặng. Tuy nhiên, theo đánh giá của IMF thì mức độ rủi
ro do sự biến động tỉ giá hối đoái này có thể chịu đựng được. Theo tình hình nợ quá hạn,
dư nợ quá hạn ngày càng giảm, tuy nhiên vẫn còn chiếm trên dưới 10%, một mức nợ quá
hạn khá cao so với tỉ lệ an toàn chung theo khuyến cáo của IMF.
Bốn là, phân tích nguồn tài trợ và các chính sách thu hút nguồn vốn từ bên ngoài : Tài
trợ bằng vay nợ, tính theo dư nợ, hiện tại có đến 90% chủ nợ của VN là chủ nợ chính thức
trong đó chủ nợ đa phương tăng dần từ 0,43% năm 1993 đã lên đến 24,8% năm 2003. Với
cơ cấu nguồn tài trợ như vậy, chi phí vay nợ của VN tương đối thấp và thời gian ân hạn
dài; Tài trợ bằng tiết kiệm trong nước, tỉ lệ tiết kiệm trong nước còn khá thấp và đa phần
được tích lũy dưới dạng tài sản phi sản xuất. Tiết kiệm trong nước mỗi năm chiếm 30%
GDP, tài trợ khoảng 70% nhu cầu đầu tư; Luồng FDI tài trợ khoảng 8% nhu cầu đầu tư.
Tuy nhiên, nguồn tài trợ này không ổn định do tính chậm thay đổi và thiếu hấp dẫn của môi
trường đầu tư VN.
Năm là, phân tích tình hình sử dụng vốn đầu tư, rất khó tách bạch đâu là hiệu quả của
vốn đối ứng, đâu là hiệu quả của vốn vay và đâu là hiệu quả của vốn có nguồn từ FDI.
Nhìn chung, VN sử dụng vốn còn kém hiệu quả do nhiều nguyên nhân và chủ yếu là do
thiếu một cơ chế kiểm tra, giám sát và công khai hóa các chi tiết tài chính liên quan đến dự
án.
Sáu là, đánh giá việc giám sát và duy trì thông tin nợ. Thực trạng này có thể tóm tắt
qua nhận định : “Số liệu sẵn có thiếu chính xác, không kịp thời, thiếu toàn diện và thiết
nhất quán về định nghĩa”.
Bảng 2.9: Tình hình nợ của một số quốc gia trong khu vực
Nợ/Tổng thu nhập (%)
(Nguồn: BTC)
Quốc gia
Thái lan
Philippine
Malaysia
Indonesia
Trung quốc
Việt Nam 48
71
55
80
13
32 Nghĩa vụ nợ/Xuất khẩu (%)
11,8
12,3
7,8
36,9
6,7
5,8
Nhìn chung, so với các nước trong khu vực, tổng số nợ quốc gia của Việt Nam so với
GDP hiện đang ở mức tương đối ổn định và đang nằm trong giới hạn được phép so với các
chỉ tiêu do các tổ chức tài chính quốc tế nêu ra. Tình trạng nợ nước ngoài vẫn được kiểm
soát tốt.
2.4.3 Những hạn chế trong quá trình điều hành nợ vay nước ngoài
- Chưa hình thành được một chiến lược và chính sách vay nợ có hệ thống và toàn
diện.
- Chưa xác định được một cơ cấu và hình thức huy động các khoản vay cho phù hợp
trên cơ sở đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay, tránh tập trung gánh nặng trả nợ vaò NSNN.
- Chưa có cơ quan cao nhất điều phối và giám sát chặt chẽ mức độ an toàn nợ nước
ngoài cũng như mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với các quan hệ vĩ mô khác (tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối,v.v..).
- Hệ thống văn bản về quản lý nợ chồng chéo, không nhất quán và mâu thuẫn với
nhau.
- Hệ thống thông tin về quản lý nợ nước ngoài chưa được thiết lập và khai thác tốt.
Tóm lại, vốn nước ngoài là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá trình
công nghiệp hóa ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế đang phát triển nào, đặc biệt trong
điều kiện hiện nay khi mà xu hướng mở cửa hội nhập quốc tế đã trở thành phổ biến. Tuy
nhiên, vay và trả nợ như thế nào để vừa khai thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu
quả để biến việc vay mượn thành một đòn bẩy phát triển kinh tế, vừa không làm gia tăng
những nguy cơ đối với an ninh tài chính và không phụ thuộc vào những can thiệp về kinh
tế và chính trị từ nước ngoài là một vấn đề không phải dễ dàng giải quyết đối với VN hiện
nay.
2.5 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
2.5.1 Hoạt động của hệ thống ngân hàng
Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống các TCTD đã có những bước phát triển vượt bậc
về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Đến cuối năm 2005, hệ thống các TCTD Việt Nam đã
phát triển đa dạng về loại hình và hình thức sở hữu với 5 NHTMNN, 1 ngân hàng chính
sách xã hội, 36 NHTMCP, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 6
công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân.
Với sự ra đời của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp
tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5/1990) đã đưa đến việc hình thành hệ thống
ngân hàng 2 cấp. Theo đó, các NHTM thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ và cung cấp
các dịch vụ ngân hàng; NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và chức năng
NHTW. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về ngân hàng được hoàn thiện về căn bản với
việc ban hành Luật NHNN và Luật các TCTD vào tháng 12/1997. Quá trình tự do hoá tài
chính được thực hiện theo những bước đi cụ thể và đã đạt được kết quả đáng khích lệ, bao
gồm:
- Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường với hệ
thống các công cụ gián tiếp;
- CSTT đã được đổi mới căn bản và có trật tự theo hướng tăng cường các công cụ và
phương pháp điều hành gián tiếp, phù hợp với sự thay đổi về thể chế và hạ tầng tài chính;
- Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và đã được tự do hóa theo cơ chế
thị trường (từ lãi suất áp đặt sang “trần – sàn”, đến khống chế trần và cuối cùng là lãi suất
thỏa thuận);
- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép
theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế, bước đầu đã đáp
ứng được yêu cầu của cải cách hành chính. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã
được tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần
trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho doanh
nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp NHNN có điều kiện tập trung
nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân hàng trung ương hiện đại;
- Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều chỉnh, đến tỷ
giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường;
- Từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa hoàn toàn và các giao
dịch vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc ban hành Pháp lệnh Ngoại hối.
- Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối tượng khách
hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách bạch hoạt động cho vay
chính sách với cho vay thương mại;
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN 2005)
Hình 2.4: Tín dụng đối với nền kinh tế
- Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh tế và tổ chức
tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt động cung ứng dịch vụ độc quyền
của ngành ngân hàng sang thị trường tài chính đa ngành;
- Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và phát triển, góp
phần hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và cải cách khu vực tài chính – ngân hàng, lòng tin của
công chúng vào VND và hệ thống ngân hàng ngày càng được tăng cường.
Ngành ngân hàng tích cực, chủ động mở cửa thị trường và tăng cường hợp tác quốc tế
song phương và đa phương để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ cộng đồng và
quốc tế. Việt Nam bình thường hóa quan hệ với các tổ chức như WB, IMF, ADB. Đến cuối
năm 2005, WB và ADB cam kết tài trợ tổng giá trị vốn vay hơn 9 tỷ USD cho 108 chương
trình, dự án quốc gia thuộc các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, y tế giáo dục.
Quỹ ngoại hối của Nhà nước được đảm bảo an toàn và không ngừng sinh lời. Đến nay
quỹ ngoại hối đã tăng hàng trăm lần so với năm 1991, đáp ứng 10 đến 12 tuần nhập khẩu,
góp phần đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế để thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên tiến trình cải cách để hội nhập chưa thực sự mạnh mẽ và sâu rộng với hệ
thống ngân hàng, tài chính khu vực và quốc tế. Xuất phát từ những lý do khách quan như
xuất phát điểm dịch vụ ngân hàng còn thấp về trình độ phát triển thị trường, quy mô vốn
yếu, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp kém so với nhiều nước trong khu vực cũng
như trên thế giới.
Phần lớn các NHTM Việt Nam đều có vốn tự có thấp, quy mô kinh doanh nhỏ, quản
trị còn yếu kém. Mức vốn tự có thấp là nguyên nhân làm sức mạnh tài chính yếu và khả
năng chống đỡ rủi ro kinh doanh thấp. Hiện nay, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có rủi ro
của hầu hết các NHTMQD chỉ đạt mức 2,5%-35, trong khi quy định của Ngân hàng thanh
toán quốc tế (BIS) là 8%. Ngân hàng có mức vốn cao nhất hiện nay khoảng 250 triệu USD
và thấp nhất là 5 triệu USD, trong khi đó ngân hàng trung bình trong khu vực có mức vốn
xấp xỉ 1 tỷ USD.
Bảng 2.10: Số liệu ba ngân hàng cổ phần hàng đầu tính đến 30/4/2007 (tỷ đồng)
Chỉ tiêu ACB
1.100
52.109
47.724
19.272
0.18% SACOMBANK EXIMBANK
1.212
19.299
16.549
11.902
0.97% 2.089
33.724
29.395
18.644
0.59% Vốn điều lệ
Tổng tài sản
Tổng vốn huy động
Dư nợ cho vay
Nợ xấu/dư nợ cho vay
Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
(Nguồn: NHNN và các ngân hàng)
93,8
515
1,05% 112,3
413,2
1,37% 59,59
215
1,19% Lợi nhuận trước thuế
LNTT/TTS (ROA)
LNTT/Vốn điều lệ (ROE) 46,81% 19,78% 17,73%
Ảnh hưởng của chương trình tín dụng chỉ định đối với sự tăng trưởng và phân bổ thu
nhập, thì một điều rõ ràng là chúng đã làm tổn hại đến hệ thống tài chính. Rất nhiều khoản
tín dụng cho vay theo chỉ định đã trở thành những khoản nợ khó đòi. Khả năng có thể vay
với lãi suất thấp đã làm cho đầu tư kém hiệu quả. Những khoản tín dụng mà người vay sử
dụng cho các dự án kém hiệu quả sẽ không thể giúp họ hoàn trả được nợ.
Công nghệ ngân hàng tuy được đổi mới cơ bản, song vẫn còn một khoảng cách khá
xa so với hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực và chưa đáp ứng được nhu cầu
của người dân. Điều này thể hiện ở tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông vẫn chiếm một tỷ lệ lớn
và phương tiện thanh toán chủ yếu ở Việt Nam do các doanh nghiệp và dân cư vẫn chưa
sẵn sàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
Một vấn đề đáng quan tâm khác là sự không tương xứng về cơ cấu kỳ hạn giữa nguồn
vốn huy động và nguồn vốn cho vay. Mặc dù kênh huy động vốn trung và dài hạn qua thị
trường chứng khoán đã phần nào chiếm ưu thế nhưng nguồn vốn cho đầu tư của doanh
nghiệp vẫn dựa vào các NHTM. Và trên thực tế cho thấy rằng tiền gửi ngắn hạn chiếm tỷ
trọng lớn, và ngân hàng dùng nguồn tiền này để cho vay dài hạn làm tăng nguy cơ mất khả
nănh thanh toán khi có biến động bất thường xảy ra.
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 11/2006. Thời gian chuyển đổi được
phép từ 3-5 năm thì khoảng năm 2010, sẽ không có sự phân biệt giữa các tổ chức tín dụng
trong nước với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Ngoài ra, trong thời gian tới, các ngân
hàng nước ngoài tăng cường mạng lưới hoạt động tại Việt Nam dưới mọi hình thức. Hiện
nay ANZ, HSBC là hai ngân hàng bán lẻ nổi tiếng ở Việt Nam, trong thời gian tới, Citi
Bank của Mỹ cũng tuyên bố trở thành ngân hàng bán lẻ của Việt Nam. Ngoài ra còn có
UOB, Standard Chartered cũng tham gia vào khu vực này là cho sự cạnh tranh về dịch vụ
ngân hàng bán lẻ ngày càng phức tạp hơn.
Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với các TCTD Việt Nam là phải không
ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động của mình và một trong những thành phần quan
trọng của quá trình cơ cầu này là khả năng về vốn, hoạt động quản lý, hạn chế rủi ro tín
dụng và xử lý nợ hiệu quả.
2.5.2 Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
Năm 2006 là năm thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam được đánh giá là thời kỳ
"bùng nổ" thị trường kể từ ngày khai trương thị trường năm 2000 với 1 trung tâm giao dịch
duy nhất là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM, được vận hành theo quy luật
cung cầu thông qua hệ thống giao dịch tập trung. Đến tháng 3/2005 TTCK có thêm Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, được hoạt động theo cơ chế thỏa thuận. Minh chứng
cụ thể là các kỷ lục về chỉ số chứng khoán cũng như giá trị giao dịch đã liên tục được phá
vỡ trong các kỳ giao dịch của năm. Chỉ số giá chứng khoán VN-Index của phiên giao dịch
cuối cùng của năm 2006 (ngày 29/12) tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK)
TP HCM ở mức 751,77 điểm, tăng mạnh so với mức 307,5 điển của phiên giao dịch cuối
cùng năm 2005.
Trước những diễn biến của chỉ số VN-Index, số lượng công ty niêm yết cũng tăng
mạnh, đến 31/12/2006, đã có 106 công ty niêm yết và 2 chứng chỉ quỹ tại TTGDCK
TPHCM, tăng 74 công ty và 1 chứng chỉ quỹ so với cuối năm 2005. Theo đó tại TTGDCK
Hà Nội, số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch cũng tăng nhanh, nếu tính đến
30/6/2006, chỉ có 12 công ty đăng ký giao dịch thì đến 31/12/2006 đã có 87 công ty đăng
ký giao dịch. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đạt 221.156 tỷ đồng,
chiếm 22,7% GDP của năm 2006, tăng 20 lần so với cuối năm 2005.
Bảng 2.11: Tình hình tăng giảm chứng khoán trong kỳ (từ ngày 11/6/2006 –
11/16/2007)
Chỉ tiêu Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ
quỹ Trái
phiếu
(Nguồn: TTGDCK TPHCM)
Niêm yết mới(ngàn CK)
Niêm yết bổ sung
Huỷ niêm yết
Niêm yết lại 19.338.433.650
892.416.940
-
- 1.228.218
69.242
-
- 50.000
20.000
-
- 68.533
-
-
-
Ngoài ra, việc niêm yết trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến 31/12/2006 có gần 400 loại
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên
70.000 tỷ đồng, bằng 7,7% GDP của năm 2006. Trong đó có 3.550 tỷ đồng trái phiếu tăng
vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV), khoảng 1.000 tỷ đồng là các loại chứng chỉ quỹ đầu tư chứng
khoán.
Bảng 2.12: Quy mô niêm yết thị trường hiện tại: tính đến 11/6/2007
Toàn thị trường
Cổ phiếu
Chứng chỉ
Trái phiếu
510,00
100,00
107,00
20,98
2,00
0,39
401,00
78,63
2.369.559,98
100,00
1.713.913,11
72,33
100.000,00
4,22
555.646,87
23,45
Chỉ tiêu
Số chứng khoán niêm
yết
Tỉ trọng(%)
Khối lượng niêm
yết(ngàn CK)
Tỉ trọng(%)
Giá trị niêm yết(Triệu
đồng)
Tỉ trọng(%)
73.406.818,12
100,00
17.139.131,12
23,35
1.000.000,00
1,36
55.267.687,00
75,29
(Nguồn: TTGDCK TPHCM)
Sự tăng trưởng của TTCK còn phải kể đến các nhà đầu tư. Sự tham gia tích cực, lành
mạnh có tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư đã tạo nên hình ảnh đẹp cho TTCK. Tuy
nhiên, đối với một TTCK còn non trẻ như Việt Nam, tính chuyên nghiệp của thị trường
chưa cao do nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường chiếm đa số (khoảng 99%), thông
thường đối tượng này trình độ hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế. Năm 2006, số lượng
nhà đầu tư tham gia thị trường tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005, đến hết năm 2006 có
khoảng 100.000 tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán, tăng mạnh so với 31.300
tài khoản của năm 2005. Trong đó 1.700 tài khoản (chiếm 1,7%) của nhà đầu tư nước
ngoài, bao gồm một số nhà đầu tư quốc tế như JP Morgan, MerrII Lynch, Citigroup…
Bảng 2.13: Quy mô giao dịch của nhà ĐTNN trong 12 tháng
Tháng
DTNN (bán)
Toàn thị
trường
ĐTNN
(bán)
Toàn thị
trường
GTGD
ĐTNN
(mua)
KLGD
ĐTNN
(mua)
6.887.460
31.168.770
16.704.320
24.574.810
30.942.000
47.052.650
28.384.330
22.541.540
6.869.950
5.190.430
9.024.620
8.014.880
42.551.100
128.318.560
99.231.450
217.028.660
123.985.330
185.394.030
131.656.380
77.620.030
49.737.980
54.051.550
54.945.310
30.292.770
5.328.680
12.473.040
7.471.930
30.361.550
19.382.180
22.606.680
12.642.760
3.003.840
1.720.120
1.280.360
899.850
563.420
4.573.686.306
15.759.598.048
11.120.509.837
22.491.289.065
13.656.135.134
19.163.620.451
10.469.106.659
4.951.041.782
2.898.936.450
2.796.787.156
2.640.369.718
1.700.291.753
953.295.050
4.358.012.195
2.262.220.796
3.796.042.999
5.002.466.410
7.864.207.058
3.523.074.126
1.530.523.844
444.639.015
300.398.412
494.859.591
565.503.711
568.280.228
1.783.805.074
1.065.563.077
3.911.544.725
2.910.114.555
3.221.468.550
1.220.467.937
223.255.957
129.601.267
80.019.504
54.788.901
25.874.403
Jun-07
May-07
Apr-07
Mar-07
Feb-07
Jan-07
Dec-06
Nov-06
Oct-06
Sep-06
Aug-06
Jul-06
(Nguồn: TTGDCK TPHCM)
Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu niêm yết của nhà đầu tư nước ngoài khoảng 25-30%. Giá trị
giao dịch chứng khoán (bao gồm cả trái phiếu) của nhà đầu tư nước ngoài năm 2006 cũng
tăng cao so với năm 2005. Cụ thể là giá trị giao dịch mua năm 2006 khoảng 17.000 tỷ đồng
(năm 2005 khoảng 3.000 tỷ đồng), giá trị giao dịch bán năm 2006 khoảng 9.500 tỷ đồng
(năm 2005 khoảng 2.900 tỷ đồng). Nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua các
Quỹ đầu tư chứng khoán ngày càng phổ biến. Đến cuối năm 2006, có 23 Quỹ với quy mô
vốn đầu tư ước đạt 2,3 tỷ USD và gần 50 tổ chức đầu tư nước ngoài mở tài khoản hoặc ủy
thác đầu tư trên TTCK. (Phân tích “Nguyên nhân bùng nổ thị trường chứng khoán Việt
Nam” xem thêm phần phụ lục).
2.5.3 Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư
Cho đến nay, hiện có khoảng 45 quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn
đầu tư khoản 6.277 triệu USD. Sự tăng trưởng về số lượng và quy mô của các quỹ đi liền
với sự phát triển nhanh chóng của TTCK. Tuy nhiên hầu hết các quỹ chỉ tập trung tìm kiếm
dự án có quy mô lớn và đạt tỷ suất lợi nhuận cao, trong khi đó vốn thực tế trung bình của
một dự án tại Việt Nam chỉ vào khoảng 10 triệu USD.
Theo nhận định của các chuyên gia, hiện nay các quỹ không chỉ tập trung vào các dự
án lớn mang tầm cỡ quốc gia, mà họ còn đẩy mạnh khai thác khu vực kinh tế tư nhân hoạt
động có hiệu quả có tình hình tài chính minh bạch, triển vọng niêm yết trên thị trường
chứng khoán.
Với chiến lược tập trung đầu tư chủ yếu vào các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất, chế biến và lắp ráp, cũng như phân phối và xây dựng thương hiệu và bất động sản. Cụ
thể là các quỹ đã góp phần phát triển các giá trị cốt lõi trong các lĩnh vực hữu ích cho việc
gia tăng giá trị cho các loại hình doanh nghiệp: sản xuất tiết kiệm, thu thập dữ liệu, xác
định chi phí hoạt động, lập kế hoạch sản xuất, quản lý sản xuất, lập kế hoạch về nguyên vật
liệu, cũng như các lĩnh vực khác có tầm trọng đặc biệt với các công ty sản xuất.
Ví dụ như Mekong Capital là quỹ đầu tư tập trung vào việc đầu tư cổ phần tư nhân
trong các doanh nghiệp tư nhân được quản lý tốt ở Việt Nam. Giá trị tài sản ròng (NAV)
của quỹ xấp xỉ 27 triệu USD tại thời điểm ngày 30/6/2006. Các khoản đầu tư hiện tại của
Quỹ bao gồm: Tân đại hưng (nhựa), Kiến trúc và xây dựng (AA), Tin học Lạc Việt, Ngô
han (dây điện từ), Nam hoa (đồ chơi bằng gỗ), Minh phúc (in bao bì), Chế biến gỗ Đức
Thành, May Minh Hoàng.
Và kết quả đạt được mức tăng trưởng doanh thu trung bình năm của các công ty nhận
đầu tư của quỹ là 34,3% trong giai đoạn từ khi Quỹ đầu tư đến 31 tháng 12 năm 2006.
Đồng thời, mức tăng trưởng lợi nhuận ròng trung bình năm xấp xỉ 49,6% trong cùng kỳ.
Lợi nhuận ròng đã tăng nhanh hơn so với tỷ lệ doanh thu tại các công ty là nhờ vào các dự
án hỗ trợ thành công mà các quỹ mang lại.
Sự phát triển cả về số lượng lẫn quy mô vốn đầu tư của các quỹ như hiện nay, kênh
huy động vốn của doanh nghiệp càng được mở rộng về số lượng lẫn giá trị. Điều này sẽ là
một đảm bảo chắc chắn về nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp nhằm tập trung vào sản xuất
kinh doanh, phát triển bền vững và tăng cường tiềm lực cho nền kinh tế.
2.6 NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.6.1 Kết quả
Tăng trưởng kinh tế bền vững thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm ở mức
dao động 8 -9%, tốc độ thu hút đầu tư và gia tăng tỷ lệ xuất khẩu không ngừng gia tăng qua
các năm.
Tình trạng lạm phát được kiểm soát tốt so với các năm trước đây và luôn được duy trì
ở mức dưới hai con số.
Nợ vay nước ngoài được WB đánh giá ở mức ổn định và đang nằm trong giới hạn
được phép so với các chỉ tiêu do các tổ chức tài chính quốc tế nêu ra. So với các nước trong
khu vực thì nợ của Việt chưa thực sự cao, tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm
trong tầm kiểm soát.
Chính sách tỷ giá thống nhất có điều chỉnh linh hoạt theo sát giá thị trường, phù hợp
với tình hình cung cầu ngoại tệ và được xã hội chấp nhận.
Chính sách lãi suất từng bước được điều chỉnh sát với biến động tình hình cung cầu
tiền tệ và những biến động khác của thị trường.
Sự phát triển ổn định của hệ thống ngân hàng, các định chế tài chính và các trung tâm
giao dịch vốn là một minh chứng cho thấy tầm kiểm soát an ninh tài chính ở Việt Nam
được thực hiện tương đối tốt.
2.6.2 Hạn chế
Mặc dù nền kinh tế nước ta đang tăng trưởng ở mức cao nhưng các chuyên gia kinh tế
vẫn cảnh báo là một kinh trong giai đoạn tăng trưởng nóng. Ngoài ra còn nhiều hạn chế
trong việc thực hiện chính sách tài khóa của Chính phủ như tình trạng bội chi NSNN ở
mức báo động, chính sách thuế còn nhiều bất cập.
Cán cân thanh toán thâm hụt thường xuyên trong khi đó lại xuất hiện tình trạng thặng
dư trong cán cân vốn (vay nợ và đầu tư gián tiếp ồ ạt tăng). Chúng ta gia tăng đầu tư nhưng
hàng hóa đầu ra lại không xuất bán được. Nếu có biến động bất thường xảy ra, thì có nguy
cơ dòng vốn “tháo chạy” ra khỏi nước ta là điều có thể. Với tình hình dự trữ ngoại hồi còn
thấp như hiện nay thì chúng ta khó có thể chống đỡ nổi.
Tuy nợ vay của chúng ta ở ngưỡng an toàn nhưng vẫn còn tồn tại nhiều về mặt thể
chế như phân chia nhiệm vụ, chức năng giữa các cơ quan Chính phủ vẫn chưa hợp lý và
hiệu quả. Do vậy, vẫn chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đảm bảo quản lý tập trung
thống nhất việc vay mượn nợ nước ngoài.
Nạn tham nhũng, thất thoát trong đầu tư XDCB luôn là một bài toán khó và nó chỉ có
thể giải được khi có sự cương quyết đồng lòng của tất cả các dân chúng và cơ quan chính
phủ.
Thị trường tài chính mà đặc biệt là thị trường chứng khoán phát triển rất nóng trong
thời gian vừa qua, có nguy cơ làm nảy sinh những “bong bóng” ảo và nó có thể nổ ra
những rủi ro cho nền kinh tế.
2.6.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Nền kinh tế của nước ta xuất phát điểm rất thấp. Ngoài ra, chúng ta duy trì quá lâu cơ
chế quản lý cũ không có hiệu quả nữa trong tình hình mới.
Hệ thống các văn bản pháp luật chồng chéo chưa được chỉnh sửa kịp thời với tốc độ
phát triển của nền kinh tế.
Thiếu những mục tiêu chiến lược dài hạn cụ thể trong việc quản lý kinh tế vĩ mô. Các
chiến lược mang tính chất đối phó, không mang tính chất dự báo và kế hoạch.
Trình độ quản lý của cán bộ chủ chốt còn hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu
mới của nền kinh tế. Tình trạng quan liêu trong quản lý hành chính vẫn còn tồn tại.
Khả năng hấp thụ và ý thức hội nhập của đại bộ phận tầng lớp dân cư chưa cao cũng
như công tác tuyên truyền chưa được sâu rộng.
Tác động tiêu cực từ những nền kinh tế bên ngoài như chịu sự ảnh hưởng của nền
kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thật vậy, quá trình tự do hóa tài chính của nước ta đang tiến nhanh trên những nấc
thang đầu tiên của quá trình hội nhập. Chúng ta đã từng bước đạt được những nền tảng
vững chắc trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm của những nền kinh tế lớn. Tuy nhiên đã
xuất hiện những mầm mống gây bất ổn định tài chính như tình trạng bội chi thâm hụt ngân
sách, dự trữ ngoại hối quá thấp, nợ nước ngoài tuy nằm trong tầm kiểm soát nhưng tiềm ẩn
nhiều nguy cơ làm gia tăng nợ xấu và khả năng trả nợ. Vì vậy, chúng ta cần phải tiếp tục
tăng cường công tác kiểm tra an ninh tài chính bằng nhiều biện pháp khác nhau để giảm
thiểu rủi ro tài chính đến mức độ cho phép. Chương 3 sẽ đề cập và giải quyết vấn đề này.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG
TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
3.1 NHỮNG DỰ BÁO VỀ LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC ĐẾN KIỂM SOÁT AN NINH
TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HẬU WTO
3.1.1 Những lợi thế
Trước hết, ta sẽ được hưởng những ưu đãi mậu dịch mà các nước dành cho nhau và
dành cho VN, tức là một nước thành viên này dành ưu đãi mậu dịch như thế nào cho một
nước thành viên khác thì cũng dành ưu đãi như vậy cho tất cả các nước thành viên còn lại,
trong đó có VN. Nhờ đó, hàng hoá củaVN sẽ có điều kiện tốt hơn để thâm nhập vào thị
trường thế giới;
Tiếp theo là vào WTO, VN sẽ không bị áp đặt những quy định phi lý, trái với nguyên
tắc của WTO nhờ vào hệ thống giải quyết tranh chấp của tổ chức này, VN sẽ tránh được
tình trạng phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế;
Với việc phải thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan
theo quy định của WTO sẽ giúp VN loại bỏ được những sai lệch trong phân bố nguồn lực,
tạo điều kiện để phát triển có hiệu quả hơn, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền
vững hơn;
Vào WTO, VN cần phải tái cấu trúc lại các ngành kinh tế, tập trung vào những ngành
thực sự có lợi thế so sánh, bằng cách đó mà phát huy được tính hiệu quả nhờ quy mô, làm
cho chi phí tính trên một đon vị sản phẩm bé đi và hiệu quả tăng lên;
Vào WTO, bắt buộc VN phải cải cách môi trường kinh doanh theo hướng công khai,
minh bạch, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, nhờ đó các nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên
tâm đầu tư vào VN nhiều hơn, ta sẽ có cơ hội tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện
đại, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà;
Tham gia vào WTO, các doanh nghiệp VN sẽ có cơ hội nhập khẩu các yếu tố đầu vào
với chi phí thấp hơn, được sử dụng các dịch vụ công có chất lượng tốt hơn, tạo điều kiện
làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế;
Tham gia vào WTO, hệ thống ngoại thương của VN sẽ được cải cách một bước do
việc phải loại bỏ dần những bất hợp lý theo yêu cầu của WTO. Nhờ đó, hệ thống thương
mại của VN sẽ ngày càng phù hợp hơn với hệ thống thương mại thế giới, tạo tiền đề thuận
lợi để mở rộng giao thương với nhiều nước trên thế giới;
Vào WTO, buộc lòng các doanh nghiệp VN phải phấn đấu liên tục để không ngừng
làm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình chẳng những trên thị trường thế giới mà
ngay cả trên sân nhà. Nhờ đó, ở VN sẽ hình thành một hệ thống doanh nghiệp ngày càng
mạnh, một đội ngũ doanh nhân ngày càng năng động, hiểu biết luật chơi của thế giới để
làm giàu chính đáng cho đất nước và cho chính bản thân mình.
3.1.2 Những thách thức
3.1.2.1 Chính trị
Nếu chúng ta thể hiện mong muốn gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, cộng
đồng chính trị và kinh doanh bên ngoài sẽ thúc ép chính phủ nuớc ta thực hiện những cải
cách về hệ thống chính trị, pháp luật, và tài chính công khai, nhằm tiến tới phi tập trung
hóa, tự do mậu dịch, công khai thông tin về các chính sách phát triển của Việt Nam.
Nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước, củng cố sức mạnh pháp luật, và thu hút đầu tư
nước ngoài, các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước, và các tổ chức kinh tế của
nước ta sẽ buộc phải đứng trước những thách thức công khai hóa về các khoản chi, các
khoản hỗ trợ, mức lợi nhuận, và chiến lược phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Mặt khác, môi trường hội nhập toàn cầu sẽ buộc tất cả các quốc gia thành viên phải
cam kết thực hiện các chính sách cải thiện môi trường đầu tư bằng các định chế và cải cách
được quy định bằng các văn bản pháp luật cụ thể nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài, cho phép các giải pháp và tranh luận hòa bình diễn ra
hợp pháp, tạo điều kiện trao đổi kinh tế, mở cửa thị trường, và quan trọng nhất là tính nhất
quán và sự tin cậy trong đường lối và chiến lược của chính phủ.
Về an ninh chính trị, một số nhà lãnh đạo và dân chúng nước ta đang hết sức lo ngại
rằng quá trình hội nhập sẽ dẫn đến sự suy yếu chủ quyền quốc gia và tạo ra những thách
thức an ninh mới. Tình trạng di cư bất hợp pháp, buôn lậu ma túy, tội phạm xuyên quốc
gia, tệ nạn xã hội, buôn bán vũ khí trái phép chính là những thách thức mới đối với an ninh
quốc gia và an ninh khu vực.
3.1.2.2 Kinh tế
Thách thức lớn về kinh tế trong quá trình hội nhập là những khuynh hướng thay đổi
cơ cấu kinh tế để sống còn trong một môi trường cạnh tranh gay gắt hơn. Chúng ta đừng
đơn giản nghĩ rằng mở cửa nền kinh tế nước ta bằng cách cam kết thực hiện các lộ trình hạ
thấp các rào cản thuế quan, cũng có nghĩa rằng các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ dễ dàng
thâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, và EU. Các cuộc vận động hành lang
nhằm bằng cách này hay cách khác thực hiện chính sách bảo hộ ở các nước có mức thu
nhập cao hơn, kể cả Mỹ, đang lợi dụng các quy định về chống phá giá để ngăn chặn hàng
“nhập khẩu giá rẻ” từ các nước đang phát triển.
Như trường hợp Mỹ kiện cá basa của chúng ta bán phá giá chẳng hạn. Rõ ràng là
người tiêu dùng và giới nhập khẩu cá basa tại Mỹ bị thiệt hại vì không được mua cá basa
của nước ta với giá rẻ. Chỉ có các chủ trại nuôi cá tại Mỹ mong muốn áp đặt thuế cao cho
cá basa Việt Nam để bảo hộ ngành nuôi cá da trơn tại Mỹ. Chính sách trợ giá cho các loại
nông sản Mỹ mà tổng thống Bush sắp thông qua cũng nằm trong kế hoạch bảo hộ các
ngành nông sản lớn của Mỹ như ngô, lúa mì và thêm cả các loại nông sản khác. Như vậy,
trong khi chúng ta đang mong muốn hội nhập vào nền kinh tế quốc tế bằng nỗ lực giảm các
loại thuế quan, nhưng không có những quy định chặt chẽ để chuẩn bị tham gia một cuộc
chơi công bằng, thì sẽ trở thành nơi tiêu thụ các loại hàng kém chất lượng, các loại hàng
được trợ cấp của các nước giàu “một cách hợp pháp” và giết chết những doanh nghiệp làm
ăn chân chính trong nước.
Chính vì vậy, các chính sách thúc đẩy kinh tế và đầu tư, công nghệ thông tin, hoàn
thiện quản lý Nhà nước và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc vươn ra nắm bắt các cơ hội của
thị trường quốc tế là hết sức quan trọng. Nếu không làm được những mắt xích này, việc hội
nhập kinh tế của nước ta trong một môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt sẽ trước mắt đem
lại nhiều tác động xấu cho kinh tế nước nhà.
3.1.2.3 Văn hóa, xã hội
Hội nhập là chấp nhận sự giao thoa văn hóa, chúng ta phải đối đầu với vấn đề cải biến
văn hóa nhằm phù hợp với xu thế chung. Trong quá trình hội nhập, điều tất yếu khó tránh
khỏi là sự thay đổi cấu trúc xã hội như sự tương quan giữa khu vực nhà nước và tư nhân,
tương quan giữa các ngành kinh tế và khoảng cách giàu nghèo trong thu nhập và hưởng thụ
các dịch vụ công. Nước ta cũng không thể nào thoát khỏi nỗi ám ảnh triền miên của các
nước đang phát triển trong quá trình tham gia hội nhập là nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên.
Điều đáng lo ngại ở đây là lao động nước ta lại đang gặp nhiều khó khăn trong việc hội
nhập với thị trường lao động thế giới do những hạn chế về kỹ năng giao tiếp. Sức ép về di
dân từ nông thôn ra thành thị sẽ càng làm tăng gánh nặng về quản lý giao thông, vệ sinh
môi trường, quản lý hành chính, cải thiện cơ sở hạ tầng, công ăn việc làm và an ninh trật tự
trong đô thị.
3.1.2.4 Môi trường
Đây là mảng được tranh cãi nhiều nhất trong các hội nghị của WTO. Các nước công
nghiệp đang có khuynh hướng di dời các nhà máy, các công đoạn sản xuất ô nhiễm sang
những khu vực có luật bảo vệ môi trường lỏng lẻo hơn. Luật bảo vệ môi trường càng gắt
gao ở các nước phát triển càng làm cho môi trường của các nước nghèo, cần thu hút đầu tư
nước ngoài để tạo ra công ăn việc làm cho dân mình, dễ xuống cấp hơn. Nếu các nước
đang phát triển không chuẩn bị để đối phó với vấn đề nan giải này, với công nghệ xử lý
môi trường lạc hậu và trình độ dân trí chưa cao sẽ tạo ra một thiên đường thu hút các công
đoạn sản xuất, các nhà máy đang có vấn đề về ô nhiễm môi trường. Mặt khác, với sức cạnh
tranh kém về công nghệ, các quốc gia đang phát triển như chúng ta sẽ càng bị rút cạn các
nguồn tài nguyên do tình trạng xuất các nguồn tài nguyên thô, ít giá trị gia tăng sang các
quốc gia có công nghệ chế biến trình độ cao hơn. Chính vì vậy, ngoài các chính sách bảo
vệ môi trường lâu dài, khai thác và sử dụng tài nguyên một cách thích đáng trên cơ sở tính
toán khoa học về tốc độ khai thác và phục hồi phải được cân nhắc trong các chiến luợc phát
triển của quốc gia.
Mở cửa ra thế giới bên ngoài là tích cực hay tiêu cực đối với môi trường và phát triển
bền vững ở Việt Nam?. Tóm lại, đối mặt với nhiều nhân tố không chắc chắn, chúng ta cần
đi sâu nghiên cứu để tìm ra các chính sách và chiến lược đúng đắn để giải bài toán môi
trường và phát triển.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ
3.2.1 Quan điểm hoạch định chính sách tài khóa
Quan điểm hoạch định chính sách tài khóa được thể hiện qua những điểm sau:
Chính sách tài khóa phải gắn liền hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, thúc -
đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Chính sách tài khóa phải là một trong các nhân tố chủ chốt duy trì ổn định -
tài chính quốc gia.
- Chính sách tài khóa phải minh bạch, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động
cung cấp dịch vụ công cho nền kinh tế.
3.2.2 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế
3.2.2.1 Khắc phục bội chi Ngân sách Nhà nước
Bội chi NSNN là hiện tượng phổ biến xảy ra ở hầu hết các nền kinh tế đang phát
triển. Nguồn thu chủ yếu của NSNN là từ hệ thống thu thuế và thặng dư của các thành phần
kinh tế Nhà nước trong khi đó áp lực chi luôn đè nặng lên NSNN. Tiến trình tự do hóa đòi
hỏi phải cắt giảm thuế suất và từng bước cổ phần hóa DNNN, vì vậy nguồn thu cho NSNN
giảm đi khi quốc gia có hệ thống thuế yếu kém và tận dụng không tốt các khoản vay ưu đãi
từ nước ngoài. Điền này buộc các Chính phủ phải in thêm tiền để bù đắp thâm hụt, dẫn đến
lạm phát cao, đè nặng cơ chế tỷ giá hiện có.
Nhằm đạt đến sự cân đối ngân sách (là một trong 3 cân đối vĩ mô chính), chính phủ
cần tiến hành một số biện pháp sau:
Các sắc thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên hóa về chức năng và
thống nhất mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa chức năng, đa mục tiêu trong cùng một
sắc thuế. Lượng hóa cơ cấu hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu trong thu NSNN cho
phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó không ngừng hoàn thiện cơ chế
hành thu, từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế để tương đồng với khu vực về
trình độ quản lý.
Đẩy mạnh xã hội hóa các quan hệ tài chính trong chi NSNN. Đây là giải pháp tài
chính cải thiện tính minh bạch, rõ ràng về chính sách; nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực
tài chính; thu hút mạnh mẽ các nguồn lực tài chính của khu vực kinh tế tư nhân vào cung
ứng sản phẩm công cộng với chất lượng cao cho xã hội; hạn chế sự can thiệp quá sâu của
Nhà nước vào đời sống kinh tế vi mô và xác lập đúng vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Giảm bớt gánh nặng chi Ngân sách Nhà nước bằng cách mở rộng phạm vi xã hội hóa một
số khoản chi ngân sách đối với một số lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao, truyền
hình, giảm tối đa các khoản chi có tính bao cấp.
Chuyển đổi phương thức quản lý Ngân sách theo đầu vào sang lập Ngân sách theo kết
quả đầu ra; đẩy mạnh khoán chi; cắt giảm chi hành chính trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc
cải cách hành chính và tái cấu trúc lại khu vực quản lý Nhà nước.
Hoàn thiện thị trường trái phiếu Nhà nước mà trong đó chính phủ sẵn sàng trả với
mức lãi suất thị trường nhằm thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư và dân chúng. Nếu
điều này thực hiện được, chính phủ có thể vay được tiền từ dân chúng thay vì phải vay từ
ngân hàng. Hơn thế nữa, thị trường trái phiếu còn cho phép chính phủ tham gia vào các
hoạt động thị trường mở, mà từ đó chính phủ có thể kiểm soát được lượng tiền lưu thông
trong nền kinh tế bằng cách mua vào hay bán ra trái phiếu và các chứng khoán ngắn hạn
khác.
Về phân cấp quản lý NSNN: từng bước thực hiện nâng dần quyền quyết định của địa
phương về quản lý NSNN. Mở rộng phân cấp các khoản thu gắn với kinh tế địa phương và
cho phép địa phương được quyền chủ động trong việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ
chi của các cấp NS trực thuộc. Theo đó, Trung ương giao chỉ tiêu tổng thể, địa phương chủ
động bố trí các khoản mục NS cho phù hợp với luật pháp quy định và tính đặc thù của địa
phương.
Việc điều hành và quản lý NSNN của chính sách tài khóa là một trong những yếu tố
then chốt cho việc ổn định hóa và cải cách theo định hướng thị trường mà nhiều quốc gia
đang phát triển thực hiện trong đó có Việt Nam.
3.2.2.2 Minh bạch hóa việc xây dựng và thực thi chính sách
Theo thông lệ quốc tế để các nhà cung cấp dịch vụ tài chính có thể hiểu, chấp nhận và
tuân thủ các tiêu chuẩn, thủ tục và tăng thêm tính hiệu quả của chính sách, chúng ta cần
phải duy trì việc minh bạch hóa chi tiết việc xây dựng và thực thi chính sách. Để đạt được
mục đích này, chúng ta cần phải:
Minh bạch hóa việc xây dựng chính sách, cụ thể là khi đề xuất một chính sách mới
hoặc sửa đổi chính sách hiện tại, trừ trường hợp khẩn cấp, Chính phủ và các Bộ ngành có
liên quan phải công bố cho công luận biết trong một khoảng thời gian hợp lý và tiến hành
nhận các ý kiến đóng góp.
Minh bạch hóa việc thực thi chính sách: chúng ta phải bảo đảm rằng các quy định
chính sách và thủ tục hành chính và các quyết định tư pháp phải được công bố công khai
theo quy định của GATS, thiết lập và công bố thời hạn có hiệu lực của các quy định áp
dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ và giấy phép được cung cấp dịch vụ.
3.2.2.3 Hoàn thiện việc xây dựng cơ chế giám sát hợp lý
Theo các nhà nghiên cứu, tự do hóa tài chính bản thân nó không gây ra khủng hoảng
tài chính nhưng việc thiếu vắng cơ chế giám sát tài chính thích hơp và không có phương
thức điều hành chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp thì tự do hóa dịch vụ tài chính có thể tạo
ra nhiều vấn đề. Không có quy định giám sát hợp lý thì các định chế tài chính có khả năng
ứng xử một cách bừa bãi cộng với những bất cập trong quản lý kinh tế vĩ mô có thể gây ra
khủng hoảng niềm tin và châm ngòi cho khủng hoảng kinh tế. Ở các nước đang phát triển,
nơi mà quy mô và chiều sâu của thị trường tài chính còn thấp thì việc khủng hoảng niềm
tin có thể trầm trọng hơn nữa bởi hành động theo “xu hường bầy đàn” của các nhà đầu tư.
Để thiết lập cơ chế giám sát thích hợp nhằm ngăn ngừa và phát hiện những cuộc
khủng hoảng có khả năng phát sinh trong quá trình tự do hóa các dịch vụ tài chính, trong
dài hạn Chính phủ cần phải khẩn trương, rà soát và ban hành lại các văn bản pháp quy, bổ
sung và sửa đổi cũng như thiết lập hệ thống nối mạng thông tin giữa các chủ thể tham gia
vào các dịch vụ tài chính với người tổ chức ra thị trường này là các cơ quan của Chính phủ.
Trước mắt, chúng ta cần phải nhanh chóng thay đổi các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế về
an toàn vốn đối với các Ngân hàng và các định chế tài chính. Hệ thống Ngân hàng cần
nghiên cứu và triển khai nhanh chóng các tiêu chuẩn về an toàn vốn. Ngoài ra, NHNN Việt
Nam cần tạo ra sân chơi bình đẳng và không nên tạo nhiều hổ trợ cho các Ngân hàng quốc
doanh trong việc thiết lập các tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với các Ngân hàng thương mại cổ
phần.
3.2.2.4 Hoàn thiện hệ thống luật pháp và xử lý các xung đột mâu thuẫn giữa quy
định của quốc gia và quốc tế.
Hội nhập với sự đa dạng của dịch vụ tài chính và nhiều phương thức cung cấp khác
nhau. Nhưng nhìn chung, chúng đều được chi phối bởi những quy tắc chung mà tất cả các
quốc gia đều phải thừa nhận. Chính vì vậy, sự hòa hợp giữa thông lệ quốc tế và các quy
định hiện hành của một quốc gia là rất khó và có thể phát sinh các mâu thuẫn sau:
- Quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành mâu thuẫn với Hiệp định.
- Hiệp định có quy định các loại hình dịch vụ tài chính mà pháp luật Việt Nam chưa
có quy định.
Trong các trường hợp trên, các quy định trong Hiệp định sẽ được ưu tiên hơn so với
các quy định của pháp luật trong nước về cùng một nội dung. Phương hướng giải quyết sẽ
là:
+ Sửa đổi các quy định pháp luật trong nước.
+ Bổ sung các quy định pháp luật trong nước.
Quản lý tài chính cần được điều tiết bởi các luật và nguyên tắc hành chính toàn diện
áp dụng cho các hoạt động trong và ngoài ngân sách. Bất kỳ một cam kết hay chi phí về
vốn của Chính phủ đều phải do một cơ quan pháp lý thực hiện.
Các khoản thuế, lệ phí cần phải có cơ sở pháp lý rõ ràng. Luật và các quy định về
thuế cần phải dễ tiếp cận, dễ hiểu và cần có các tiêu chuẩn rõ ràng để hướng dẫn các thẩm
quyền hành chính khi triển khai.
Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cần quy định rõ ràng và thực hiện đồng bộ trên
phạm vi cả nước.
3.2.2.5 Thực hiện thắng lợi cải cách DNNN hoạt động kém hiệu quả bằng biện
pháp cổ phần hóa
Theo chúng tôi, những giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt
Nam muốn có hiệu quả phải xuất phát từ nhiều phía, làm sao cho tất cả các bên cùng nhận
thấy được lợi ích của việc cổ phần hóa và đồng lòng dốc sức thực hiện. Vì thế, những đề
xuất của chúng tôi cho vấn đề này là:
(cid:131)
Xác định những doanh nghiệp lớn gặp khó khăn nhất và có những hành động
điều chỉnh để cải thiện hoạt động của các doanh nghiệp này bằng cách sử dụng toàn bộ các
biện pháp chính sách, kể cả cơ cấu lại, chuyển đổi sở hữu hoặc đa dạng hóa hình thức sở
hữu, hoặc thanh lý những doanh nghiệp không còn khả năng tồn tại.
(cid:131) Cần nhanh chóng tiếp tục giám sát hiệu năng và nợ nần của các doanh nghiệp
lớn nhất để cho phép giải quyết nhanh các khó khăn đang nổi lên.
(cid:131)
Xét một cách tổng thể, kế hoạch hành động toàn diện là cần thiết cho toàn bộ
khu vực DNNN, bao gồm việc phân loại tất cả các DNNN phù hợp với các tiêu chí tài
chính và các lựa chọn chính sách đã được hoạch định thích hợp, đặc biệt là việc cơ cấu lại,
chuyển đổi sở hữu hoàn toàn hay một phần hoặc giải thể.
(cid:131)
Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại các “tam giác nợ” “không thể đòi”. Phải lành
mạnh tài chính của doanh nghiệp trước khi tiến hành cổ phần hóa, để cho cổ phần hóa
không chỉ là cổ phần hóa phần “xương”. Đây là một vấn đề hóc búa liên quan đến nhiều
phía như: giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp và ngân hàng, và với NSNN.
(1) Đối với các khoản nợ “lòng vòng” giữa các DNNN với nhau, thiết nghĩ chúng ta nên
mạnh dạn tiến hành thị trường hóa tất cả các khoản nợ này. Ở Việt Nam, do công cụ
thương phiếu và hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu chưa phát triển nên việc
giải quyết vấn đề này gặp nhiều khó khăn. Do đó, phải luật hóa chi tiết và hướng dẫn cho
các DNNN sử dụng công cụ thương phiếu để giúp họ thoát khỏi khó khăn về tài chính và
lành mạnh lại tài chính khi công ty cổ phần đi vào hoạt động. Việc thành lập công ty mua
bán nợ là cần thiết để xử lý triệt để các khoản nợ. Công ty mua bán nợ đứng ra làm trung
gian mua lại những khoản nợ phải thu còn dây dưa của các doanh nghiệp rồi tự tìm cách
thu xếp thanh toán với các con nợ (là doanh nghiệp có nợ phải trả). (2) Còn đối với các
khoản nợ của doanh nghiệp với ngân hàng, với ngân sách nhà nước, chúng tôi xin đề cập
sau ở phần lành mạnh hệ thống ngân hàng.
(cid:131)
Bãi bỏ quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu và mua cổ phần ưu đãi của
cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp để khuyến khích việc huy động vốn và vai trò tích cực của
giám đốc.
(cid:131) Giảm bớt tỉ trọng cổ phần Nhà nước trong các công ty cổ phần hóa để thoát ly
khỏi ảnh hưởng của Nhà nước và cơ chế quản lý cũ.
(cid:131) Cổ phần hóa nên nhắm vào tầng lớp dân cư bên ngoài nhiều hơn để phát huy
tối đa nguồn vốn xã hội.
(cid:131)
Thay đổi phương pháp định giá doanh nghiệp theo kiểu hội đồng và hành chính
chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan hiện nay sang hình thức đấu giá khách quan thịnh hành
trong nền kinh tế thị trường.
(cid:131)
Nên tạm ngưng việc thành lập mới các DNNN trong tình hình tài chính hiện
nay, vì thành lập mới các DNNN trong điều kiện hiện nay cũng giống như là việc xây dựng
một công trình kiến trúc trên một nền đất yếu.
(cid:131)
Chính phủ cần phát triển các chương trình hợp lý hóa các tổng công ty nhằm
tăng cường hiệu quả và tính cạnh tranh. Các DNNN lớn cần được hợp thành các tổng công
ty, hướng tới mục tiêu là hình thành nên các tập đoàn kinh tế vững mạnh, đủ sức đứng
vững trong cạnh tranh.
3.3 CÁC QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
3.3.1 Chính sách tỷ giá ở Việt Nam phải từng bước thích ứng với các điều kiện tự
do hóa thương mại trên thị trường tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, tỷ giá trước hết cần phải là công cụ
hàng đầu để điều tiết và tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó không phải
là công cụ để điều hành chính sách kinh tế đối ngoại, đặc biệt phục vụ cho nền kinh tế
“mở” của nước ta hiện nay hòa nhập vào khu vực và thế giới.
Với điều kiện sản xuất hiện nay ở Việt Nam, hàng hóa nước ngoài có thể đè bẹp hàng
hóa trong nước, nếu không có một sự bảo nhất định nào đó để các doanh nghiệp trong nước
dần dần thích hợp với điều kiện mới, thì các doanh nghiệp này có thể bị phá sản, nền kinh
tế gặp khó khăn. Do đó cần phải sử dụng chính sách tỷ giá để bảo hộ một cách hợp lý các
doanh nghiệp trong nước, đồng thời cũng làm cho chúng ta quen dần với cách thức điều
chỉnh các quan hệ kinh tế, bằng công cụ của chính sách tiền tệ, sử dụng công cụ tiền tệ để
điều tiết kinh tế vĩ mô của kinh tế thị trường hiện đại.
3.3.2 Chính sách tỷ giá phải kích thích phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế
Tỷ giá giữa đồng nội tệ so với ngoại tệ, tác động lớn tới nền kinh tế trong nước, trực
tiếp là tác động lớn đến xuất nhập khẩu. Chẳng hạn khi nội tệ lên giá thì xuất khẩu hàng
hóa của nước đó ra nước ngoài sẽ khó khăn hơn, đắt đỏ hơn. Ngược lại, khi nội tệ giảm giá,
thì hàng hóa của nước đó dễ bán ra thị trường thế giới, xuất khẩu của nước có đồng tiền
giảm giá sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
Tuy nhiên nếu chỉ để kích thích xuất khẩu bằng cách phá giá VND, sẽ làm cho giá
thành nhập khẩu tăng cao, ảnh hưởng đến giá thành sản xuất các sản phẩm khác trong
nước. Sự gia tăng giá thành sản phẩm đó còn bao gồm cả giá thành của các sản phẩm xuất
khẩu, vì những sản phẩm xuất khẩu này được sản xuất bằng nguyên liệu máy móc nhập
khẩu. Mặt khác, trong điều kiện các nhà sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam hầu hết
không phải là những người trực tiếp xuất khẩu hàng hóa, cho nên việc phá giá VND cũng
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của các nhà sản xuất hàng xuất khẩu, điều này bắt
buộc các nhà sản xuất hàng xuất khẩu phải thu hẹp sản xuất và do đó gây thiệt hại cho nền
kinh tế.
Trường hợp ngược lại, nếu duy trì tỷ giá nội tệ cao, để ổn định thị trường tiền tệ, ổn
định sản xuất trong nước thì sẽ làm cho xuất khẩu khó khăn hơn. Khi đó, nhà sản xuất hàng
xuất khẩu cũng không thể mở rộng sản xuất được.
Vì vậy chính sách tỷ giá hiện nay vừa phải bảo vệ lợi ích của nhà xuất khẩu, đồng
thời vừa bảo vệ lợi ích của nhà nhập khẩu, nhà sản xuất trong nước.
3.3.3 Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng giữa kinh tế đối nội và kinh
tế đối ngoại
Trong nền kinh tế mở, mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là phải đạt được thế cân
bằng đối ngoại. Tuy nhiên bên cạnh mục tiêu đó, còn cần phải duy trì được thế cân bằng
kinh tế đối nội.
Tuy nhiên chúng ta cần phải nói rõ rằng chính sách tỷ giá không phải là chính sách
duy nhất, được sử dụng để điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại. Bên cạnh chính sách tỷ
giá, các chính sách khác như: chính sách tài chính ngân sách, chính sách phát triển các
thành phần kinh tế,… đều có vị trí quan trọng. Đặc biệt trong đó chính sách tài chính ngân
sách có một vị trí đáng kể trong việc cân bằng các quan hệ kinh tế đối nội, sự cân bằng
kinh tế đối nội là một điều kiện để thực hiện hiệu quả kinh tế đối ngoại. Ngoài ra, việc sử
dụng chính sách tỷ giá để kích thích xuất khẩu chỉ có thể thực hiện có hiệu quả, khi mà nội
lực của nền kinh tế còn chứa đựng nhiều tiềm năng xuất khẩu.
3.3.4 Thực hiện chính sách đa ngoại tệ
Hiện nay, trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn các ngoại tệ khác,
song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá bị
ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả của USD trên thế
giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là
những ảnh hưởng rất bất lợi.
Hiện nay có nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh toán quốc tế như EURO (Châu Âu),
JPY (Nhật), CAD (Canada), GDP (Bảng Anh). Điều này tạo điều kiện cho nước ta có thể
thực hiện chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, từ đó ta có thể chọn ngoại tệ nào
tương đối ít biến động về tỷ giá hoặc có quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh
toán.
Phương pháp tính tỷ giá của các đồng tiền tập thể này đều giống nhau, chỉ khác nhau
ở số lượng, cơ cấu những đồng tiền và tỷ trọng những đồng tiền được đưa vào danh mục
tiền tệ. Điều quan trọng là làm sao xác định được tỷ giá danh nghĩa tương ứng với tỷ giá
thực của VND trong thời gian tới cho phù hợp với khả năng cạnh tranh thực tế của Việt
Nam trên thị trường quốc tế và nhất là sau khi đã gia nhập khối ASEAN, AFTA, APEC,
WTO.
3.3.5 Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là điều kiện cần thiết, để qua đó nhà
nước có thể nắm được quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện các biện
pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp sau:
Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt
động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường
ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. Cần tăng cường hoạt động của
TTNTLNH để thực hiện bước đi đúng hướng và được đông đảo các NHTM hưởng ứng.
Mỗi một ngân hàng nên có một hệ thống mua bán ngoại tệ và điều hòa ngoại tệ thông
thoáng, đủ trình độ để có thể kết nối hàng ngày sự thừa thiếu ngoại tệ trong ngân hàng đó.
Cải cách trạng thái ngoại hối cho các NHTM là một trong những biện pháp cần làm
ngay để cân đối được tình hình thu chi ngoại tệ, theo đó cần nâng cao trạng thái ngoại hối
của các Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng có khối lượng giao dịch ngoại tệ lớn có
truyền thống xuất nhập khẩu.
Tăng cường khả năng điều hành vốn của từng hệ thống NHTM để có thể nhanh chóng
cân bằng cung cấp ngoại tệ trong từng hệ thống NHTM từ cơ sở đến hội sở chính. Thông
qua việc mua bán ngoại tệ trong từng hệ thống, các NHTM thực hiện việc mua bán với
nhau và cuối cùng là mua bán với NHTW nhằm điều hòa cung cầu và hiệu chỉnh tỷ giá
ngoại tệ phù hợp.
3.3.6 Khắc phục những yếu kém trong giá xuất nhập khẩu hàng hóa để tiết kiệm
ngoại tệ, gia tăng nguồn thu ngoại tệ.
Đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhà nước cần có chính sách miễn, giảm thuế, tín
dụng trợ cấp đối với một số mặt hàng cần khuyến khích để chiếm lĩnh thị trường. Và đối
với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu mới thành lập, cũng cần có biện pháp hỗ trợ để
nó có thể đi vào hoạt động một cách có hiệu quả.
Về nhập khẩu cần kiểm tra nghiêm ngặt, để ngăn chặn tình trạng nhập lậu trốn thuế.
Việc nhập hàng trả chậm cần phải cân nhắc, tránh trường hợp đi vay vốn nước ngoài, trong
lúc vốn trong nước đang tồn đọng. Hạn chế nhập hàng trả chậm, chỉ nhập các loại hàng hóa
là tư liệu sản xuất.
Cần nâng cao chất lượng thông tin xuất nhập khẩu để đạt hiệu quả tốt. Hiện nay vấn
đề thông tin liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có một cơ quan
nào chịu trách nhiệm tư vấn cho nhà xuất nhập khẩu một cách đầy đủ chính xác.
Có chính sách đầu tư hỗ trợ các mặt hàng tiềm năng, nhưng kém sức cạnh tranh xâm
nhập thị trường nước ngoài. Có chính sách khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu, đa
dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế, để nâng cao cân đối cung cầu
ngoại tệ.
3.3.7 Thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng Việt Nam trên thị trường Việt
Nam
Tình trạng hiện nay cho thấy việc quản lý ngoại hối chưa tốt, tình trạng một lượng
khá lớn ngoại tệ lưu hành trên thị trường ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng. Đây là rào cản
cho việc thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam. Chính vì
vậy, nhà nước thống nhất tập trung quản lý ngoại tệ, mọi nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu làm
dịch vụ với nước ngoài và các nguồn thu ngoại tệ khác trong nước của các tổ chức và đơn
vị kinh tế, đều phải gửi vào tài khoản của mình tại các Ngân hàng được phép kinh doanh
hoạt động tại Việt Nam.
Việc sử dụng ngoại tệ của các tổ chức đơn vị, chỉ được chấp nhận để thanh toán, chi
trả tiền hàng nhập khẩu và dịch vụ với nước ngoài hoặc trả tiền nợ vay cho các chủ nợ
nước ngoài. Việc thanh toán chi phí, dịch vụ cho các tổ chức đại lý nước ngoài như bán vé
cước vận tải hàng không, hàng hải, mua bảo hiểm và tái bảo hiểm nước ngoài, cước phí
bưu điện quốc tế thanh toán cho đại lý nước ngoài, và phải thực hiện qua các ngân hàng
hoặc công ty tài chính được phép kinh doanh ngoại tệ.
Nhìn chung, để thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi nỗ lực tham gia của nhiều ban
ngành, đặc biệt là ngân hàng phải có sự phối hợp chặt chẽ thường xuyên, giữa các ngành
hữu quan, thì việc quản lý ngoại hối mới đạt hiệu quả cao được.
3.3.8 Tạo tiền đề để đồng Việt Nam chuyển đổi được
Quá trình biến VND thành đồng tiền chuyển đổi được nên bắt đầu ngay từ bây giờ,
quá trình này có thể diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn nhất (có thể là 10 năm).
Chúng ta không thể chờ đợi cho lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam đủ khả năng thay đổi
cục diện thị trường tiền tệ thế giới, như trường hợp của Mỹ, Anh, Đức,… Nếu vẫn cứ kéo
dài tình trạng như hiện tại thì nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục chịu thiệt hại, do những bất
lợi trong thanh toán quốc tế gây ra.
Việc tăng khả năng thanh khoản của VND có thể thực hiện từng bước ngay từ bây
giờ, bằng việc nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho VND tham gia vào lãnh vực thanh toán
quốc tế. Làm được điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đối ngoại
nước ta phát triển mạnh mẽ hơn, vì các nước bạn hàng thường xuyên với nước ta sẽ có
khuynh hướng sử dụng VND trong thanh toán với Việt Nam, và cả trong quan hệ với nước
khác.
3.3.9 Thực hiện đổi mới chính sách cho vay bằng ngoại tệ ở thị trường trong
nước
Cho vay bằng ngoại tệ có tầm quan trọng đặc biệt trong quan hệ cung cầu ngoại tệ và
do đó đối với tỷ giá hối đoái, tín dụng và lãi suất, phải thực sự là công cụ kích thích kinh tế,
điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.
Người ta thường lấy lý do là lãi suất tiền vay ngoại tệ phải theo sát thị trường quốc tế,
điều đó có phần đúng nhưng không phải là tất cả, bởi vì đối với những nước có nhiều tư
bản xuất khẩu thì việc cho vay bằng ngoại tệ với lãi suất thấp để có môi trường đầu tư. Còn
ở chúng ta thì ngược lại, thiếu ngoại tệ phải tìm cách huy động lực lượng ngoại tệ để sử
dụng và cân đối quan hệ cung cầu của chính chúng ta.
Vì thế chúng ta không chỉ tham khảo lãi suất ngoại tệ trên thị trường thế giới (như lãi
suất Sibor và Libor), mà còn phải căn cứ vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
của ta để điều chỉnh lãi suất. Tiếp tục khép dần chênh lệch giữa lãi suất cho vay bằng ngoại
tệ và lãi suất cho vay bằng nội tệ.
Cho vay bằng ngoại tệ cũng vậy, nhu cầu vay có thể rất lớn, nhưng phải tính toán hiệu
quả các khoản vay và cho vay, phải linh hoạt trong cung ứng tín dụng ngoại tệ, thắt chặt
hay mở rộng tín dụng ngoại tệ phải phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và phải
tập trung vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để quản lý điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn, Ngân hàng nhà nước sớm
xác định và công bố lãi suất ngoại tệ trong từng thời kỳ theo qui định của Luật Ngân hàng
nhà nước. Việc qui định lãi suất cho vay ngoại tệ phải căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị
trường, có tính đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và mối quan hệ giữa lãi
suất cho vay bằng ngoại tệ và nội tệ.
3.4 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
3.4.1 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với chính sách cung ứng tiền
Chính sách cung ứng tiền được NHTW kiểm soát chặt chẽ vì nó là mục tiêu trung
gian quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách cung ứng tiền
và chính sách lãi suất là hai vấn đề dường như đối nghịch nhau: NHTW chọn chính sách
này hoặc chính sách kia. Tuy nhiên, NHTW vẫn phải phối hợp nhịp nhàng giữa hai chính
sách này vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ. Nếu NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt thì NHTW rút bớt lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc bán các giấy tờ
có giá ngắn hạn trên thị trường mở, khép chặt cánh cửa tái chiết khấu… Điều này khiến
cho lãi suất tăng lên và lạm phát được kiềm chế, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể bị
chựng lại hoặc sụt giảm. Ngược lại, nếu NHTW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì
NHTW sẽ phải bơm thêm một lượng tiền cung ứng vào lưu thong bằng cách mua các giấy
tờ có giá ngắn hạn, mở rộng cho các tổ chức vay vố, mua thêm ngoại tệ để dự trữ. Điều này
khiến cho lãi suất giảm xuống nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, NHTW cũng có thể điều chỉnh lãi suất để tác động đến việc cung ứng tiền
tệ. Nếu lãi suất được điều chỉnh cao hơn thì NHTW có thể rút bớt một lượng tiền trong lưu
thong. Ngược lại, nếu lãi suất được điều chỉnh giảm thì NHTW sẽ phải gia tăng lượng tiền
cung ứng.
3.4.2 Kiến nghị chính sách lãi suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ
Luật NHNN Việt Nam khẳng định: Chính sách lãi suất là công cụ của chính sách tiền
tệ. Như vậy, luật NHNN chỉ có khẳng định chính sách lãi suất là công cụ của chính sách
tiền tệ nhưng đã không nói rõ phải xem nó là công cụ trực tiếp hay công cụ gián tiếp; hoặc
có thể xem như là một mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
Ngày nay, các nước có nền kinh tế phát triển đều xem chính sách lãi suất là mục tiêu
trung gian của chính sách tiền tệ. Hơn nữa, tại Mỹ chẳng hạn, ổn định lãi suất có khi còn
được xem như là mục tiêu của chính sách tiền tệ, còn công cụ của chính sách tiền tệ chỉ bao
gồm: Nghiệp vụ thị trường tự do (thị trường mở), chính sách tái chiết khấu và dự trữ bắt
buộc. Trong những năm gần đây, Hệ thống Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (gọi tắt là Fed) đã
xem chính sách lãi suất như là một mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ và nó luôn
luôn được phối hợp chặt chẽ với công cụ thị trường mở và công cụ tái chiết khấu để giúp
cho nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng liên tục trong những năm 90 của thế kỷ thứ XX. Việc
điều hành chính sách lãi suất của Fed là cố gắng làm sao cho lãi suất trên thị trường tiền tệ
dao động gần sát với lãi suất vốn liên bang Mỹ.
Tại nước ta, từ trước đến nay, các công cụ của chính sách tiền tệ thường vẫn sử dụng
chủ yếu là lãi suất, tỷ giá hối đoái và dự trữ bắt buộc, còn các công cụ khác của chính sách
tiền tệ chỉ giữ vai trò hết sức mờ nhạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong khi đó,
các nước kinh tế phát triển lại dựa vào các công cụ như thị trường mở, tái chiết khấu và dự
trữ bắt buộc để điều hành chính sách tiền tệ là chủ yếu; còn chính sách lãi suất được xem
như là một mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
Vì vậy, kiến nghị Quốc hội sửa đồỉ điều 16 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
theo hướng không xem lãi suất là công cụ của chính sách tiền tệ mà là mục tiêu trung gian
của chính sách tiền tệ đề NHNN Việt Nam có thề nhanh chóng phát triển và hoàn thiện các
công cụ khác của chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, dự trữ bắt
buộc. Đồng thời kiến nghị Quốc hội sửa đổi Điều 9 và Điều 18 của Luật NHNN Việt Nam
bằng việc bãi bỏ lãi suất cơ bản do lãi suất cơ bản không còn là cơ sở của lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
3.4.3 Xây dựng chính sách lãi suất theo xu hướng góp phần ổn định tiền tệ và
phát triển thị trường tài chính
Ổn định tiền tệ là mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Muốn ổn định
tiền tệ thì phải kiềm chế lạm phát, đồng thời ổn định tỷ giá hối đoái. Như vậy, để đạt được
mục tiêu này, NHNN phải xem chính sách lãi suất là chính sách trung tâm trong việc điều
hành chính sách tiền tệ. Nếu chính sách lãi suất được xem là trung tâm thì chính sách cung
ứng tiền và tỷ giá hối đoái phải được sử dụng như công cụ phục vụ cho chính sách lãi suất,
để chính sách lãi suất có thể đạt được mục tiêu góp phần ổn định tiền tệ.
Thị trường tài chính ở đây được hiểu là thị trường vốn dài hạn, có kênh huy động
thông qua thị trường chứng khoán. NHNN xây dựng chính sách lãi suất ổn định nhằm phát
triển thị trường chứng khoán bởi vì lãi suất có tác động nghịch chiều với giá chứng khoán.
Những thay đổi của lãi suất có tác động tức thì đến giá chứng khoán. Ở nước ta, nguồn vốn
dài hạn đang bị thiếu hụt, do đó chính sách lãi suất cần thiết góp phần cho việc huy động
vốn dài hạn. Trong tình trạng hiện nay, lãi suất cần được hạ thấp thông qua việc cung ứng
thêm tiền vào lưu thông. Từ đó, chính phủ có thể phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn
cho đầu tư dài hạn.
3.4.4 Loại bỏ chương trình tín dụng chỉ định
Thực hiện tự do hóa tài chính, tự do hóa lãi suất, quản lý tỷ giá hối đoái linh hoạt
nhưng vẫn áp dụng chương trình tín dụng chỉ định thì không thể gọi là “tự do” được. Do
đó, cần phải loại dần ưu tiên phân bổ tín dụng cho các DNNN với lãi suất thấp theo chỉ
định của Nhà nước. Để nguồn vốn được phân bổ đúng nơi thì căn cứ để xét duyệt phân bổ
tín dụng là tính hiệu quả của dự án (tỷ suất lợi nhuận của dự án mang lại). Quá trình này
được tiến hành đồng thời với quá trình cải cách DNNN.
3.4.5 Điều hành chính sách lãi suất phù hợp với tỷ lệ lạm phát
Kiềm chế lạm phát là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ, trong
đó chính sách lãi suất giữ vai trò quan trọng bên cạnh chính sách cung ứng tiền.
Nếu dự đoán lạm phát có chiều hướng gia tăng thì lãi suất cần thiết phải tăng lên. Lãi
suất tăng sẽ khiến cho nhu cầu vốn giảm xuống và chính sách khối lượng tiền tệ trong lưu
thông sẽ phải điều chỉnh theo hướng giảm thiểu. Tiền bạc sẽ trở nên khan hiếm hơn với
mức lãi suất cao sẽ có tác dụng chặn đứng sự gia tăng lạm phát. Tuy nhiên, nếu cái giá của
việc sử dụng vốn quá cao có thể sẽ khiến cho tăng trưởng kinh tế chậm lại vì nhu cầu đầu
tư trở nên ít hơn. Như vậy, mục tiêu kiềm chế lạm phát phải được xác định duy trì ở một tỷ
lệ nhất định, ví dụ tại nước ta, Quốc hội đã đề ra là 5% trong năm 2001 chẳng hạn.
Từ năm 1999 cho đến năm 2002, nước ta rơi vào tình trạng có nguy cơ giảm phát,
tăng trưởng kinh tế sụt giảm, nên mục tiêu kiểm soát lạm phát là phải có giải pháp kích cầu
để nâng chỉ số giá cả trở thành một số dương. Do vậy, lãi suất cần phải được cắt giảm đồng
thời với việc nới lỏng cung ứng tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở và chính sách tái
chiết khấu để có thể kiểm soát lạm phát 5% trong năm 2001, đồng thời góp phần cho việc
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt được 7,5%/năm từ năm 2001 đến năm
2005 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra. Như vậy, chính sách kích cầu của
Chính phủ trở nên khó thực hiện hơn khi NHNN dường như vẫn chưa có giải pháp nào hữu
hiệu trong việc vừa kiểm soát được lạm phát vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
NHNN điều hành chính sách lãi suất trong nhiều năm qua thiếu sự theo sát những
diễn biến của tỷ lệ lạm phát. Sự kiện này dẫn đến tình trạng vốn ứ đọng tại các tổ chức tín
dụng, trong khi đó các doanh nghiệp lại thiếu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Các
doanh nghiệp khó có thể phát triển kinh doanh nếu như giá cả và dịch vụ giảm xuống
nhưng chi phí đầu vào là lãi vay vẫn ở mức cao. Sự mất cân xứng trong giá cả hàng hóa và
giá cả vốn đã là một trong những nguyên nhân khiến cho tăng trưởng kinh tế chậm lại phần
nào trong các năm vừa qua.
3.4.7 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với các công cụ khác của chính sách
tiền tệ
3.4.7.1 Đối với công cụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, nó có tác
động nhiều đến chính sách lãi suất thông qua việc áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng hoặc
chính sách tiền tệ thắt chặt. Nếu NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì có thể bán
các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc hoặc tín phiếu ngân hàng… mà mình
đang nằm trong tay. Điều này sẽ khiến cho khối lượng tiền trong lưu thông giảm xuống,
nguồn vốn ngắn hạn sẽ khan hiếm nên lãi suất sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu NHNN áp dụng
chính sách tiền tệ nới lỏng thì có thể mua các giấy tờ có giá ngắn hạn. Trong trường hợp
này, khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên, nên lãi suất sẽ giảm xuống.
Nếu NHNN tăng lãi suất mà không dựa vào công cụ thị trường mở thì có khả năng lãi
suất không tăng lên được do lượng tiền cung ứng trong lưu thông vẫn còn nhiều. Hoặc giả
như NHNN điều chỉnh giảm lãi suất nhưng không có giải pháp tung một số lượng tiền vào
lưu thông bằng cách mua các giấy tờ ngắn hạn thì lãi suất cũng không thể giảm được do
nguồn vốn trên thị trường tiền tệ không được dồi dào.
Tại Việt Nam, thị trường mở đã được NHNN đưa vào hoạt động từ ngày 7/7/2000,
nghĩa là trước khi áp dụng lãi suất cơ bản khoảng một tháng. Điều này nói lên rằng NHNN
có quan tâm đến nghiệp vụ thị trường mở cũng như đã thấy được tác động tương hỗ giữa
nghiệp vụ thị trường mở và chính sách lãu suất.
Một vấn đề là Luật NHNN qui định hoạt động thị trường mở chỉ cho phép mua bán
các loại giấy tờ có giá ngắn hạn cũng gây ra rất nhiều giới hạn cho sự hoạt động của nghiệp
vụ thị trường mở. Có nên chăng, ít nhất cần xem các trái phiếu mà thời gian đáo hạn còn
dưới 12 tháng vẫn được xem như một loại giấy tờ có giá ngắn hạn, nhằm phong phú và đa
dạng hóa cho hàng hoá được phép mua bán trên thị trường mở.
Nhằm đa dạng hoá công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chúng tôi kiến nghị NHNN
cần đẩy mạnh hoạt động của thị trường mở cũng như đa dạng hóa đối tượng giao dịch
trong sân chơi của thị trường này.
3.4.7.2 Đối với công cụ tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất tái cấp vốn mà NHNN qui định lại có một khoảng
cách khá xa so với lãi suất cơ bản và nó cũng chỉ xoay quanh mức lãi suất trên thị trường
mở hoặc lãi suất do Bộ Tài chính mong muốn thực hiện được trong các phiên đấu thầu tín
phiếu kho bạc. Điều này khiến cho các NHTM có mong muốn nhiều hơn đến việc vay của
NHNN. Tuy nhiên, việc vay của NHNN tỏ ra không mấy dễ dàng vì trong thực tế NHNN ít
khi cho vay thông qua cánh cửa tái chiết khấu. Như vậy, lãi suất tái chiết khấu hầu như là
một qui định mang tính hình thức; đồng thời NHNN ít khi mong muốn thực thi vai trò
người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế quốc gia.
Hơn nữa, tại nước ta thương phiếu dường như hoàn toàn thiếu vắng trên thị trường
tiền tệ, bởi vì trong một thời gian dài chúng ta đã sử dụng phương thức thanh toán dùng
tiền mặt là chủ yếu. Một khi tiền mặt không đủ, NHNN tung ra một số lượng ngân phiếu
thanh toán để bù vào. Tín dụng ngắn hạn trong việc kinh doanh được thể hiện hoàn toàn
trên hợp đồng mua bán và hầu như không thể hiện bằng thương phiếu dù cho Pháp lệnh
Thương phiếu đã có hiệu lực thi hành.
Kiến nghị NHNN nên duy trì tỷ lệ hợp lý giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản
hoặc tìm một lãi suất nào thay thế cho lãi suất cơ bản mà hiện nay cho thấy mặt yếu kém
của nó. Điều này sẽ làm kết nối giữa chính sách lãi suất và công cụ tái chiết khấu.
3.4.7.3 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc chỉ phát huy hết tác dụng của nó trong việc điều hành chính
sách tiền tệ khi trong nền kinh tế áp dụng tốt phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Tại Việt Nam, công cụ dự trữ bắt buộc chỉ có tác động đến lãi suất ở một mặt duy
nhất, đó là làm cho giá cả đầu vào của các tổ chức tín dụng tăng lên nến NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Ngược lại, nếu NHNN giảm tỷ lệ bắt buộc thì lãi suất thực đầu vào của các
tổ chức tín dụng sẽ giảm xuống. Do đó, công cụ dự trữ bắt buộc là một công cụ bị bỏ rơi
nhiều nhất khi NHNN điều chỉnh lãi suất.
Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ một cách tốt hơn, chúng ta
phải nâng cao vai trò của dự trữ bắt buộc; đồng thời chính sách lãi suất phải gắn chặt với
công cụ dự trữ bắt buộc nhiều hơn một khi nền kinh tế nước ta chuyển từ phương thức
thanh toán bằng tiền mặt sang phương thức thamh toán chuyển khoản. Điều này sẽ xảy ra
không xa, nếu việc sử dụng ngân phiếu thanh toán chấm dứt và thói quen vể việc thanh
toán bằng tiền mặt được chặn đứng vì những bất lợi vô cùng của chính nó.
3.5 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ NƯỚC NGOÀI
Mức vay nợ phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của nền kinh tế. Thực hiện đánh giá
mức độ an toàn vay nợ cần phân tích các chỉ tiêu sau:
3.5.1 Tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng cao là động lực thu hút nguồn vốn nước ngoài, đảm bảo khả
năng trả nợ vay. Mặc dù trong những năm gần đây, GDP vẫn tăng nhưng hệ số ICOR lại
tăng liên tục và tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDP (ICOR những năm 90 là 3, trong khi
đó năm 2001 là 4,5, 2002 là 4,1) cho thấy hiệu quả sử dụng vốn không cao. Dựa vào những
chỉ số tính toán thì hệ số ICOR là 4 trong thời gian tới (ICOR= s/g, trong đó s là đầu
tư/GDP, g là tốc độ tăng trưởng GDP). Nếu trong giai đoạn 2000-2010, kinh tế Việt Nam
đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5% - 8% năm thì đòi hỏi đầu tư/GDP là 30-32%. Nhu cầu
vốn đầu tư giai đoạn này theo kế hoạch là 135-160 tỷ USD giai đoạn 2000-2010 và 250 -
280 tỷ USD giai đoạn 2010-2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai giai đoạn trên phải đạt
được là: 450 – 534 tỷ USD và 782-934 tỷ USD.
Xuất khẩu là nguồn cung cấp duy nhất cho trả nợ vay nước ngoài, vì thế muốn nâng
cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ bên ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải
tăng trưởng cao, đa dạng hóa về cơ cấu và chủng loại.
3.5.2 Mức dự trữ ngoại tệ quốc gia
Nguồn thu ngoại tệ chủ yếu là từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy nền kinh tế cần duy trì
mức dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để đối phó với những cơn khát ngoại tệ xảy ra. Ngân hàng
từng bước quản lý chặt các nguồn thu, chi ngoại tệ và chỉ dùng cho các hoạt động thanh
toán mua hàng, chi trả dịch vụ, trả nợ cho các tổ chức nước ngoài. Thực tế cho thấy mức
dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất mỏng, chỉ đủ cho hơn hai tháng nhập khẩu. Mức dự trữ
này là tương đối thấp, vì vậy cần nâng cao ít nhất là 6 tháng nhập khẩu bằng với mức trung
bình của khu vực. Chính vì thế chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu và có chính sách
phù hợp để thu hút kiều hối chảy về nước
3.5.3 Giải pháp làm giảm chi phí nợ vay
Thúc đẩy hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu giúp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai là
nhân tố phát triển nhằm cải thiện tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế.
Xây dựng tỷ giá hối đoái hợp lý để kích thích xuất khẩu cải thiện các cân thanh toán.
Trước hết cần đưa VND về đúng giá trị thực của nó vì như đánh giá của nhiều chuyên gia
kinh tế trong và ngoài nước. Chúng ta đều biết rằng VND đang định giá quá cao so với sức
mua thực tế của nó. Theo quy luật cung cầu, đến một lúc nào đó VND trở về giá trị thực
của nó thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh, lúc đó chúng ta sẽ không chịu trở tay và mất khả
năng thanh toán nợ, số nợ đó đã tăng lên quá nhanh.
3.5.3.1 Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý vay, sử dụng và hoàn trả vốn vay
nước ngoài
3.5.3.1.1 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Tận dụng triệt để các nguồn huy động vốn ưu đãi từ nước ngoài, đặc biệt là nguồn
vốn cho những dự án mang tầm cỡ quốc gia. Thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế nhằm tranh thủ các khoản viện trợ cũng như khoản vay với lãi suất ưu
đãi.
3.5.3.1.2 Đảm bảo cơ cấu đầu tư hợp lý từ nguồn vốn vay
- Thực hiện tốt và chính xác trong khâu lập kế hoạch các dự án để sử dụng vốn vay
hợp lý và có hiệu quả nhất.
- Khai thác hợp lý các nguồn vốn vay với thời gian và chi phí hợp lý.
- Thẩm định kỹ các điều khoản về vay và trả nợ nhằm tránh những rủi ro không đáng
có.
- Kiểm tra tình hình thực hiện dự án nhằm đảm bảo dự án được thi công đúng tiến độ
cũng như khả năng hoàn trả vốn vay được thực hiện đúng theo hợp đồng ký kết.
- Kế hoạch giải ngân phải đảm bảo cân đối giữa các vùng các ngành, đặc biệt là
những dự án tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, dự án tạo công ăn việc làm, dự án đầu tư
chế biến hàng xuất khẩu. Mặt khác ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về
công nghiệp nặng quy mô lớn.
3.5.3.2 Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài
Để tiếp tục nâng cao khả năng phát triển kinh tế tài chính nước ta hiện nay, giảm vay
nợ nước ngoài và đảm bảo hiệu quả sử dụng nợ vay, chúng ta phải kiểm soát chặt chẽ các
khoản vay nợ nước ngoài của các dự án chưa được thẩm định về mọi mặt, thực hiện quản
lý thống nhất vay nợ nước ngoài bởi một cơ quan quản lý nhà nước nhưng vẫn đảm bảo
gánh trách nhiệm người đi vay, người sử dụng vốn vay với nghĩa vụ trả nợ. Tránh tình
trạng bảo lãnh và tư tưởng ỷ lại của doanh nghiệp đối với cơ quan chủ quản nhà nước. Vấn
đề này được thực hiện cụ thể như sau:
a/ Đánh giá thẩm định dự án
Dự án trước khi được triển khai cần có báo cáo thẩm định sát thực và mang tính khả
thi cao, đặc biệt là các dự án vay nợ nước ngoài, liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn vay
và khả năng thanh toán nợ vay. Báo cáo thẩm định được lập dựa trên cơ sở nhiều giả định
và đầy đủ các luận chứng kinh tế-kỹ thuật, đảm bảo dự án có hiệu quả và lợi nhuận để hoàn
trả vốn vay. Hơn nữa, tổ chức đấu thầu dự án là một khâu đặc biệt quan trọng để tìm ra
những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ quản lý giỏi để dự án được thực hiện
đúng kế hoạch và thực sự có hiệu quả.
Thành lập Ủy ban nhà nước trực thuộc Chính phủ để quản lý vay và trả nợ tập trung
thống nhất. Hiện nay, BTC theo dõi và ký kết trực tiếp các khoản vay nợ với nước ngoài,
Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm về giải ngân và theo dõi nợ cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Để gắn kết trách nhiệm người đi vay và người trả nợ, giảm
thiểu chi phí cho quá trình quản lý cho vay và trả nợ thống nhất, nâng cao kiểm soát nợ vay
nước ngoài, thì nên thành lập ủy ban kiểm soát trực thuộc Chính phủ có trách nhiệm theo
dõi, tổng hợp và báo cáo tình hình vay nợ và sử dụng vốn vay nước ngoài.
Tạo lập sự bình đẳng trong vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Nhà nước cần gắn trách nhiệm trả nợ cụ thể cho từng doanh nghiệp đối
với các khoản vay đã phân bổ cho họ, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra và giám sát
việc thực hiện các khoản vay nợ trên nhằm đảm bảo hiệu quả việc sử dụng vốn và kế hoạch
trả nợ. Một số quy định cụ thể như sau:
+ Doanh nghiệp thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào vay vốn nước ngoài cũng đều
phải có trách nhiệm trả nợ nước ngoài với các điều kiện đã cam kết.
+ Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể vay vốn trực tiếp từ nước
ngoài hoặc vay lại từ các nguồn vay nước ngoài của Chính phủ hay Ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp không tự động liên hệ hay thỏa thuận với phía nước ngoài đối
với các khoản vay của Chính phủ đang trong quá trình đám phán.
+ Toàn bộ hoạt động vay vốn và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp đều phải thực
hiện qua hệ thống Ngân hàng.
b/ Thành lập Hội đồng tư vấn nợ độc lập
Để hạn chế tiêu cực trong việc giải ngân vốn vay, thẩm định giá, xét duyệt phân bổ
dự án cho các nhà thầu. Chủ trương thành lập Hội đồng tư vấn nợ có chức năng độc lập
trong tất cả các khâu từ thẩm định cho đến kiểm tra thực hiện dự án là quyết định phù hợp
nhằm gia tăng hiệu lực chức năng bất kiêm nhiệm, giảm thiểu hình thức quản lý chồng
chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước về vay nợ nước ngoài. Theo ý kiến chúng tôi, Hội
đồng tư vấn nợ cần phối hợp thực hiện với Ủy ban nhà nước trực thuộc Chính phủ để quản
lý vay và trả nợ nước ngoài trước khi trình Chính phủ ký duyệt nhằm đảm bảo khách quan
và nâng cao tính hiệu quả của quá trình quản lý nợ nước ngoài hiện nay.
3.6 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN WTO
3.6.1 Đối với hệ thống tổ chức tín dụng
3.6.1.1 Định hướng chiến lược chung
Với tư cách là một ngành dịch vụ đẳng cấp cao và đứng ở “hàng” tiên phong trong cơ
chế hội nhập, có thể nói đây là thời điểm thích hợp để nhìn lại nội dung chiến lược hội
nhập cũng như kiểm tra và hoàn thiện lại hành trang, lộ trình của các Định chế Ngân hàng
Việt nam bước vào kỷ nguyên WTO. Các định hướng chiến lược phát triển dịch vụ của
ngành Ngân hàng Việt nam bao gồm:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng theo lộ trình và bước
đi phù hợp với khả năng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, trước hết
là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) của
ASEAN và hướng tới phù hợp với WTO mà Việt nam đã là thành viên chính thức từ
7/11/2006;
- Tăng cường vai trò ảnh hưởng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam đối với thị trường
tài chính khu vực và vươn ra quốc tế.
- Phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTM Việt Nam trên TTCK trong
nước và trên thị trường tài chính quốc tế.
- Tham gia các điều ước quốc tế, các câu lạc bộ, các diễn đàn khu vực và quốc tế về
tiền tệ, Ngân hàng.
- Có lộ trình tích cực về áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế áp dụng cho hoạt
động Ngân hàng thương mại - Đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán, qui chế quan
hệ bắt buộc giữa các Ngân hàng trung gian với Ngân hàng trung ương về tái cấp vốn, thị
trường mở, thanh toán quốc gia và các chuẩn mực về thanh tra - giám sát Ngân hàng;
- Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về quyền tiếp
cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam bắt đầu được xem xét cho thành lập từ 1/4/2007;
- Xoá bỏ dần, tiến tới xoá bỏ tối đa các giới hạn đối với các Ngân hàng nước ngoài về
số lượng đơn vị; hình thức pháp nhân; tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài; tổng giao dịch
nghiệp vụ Ngân hàng; mức huy động vốn VND; loại sản phẩm, loại dịch vụ.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế để tạo sân
chơi bình đẳng cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát triển và cạnh tranh lành
mạnh.
Vậy là dường như ngay lập tức dịch vụ Ngân hàng – Tài chính đã không chỉ phải chủ
động, mà phải trực tiếp sống ngay trong “chiến trường” WTO với những thách thức nhiều
hơn thuận lợi dành cho những ngành đi tiên phong.
3.6.1.2 Đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước
Trong thời điểm hiện tại, các NHTMNN đang thực hiện đề án tổng thể về cơ cấu lại
tài chính, hoạt động và tổ chức để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của khách hàng trong
điều kiện hội nhập. Theo chủ trương của Chính phủ, trong số các nội dung cơ bản cần cơ
cấu lại bao gồm cả việc cơ cấu lại sở hữu bằng hình thức cổ phần hoá tất cả các NHTMNN.
Tôi cho rằng sau cổ phần hoá sẽ là quá trình tạo ra điều kiện và các nhân tố khách quan để
các Ngân hàng này phát triển thành các Tập đoàn Ngân hàng – Tài chính lớn hơn. Để chủ
động đón trước xu hướng này, các NHTMNN cần phải:
- Đẩy mạnh tiến trình cơ cấu lại toàn diện hệ thống NHTM theo Đề án tái cơ cấu
NHTMNN đã được Chính phủ phê duyệt từ 10/2001.
- Cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng:
+ Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTMNN từ Hội sở chính đến chi nhánh theo
hướng tuân thủ chiến lược khách hàng, không coi trọng việc mở rộng chi nhánh nhưng nhất
thiết phải coi trọng tính chuyên nghiệp.
+ Đổi mới tổ chức bộ máy ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế: Hội đồng
quản trị phải là cơ quan quyền lực tối cao là “người” đại diện và cũng chính là những ông
chủ thực sự của nguồn vốn tự có của mình, có thực quyền giám sát toàn diện hoạt động
Ngân hàng của mình và quyết định Ban điều hành, đồng thời chịu rủi ro cuối cùng về hoạt
động của Ngân hàng. Bộ phận tham mưu, tác nghiệp cho HĐQT gồm có ít nhất Ban kiểm
soát và kiểm toán nội bộ, Hội đồng/Uỷ ban quản lý rủi ro;
+ Phát triển hệ thống kênh phân phối điện tử (ATM, auto-branch hay kiosk bank) mà
không nhất thiết phải mở nhiều chi nhánh nhằm năng động hoá quá trình phát triển dịch vụ,
chuyển hướng thị trường hoặc thay đổi nhóm khách hàng.
- Tăng cường năng lực hoạt động và quản lý kinh doanh:
+ Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ, phát triển sản phẩm mới dựa trên cơ sở công
nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẻ, thanh toán và giao dịch;
+ Phát triển hệ thống công nghệ thanh toán tiên tiến;
+ Chuẩn hoá các qui trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ, hiện đại, tự động
hóa và phù hợp thông lệ quốc tế;
+ Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập chịu sự giám sát của
Thanh tra chuyên ngành NH;
+ Thiết lập và tách bạch các nhóm nghiệp vụ như: Quản lý rủi ro; Quản lý tín dụng;
Quản lý tài sản nợ/có, Quản lý tài chính - kế toán; Quản trị nguồn nhân lực; Quản lý thanh
toán; Quản lý công nghệ; Quản lý chiến lược kinh doanh & Marketing; Hệ thống thông tin
quản lý nội bộ. Thành lập Ban/Hội đồng quản lý tài sản nợ/có và phát triển hệ thống kiểm
tra trực thuộc Ban điều hành.
- Tăng cường năng lực tài chính:
+ Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, sáp nhập;
hợp nhất; mua lại, gọi thêm vốn từ các nhà đầu tư chiến lược...để tăng VTC cấp 1; Phát
hành trái phiếu huy động vốn dài hạn trên TTCK sơ cấp, phát hành kỳ phiếu dài hạn trên
thị trường huy động tiền gửi v.v để tăng VTC cấp 2.
+ Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối càng sớm càng tốt. Xây dựng
cơ chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới.
- Phân biệt chức năng của NHTW và NHTM; chức năng cho vay của Ngân hàng
chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng khác của
NHTM.
- Gắn cải cách Ngân hàng với cải cách doanh nghiệp Nhà nước - Đặc biệt là xử lý dứt
điểm phương án trả nợ Ngân hàng trước khi thay đổi sở hữu của Doanh nghiệp;
- Cổ phần hoá các NHTMNN gắn liền với hiện đại hoá công nghệ và trình độ quản lý,
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TCTD có tiềm lực tài chính, công
nghệ, quản lý và uy tín quốc tế mua cổ phiếu đến mức trần tối đa cho phép và đủ tư cách để
tham gia điều hành.
- Đón trước và có lộ trình chi tiết cho xu hướng Tập Đoàn hoá các NHTMNN sau cổ
phần hoá.
3.6.1.3 Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP):
- Củng cố và phát triển hệ thống NHTMCP theo hướng tăng cường năng lực tài chính
và quản lý, đồng thời giải thể, khuyến khích sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các NHTMCP
yếu kém về hiệu quả kinh doanh;
- Bảo đảm quyền kinh doanh của các Ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo
các cam kết quốc tế đã ký kết theo hướng kiểm soát chặt chẽ sự phát triển thêm của các chi
nhánh và khuyến khích hình thành loại NH 100% vốn tại VN hoạt động theo Pháp Luật
Việt Nam;
- Giúp đỡ và thúc đẩy các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ
nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các TCTD nước ngoài.
3.6.1.4 Về định hướng chiến lược phát triển các Quĩ tín dụng nhân dân
(QTDND)
- Phát triển QTDND thực sự trở thành TCTD hợp tác độc lập, dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động;
- QTDND hoạt động theo Luật các TCTD và Luật Hợp tác xã.
- Củng cố và chấn chỉnh hệ thống QTDND nhằm đưa hoạt động của QTDND đi đúng
hướng và bảo đảm an toàn.
Tóm lại: Những nội dung cơ bản về hình ảnh, cơ cấu và động thái phát triển các
TCTDVN trong tương lai trung và dài hạn có thể khái quát như sau: Sau khi cổ phần hoá
NHTMNN, hình thành một số Tập đoàn Ngân hàng đa năng qui mô cỡ khu vực và ngày
càng có ảnh hưởng tới thị trường tài chính khu vực và thế giới.
3.6.2 Thị trường chứng khoán
Là thể chế tài chính bậc cao và là sản phẩm tinh túy của nền kinh tế thị trường, hoạt
động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt,
sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến tình hình phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước.
Việc đưa ra vận hành thị trường chứng khoán ở nước ta vừa đưa ra cơ hội, vừa là thử thách
lớn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tự mình đổi
mới trong một hệ thống luật pháp ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo lợi ích chính
đáng cho những đối tượng tham gia và an toàn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Những điểm nổi bật của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua: giá cổ phiếu
biến động mạnh, thông tin chưa minh bạch, tính thanh khoản của cổ phiếu còn yếu, diễn
biến thị trường khó dự báo,… Trước tình hình này Ủy ban chứng khoán Nhà nước nên tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bình đẳng và đồng bộ cho hoạt động
của TTCK, tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng hơn theo cam kết
WTO để thu hút các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài vào hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam, hoàn thiện thể chế thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng, tổ
chức và điều hành TTCK theo đúng chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính công khai và minh
bạch, nâng cao năng lực quản lý và giám sát TTCK.
Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN và các NHTMNN, góp phần tăng thêm
nguồn hàng hóa có chất lượng cho TTCK, tiếp tục bán cổ phần tại một số công ty cổ phần
mà Nhà nước thấy không cần phả nắm giữ.
Lựa chọn và tạo “hàng hóa có chất lượng cao” cho thị trường chứng khoán. Muốn
vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ với công tác cổ phần hoá DNNN và cải tiến cơ chế quản
trị Công ty sau khi cổ phần hóa.
Nâng cao năng lực hoạt động của các trung gian tài chính trên TTCK. Trong đó, các
công ty chứng khoán trong nước cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh theo hướng
cải thiện quy mô vốn, nâng cao chất lượng và loại hình dịch vụ, đổi mới công nghệ thông
tin và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng chuẩn mực quốc tế trong quản trị công
ty chứng khoán, nâng cao khả năng giám sát, kiểm soát nội bộ và hiệu quả tác nghiệp của
công ty chứng khoán.
Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, có sự giám sát
thích hợp của Nhà nước và liên kết với thị trường vốn quốc tế.
Xây dựng thị trường trái phiếu Chính phủ trên cơ sở tham gia của các nhà tạo lập thị
trường, khuyến khích các tập đoàn và các công ty lớn phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Thiết lập hệ thống thông tin cung cấp dữ liệu an toàn, tin cậy cho nhà đầu tư để họ có
những quyết định đầu tư hợp lý nhằm giảm thiểu biến động xấu của thị trường.
Tăng cường hệ thống giám sát tài chính nhằm hạn chế rủi ro, nhất là đối với các
nguồn vốn ra nước ngoài. Có giải pháp khả thi để giảm thiểu rủi ro, tránh những biến động
lớn và đột ngột của TTCK; trong đó, Chính phủ cần đóng vai trò định hướng thông tin và
dẫn dắt thị trường, điều chỉnh thị trường bằng những công cụ thích hợp, mở rộng các công
cụ tài chính phái sinh, hình thành quỹ bình ổn thị trường và đảm bảo sự an toàn hệ thống.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua chương này, tôi muốn đề cập và đưa ra những dự báo về thuận lợi và thách thức
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà đặc biệt là quá trình gia nhập WTO. Đồng thời
đề xuất các giải pháp để đẩy nhanh tiến trình hội nhập và các giải pháp khắc phục những
nguy cơ tiềm ẩn trong hiện trạng nền kinh tế mà những nguy cơ này có thể gây ra sự bất ổn
tài chính. Thiết nghĩ, các giải pháp này phải được tiến hành đồng bộ và có sự phối hợp hài
hòa của nhiều ban ngành và các cơ quan chức năng nhằm thực thi chính sách kiểm soát an
ninh tài chính hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Trước xu thế hội nhập và yêu cầu đổi mới đã đặt ra không ít những thách thức cho
nền kinh tế nước ta nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Việt Nam vẫn kiên định với
mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Để có thể thực
hiện được những mục tiêu trên điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được một thị trường
tài chính – tiền tệ lành mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như phù hợp
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tự do hóa tài chính là chấp nhận các cơ chế và nguyên tắc tài chính vận động theo
quy luật của thị trường. Vì vậy sẽ phát sinh những tác động tích cực và tiêu cực đến quá
trình phát triển kinh tế. Điều quan trọng là chúng ta phải tận dụng và phát huy những tác
động tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, đồng thời phải chủ động đưa ra các
biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực có thể gây ảnh hưởng đến nền an ninh tài chính
quốc gia.
Qua việc phân tích thực trạng, những thành tựu cũng như những hạn chế của nền
kinh tế Việt Nam sau những năm tháng đổi mới, chúng ta có thể khẳng định rằng chính
sách tự do hóa kinh tế - tài chính thận trọng, kiểm soát an ninh tài chính vững chắc là một
định hướng đúng đắn cho sự phát triển, là kim chỉ nam cho các chính sách kinh tế của
Chính phủ Việt Nam, là một mục tiêu của các cải cách hệ thống tài chính hiện nay. Chúng
ta hy vọng rằng, với những bước đi thận trọng và kiểm soát an ninh tài chính tốt theo một
lộ trình đã có kế hoạch trước, Việt Nam sẽ thành công trong việc kiểm soát những bất ổn
tài chính cũng như thực hiện thắng lợi quá trình tự do hóa tài chính để đạt đến sự tăng
trưởng kinh tế vượt bậc và bền vững.
Phụ lục 1
TÓM TẮT NỘT DUNG MỘT SỐ CAM KẾT CHỦ YẾU TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
(1) Các tổ chức tín dụng nước ngoài được thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam
dưới các hình thức như văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài; công ty tài chính liên doanh và 100% vốn
nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Kể từ ngày
01/04/2007, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam
(2) Các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được phép cung ứng hầu hết
các loại hình dịch vụ ngân hàng theo mô tả trong Phụ lục về dịch vụ tài chính ngân hàng
kèm theo Hiệp định GATS như cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh
ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài
sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính;
(3) Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi VNĐ không giới hạn từ các
pháp nhân. Việc huy động huy động tiền gửi VNĐ từ các thể nhân Việt Nam sẽ được nới
lỏng trong vòng 5 năm theo lộ trình sau:
Ngày 1 tháng 1 năm 2007: 650% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2008: 800% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2009: 900% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2010: 1000% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2011: Đối xử quốc gia đủ
(4) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch ngoài trụ
sở chi nhánh, nhưng được giành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc đầy đủ trong việc
thiết lập và vận hành hoạt động các máy rút tiền tự động;
(5) Các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối
xử quốc gia kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO;
(6) Một ngân hàng thương mại nước ngoài có thể đồng thời mở một ngân hàng con và
các chi nhánh hoạt động tại Việt Nam; Các điều kiện cấp phép đối với ngân hàng 100%
vốn nước ngoài sẽ dựa trên các qui định an toàn và giải quyết các vấn đề như tỷ lệ an toàn
vốn, khả năng thanh toán và quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, các tiêu chí đối với chi nhánh
và ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được áp dụng trên cơ chế quản lý đối với chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, bao gồm yêu cầu về vốn tối thiểu, theo thông lệ quốc tế đã được
chấp nhận chung;
(7) Các ngân hàng nước ngoài có thể tham gia góp vốn liên doanh với đối tác Việt Nam
với tỷ lệ góp vốn không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh; Tổng mức
góp vốn mua cổ phần của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại từng ngân hàng thương mại
cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi
pháp luật Việt Nam có qui định khác hoặc được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam;
(8) Để thu hút được các ngân hàng lớn, có uy tín vào hoạt động tại thị trường Việt Nam,
trong cam kết cũng đã đưa ra yêu cầu về tổng tài sản có đối với tổ chức tín dụng nước
ngoài muốn thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam (cam kết này cũng đã được thể
chế hoá trong Nghị định số 22 ban hành ngày 28/02/2006), cụ thể để mở một chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản có trên 20 tỷ đô la
Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin mở chi nhánh; mức yêu cầu tổng tài sản có đối với
việc thành lập ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng con 100% vốn nước ngoài của ngân
hàng nước ngoài là trên 10 tỷ đô la Mỹ; đối với việc xin phép mở công ty tài chính 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính liên doanh, các tổ chức tín dụng nước ngoài phải có
tổng tài sản trên 10 tỷ đô la vào cuối năm trước thời điểm xin phép.
Phụ lục 2
ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
TRUNG VÀ DÀI HẠN
=> Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước
=> Một trong những tư tưởng của “cải cách” tỷ giá ở Việt Nam hiện nay, là thực hiện
chính sách cố định tỷ giá vì họ cho rằng chỉ có tỷ giá cố định mới:
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định trong sản xuất xuất khẩu hàng hóa.
+ Kiềm chế lạm phát.
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, do tỷ giá không có biến động, tạo yên tâm cho các nhà
đầu tư nước ngoài và như thế tạo đà tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, việc ấn định một tỷ giá cứng, chính thức,
ổn định cho cả một thời kỳ dài thoát ly sự nhạy bén của thị trường sẽ dẫn đến tình trạng
ngoại tệ ào ạt chuyển dịch vào trong nước. và với ngoại tệ giá rẻ ấy có thể sẽ bị sử dụng để
nhập khẩu nhiều loại hàng hóa không cần thiết, mà về lâu dài gây ra món nợ nước ngoài
lớn cho đất nước.
Ngược lại với quan điểm trên, cũng có quan điểm “cải cách” tỷ giá cho rằng cần phải
thả nổi tỷ giá hoàn toàn. Nếu tỷ giá thả nổi hoàn toàn để thị trường chi phối toàn bộ sẽ làm
cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ giảm hiệu lực, đặc biệt là có thể làm bộc phát
lạm phát, nội tệ bị mất giá không kiềm chế được khi mà ta chưa có đủ ngoại tệ để thỏa mãn
nhu cầu nhập khẩu cao.
Vì vậy chọn chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết can thiệp của nhà nước vì những
lý do:
- Với chế độ tỷ giá cố định không gắn liền với cung cầu ngoại tệ sẽ dẫn đến các vấn
đề:
+ Nếu tỷ giá danh nghĩa do NHNN qui định thấp hơn tỷ giá thực, dẫn đến khuyến
khích nhập khẩu, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và mất cân bằng ngoại tệ. Đối với
nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt hại, mà một trong những bằng chứng nổi bật nhất đó là giai đoạn
từ năm 1995- 1997, do tỷ giá cố định đã không phản ánh đúng giá trị thực của nó dẫn đến
hiện tượng các doanh nghiệp nhập hàng ồ ạt dưới hình thức L/C trả chậm và hậu quả
nghiêm trọng là các doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán khi L/C đến hạn.
+ Gắn liền với việc áp dụng tỷ giá cố định là nhà nước chỉ can thiệp thông qua biện
pháp hành chính, không khuyến khích các doanh nghiệp quản lý tốt, như vậy sẽ mâu thuẫn
với các Hiệp ước thương mại mà Việt Nam tham gia như Hiệp ước AFTA (đòi hỏi tự do
mậu dịch), Hiệp ước thương mại Việt Mỹ (hạn chế sử dụng quota, hệ thống thuế là giống
nhau giữa các nước).
Với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn là chế độ tỷ giá mà NHTW không qui định tỷ giá,
nó được hình thành do các chủ thể kinh tế tự thỏa thuận với nhau khi mua bán ngoại tệ.
Tuy nhiên trong chế độ tỷ giá này, có những lúc tỷ giá biến động lớn thì nhà nước cần phải
can thiệp và do đó làm tăng hoặc giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, mà trong điều kiện hiện
nay khi CCTTQT Việt Nam đang bị mất cân đối nghiêm trọng. Do đó chế độ tỷ giá thả nổi
hoàn toàn có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu, và tỷ giá này thích ứng
với điều kiện toàn cầu hóa thị trường tài chính quốc tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn có nhược
điểm như sau:
+ Tỷ giá thả nổi thường xuyên biến động đòi hỏi các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu
phải biết phương thức quản trị ngoại tệ, như thế mới hạn chế được rủi ro. Trong khi đó hầu
hết các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam chưa quen với phương thức quản trị các nguồn ngoại
tệ theo cơ chế thị trường.
+ Ngoài ra còn đòi hỏi một hệ thống Ngân hàng có đủ năng lực cạnh tranh, giúp cho
việc xác lập tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ (Mặt khác, nếu trong điều kiện nào đó
môi trường cạnh tranh không tốt vẫn còn độc quyền thì tỷ giá sẽ không sát với cung cầu).
+ Đặc biệt trong chế độ tỷ giá thả nổi cần thiết phải có một thị trường ngoại tệ năng
động, để cho các chủ thể tham gia vào thị trường này, có thể tiếp cận với nhau một cách
nhanh chóng, từ đó thiết lập được quan hệ cung cầu.
Qua sự phân tích ưu nhược điểm của hai chế độ tỷ giá nói trên, để xây dựng một chế
độ tỷ giá hợp lý ở Việt Nam trong điều kiện cụ thể hiện nay CSTG cần theo những định
hướng sau:
- Về chiến lược dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này nó phù hợp
với toàn cầu hóa nền kinh tế và tài chính, mà Việt Nam là một thành viên.
- Về chiến lược ngắn hạn, thì cần áp dụng tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước.
Từ những lý do nêu trên, trong một vài năm trước mắt Việt Nam chỉ nên thực hiện
chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, có nghĩa là chính sách tỷ giá vừa
phải dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu của ngoại tệ để kích thích xuất nhập khẩu, đồng thời
Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ các nguồn ngoại tệ, để đưa vào sử dụng cho các cân
đối thực tế, chống lại việc sử dụng ngoại tệ lãng phí hoặc không quản lý được các nguồn
ngoại tệ.
Phụ lục 3
NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của TTCK Việt Nam năm 2006 xuất phát
từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng. Trong đó nguyên nhân có tác động sâu sắc và
lâu dài là sự kiện Việt Nam chính thức được gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
cũng như sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC. Cả hai sự kiện này đã và
đang tiếp tục tạo được ấn tượng tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài và đó là tín hiệu cho
những làn sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp hứa hẹn sẽ đổ vào Việt Nam. Việc Việt
Nam vừa được xếp trong Top những nước có môi trường đầu tư tốt nhất năm 2006 đã tạo
cơ sở ban đầu thuận lợi, củng cố niềm tin cho các đối tác nước ngoài đã, đang và sẽ chuẩn
bị đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, số lượng các công ty niêm yết tăng mạnh trong năm 2006, đặc biệt là vào
thời điểm cuối năm. Chỉ riêng tháng 12, số lượng công ty niêm yết tại TTGDCK TP HCM
đã lên tới 50 công ty. Nguyên nhân của tình hình này do thực hiện việc cắt giảm ưu đãi
thuế thu nhập cho doanh nghiệp niêm yết kể từ ngày 1/1/2007 đã tạo ra một làn sóng lên
sàn ồ ạt của các công ty cổ phần.
Tình hình tăng giảm chứng khoán trong kỳ (từ ngày 11/6/2006 – 11/16/2007)
Chỉ tiêu Cổ phiếu Trái phiếu Toàn thị
trường Chứng chỉ
quỹ
Niêm yết mới(ngàn CK)
Niêm yết bổ sung
Huỷ niêm yết
Niêm yết lại 19.338.433.650 1.228.218
69.242
-
- 892.416.940
-
- 50.000
20.000
-
- 68.533
-
-
-
(Nguồn: TTGDCK TPHCM)
Thứ hai, cùng với sự bùng nổ về số lượng cổ phiếu niêm yết, số lượng các công ty
chứng khoán và công ty quản lý quỹ mới thành lập. Hai định chế tài chính này đã gấp rút
nộp hồ sơ xin cấp phép trước thời hạn Luật Chứng khoán có hiệu lực (1/1/2007) để tranh
thủ áp dụng các điều kiện quy định về vốn đối với công ty chứng khoán và công ty quản lý
quỹ. Đến 31/12/2006, có 50 công ty chứng khoán (tăng 37 công ty so với cuối năm 2005)
và 18 công ty quản lý quỹ hoạt động và cấp phép hoạt động. Trong đó 3 công ty chứng
khoán đã đăng ký giao dịch cổ phiếu trên TTGDCK Hà Nội).
Từ tháng 12/2006 đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã lên xuống khá đột
ngột. Hiện tại thị trường lại vào một trào lưu tăng giá mới. Quý I năm 2007, VN-Index vẫn
tăng đáng kể so với cuối năm 2006. Về tương lai của thị trường chứng khoán Việt Nam,
các nhà đầu tư đang rất kỳ vọng vào sự tăng trưởng của ngành chứng khoán còn rất non trẻ
này; và người ta đang tự hỏi rằng liệu rằng “con ngựa bất kham” này sẽ lại “phi nước đại”
đến đâu? Đây là câu hỏi khó có thể trả lời, tuy nhiên, nhiều nhà phân tích nhận định, có
tính nguyên tắc rằng điều đó phụ thuộc vào sự bền vững của thị trường.
Người ta nhận định rằng vài đợt “tụt dốc” vừa qua là sự điều chỉnh cần thiết của thị
trường chứng khoán Việt Nam nhằm đảm bảo để thị trường tăng trưởng bền vững. Điều
này đặt ra yêu cầu rằng các yếu tố bên trong của các doanh nghiệp cần được cải thiện kịp
thời (ít nhất là quản trị, điều hành, chiến lược kinh doanh,…) đi đôi với môi trường vi mô
cởi mở (bao gồm cả yếu tố hội nhập). Ngược lại, nếu môi trường vĩ mô và các yếu tố vi mô
không được cải cách thì có thể doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc là khó
vượt qua khó khăn hiện thời; Trong đó, đặc biệt là nếu có nhiều rào cản không cho đầu tư
công nghệ và quản lý tốt từ nước ngoài vào thì vấn đề quản trị, điều hành ở doanh nghiệp
sẽ khó được cải thiện trong tương lai… Khi môi trường vĩ mô không thuận lợi, “bong bóng
chứng khoán” sẽ nổ bất kỳ lúc nào và hậu quả của sự cố đó lại càng khôn lường.
Hiện tại, các chuyên gia kinh tế cũng đánh giá rằng mặc dù thị trường chứng khoán
Việt Nam có rất nhiều triển vọng nhưng cũng có không ít rủi ro về vĩ mô và vi mô. Những
yếu tố vĩ mô và vi mô này sẽ những yếu tố quan trọng, quyết định sự bền vững của thị
trường chứng khoán trong tương lai (hoặc là chứng khoán có tăng giá hay sụt giá như thế
nào):
- Các yếu tố vĩ mô: Việc Việt Nam tham gia nhập WTO, các rào cản (giấy phép, các
phân biệt đối xử, thủ tục hành chính,…) không phù hợp sẽ từng bước bị loại bỏ. Tuy nhiên
thực tế cho thấy việc loại bỏ các rào cản ở Việt Nam cũng cần có thời gian. Việc hạn chế
các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần khu vực ngân hàng chẳng hạn được người ta kỳ
vọng là 49% tổng số vốn tự có của ngân hàng vào năm 2006, nhưng hiện tại mới được mức
30%. Chính điều này sẽ có thể ảnh hưởng đến tiến trình cải tổ về quản trị của các ngân
hàng… Cũng theo tiến trình hội nhập quốc tế, hệ thống luật lệ nói chung sẽ được thay đổi
và ban hành mới để tạo lập khuôn khổ pháp lý và “chỗ dựa” cho các chứng khoán; tuy
nhiên, theo kinh nghiệm thực tế cho thấy, việc sửa đổi hệ thống luật lệ hiện thời về ngân
hàng và ban hành mới cũng không thể làm trong ngày một, ngày hai và nếu có thể thì vấn
đề về tính thực thi cũng rất hạn chế. Mức độ tham nhũng ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề mà
tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2006, đã lên tiếng quan
ngại về quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA; gần đây người ta cũng lo ngại về tình trạng rửa
tiền qua thị trường chứng khoán…
- Những yếu tố vi mô: Những rủi ro vi mô (bên trong doanh nghiệp) là khả năng quản
lý tài chính của các doanh nghiệp vẫn còn hết sức hạn chế. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam
có hệ thống quản lý rủi ro đáng tin cậy theo thông lệ tốt nhất của quốc tế (nhất là khu vực
tài chính, ngân hàng); Thêm vào đó, việc công bố thông tin ra công chúng vẫn còn nhiều
bất cập (do chuẩn mực kế toán Việt Nam còn có khoảng cách với chuẩn quốc tế). Việc hạn
chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (nhất là nhà đầu tư chiến lược). Người ta cho
rằng, không thể lấy vốn để thay cho quản lý tốt. Tuy nhiên, dễ nhận thấy rằng, các doanh
nghiệp trong nước sử dụng thị trường chứng khoán để tăng vốn hơn là để tăng cường quản
trị/ quản lý. Điều này dẫn đến, thị trường chứng khoán nóng lên vì các doanh nghiệp đua
nhau phát hành cổ phiếu để tăng vốn và thiên về chứng khoán nợ; Vốn của doanh nghiệp
tăng chóng mặt, trong khi quản trị/ quản lý doanh nghiệp thì vốn đó. Điều đáng lo ngại là
nhiều công ty cho rằng “cứ có tiền là làm được tất cả” và khu vực ngân hàng thì các
chuyên gia kinh tế vẫn nhận định rằng nợ xấu “chưa được xử lý tận gốc”. Báo cáo phát
triển tháng 12/2006 của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cho rằng “các khoản nợ xấu của
các ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu được xử lý bằng cách xoá nợ và tái cấp vốn
cho các ngân hàng này mà không phụ thuộc vào việc các ngân hàng này có cải cách mạnh
mẽ hay không…”.
Đánh giá về khu vực tài chính Việt Nam hiện nay, đại diện Ngân hàng thế giới (WB)
tại Việt Nam nhận định rằng: “Sự phát triển ngoạn mục nhất (và hơi đáng lo ngại) là sự
tăng vọt thị trường chứng khoán với chỉ số VN-Index tăng gấp đôi trong vòng một năm.”
(WB-2006)5. Điều đó có thể được hiểu là sự tăng trưởng của thị trường vừa qua có chứa
đựng những rủi ro và đi kèm với cơ hội. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam vào đầu
tháng 3/2007 cũng gửi đến Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước bày tỏ quan ngại về sự “bùng
nổ quá mức” của thị trường chứng khoán Việt Nam . Theo ước tính của IMF, chỉ số P/E
của 20 công ty lớn nhất thị trường Việt Nam (chiếm 99% vốn hoá của thị trường) niêm yết
tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh là khoảng 73 lần (tính đến tháng 1/2007). IMF cũng cho rằng, hiện tượng
tăng giá chứng khoán và số P/E tăng nhanh là hiện tượng phổ biến trên thị trường mới nổi,
nhưng vẫn là rất cao so với chuẩn mực thị trường khác (Nhất Linh, 20076).
Trên nền tảng thị trường chứng khoán Việt Nam như hiện nay, các tổ chức này dự
báo năm 2007, chỉ số P/E trung bình của thị trường sẽ giảm xuống còn 16,8 lần và đến cuối
năm 2008, chỉ số này sẽ giảm xuống còn 13,6 lần do khi đó có nhiều doanh nghiệp Việt
Nam sẽ phát hành cổ phiếu để tăng vốn, trong khi tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong giai
đoạn này chưa thể theo kịp tốc độ tăng trưởng vốn và nhiều doanh nghiệp không còn được
hưởng ưu đãi về thuế (Tường Vi, 20067). Về tổng thể, nhiều chuyên gia nhận định rằng về
mặt tiềm năng thì thị trường chứng khoán Việt Nam là rất tốt với sự hỗ trợ mạnh mẽ của
quá trình cải cách kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế, yếu tố vĩ mô đang trở nên thông
thoáng hơn; tiềm năng về tăng trưởng và cơ cấu lại ở các doanh nghiệp theo chuẩn mực
quốc tế - trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi đã làm cho giá thị trường của chứng
khoán của nhiều doanh nghiệp vượt xa so với mệnh giá ban đầu.
- Năng lực hạn chế và sự quá tải của các công ty chứng khoán Việt Nam. Vừa qua các
công ty chứng khoán đã ồ ạt được khai sinh. Sự mới tham gia thị trường dẫn đến tình trạng
các công ty đều thiếu nhân lực nghiêm trọng; cơ sở hạ tầng bất cập và thiếu thốn… Thời
gian gần đây, một vài công ty chứng khoán đã thực hiện “thanh lọc” bớt các nhà đầu tư
theo kiểu đưa ra mức khống chế số tiền tối thiểu nào đó có thể được coi là phản ứng của
các công ty chứng khoán trước tình trạng quá tải trước trào lưu hay hội chứng “chứng
khoán” hiện nay. Các công ty chứng khoán mới ra đời và trên cơ sở thị trường còn rất mới
mẻ cũng làm cho các dữ liệu thị trường mà các công ty đưa ra cho các phân tích kỹ thuật là
rất ít ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. Một vài công ty chứng khoán vừa qua bị Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước phạt vì sai phạm này hay sai phạm khác (cho dù chưa có dấu hiệu
gì nghiêm trọng) nhưng cũng phản ánh rằng các công ty này hoạt động kém chuyên nghiệp
và những rủi ro có thể “nổ ra” ngay từ những nơi rất trọng yếu này.
- Yếu tố cơ sở hạ tầng tin học/viễn thông: Hiện tượng “sập thị trường” ngày
8/12/2006 tại Trung tâm giao dịch TP. Hồ Chí Minh vừa qua được giải thích là yếu tố kỹ
thuật và không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Tuy nhiên nó lại là tiếng chuông cảnh báo
về sự bất cập của cơ sở hạ tầng cho các giao dịch điện tử về tài chính (mà ở đây là giao
dịch chứng khoán) so với tốc độ phát triển của thị trường. Đó cũng là yếu tố rủi ro tiểm
năng nếu không có những điều chỉnh, thay thế, nâng cấp kịp thời từ Trung tâm giao dịch
đến các công ty kinh doanh chứng khoán;
- Dịch chuyển vốn từ tín dụng sang đầu cơ chứng khoán ở Việt Nam. Tại Việt Nam,
hiện tại chưa có đánh giá về tác động của dòng vốn dịch chuyển từ ngân hàng sang chứng
khoán. Tuy nhiên vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã thừa nhận có dòng vốn đáng kể dịch
chuyển từ khu vực tín dụng sang đầu tư chứng khoán. Tín dụng cho nền kinh tế tăng
trưởng khá thấp do dòng vốn chuyển sang đầu tư chứng khoán (bằng chứng là dư nợ cho
vay thế chấp chứng khoán tăng mạnh); tiền gửi ngân hàng cũng giảm sút đáng kể vào dịp
cuối năm 2006. Phản ứng trước tình hình dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu tăng cao, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 7318/NHNN-CSTT (ngày 25/8/2006) yêu cầu
các ngân hàng thương mại phải thực hiện một số biện pháp thắt chặt an toàn trong cho vay
mua cổ phiếu/ cầm cố cổ phiếu. Bản đánh giá đầu năm 2007 của IMF cũng chỉ ra rằng,
Việt Nam đang đối mặt với rủi ro về tình trạng có dòng vốn chảy từ tín dụng ngân hàng
sang chứng khoán và rủi ro liên quan đến chứng khoán của các ngân hàng cũng đang tăng
cao.
Những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam vừa qua phản ánh các yếu tố
vĩ mô và vừa phản ánh các yếu tố vi mô. Nếu xét về mặt vĩ mô và vi mô và sự thận trọng
cần thiết cả về mặt cơ sở kỹ thuật cho thị trường, ta có thể nhận định rằng sự “sập sàn
Trung tâm Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh - do yếu tố kỹ thuật”, hiện tượng “bong
bóng chứng khoán” và sự “tụt dốc” của thị trường trong thời gian vừa qua là những dấu
hiệu phản ánh sự phát triển chưa thực sự bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam
(cho dù hiện tại thị trường đã hạ nhiệt). Sự kém bền vững hay “tính dễ tổn thương” của thị
trường chứng khoán Việt Nam có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, xoá đói
giảm nghèo, tác động tiêu cực đến sự bền vững của cả khu vực tài chính, các doanh
nghiệp... và cụ thể là nó làm “không an tâm” các nhà đầu tư.
Việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển nhanh, mạnh là cần thiết nhằm tạo
kênh huy động vốn, tằng cường quản trị/ quản lý cho các doanh nghiệp trong nước và rộng
hơn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… là rất cần thiết đối với Việt Nam. Tuy nhiên, việc
duy trì thị trường phát triển bền vững (như không đổ vỡ,...) cũng là cực kỳ quan trọng khi
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay.
Những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam vừa qua là tương đối “ổn
định”, không “sốc” mạnh; Tuy nhiên, chúng ta có thể thống nhất rằng, ngay từ bây giờ
chúng ta cần có sự điều chỉnh chính sách vĩ mô (như môi trường đầu tư, tính minh bạch của
thị trường, mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia các doanh nghiệp trong nước,…)
và các điều chỉnh ở cấp vi mô tại mỗi doanh nghiệp (như tăng cường quản trị, điều hành,
tăng cường công nghệ,…); nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thị trường… nhằm đảm bảo
để thị trường tăng trưởng bền vững là cần thiết.
Phụ lục 4
LỰA CHỌN LÃI SUẤT CHỦ ĐẠO ĐỂ THAY THẾ CHO LÃI SUẤT CƠ BẢN
NHNN Việt Nam lựa chọn lãi suất nào để dùng lảm lãi suất chủ đạo? Để trả lời cho
câu hỏi này, hiện nay, còn có nhiều quan điểm khác nhau; trong đó có 5 quan điểm chính
như sau:
(1) Có quan điểm cho rằng cần tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản dùng làm lãi suất
chủ đạo như Luật NHNN qui định, nên bên cạnh lãi suất cơ bản, NHNN vẫn ban
hành nhiều loại lãi suất khác nhau, dù các loại lãi suất này đã thoát ly dần với lãi
suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
(2) Quan điểm cho rằng lãi suất thị trường mở là lãi suất chủ đạo cũng được nhiều
người lựa chọn do NHNN có thể thông qua nghiệp vụ thị trường mở để điều hành
chính sách lãi suất một cách có hiệu quả.
(3) Một số quan điểm cho rằng NHNN chỉ cần sử dụng lãi suất liên Ngân hàng
làm lãi suất chủ đạo, vì lãi suất liên Ngân hàng luôn biến động theo lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
(4) Một số người cho rằng NHNN có thể xem lãi suất chiết khấu như lãi suất chủ
đạo, bởi vì thông qua cánh cửa tái chiết khấu, NHNN vẫn có thể điều hành một
cách hiệu quả lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
(5) Cuối cùng, có quan điểm cho rằng sử dụng lãi suất tái cấp vốn thay cho lãi suất
cơ bản dùng làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh lả hợp
lý nhất.
Thực tế cho thấy lãi suất cơ bản đã xa rời lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng
và đồng thời lãi suất liên ngân hàng lại phụ thuộc vào các NHTM, nên chúng ta có thể loại
trừ hai loại lãi suất này.
Nếu xét NHNN thực hiện chức năng Ngân hàng của các tổ chức tín dụng tức là người
cho vay cuối cùng, chúng ta có thể dễ dàng loại trừ tiếp lãi suất thị trường mở. Như vậy,
chúng ta chỉ cần lựa chọn một trong hai loại: lãi suất tái cấp vốn hoặc lãi suất tái chiết khấu
để thay cho lãi suất cơ bản.
Quan điểm sử dụng lãi suất tái cấp vốn thay cho lãi suất cơ bản tỏ ra hợp lý hơn vì
Luật NHNN giải thích: lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng
khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng
(Điều 9). Mặt khác, Điều 17, Luật NHNN Việt Nam cũng xác định hình thức tái cấp vốn
bao gồm: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu; tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá khác; cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn có khái niệm rộng hơn so với lãi suất tái chiết khấu bởi
vì nó bao gồm cả nghiệp vụ tái chiết khấu lẫn nghiệp vụ cho vay của NHNN đối với các tổ
chức tín dụng.