Giải pháp nâng cao năng lực hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo theo định hướng chuyển đổi số và phát triển trường đại học ứng dụng thông minh
lượt xem 6
download
Bài viết nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm định hướng, tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi phương diện theo định hướng chuyển đổi số sẽ giúp chuẩn bị kỹ lưỡng lý luận, thực tiễn, nhân lực, vật lực cho việc vận hành một trường đại học thông minh theo định hướng ứng dụng và chuyển đổi số.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải pháp nâng cao năng lực hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo theo định hướng chuyển đổi số và phát triển trường đại học ứng dụng thông minh
- International Conference on Smart Schools 2022 GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THEO ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ỨNG DỤNG THÔNG MINH SOLUTIONS TO IMPROVE INTERNATIONAL COOPERATION CAPACITY IN EDUCATION AND TRAINING ORIENTED TOWARDS DIGITAL TRANSFORMATION AND SMART APPLICATION UNIVERSITY DEVELOPMENT TS. Nguyễn Thành Nam Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng TP. Hồ Chí Minh Từ khóa: TÓM TẮT: Hợp tác quốc tế, Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra một bài toán lớn trong chuyển đổi số, trường đại việc ứng dụng và vận hành AI, IOT và chuyển đổi số. Trong đó, chuyển đổi học thông minh, nhân lực số. số đóng một vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các mô hình trường đại học thông minh. Hợp tác quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cốt lõi góp phần thực hiện thành công các mục tiêu trên. Việc nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm định hướng, tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi phương diện theo định hướng chuyển đổi số sẽ giúp chuẩn bị kỹ lưỡng lý luận, thực tiễn, nhân lực, vật lực cho việc vận hành một trường đại học thông minh theo định hướng ứng dụng và chuyển đổi số. Keywords: ABSTRACT: International The industrial revolution 4.0 is posing a big problem in the application cooperation, digital and operation of AI, IoT and digital transformation. In particular, digital transformation, smart transformation plays a very important role, deciding the success or failure of university, digital human smart university models. International cooperation is one of the important resources. and core tasks contributing to the successful implementation of the above goals. Researching and providing solutions to orient and strengthen international cooperation in all aspects in the direction of digital transformation will help to carefully prepare theory, practice, human and material resources for the operation of a smart university oriented to application and digital transformation. 1. Tầm nhìn về hợp tác quốc tế theo đính hướng chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển chuyển đổi số, kết nối vạn vật (IOT) và trí tuệ nhân tạo(AI) làm nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi trong các nhiệm vụ cần thực hiện, trong đó hợp tác quốc tế lại đang là một giải pháp hàng đầu góp phần hoàn thành sứ mệnh trên và phát triển thành công mô hình trường đại học thông minh theo định hướng ứng dụng. Có thể khẳng định tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong công cuộc chuyển đổi số nhà trường theo như Chính phủ đã ban hành: “Hợp tác quốc tế là giải pháp quan trọng để thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là thúc đẩy chuyển đổi số trong xã hội, từ đó, tạo lực kéo tiến trình chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước. Tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, tiên phong áp dụng công nghệ mới, mô hình mới vào Việt Nam”([5]). Căn cứ Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 04 tháng 5 năm 2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã nêu: cần nghiên cứu thực hiện giải pháp nhằm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề để tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp cận các xu thế công nghệ sản xuất mới, kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ và xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, đô thị thông minh. “Mỗi cơ quan, tổ chức và cả quốc gia cần tận dụng tối đa cơ hội để phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, trong đó, việc xác định sớm lộ trình và đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương có ý nghĩa sống còn, là cơ hội để phát triển các ngành, lĩnh vực, địa phương và nâng cao thứ hạng quốc gia. Đi nhanh, đi trước giúp dễ thu hút nguồn lực. Nếu đi chậm, đi sau, khi chuyển đổi số đã trở thành xu hướng phổ biến thì nguồn lực trở nên khan hiếm, cơ hội sẽ ít đi, sẽ bỏ lỡ cơ hội phát triển”([5]). Trong đó: “Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi tổng thể và toàn diện cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất của cá nhân, tổ chức. Ta cũng có thể hiểu theo cách khác: là quá trình chuyển từ mô hình truyền thống sang mô hình số bằng cách ứng dụng các công nghệ mới 165
- International Conference on Smart Schools 2022 như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud computing)… và các phần mềm công nghệ để thay đổi phương thức quản lý, điều hành, thay đổi quy trình, phương thức làm việc và thay đổi văn hóa tổ chức”([2]). Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, hiển nhiên và diễn ra rất nhanh, đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghệ 4.0. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo có thể định nghĩa đó là chuyển đổi các hoạt động có ích của giáo dục đào tạo từ thế giới thực sang thế giới ảo trên môi trường mạng, kỹ thuật số và công nghệ thông minh, hoặc: “Chuyển đổi số trong giáo dục là một thay đổi trong đó áp dụng công nghệ thông tin hiện đại nhằm số hóa, mô hình hóa các hoạt động thực tế để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng, hiệu quả đào tạo, gắn liền với thực tế của xã hội; tạo ra một môi trường học tập nơi mà mọi thứ được kết nối, số hóa”([3]). Chuyển đổi số thực sự làm thay đổi diện mạo của ngành giáo dục đào tạo: “Chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo là việc chuyển đổi cách dạy, cách học, quản trị và quản lý giáo dục dựa trên công nghệ số hướng tới một hệ thống giáo dục chất lượng tốt, chi phí thấp và tiếp cận dễ dàng với mọi người dân”([10]). Chuyển đổi số trong nhà trường chính là: “việc nhà trường đổi mới mô hình tổ chức giảng dạy và quản lý, giáo viên đổi mới nội dung và cách dạy dựa trên bài học điện tử, học sinh được học chủ động hơn, trải nghiệm nhiều hơn qua tương tác trên môi trường số, từ đó nắm bắt kiến thức dễ hơn và chất lượng giáo dục được nâng cao hơn; nhờ có học liệu số và môi trường học tập số đó mà mô hình, cách thức dạy học được đổi mới theo hướng hiệu quả hơn”([15]). Thực tế cho thấy: “Ứng dụng các phần mềm để làm việc và quản lý trong cơ sở giáo dục như: phần mềm đào tạo quản lý học vụ, phần mềm kế toán, phần mềm quản lý nhân sự để tính lương,…Tuy nhiên, giải quyết triệt để hệ thống các công cụ vì đang khá rời rạc, chưa tối ưu hóa được cơ sở dữ liệu và chưa tối ưu hóa đa mục tiêu về quản lý”([3]). Trong đó, theo ông Houlin Zhao, Tổng thư ký Liên minh Viễn thông quốc tế: “Vẫn còn khoảng 50% người dân trên thế giới hiện nay vẫn chưa được kết nối với Internet” và “thiếu cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin không phải là trở ngại lớn nhất. Chi phí cao và các yếu tố khác như nội dung không thiết thực, hạn chế về kiến thức, kỹ năng số của người dân cũng là những yếu tố làm chậm lại tiến trình chuyển đổi số hiện nay”([10]). Như vậy, tầm quan trọng của chuyển đổi số đã được khẳng định, những khó khăn vẫn còn tồn tại, những cơ hội và thách thức đang đan xen, tuy nhiên chúng ta cần làm gì để việc chuyển đổi số được diễn ra một cách đồng bộ và hiệu quả, hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng như thế nào trong quá trình chuyển đổi số và góp phần tạo nên một trường đại học thông minh theo định hướng ứng dụng. 2. Giải pháp nâng cao năng lực hợp tác quốc tế 2.1. Nâng cao nhận thức và truyền thông về vai trò của hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số Xuất phát từ chủ trương của Chính phủ: “Nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý, nhà giáo từ trung ương đến địa phương về vai trò quan trọng và yêu cầu sớm triển khai chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp nhằm xây dựng, hình thành hệ sinh thái số giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người học và mọi người dân trong nền kinh tế số, xã hội số”([7]). Theo đó cần nêu cao nhận thức về vai trò quan trọng của chuyển đổi số trong bối cảnh hiện nay và con người là yếu tố trung tâm cho công cuộc cách mạng này, trong đó thể nói: “Công cuộc chuyển đổi số để xây dựng một thế giới số không phải của riêng một quốc gia, tổ chức, cá nhân nào. Đây là vấn đề toàn cầu nên cần phải có cách tiếp cận toàn cầu, góp sức toàn cầu”(theo [10]). Ngày 03 tháng 6 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với quan điểm: “Chuyển đổi số là xu thế tất yếu và là một quá trình thay đổi sâu rộng toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội”. Chính phủ các nước cần phải định hướng, dẫn dắt quá trình này để chuyển đổi số có hiệu quả, phát huy cao nhất những giá trị mới của không gian số trong mọi mặt của đời sống xã hội. Đồng thời, sự dẫn dắt định hướng của nhà nước cần đi đôi với sự năng động, hiệu quả của thị trường”([10]). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2222/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Chuyển đổi số trong toàn ngành giáo dục trên cơ sở hợp tác quốc tế cần phải được nhận thức sâu sắc, được tuyên truyền, phổ biến, vận động nâng cao nhận thức và trách nhiệm, tường minh về tư tưởng với quyết tâm và ý chí cao, từ đó xây dựng văn hoá số, quy trình hoạt động số trong hoạt động hợp tác quốc tế. Trong đó, cần có các chương trình, hoạt động quảng bá, hội thảo quốc tế được xây dựng và hoàn thiện hàng năm trên nền tảng số, trên cơ sở khai thác hiệu quả các phương tiện thông tin khác nhau (website, Fanpage, brochure, newsletter, tờ rơi, hội thảo...) để quảng bá, giới thiệu, tiếp thị các sản phẩm giáo dục và đào tạo số hóa. Không ngừng nâng cao năng lực hợp tác quốc tế về chuyển đổi số trong nhà trường thông minh thông qua hoạt động trải nghiệm, học đi đôi với làm như: “Điều đó đủ thấy rằng học bằng làm đã và đang được cả thế giới trong đó có Việt Nam quan tâm nghiên cứu và phát triển. Học bằng làm trước hết là một chiến lược học, không chỉ ở tầm chiến lược nhận thức, đặc biệt ngày nay, học bằng làm đã và đang trở thành chiến lược siêu nhận thức”([9]). Như vậy, hợp tác quốc tế về chuyển đổi số đồng nghĩa với việc gia tăng uy tín, năng lực, nhận thức, định hướng thông qua truyền thông để giữ vững lập trường, kiên định ý chí và phát huy sáng tạo, đổi mới trong xây dựng nhà trường thông minh. 166
- International Conference on Smart Schools 2022 2.2. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo về chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo Giáo dục và đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng và là cái nôi tạo ra các cuộc Cách mạng công nghiệp từ 1.0 đến 4.0 và định hướng đến cuộc cách mạng 5.0. Có thể nói, nguồn tri thức để tạo ra các cuộc cách mạng trên đã và đang đến từ nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới, từ lí do đó, chúng ta phải không ngừng tăng cường hợp tác quốc tế nhằm chia sẻ nguồn tài nguyên vô tận của thế giới. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói: “Việt Nam tiếp tục là thành viên tích cực, chủ động và là thành viên có trách nhiệm của Liên minh Viễn thông quốc tế; luôn đồng hành, hợp tác cùng các quốc gia, các tổ chức, doanh nghiệp để xây dựng thế giới số. Việt Nam mong muốn hợp tác cùng các nước thúc đẩy kinh tế số, xã hội số, nhất là hợp tác chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực quản lý hiện đại và thu hút đầu tư chất lượng cao”([10]). Trong đó: “Chủ động hợp tác quốc tế trong việc tham gia quản lý các tài nguyên chung trong môi trường số và trên không gian mạng; tham gia các tổ chức quốc tế và chủ trì, dẫn dắt triển khai một số sáng kiến về chuyển đổi số”([5]). Từ đó cần: “Tăng cường trao đổi, học tập chia sẻ kinh nghiệm về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp với các quốc gia, tổ chức quốc tế”([7]). Trong đó, cần tăng cường hơn nữa trong việc tham gia vào các tổ chức giáo dục/khoa học, mạng lưới, diễn đàn, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác trong chuyển đổi số. Mở rộng trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong khuôn khổ các diễn đàn và hội nghị khoa học khu vực; hợp tác hiệu quả với các tổ chức nghiên cứu, các trường đại học và cao đẳng trong các nước ASEAN về giáo dục nghề nghiệp và định hướng mở rộng quốc tế. Tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn, hiệp hội khu vực, quốc tế về giáo dục nghề nghiệp và các cuộc thi kỹ năng nghề. Nâng cao hiệu quả tham gia các kỳ thi kỹ năng nghề quốc tế ở Việt Nam. Khai thác, nhân rộng kết quả, kinh nghiệm tham dự các kỳ thi kỹ năng nghề khu vực và thế giới. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện với các trường học, tổ chức quốc tế trong lĩnh vực GDNN; trao đổi, tổ chức các hoạt động tham vấn chính sách GDNN với các đối tác nước ngoài, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Nhà trường thông minh cần: “Tham gia tổ chức và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu khoa học song phương và đa phương về trí tuệ nhân tạo (TTNT). Thúc đẩy phát triển cơ sở, trung tâm hợp tác nghiên cứu TTNT; các dự án hợp tác chuyển giao công nghệ, khai thác các sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài về TTNT; các trung tâm, chương trình đào tạo nhân lực TTNT chất lượng cao phục vụ thị trường trong nước và toàn cầu”([6]). Như vậy, thông qua con đường hợp tác quốc tế theo hình thức hợp tác song phương, đa phương, toàn diện, liên kết, chuyển giao, ký kết…. với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong giáo dục và đào tạo, khoa học – công nghệ sẽ góp phần thực hiện thành công chủ trương chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật, khoa học dữ liệu của Đảng, Nhà nước đã đề ra, tạo nên một nhà trường thông minh như mong đợi. 2.3. Gia tăng hợp tác quốc tế trong việc xây dựng hạ tầng số và nhà trường thông minh Nhà trường thông minh hoạt động dựa trên nền tảng của AI, IOT, BigData, …thông qua việc chuyển đổi số từ các cơ chế hoạt động truyền thông sang cơ chế hoạt động thông minh trên nền tảng số hóa. Để thực hiện được mục tiêu trên, chúng ta không thể không có một hạ tầng số phù hợp cho một nhà trường thông minh, hạ tầng số đó chúng ta không thể tự thân tạo nên được mà phải có sự hợp tác trên toàn bộ các phương diện với nhiều đối tác trong và ngoài nước. Theo đề án: “Tăng cường Ứng dụng công nghệ thông tin và Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030”([8]). Ngày 23 tháng 11 năm 2017, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 6179/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án: “Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025”. Trên cơ sở đó, chúng ta cũng phải xây dựng trường đại học thông minh vận hành trên nền tảng của thành phố thông minh, hạ tầng số như [7] đã nêu: “Phấn đấu 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030 trường cao đẳng, trường trung cấp có hạ tầng số, nền tảng số để kết nối, khai thác với nền tảng số giáo dục nghề nghiệp quốc gia”. Có thể thấy: “nhiều mô hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin; hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập; làm cho việc truy cập kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng được nhanh chóng, dễ dàng; giúp việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo viên, học sinh gần như tức thời”([13]). Do đó, cần: “phải xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin với những chính sách đúng đắn, phù hợp, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa. Các quốc gia cần phải có những chính sách khuyến khích các mạng viễn thông, nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin đầu tư, cung cấp dịch vụ ở những nơi không phải lúc nào cũng có lãi”([10]). Định hướng: “Đầu tư xây dựng nền tảng học liệu số toàn ngành giáo dục nghề nghiệp theo, nguyên tắc kết hợp học liệu mở với xây dựng thị trường trao đổi học liệu. Ưu tiên đầu tư, phát triển các học liệu số theo hướng ứng dụng công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường và thực tế hỗn hợp”([7]). Trong đó: “Khuyến khích, thúc đẩy các tập đoàn công nghệ trong nước đầu tư xây dựng viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo chất lượng cao về TTNT và KHDL; đầu tư cho một số trường đại học triển khai đào tạo một số ngành đào tạo đại học, sau đại học về TTNT và KHDL”([6]). Có thể nói, cơ sở hạ tầng là một hệ sinh thái kết hợp công nghệ, dịch vụ và bảo mật để thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số; tạo ra trải nghiệm học tập hợp tác, tương tác và truy cập thông tin. Chuyển đổi số thành công trong ngành giáo dục khi và chỉ khi có nền tảng công nghệ quốc 167
- International Conference on Smart Schools 2022 gia thống nhất để tất cả mọi người trong ngành giáo dục đều có thể tham gia, từ đó góp phần giúp cho hoạt động hợp tác quốc tế thay đổi và đạt được những thành quả nhất định. Xây dựng và phát triển không gian và thời gian học linh động, thúc đẩy giáo dục mở - bình đẳng – cá thể hóa: Hiện nay, các khóa học trực tuyến đại chúng mở xuất hiện với các tên tuổi lớn trên thế giới như: Udacity, Coursera, edX, Udemy, FutureLearn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học tiếp thu nhanh chóng và làm chủ kiến thức một cách linh động, hiệu quả và thuận tiện mọi lúc, mọi nơi. Nhà trường thông minh cần: “Triển khai mạnh mẽ hình thức hợp tác công - tư, đồng tài trợ cho các trung tâm đào tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển và trung tâm ứng dụng TTNT; đầu tư hình thành một số nhóm nghiên cứu trọng điểm về TTNT và KHDL trong một số trường đại học, viện nghiên cứu công lập; đầu tư cơ sở vật chất cho một số phòng thí nghiệm trọng điểm về TTNT và KHDL trong các trường đại học, viện nghiên cứu công lập; thúc đẩy xây dựng một số trung tâm đổi mới sáng tạo về TTNT, hình thành một số thương hiệu của Việt Nam về TTNT trên thế giới”([6]). Phát triển kho học liệu số, học liệu mở dùng chung, bải giảng điện tử, học liệu đa phương tiện, sách giáo khoa điện tử; triển khai mô hình giáo dục STEM/STEAM trong giáo dục nghề nghiệp, phát triển tư duy bậc cao về lập trình, triển khai các chương trình mới và tối ưu về khoa học máy tính phù hợp; Để phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học trong chuyển đổi số toàn ngành giáo dục thì phải thúc đẩy phát triển học liệu số; xây dựng kho học liệu số, học liệu mở toàn ngành, liên thông, liên kết với kho học liệu quốc tế để đáp ứng kỳ vọng nhu cầu học tập, tự học và học tập suốt đời; tiếp tục tiếp cận đổi mới cách dạy và học với đường hướng ứng dụng công nghệ số, khuyến khích, phát triển các mô hình giáo dục đào tạo mới, thông minh dựa trên các nền tảng số, dần thu hẹp khoảng cách giữa các đối tượng học. Trong đó: “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa.100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học”([5]). 2.4. Phát triển nguồn nhân lực số phục vụ quá trình hợp tác quốc tế Muốn hợp tác quốc tế thành công trong việc chuyển đổi số, phát triển trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật thì phải có nguồn nhân lực số có năng lực số phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của những lĩnh vực đang hướng tới. Theo đó, cần: “Trao đổi chuyên gia, người làm công tác nghiên cứu, sinh viên của tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, doanh nghiệp TTNT nước ngoài. Tham gia các hội, hiệp hội quốc tế và tổ chức khác về TTNT. Mời các chuyên gia TTNT nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài đến Việt Nam tham gia tư vấn, nghiên cứu, đào tạo về TTNT”([6]). Định hướng phát triển nguồn nhân lực số: “Hàng năm tuyển sinh đào tạo, bổ sung cử nhân, kỹ sư chuyên ngành công nghệ thông tin. Điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo ở bậc sau đại học, đại học và dạy nghề gắn với công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet vạn vật (IoT), thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR), chuỗi khối (Blockchain), in ba chiều (3D Printing)”([5]). Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nên mở lớp đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật để hỗ trợ kỹ thuật thích ứng và nhân rộng ra cho cả nước, mở những hệ đào tạo tài năng nhất. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế về bảo mật, an toàn thông tin và cách bảo vệ không bị tấn công mạng là rất cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong hoạt động ngoại giao. Đưa nội dung giáo dục về chuyển đổi số quốc gia, năng lực, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào giảng dạy trong nhà trường một cách phù hợp; thực hiện triển khai dạy tin học cơ bản, tiếp cận với tin học cho học sinh cấp nhỏ ngay từ khi đến trường; bổ túc kiến thức và tăng cường đào tạo nhân lực công nghệ thông tin chuyên nghiệp theo hướng ứng dụng, đáp ứng chuyển đổi số ở các ngành nghề khác nhau; đánh giá chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục trong lĩnh vực công nghệ thông tin của doanh nghiệp làm thước đo. Tăng tính tương tác, tính thực hành - ứng dụng: Ứng dụng thực tế ảo, thực tế tăng cường trong giáo dục để xây dựng nên các phòng thí nghiệm ảo, mô hình thực tế ảo với tính tương tác với người sử dụng, hay các cuốn sách AR, phần mềm Blippar nghiên cứu về khoa học vũ trụ,… giúp nguồn nhân lực hợp tác quốc tế có những trải nghiệm thú vị, rộng mở, đa giác quan trên môi trường ảo, dễ hiểu, dễ nhớ và tìm tòi, hứng thú cho người tham gia, đồng thời đẫy mạnh tính tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong giảng đường. Trong đó, việc trau dồi khả năng ngôn ngữ, số hóa công nghệ thông minh là một nhiệm vụ quan trọng và là tiêu chí đặt lên hàng đầu đối với nhân lực lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ hội nhập và thể hiện đúng vai trò là công dân toàn cầu trong thời kỳ chuyển đổi số. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đủ năng lực làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế, đội ngũ này cần được trang bị những kỹ năng tiếp cận công nghệ số, kỹ năng giao tiếp quốc tế, luật quốc tế, văn hóa đa sắc tộc, nghệ thuật giao tiếp quốc tế, năng lực về ngoại ngữ, có khả năng tự giao dịch, tự nghiên cứu tài liệu ở nhiều lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề khác nhau. Một giải pháp để đạt được những kỹ năng trên là, thường xuyên tổ chức và tạo điều kiện để 168
- International Conference on Smart Schools 2022 cán bộ, người học tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế về chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học. Theo [6]: “Tổ chức các chuỗi sự kiện về TTNT; hỗ trợ các cá nhân, tổ chức trong nước tham gia các hội thảo, triển lãm, kỳ thi quốc tế về TTNT; tham gia tổ chức và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu khoa học song phương và đa phương về TTNT; thúc đẩy phát triển cơ sở, trung tâm hợp tác nghiên cứu TTNT; các dự án hợp tác chuyển giao công nghệ, khai thác các sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài về TTNT; các trung tâm, chương trình đào tạo nhân lực TTNT chất lượng cao phục vụ thị trường trong nước và toàn cầu; trao đổi chuyên gia, người làm công tác nghiên cứu, sinh viên của tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, doanh nghiệp TTNT nước ngoài. Tham gia các hội, hiệp hội quốc tế và tổ chức khác về TTNT”. 2.5. Xác định tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá nguồn nhân lực hợp tác quốc tế Nguồn nhân lực hợp tác quốc tế trước hết phải là: nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực số, công dân số và cần phải đạt đủ các tiêu chuẩn kỹ năng số theo quy định quốc tế đặt ra, phải đáp ứng được các yêu cầu như định nghĩa nhân lực số, chuyên gia số, quản lý số, lãnh đạo số như [2] đã nêu. Nhân lực hợp tác quốc tế trong nhà trường thông minh cần phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo, năng lực về công nghệ thông tin, kết nối số hóa, mô phỏng, số hóa, khai thác, tìm kiếm dữ liệu và cần thể hiện ở mức cao nhất như: “tạo ra các phát minh, sáng chế mới, sản phẩm mới, đưa ra các định luật, định lí mới và có ý nghĩa với toàn nhân loại. Năng lực sáng tạo của các chuyên gia, kĩ thuật viên,... thể hiện ở mức tạo ra các cải tiến, đổi mới, hoàn thiện,... để tăng năng suất lao động trong ngành nghề, trong một lĩnh vực hoạt động, có ý nghĩa đối với một ngành, một quốc gia”([9]). Việc lựa chọn nguồn nhân lưc đưa đi đào tạo, bồi dưỡng không chỉ xem trọng về tiêu chí về năng lực, nhận thức mà còn phải rất coi trọng đến các vấn đề kỹ năng giao tiếp, hội nhập, ngoại ngữ, tin học, tính sáng tạo, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng mềm, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, quản lý của người được đưa vào quy hoạch, phát triển. Xem kỹ năng: ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ, giao tiếp, kỹ năng số hóa, mô phỏng hóa, kết nối vạn vận, sử dụng công nghiệ mới, khai thác và lưu trữ dữ liệu lớn, là những tiêu chí và tiêu chuẩn cho việc đánh giá nguồn nhân lực hợp tác quốc tế. Nguồn nhân lực hợp tác quốc tế cũng cần có đủ năng lực như nhân lực số: “có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác của các hoạt động kinh tế; có khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới; có tác phong kỷ luật và đạo đức trong công việc; có khả năng tư duy đột phá trong công việc, hay còn gọi là tính sáng tạo. Đây được xem như điều kiện đủ và là tiêu chí đặc trưng của nguồn nhân lực số”([1]). Đặt tiêu chí cho việc công bố một bài báo khoa học, bài báo quốc tế trong danh mục ISI, Scopus và các tạp chí khoa học chuyên ngành là thước đo đánh giá nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay, vì đây là sự khác biệt nổi trội giữa nguồn nhân lực số với nguồn nhân lực không phải là nguồn nhân lực số và cần phải có một chế độ trọng thưởng đối với những ai có thành tích đăng được các bài báo quốc tế. Nhân lực hợp tác quốc tế cần nắm rõ về: Luật Sở hữu trí tuệ và Khoa học Công nghệ và các Luật định khác để tránh vận dụng sai luật, gây tổn thất nghiêm trọng trong quá trình chuyển đổi số. Ngoài ra Nhà trường thông minh cần: “trang bị kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ sống và làm việc tích cực mà cần phát triển năng lực đặc biệt là năng lực tư duy và tư duy sáng tạo cho người học, dạy người học cách học, cách tư duy và phương pháp học tập”([9]). 2.6. Nâng cao năng lực hợp tác quốc tế thông qua các dự án nghiên cứu khoa học và công nghệ Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ rõ: muốn phát triển, các quốc gia cần phải hợp tác như: “Hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ đã và đang góp phần đáng kể vào việc tăng cường tiềm lực, nâng cao trình độ nghiên cứu và đặc biệt là góp phần giải quyết các vấn đề khoa học - công nghệ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta”([4]). Chỉ có thông qua việc ký kết thực hiện các dự án phát triển, đầu tư về Chuyển đổi số, IA, IOT thì mới ngày càng có thêm kinh nghiệm, hiểu biết và tiếp cận với nền khoa học tiên tiến của thế giới, nâng cao năng lực, kỹ năng hợp tác quốc tế như: “Khuyến khích, thúc đẩy các tập đoàn công nghệ trong nước đầu tư xây dựng viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo chất lượng cao về trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu; đầu tư cho một số trường đại học triển khai đào tạo một số ngành đào tạo đại học, sau đại học về trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu”([6]). Qua dự án hợp tác quốc tế, Nhà trường thông minh mới ngày càng nâng cao năng lực chuyển đổi số trên nhiều phương diện, qua đó không ngừng quảng bá hình ảnh, nâng cao chất lượng đào tạo, hiện đại hóa trang thiết bị giảng dạy và cải tiến chương trình đào tạo, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và gia tăng nguồn thu nhập, tạo cơ hội cho sinh viên, giảng viên không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu, năng lực hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh liên kết đào tạo thông qua các dự án hợp tác quốc tế về chuyển đổi số với các tổ chức quốc tế đi đôi với việc giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, định kỳ thực hiện kiểm định chất lượng các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài. Tiếp tục thúc đẩy Hợp tác, liên kết mạnh mẽ với các doanh nghiệp nước ngoài về dự án hợp tác liên kết đào tạo về AI, cung ứng nhân lực số và chương trình thực tập sinh tại các cơ sở của công ty đa quốc gia, liên kết đào tạo với các tập đoàn, công ty cung cấp thiết bị hàng đầu thế giới, tận dụng cơ sở vật chất thiết bị vào giáo dục đào tạo các nghề đạt chuẩn khu vực và quốc 169
- International Conference on Smart Schools 2022 tế, phù hợp với mục tiêu chuyển đổi số. Tăng cường phát triển mối quan hệ hợp tác đào tạo bền vững với doanh nghiệp quốc tế thông qua các dự án công tư, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng liên kết đào tạo và thực tập sinh với doanh nghiệp quốc tế, duy trì mối liên hệ với các đối tác. Có thể thấy: “Việt Nam dành hàng chục tỉ đồng để hỗ trợ kinh phí đối ứng cho các tổ chức khoa học - công nghệ Việt Nam triển khai các dự án hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài. Một số dự án hợp tác đã kết thúc và đạt kết quả tốt, như quy trình công nghệ bảo quản một số loại quả (Hàn Quốc), công nghệ lai tạo một số giống gia cầm (Hung-ga-ri), mô hình trình diễn điện khí hóa nông thôn, miền núi bằng công nghệ pin mặt trời tại hai xã của tỉnh Bắc Giang và hai xã của khu vực Tây Nguyên... Đặc biệt, hiện nay, Việt Nam đã có tham tán, bí thư phụ trách khoa học - công nghệ tại bốn đại sứ quán Việt Nam tại các nước Pháp, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ”([4]). 2.7. Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho hợp tác quốc tế về chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo Nhà trường thông minh cần: “Hoàn thiện thể chế, các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), các tập đoàn công nghệ cao đa quốc gia xây dựng trung tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT ở Việt Nam”([6]). Để thực hiện chủ trương đó, cần huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, của Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng thế giới trong việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, các dự án, trong việc cấp học bổng cho sinh viên đến học các ngành đào tạo chương trình quốc tế của trường và tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn vốn đầu tư. Tác giả Andrew Jeffries chia sẻ: “Một môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ kỹ thuật số và thúc đẩy một hệ sinh thái khởi nghiệp thúc đẩy sự đổi mới sẽ là những yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Việt Nam có thể tạo dựng thành công của mình bằng cách thu hút đầu tư vào ngành công nghệ, phát huy tài năng và kỹ năng công nghệ, đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng năng suất thông qua quá trình chuyển đổi kỹ thuật số này.”([1]). Như vậy, nhà trường thông minh cần có chính sách, chế độ, đầu tư cụ thể và khả thi thu hút các chuyên gia, nhà khoa học cả trong và ngoài nước tham gia các chương trình, dự án nghiên cứu, đào tạo nhân lực khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và chuyển giao công nghệ, qua đó hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh trong Nhà trường thông minh về chuyển đổi số, trong đó chú trọng đến các nhóm nghiên cứu khoa học trẻ, tài năng về AI, IoT. 3. Kết luận: Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra ra những sự chuyển biến mới trong mô hình quản trị nhà trường, trong đó chuyển đổi số không ngừng góp phần làm thay đổi tích cực mọi mặt hoạt động giáo dục và đào tạo. Chúng ta cần tạo ra một mô hình trường đại học thông minh theo định hướng ứng dụng trên cơ sở chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vận và điện toán đám mây, dữ liệu lớn. Để thực hiện được mục tiêu trên, cần phải thống nhất ý chí, quyên tâm, nhận thức về tầm quan trọng của chuyển đổi số và không ngừng mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế nhằm huy động mọi nguồn nhân lực, trí lực, tài lực và tinh hoa khoa học công nghệ của thế giới vào trong quá trình quản trị nhà trường tạo nên nguồn nhân lực số cho xã hội số. 170
- International Conference on Smart Schools 2022 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Thảo Anh(2021). Thúc đẩy hợp tác trong chuyển đổi số giữa Bộ TT&TT và Ngân hàng ADB, Bộ thông tin và Truyền thông. Trích tại: https://frt.mic.gov.vn/mic_2020/Pages/TinTuc/147783/Thuc-day-hop-tac-trong-chuyen-doi-so-giua-Bo- TT-TT-va-Ngan-hang-ADB.html. [2]. Bộ Thông tin và Truyền thông (2020). Cẩm nang chuyển đổi số. NXB Thông tin & Truyền thông. [3]. Bộ Thông tin và Truyền thông(2022). Chia sẻ, phổ biến kinh nghiệm triển khai chuyển đổi số cho 63 tỉnh, thành phố, Bộ Thông tin và Truyền thôn. Trích tại: https://stp.thanhhoa.gov.vn/chia-se-pho-bien-kinh-nghiem-trien-khai-chuyen-doi-so-cho-63-tinh-thanh- pho/. [4]. Lê Thanh Bình (2022). Thúc đẩy hợp tác để tăng cường tiềm lực Khoa học-Công nghệ Quốc gia, Tạp chí Cộng sản. Trích tại: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/824943/thuc-day- hop-tac-quoc-te-de-tang-cuong-tiem-luc-khoa-hoc---cong-nghe-quoc-gia.aspx# [5]. Chính phủ(2020). Quyết định 749/QĐ-TTg, ngày 03 tháng 06 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt: “Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. [6]. Chính phủ(2021). Quyết định số 127/QĐ-TTg, ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về: “Chiến lược Quốc gia nghiên cứu phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030”. [7]. Chính phủ(2021). Quyết định số 2222/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. [8]. Chính phủ(2022). Quyết định số 131/QD-TTg, ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt đề án: “Tăng cường Ứng dụng công nghệ thông tin và Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030”. [9]. Trần Khánh Đức (2022). Khoa học Tư duy và phát triển năng lực tư duy khoa học trong giáo dục và đào tạo. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà nội. [10]. Giang phạm(2021). Hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số trên quy mô toàn cầu, Bộ Thông tin và Truyền thông. https://mic.gov.vn/mic_2020/Pages/TinTuc/149211/Hop-tac-quoc-te-dong-vai- tro-quan-trong-thuc-day-chuyen-doi-so-tren-quy-mo-toan-cau.html [11]. Luật Khoa học và Công nghệ năm (2018) (Sửa đổi). [12]. Nguyễn Quang Liêm(2021), Khoa học-Công nghệ Việt Nam trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Báo Nhân dân. [13]. Tô Hồng Nam (2020). Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Thông tin và truyền thông, 2, 11-16. [14]. Lê Đức Viên(2021). Phát huy vai trò khoa học công nghệ tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Cổng thông tin điển tử Thành phố Đà Nẵng. 171
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm và năng lực nghiên cứu khoa học cho giảng viên trẻ
7 p | 245 | 52
-
Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ nữ cấp xã ở Thanh Hóa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay
10 p | 86 | 12
-
Giải pháp nâng cao năng lực sản sinh ngôn ngữ dựa trên học phần ngữ pháp thực hành từ thực tiễn khoa Tiếng Anh - Viện Đại học Mở Hà Nội
5 p | 124 | 8
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực nghe - nói tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Hồng Đức - Thanh Hóa
9 p | 65 | 7
-
Giải pháp nâng cao năng lực nghề nghiệp cho giáo viên tiểu học ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018
5 p | 126 | 7
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực của giảng viên khối ngành khoa học tự nhiên ở Trường Đại học Vinh về dạy học tích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng giáo viên hiện nay
7 p | 105 | 7
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã
5 p | 101 | 5
-
Giải pháp nâng cao năng lực tư duy phản biện cho sinh viên hiện nay
3 p | 14 | 5
-
Giải pháp nâng cao năng lực sản sinh ngôn ngữ dựa trên học phần ngữ pháp thực hành từ thực tiễn khoa tiếng Anh - viện Đại học mở Hà Nội Developing Learners Productive Skills
5 p | 110 | 5
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viên trường Đại học Hà Tĩnh
10 p | 234 | 5
-
Giải pháp nâng cao năng lực các trường Cao đẳng nghề vùng đồng bằng sông Hồng
7 p | 67 | 4
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học
7 p | 45 | 4
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của trường Đại học Khánh Hòa
8 p | 40 | 4
-
Các giải pháp nâng cao năng lực quản lí cho giám đốc các trung tâm học tập cộng đồng cấp xã, bản, phường
10 p | 68 | 4
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực thông tin cho sinh viện đại học ở Việt Nam
7 p | 58 | 3
-
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên các ngành ngôn ngữ thương mại tại trường Đại học Ngoại thương
15 p | 67 | 2
-
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao năng lực sử dụng kĩ thuật dạy học cho giáo viên
5 p | 31 | 2
-
Giải pháp nâng cao năng lực nghề nghiệp của giảng viên ngành công tác xã hội tại Việt Nam
11 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn