LUẬN VĂN:
Những giải pháp Marketing cho hoạt động
kinh doanh du lịch lữ hành ở Công ty Cổ
phần Du lịch và Thương mại Đông Nam á
Lời nói đầu
Du lịch một ngành công nghiệp hàng m đã đem về cho mỗi quốc gia một
khoản tiền khổng lồ. Người ta nói rằng khi chính phủ bỏ ra một đồng để đầu tư vào
ngành du lịch thì sẽ thu về một ngàn đồng lợi nhuận. Đó sự thật, bởi lẽ du lịch một
ngành tổng hợp, đã trở thành hiện tượng phổ biến trên thế giới và ngày càng phát
triển với nhịp độ cao. Du lịch không còn nhu cầu cao cấp, tốn kém nhìn nhận du
lịch là một trong những chỉ tiêu đánh giá mức sống, mức độ phát triển của một quốc gia.
Và du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cấu kinh tế của nhiều quốc gia.
Nhờ thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế chính trị ổn định,
đường lối ngoại giao rộng mở, tăng cường hợp tác khuyến khích đầu nước ngoài
nhờ đó ngành du lịch Việt Nam đã đón ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế, Việt
Kiều về thăm tquốc, nhân dân đi du lịch trong người nước, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, mở rộng giao lưu văn hoá, làm cho nhân dân hiểu biết thêm về đất nước
con người Việt Nam.
Năm 1991 ngành du lịch Việt Nam đón được 250.000 lượt khách du lịch quốc tế,
năm 1995 đón được 1,35 triệu lượt khách, m 1997 đón 1,71 triệu lượt khách quốc tế
và đến năm 2002 đã đón được 2,5 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam.
Những số liệu nêu trên là một kết quả đáng khích lệ đối với ngành du lịch nước
ta. Nhưng để đưa du lịch Việt Nam phát triển đúng với tiềm năng vốn trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn trong cấu kinh tế chung của đất nước đòi hỏi ngành du
lịch phải phấn đấu đưa ra được những giải pháp hiệu quả n. Chính vậy
sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Đông Nam á
Nội em đã học hỏi m hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty m
chuyên đề này với đề tài "Những giải pháp Marketing cho hot động kinh doanh du
lịch lữ hành ở Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Đông Nam á".
Nội dung chuyên đề được chia làm 3 phần:
- Chương I: Thị trường du lịch lữ hành và cơ sở lý luận về giải pháp Marketing.
- Chương II: Thực trạng hoạt động Marketing trong kinh doanh du lịch lữ hành
tại Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Đông Nam á.
- Chương III: Các giải pháp Marketing để nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch
lữ hành tại công ty trong trong thời gian tới.
Chương i
Thị trường du lịch lữ hành và cơ sở lý luận
về giải pháp Marketing
1.1. thị trường du lịch lữ hành:
1.1.1. Quy mô của thị trường du lịch lữ hành:
Từ khi xoá bỏ chế độ bao cấp, để chuyển mình sang nền kinh tế thị trường thì
mức sống của người dân dần được nâng cao, các nhu cầu thiết yếu văn, mặc, dần
dần được thoả mãn. Phát sinh các nhu cầu lớn hơn, trong đó có nhu cầu du lịch, người ta
nhìn nhận du lịch như một chỉ tiêu đánh giá mức sống, như nhu cầu thực scủa
cuộc sống. Nhu cầu về du lịch, được coi là nhu cầu tổng hợp liên quan tới sự di chuyển,
lưu lại tạm thời bên ngoài, nơi cư trú thường xuyên trong thời gian tiêu dùng du lịch của
dân cư, nhằm mục đích nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất tinh thần, nâng cao
trình độ hiểu biết về văn hoá, thể thao kèm theo việc tiêu dùng các giá trị tự nhiên, n
hoá, kinh tế, xã hội.
Cùng với du lịch phát triển nhanh chóng thì thu nhập từ du lịch cũng tăng lên.
Các quốc gia trên thế giới đều coi du lịch như một trong các ngành kinh tế, tạo ra thu
nhập quốc dân, các chính sách tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh du lịch
phát triển. Theo số liệu thống kê, năm 1950 thu nhập ngoại về du lịch quốc tế chỉ ở mức
2,1 tỷ USD; năm 1960 đạt 6,8 tỷ USD m 1970 đạt 18 tỷ USD; m 1980 đạt 102
tỷ USD; năm 1991 đạt 26 tỷ USD và năm 1994 đạt 338 tỷ. Bên cạnh đó số lượng khách
cũng tăng lên rõ rệt qua từng năm một.
Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế bắt đầu được khôi phục
và phát triển, đến những năm 90 khi nền kinh tế, chính trị ổn định, du lịch thực sự bước
vào giai đoạn khởi sắc. Ngành du lịch tốc độ phát triển liên tục đạt 30 - 40% thuộc
những nước tăng trưởng du lịch cao nhất thế giới. Trong những năm 1990-1997. Nếu
như năm 1994, số lượng khách du lịch nội địa là 3.500.000 lượt người thì đếnm 98
9,6 triệu lượt người (tăng 2,74 lần so với năm 94). Không chỉ những chuyến du lịch nội
địa tăng lên số lượng khách Việt Nam ra nước ngoài và số lượng khách quốc tế vào
Việt Nam cũng tăng lên đáng kể. Năm 94 cả nước có hơn 7.500 lượt người Việt Nam đi
ra nước ngoài thì năm 97 con số là 12.980 lượt (tăng 1,7 lần so với năm 94). Năm 94 s
lượng khách quốc tế đến Việt Nam 1.018 nghìn lượt người thì m 97 1710 nghìn
người. Cho đến cuối năm 1997 đầu m 98 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực Đông Nam á cùng với thiên tai lụt tại các tỉnh thành phố trong cả
nước, hoạt động du lịch đã gặp rất nhiều kkhăn, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam m 98 chỉ còn 1.520 nghìn lượt nời (giảm 12% so với năm 97) lượng khách
Việt Nam đi du lịch nước ngoài chỉ còn 11.000 người (giảm 18% so với năm 97) duy
chỉ lượng khách nội địa là tăng 15% so với năm 97. Bước sang m 2000 - 2001 tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực giảm xuống, ngành du lịch Việt Nam đã
lấy lại được nhịp độ tăng trưởng, lượng khách du lịch đến Việt Nam m 2000 đạt 1,78
triệu người m 2001 đạt 2,13 triệu người lượng khách nội địa m 2000 đạt 10,7 triệu
người năm 2001 đạt 11,2 triệu người.
Như vậy trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã nhiều cố gắng, nỗ
lực phấn đấu và đã đạt được những bước đầu khá khả quan. Sự phát triển đồng đều của
các hoạt động kinh doanh du lịch, như kinh doanh lữ hành, kinh doanh dịch vụ lưu trú
và ăn uống, kinh doanh dịch vụ vận chuyển đã góp phần đẩy mạnh hơn nhu cầu du lịch
tạo nên ngành du lịch một ngành kinh tế có vị trí rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của một quốc gia.
1.1.2. Sự cần thiết, vai trò của hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành việc tiêu
dùng của du khách:
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài người,
trong thời kỳ cổ đại Ai Cập Hy Lạp, hoạt động du lịch chỉ mang tính chất tự phát,
mọi chuyến đi đều do tư nhân đảm nhiệm, chưa hề một tổ chức du lịch nào. Tới đế
chế La Mã, du lịch phát triển mạnh với cả hai hình thức cá nhân và tập thể. Đã xuất hiện
những cuốn sách ghi chép về các tuyến hành trình, các suối nước nóng, của các tác giả
như Sera Taxit. Vào thế kỷ thứ II Hy Lạp, Pausanhiac đã xuất bản cuốn sách
"Perigezoto" thời gian biểu của các phương tiện giao thông công cộng. Đây là những
nguồn thông tin đầu tiên của hoạt động du lịch lữ hành. Khu hoạt động du lịch phát triển
lên một bước mới đã xuất hiện các tổ chức của hoạt động lữ hành, các tổ chức này chỉ
đảm nhiệm một hoặc một số các dịch vụ, phục vụ khách du lịch trong chuyến hành
trình. Theo thời gian nhu cầu du lịch ngày một lớn, các tổ chức ngày một hoàn thiện
thành các công ty lữ hành với đầy đủ các chức năng như hiện nay.
Các công ty lhành này vai tnhư chiếc cầu nối giữa cung cầu du lịch.
Như vậy, kinh doanh lữ hành xuất hiện phát triển như một tất yếu. Mặc ra đời
khá muộn so với các hoạt động khác của ngành du lịch nhưng đã trở thành một
ngành kinh doanh chủ chốt của hoạt động kinh tế du lịch. Bằng cách bán các chương
trình du lịch (tour), nghĩa sản xuất, đổi mới các chương trình du lịch tổ chức
thực hiện chương trình du lịch đó. Kinh doanh du lịch lhành góp phần thúc đẩy s
phát triển của ngành du lịch.
Hoạt động kinh doanh lữ hành được thể hiện qua quá trình chọn lọc các tài
nguyên du lịch, để cấu tạo thành sản phẩm du lịch. Công ty với cách nơi môi giới
(bán) các dịch vụ hàng hoá được sản xuất từ các doanh nghiệp khác, chuyên ngành khác
để thu một phần quỹ tiêu dùng cá nhân của khách du lịch.
Ngày nay, những người đi du lịch chỉ muốn có một công việc chuẩn bị duy nhất
tiền cho chuyến đi du lịch, họ không muốn phải tự mình chuẩn bị các phương tiện đi
lại như thuê xe, mua tàu, chuẩn bị nơi lưu trú (thuê phòng khách sạn, nhà nghỉ nhà
trọ), chuẩn bị i ăn uống (khách sạn, nhà hàng). Nên họ thường đến hay liên lạc qua
những công ty du lịch lữ hành để đi du lịch với mức giá trọn gói, đồng thời khi họ tham
gia vào các chương trình du lịch của công ty du lịch lữ hành họ còn kết hợp với các mục
đích khác ngoài mục đích tham quan, giải trí nghỉ ngơi, hay ngoại giao, thăm viếng kinh
doanh nên họ không có nhiều thời gian để chuẩn bị cho riêng chuyến đi.
Hơn nữa, khi mua các sản phẩm dịch vụ du lịch thông qua công ty lữ hành, du
khách không chỉ tiết kiệm được thời gian còn tiết kiệm được chi phí cho việc tìm
kiếm thông tin tổ chức sắp xếp, bố trí cho chuyến đi du lịch của mình. Khách du lịch
vừa quyền lựa chọn, vừa cảm thấy hài ng yên m với quyết định của chính
mình, đã được tiếp xúc với các ấn phẩm quảng cáo, với các lời hướng dẫn của nhân
viên bán hàng.