LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số cả nước, trong xu thế hội nhập
kinh tế, khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả tương đối khả quan như: đã giải
quyết được cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm, thu nhập của dân cư ở khu vực nông
thôn tăng lên, đời sống văn hoá xã hội được cải thiện đáng kể. Đặc biệt là đối với các
địa phương đã hình thành và phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với các
làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới, cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội.
Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm ngành nghề
chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá ...
Cùng với sự phát triển làng nghề truyền thống của cả nước, làng nghề của tỉnh An
Giang cũng được chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện để phát triển, mở rộng
quy mô và đa dạng ngành nghề. Nhiều làng nghề như se nhang, lưỡi câu, bánh tráng, sản
xuất bánh phồng, bó chổi bông cỏ, chầm nón, HTX rèn, mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân
dụng, đóng xuồng ghe, HTX dệt Châu Giang, HTX dệt Văn Giáo, tơ lụa Tân Châu, sản
xuất gạch ngói, sản xuất rập chuột, … được khôi phục và phát triển; đồng thời, nhiều làng
nghề mới được xuất hiện và phát triển mạnh như đan thảm lục bình, sản xuất lò đất, thêu
rua, chế biến mắm, khô cá sặc bổi, khô cá tra phồng, sản xuất than đá, sản xuất võng vải,
sản xuất cân treo, sản xuất đường thốt nốt, sản xuất quạt thốt nốt, tranh thốt nốt, ốc mỹ
nghệ, đá thủ công mỹ nghệ, dệt chiếu, đan giỏ … Thực hiện chủ trương công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn làng nghề được mở rộng quy mô, đã sử dụng máy móc, công nghệ
thay thế cho lao động thủ công. Hiện nay, làng nghề cần được sắp xếp, quy hoạch thành
những cụm làng nghề liên kết nhau để có thể tiếp nhận đầu tư nước ngoài, đầu tư công
nghệ hiện đại nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi
trường xã hội văn minh, hiện đại. Có như vậy làng nghề mới có thể tăng trưởng theo
hướng bền vững và phát triển làng nghề gắn với du lịch. Để giải quyết vấn đề đó, tôi chọn
đề tài:"Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang" làm
luận văn Thạc sĩ - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nêu một số công trình chủ yếu như sau:
- Luận án Tiến sĩ về “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội” của tác giả Mai Thế Hởn.
- “Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - thực
trạng và giải pháp” của Thạc sĩ Vũ Thị Hà năm 2002. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng
làng nghề truyền thống ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng và đưa ra giải pháp về
quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, đưa ra giải pháp về
đào tạo lao động, cán bộ quản lý, thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của
nhà nước để phát triển làng nghề truyền thống.
- “Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển
làng nghề tại tỉnh Quảng Nam” của Thạc sĩ Trần Văn Hiến năm 2006. Tác giả đã nghiên
cứu thực trạng công tác tín dụng ngân hàng nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đối với sự
phát triển làng nghề của tỉnh; đồng thời tác giả đã ra dự báo sự phát triển của làng nghề,
của tín dụng ngân hàng nông nghiệp đến năm 2010, đưa ra cơ chế, chính sách cho vay để
khuyến khích làng nghề phát triển.
- “Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển
bền vững” của Thạc sĩ Nguyễn Hữu Loan năm 2007. Tác giả đánh giá thực trạng và đề
xuất giải pháp tổ chức quản lý, xây dựng làng nghề theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
- Bên cạnh đó, còn một số đề tài, luận án tiến sĩ đề cập tới các vấn đề gần với đề tài
này như: “Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
đô thị Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hữu Lực hay “Một số vấn đề cơ bản về sự phát
triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Hà Bắc” của Nguyễn Ty, … Các công trình này
chủ yếu đề cập đến vấn đề phát triển tiểu thủ công nghiệp là chính, còn vấn đề khôi phục
và phát triển làng nghề truyền thống mới dừng lại ở mức định hướng cơ bản tầm vĩ mô và
một số chủ trương lớn mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, đưa ra các giải
pháp khả thi cho việc đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống.
- Ngoài ra, còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp về “Phát triển làng
nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên địa bàn huyện Đức Thọ -
Hà Tĩnh” của Thạc sĩ Nguyễn Quốc Hải năm 2006 và “Nghề truyền thống trên địa bàn
Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề
cập đến thực trạng làng nghề truyền thống của các địa phương khác nhau; đồng thời
cũng đưa ra những giải pháp về quy hoạch kế hoạch phát triển nghề truyền thống và đặt
vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách, đào tạo nguồn lao động để
làng nghề được phát triển trong điều kiện Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những khía cạnh khác
nhau của các làng nghề, làng nghề truyền thống và đưa ra những giải pháp phát triển cũng
chính là giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân theo đúng tinh thần
nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề
truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung một số lý luận cơ bản về phát triển làng nghề truyền
thống trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn
tỉnh An Giang.
- Nêu lên quan điểm và đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là làng nghề truyền thống và các nhân tố tác động tới sự phát
triển làng nghề truyền thống hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do vấn đề rộng lớn và phức tạp trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ kinh tế, chúng tôi
tập trung phân tích, khảo sát một số làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang và
giới hạn phân tích hai nhân tố chủ yếu là: Tác động của quản lý nhà nước tới sự phát triển
làng nghề truyền thống và nhân tố từ bản thân các làng nghề.
Thời gian nghiên cứu đánh giá thực trạng từ năm 2001 cho đến nay và đề xuất giải
pháp đến năm 2010 và một số giải pháp dài hạn đến năm 2020.
Số liệu phỏng vấn trực tiếp các đối tượng được thực hiện trong năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có
hệ thống và chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
và các tài liệu khoa học, kinh tế, chính trị có nội dung liên quan hoặc đề cập đến vấn đề
nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: phân tích, tổng hợp, diễn giải, khảo sát, thống kê, so sánh, phương pháp kết hợp
logic với lịch sử, lý luận với thực tế.
6. Đóng góp mới khoa học của luận văn
Luận văn phân tích và làm rõ thực trạng các làng nghề truyền thống trên nhiều khía
cạnh, khái quát quá trình hình thành và phát triển, đánh giá kết quả những hạn chế tồn tại
và nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững các
làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh An
Giang.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu ở các ngành, các cơ quan nghiên
cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn của tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở
NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống ở nông thôn
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy, làng xã Việt
Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời sống dân cư ở nông thôn.
Qua thử thách của những biến động thăng trầm, những lệ làng phép nước và phong tục tập
quán ở nông thôn vẫn được duy trì, phát triển đến ngày nay.
Làng xã Việt Nam được phát triển rất lâu đời, nó thường được gắn chặt với nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân
đều làm nông nghiệp, cùng với sự phát triển, xuất hiện những bộ phận dân cư sống bằng
nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau, hình thành thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp
tạo thành các làng nghề, phường nghề, xã nghề gắn liền với địa danh của địa phương, từ đó
các nghề được lan truyền và phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm
nghề, thì đa phần vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu
trao đổi hàng hoá, các nghề mang tính chất chuyên môn sâu hơn và thường được giới hạn
trong quy mô nhỏ (làng, xã) dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển sang nghề thủ công.
Càng về sau xu thế người lao động tách khỏi đồng ruộng, chuyển sang làm nghề thủ công
và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản
phẩm mang nặng dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển
của làng nghề là quá trình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Thông qua lệ làng
mà làng nghề định ra những quy ước như: không truyền nghề cho người khác làng, không
truyền nghề cho con gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết nghề nghiệp … trải
qua một thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có
những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời, trong đó có những
nghề đạt tới trình độ công nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá
cao.
Trong những năm đổi mới, làng nghề có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ, đồng thời
cũng là lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Cho đến nay, đã có nhiều quan
niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống khác nhau, có thể nêu một số quan niệm được
tổng hợp từ các nguồn tài liệu: [3], [21], [25],[29],[49].
- Trước hết là quan niệm về làng nghề
Quan niệm thứ nhất: làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt
động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Nhưng với quan niệm như vậy thì làng
nghề đó hiện nay không còn nhiều.
Quan niệm thứ hai: làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây không
nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều khi cũng là
người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ
chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác.
Quan niệm về làng nghề như vậy là chưa đủ, điều đó nói lên rằng không phải bất cứ làng
nào có vài ba lò rèn hay vài ba gia đình làm nghề mộc, nghề dệt … đều là làng nghề. Để
xác định đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỷ trọng lao động hay số hộ làm
nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề so với tổng
thu nhập của làng.
Quan niệm thứ ba: làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân
và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản
xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, theo kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có
cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính chất của làng nghề; nó là một thực thể
sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử là một đơn vị kinh tế TTCN có
tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội một cách tích cực.
Từ cách tiếp cận trên cho thấy quan niệm về làng nghề liên quan đến các nghề thủ công
cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ,
đúc đồng, khảm trai, kim hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa, … Trước đây, quan niệm làng nghề chỉ bao
hàm các nghề thủ công nghiệp, ngày nay, khi mà trên thế giới khu vực dịch vụ đóng vai trò
quan trọng và trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng, thì các nghề dịch vụ trong nông
thôn cũng xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có loại làng một nghề và làng
nhiều nghề, tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công và dịch vụ có ưu thế trong làng. Làng một
nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt
đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và
tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Trong nông
thôn Việt Nam trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều nghề
gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
Từ các quan niệm trên đây, có thể khái quát về làng nghề như sau: làng nghề là một
cụm dân cư sinh sống trong một làng (thôn) có một hay một số nghề được tách ra khỏi
nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao
trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
- Thứ hai là quan niệm về làng nghề truyền thống
Quan niệm thứ nhất: LNTT là một cộng đồng dân cư, được cư trú giới hạn trong
một địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một hoặc
nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời để sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện được yếu tố truyền thống lâu đời
của làng nghề, còn những làng nghề mới, nhưng tuân thủ yếu tố truyền thống của vùng hay
của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ hai: LNTT là những làng nghề làm thủ công có truyền thống lâu
năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ. Bởi vì khi nói đến
LNTT ta không thể chú ý tới các mặt đơn lẻ, mà chú trọng đến nhiều mặt trong cả không
gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong
đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: LNTT là những làng có tuyệt đại dân số làm nghề cổ truyền. Nó
được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang
thế hệ khác kiểu cha truyền con nối, hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng
sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài ba và một nhóm người có tay nghề
giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Đồng thời, sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc
đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm nét văn hoá dân tộc. Thu nhập từ nghề chiếm tỷ trọng 60%
trở lên trong tổng thu nhập của gia đình và giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% giá
trị của địa phương (thôn, làng).
Quan niệm về LNTT còn có nhiều cách hiểu khác nhau do cách tiếp cận nghiên cứu
khác nhau, để làm rõ về LNTT cần có những tiêu chí sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với
tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị SX và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng giá trị
SX và thu nhập của làng trong một năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc dân tộc
Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên có thể định nghĩa: LNTT là những thôn, làng
có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất
kinh doanh và đem lại nguồn thu chiếm phần chủ yếu trong năm. Cùng với thời gian, các
làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có
quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ
nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam
Làng nghề truyền thống Việt Nam có năm đặc điểm chính sau đây:
- Hoạt động làng nghề truyền thống gắn liền với làng quê và sản xuất nông nghiệp
Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, các nghề thủ công truyền thống dần dần
xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong các gia đình nông dân và nhanh chóng
phát triển ở nhiều làng quê. Thời gian người lao động ở làng quê dành cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp (do ruộng đất bình quân thấp, đặc điểm mùa vụ của cây trồng), năng suất
lao động nông nghiệp thấp đã không đảm bảo thu nhập đủ sống cho người nông dân. Vì
vậy, nhu cầu tạo việc làm để có thêm thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp trở thành cấp
thiết. Đồng thời, do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp đã tạo ra một sự dư thừa lao
động trong một thời gian nhất định; trong khi đó, ngay trên thị trường địa phương có nhu
cầu về sản phẩm tiểu thủ công nghiệp để phục vụ cho tiêu dùng, sinh hoạt, sản xuất nông
nghiệp, nguồn nguyên liệu phục vụ cho các nghề thủ công lại tương đối dồi dào … tất cả
những điều đó đã thúc đẩy các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, ban đầu phục vụ nhu cầu
của gia đình mang tính tự sản tự tiêu, sau phát triển thành hoạt động có quy mô nhiều gia
đình cùng tham gia và như vậy LNTT hình thành và phát triển.
- Có truyền thống lâu đời
Đặc trưng của LNTT Việt Nam là có truyền thống lâu đời. Theo các tư liệu lịch sử,
thời Phùng Nguyên khoảng năm 3000 trước công nguyên, người Việt cổ đã phát minh và
sáng chế ra hầu hết các kỹ thuật chế tác một số công cụ như đồ đá, đồ gốm, … thời Đông
Sơn từ năm 3000 đến năm 258 trước công nguyên, người Việt đã phát minh ra công thức
luyện đồng thau, đồng thanh và đúc được trống đồng Đông Sơn, sản phẩm chứng minh cho
nghề truyền thống thời bấy giờ. Sau đó đến thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ Pháp thuộc các
LNTT dần dần định hình và cũng có nhiều biến động. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền
Bắc (1954), giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1975) tới nay, LNTT nước ta chịu
nhiều biến động về công nghệ, thị trường, chiến tranh, cơ chế chính sách và có nhiều bước
thăng trầm nhất định, có lúc phát triển mạnh mẽ về sản lượng, quy mô, đa dạng hoá các
ngành nghề, nhưng có thời kỳ bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố và bị mai một. Song vào
thập niên 80, đầu thập niên 90, do nhiều nguyên nhân khác nhau sản xuất tiểu thủ công
nghiệp nói chung, sản xuất ở các LNTT nói riêng giảm sút nghiêm trọng, thậm chí một số
LNTT bị tan rã. Tới những năm gần đây, LNTT cả nước đang được khôi phục và từng
bước phát triển. Như vậy, hầu hết các làng nghề, LNTT và các làng nghề mới hoặc các
làng nghề mới được phục hồi, tính truyền thống thể hiện rất rõ.
- Có bản sắc văn hoá của Việt Nam
Một đặc điểm khác hết sức quan trọng của LNTT là hàng hoá của làng, đặc biệt là
hàng thủ công mỹ nghệ mang bản sắc truyền thống, có tính khác biệt, tính riêng, mang
phong cách của mỗi nghệ nhân và nét văn hoá đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao
lưu với cộng đồng. Hàng chạm trổ trên từng chất liệu khác nhau (gỗ, đá, sừng, xương, …),
hàng sơn (sơn quang, sơn thếp vàng bạc, sơn mài), hàng thêu, dệt (tơ lụa, chiếu, thảm), hàng
mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi, … ở mỗi LNTT đều có bản sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có
những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu trao đổi được
chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ sung lẫn nhau, trở thành
những kiểu mẫu hoàn thiện, đặc sắc cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất, chế tác tiếp
sau thể hiện bản sắc độc đáo Việt Nam. Chính tính khác biệt mang dấu ấn văn hoá mang lại
khả năng cạnh tranh cho sản phẩm LNTT trong quá trình phát triển thị trường ra thế giới.
- Lao động chủ yếu là thủ công
Trước đây, khi kỹ thuật công nghệ còn thô sơ, lạc hậu thì hầu hết các công đoạn
trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công đảm nhận. Đặc trưng cơ bản của người
thợ thủ công là tự định đoạt lấy mọi công việc kể cả cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ
sản phẩm. Công việc có thể tiến hành độc lập hay cùng với một số người trong gia đình,
dòng họ hoặc một số người học việc. Công việc này đã thể hiện một tay nghề nhất định,
một tài khéo léo riêng biệt, độc đáo, kết hợp với đầu óc sáng tạo và nghệ thuật thông qua
lao động bằng tay hoặc bằng máy móc công cụ cơ khí, nửa cơ khí. Ngày nay, nhiều LNTT
đã biết sử dụng máy móc cơ khí và động lực trong sản xuất. Tuy nhiên, dấu ấn lao động
thủ công vẫn được giữ gìn và chính tính chất thủ công mang lại đặc thù cho các sản phẩm
LNTT.
- Làng nghề truyền thống luôn gắn với tên làng (thương hiệu) và có khả năng tồn
tại, phát triển lâu dài
Mỗi LNTT thường gắn liền với địa danh của làng đó để đặt tên cho LNTT của mình
như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng, làng điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn, làng mộc
Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, đan mây Chương Mỹ, tơ lụa Tân Châu, … đây chính là
đặc điểm tiêu biểu để phân biệt được sản phẩm riêng có của mỗi LNTT.
Sản phẩm của LNTT không chỉ đòi hỏi lao động khéo léo của người thợ mà còn đòi
hỏi sự tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ và những kinh nghiệm này trải qua thời gian
đã trở thành bí quyết nghề nghiệp và uy tín thương hiệu. LNTT đã tồn tại lâu dài từ đời
này sang đời khác là nhờ vào đặc tính này của LNTT. Trong thời đại hiện nay, đây chính
là thương hiệu, chỉ dẫn địa lý của LNTT. Việc bảo vệ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý có ý
nghĩa rất lớn để giữ gìn danh tiếng, thị phần cho LNTT, từ đó tạo điều kiện phát triển
LNTT bền vững.
1.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
nông thôn
Phát triển nghề và LNTT có vai trò chủ yếu sau:
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đa dạng hoá kinh tế
nông thôn
Quá trình phát triển các LNTT đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng sản
phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp sang ngành nghề phi nông
nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy, khi ngành nghề thủ công hình thành và phát triển thì
kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành
thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển.
Nếu xem xét trên góc độ của sự phân công lao động thì các LNTT đã có tác động
tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Chúng không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp mà còn có tác động chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành
nông nghiệp. Khi các ngành nghề chế biến phát triển, yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp
nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do đó, trong nông nghiệp hình thành
những bộ phận nông nghiệp chuyên canh hoá, tạo ra năng suất lao động cao và nhiều sản
phẩm hàng hoá [50]. Đồng thời, người nông dân trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự
thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào là có lợi nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp đã được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.
- Giải quyết việc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động, giúp chuyển
dịch lao động nông nghiệp sang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở nông thôn, tạo việc làm nâng cao đời
sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Do diện tích đất bị
thu hẹp do quá trình đô thị hoá, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn
chiếm tỷ lệ cao (hiện nay chiếm khoảng 30 - 35% lao động nông thôn) nên vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều
mặt và đồng bộ của các ngành nghề và lĩnh vực.
Theo kết quả điều tra, bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề ở các làng nghề tạo
việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên và 8-10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên
làm nghề tạo việc làm cho 4-6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ. Đặc biệt,
nghề dệt may, thêu ren mỗi cơ sở có thể thu hút khoảng 30-50 lao động, cá biệt có những
cơ sở hàng trăm lao động; nhiều LNTT thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt
động sản xuất [32].
- Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế
Khôi phục và phát triển LNTT ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho việc huy động một
cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở khu vực nông thôn như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm năng vốn, các nguyên liệu sẵn có ở địa phương … phục vụ
vào sản xuất. Do đó, sản xuất được đẩy mạnh và tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá có chất
lượng cao, đa dạng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mặt khác, sản xuất trong
các LNTT thường tương đối năng động và gắn chặt chẽ với nhu cầu thị trường, vì vậy mà
sản xuất của LNTT mang tính chuyên môn hoá và đa dạng hoá cao hơn so với sản xuất
nông nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ trọng sản phẩm hàng hoá ở các LNTT thường cao hơn
rất nhiều so với các làng thuần nông và khối lượng sản xuất hàng hoá sản xuất ra cũng lớn
hơn nhiều.
Sản phẩm của LNTT có giá trị kinh tế và xuất khẩu, nên việc phát triển LNTT
góp phần cùng sản xuất nông nghiệp làm tăng trưởng kinh tế ở nông thôn. Người có trí
tuệ, có vốn thì làm chủ hoặc thợ cả, người không có vốn, trình độ thì làm những công
việc giản đơn, phục vụ hoặc dịch vụ. Cho nên phát triển LNTT là thực hiện chủ trương
xoá đói giảm nghèo trong nông thôn.
- Tận dụng nguồn lực, phát huy thế mạnh nội lực của địa phương
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Nguồn
lực của LNTT bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công và những chủ cơ sở
sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh, sức sống của không ít sản phẩm LNTT như: tơ
lụa, dệt thổ cẩm, rèn, sản xuất gạch ngói, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe chủ yếu dựa vào
tài hoa, kinh nghiệm, tay nghề của người lao động.
Mỗi LNTT thường có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy, họ giữ vai trò quan trọng
trong việc giữ nghề, truyền nghề. Tuy nhiên, số lượng những người giỏi nghề ngày một ít
đi. Trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp được coi là bí mật, chỉ được truyền cho con
cháu trong gia đình, dòng họ [9]. Điều này cản trở không nhỏ đến chất lượng và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm. Bên cạnh đó, các nghề thủ công cho phép khai thác triệt để hơn
các nguồn lực của địa phương, cụ thể là nguồn lao động, tiền vốn. LNTT có thể làm được
điều này vì nó có quy mô nhỏ và vừa dễ dàng thay đổi, chuyển hướng kinh doanh phù hợp
hơn.
Một khi LNTT ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có
tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao,
giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy, các nghề thủ công phát
triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa,
khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện cho đội ngũ
lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật. Đồng thời,
trình độ văn hoá của người lao động ngày một nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong
LNTT. Bởi vậy, phát triển LNTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tuỳ thuộc rất nhiều
vào việc xây dựng đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi và việc truyền nghề cho những lao động trẻ
tuổi.
- Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn giá trị văn
hoá dân tộc của địa phương
Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế nhờ quy mô
ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng.
Như vậy, LNTT không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hoá mà còn chứa đựng những
tiềm ẩn giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống văn hoá của dân tộc được lưu truyền bao đời
nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc phát triển LNTT còn là cơ sở
để tổ chức du lịch làng nghề thu lợi nhuận cao, có khả năng thu hút đông đảo du khách tìm
hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hoá, những sản phẩm truyền thống của dân tộc.
1.1.4. Sự cần thiết phải phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị
trường
Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp do cơ chế quản lý, các hộ
gia đình, các làng nghề không được tự do kinh doanh, sản xuất mà phải gia nhập các HTX
tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, LNTT không được phát triển và có phần mai một, hệ thống
HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém hiệu quả và bắt đầu tan rã dần vào thời kỳ bắt
đầu đổi mới nền kinh tế.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do đầu tư và sản
xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm; được bình đẳng trước pháp
luật. Nhiều LNTT được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, trở thành một xu hướng phát
triển tất yếu là do:
- Thứ nhất, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý của Nhà nước
thay đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản xuất kinh doanh, các thành
phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật; Do đó, các DNTN, Công ty TNHH, CTCP
được ra đời và phát triển. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện đã cởi trói cho
cá nhân và doanh nghiệp, mở đường cho sản xuất phát triển dẫn đến LNTT ở nông thôn
cũng được phát triển. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cầu cống, điện
nước, bưu chính viễn thông, trường học, trạm y tế … tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu
trao đổi hàng hoá, mở rộng các loại thị trường hàng hoá, lao động, tài chính …
- Thứ hai, phát triển LNTT gắn với lợi ích, đời sống thiết thực của nông dân. Xuất
phát từ lợi ích cá nhân, hộ gia đình vì mục tiêu lợi nhuận mà bản thân LNTT tự nó phát
triển. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã
quan tâm nhiều đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có LNTT nhằm mục
tiêu nhanh chóng nâng cao đời sống của nông dân, giảm nhanh khoảng cách giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó là động lực thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển, đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm của
LNTT. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, tiến bộ KHCN, máy móc hiện
đại được đưa vào sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất ngành nghề góp phần giải
phóng sức lao động, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động; Từ đó, tạo ra một
bộ phận lao động, một bộ phận thời gian dư thừa trong nông nghiệp, đòi hỏi phải giải
quyết công ăn việc làm cho bộ phận dư thừa đó. Phát triển sản xuất kinh doanh các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn sẽ giải quyết việc làm cho lượng lao động dư
thừa và thời gian nhàn rỗi của nông dân, góp phần nâng cao đời sống của nông dân. Sự
phát triển của LNTT chính là sự phát triển tiểu thủ công nghiệp, là cơ sở cho sự phát triển
công nghiệp nông thôn, hình thành các khu đô thị góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp nước ta sang nền kinh tế chủ yếu
là công nghiệp.
- Thứ ba, gắn liền với việc giữ gìn thương hiệu sản phẩm, giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, bởi vì: Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử của nền văn hoá Việt Nam luôn
gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề, “Mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hoá nó
phản ánh nét văn hoá độc đáo của từng địa phương, từng vùng”. LNTT thể hiện những nét
văn hoá độc đáo qua từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập quán ứng xử làng
nghề. Bởi LNTT với những sản phẩm làm bằng tay, chất liệu, hoa văn Việt Nam là biểu
tượng cho di sản văn hoá Việt Nam, những chất liệu, kiểu dáng và từng chi tiết khéo léo
tinh xảo trên các sản phẩm thủ công chính là nơi chuyển tải các sắc thái văn hoá địa
phương và góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. LNTT là nơi tổ chức các lễ hội
thường niên để tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn các vị tổ nghề, nhắc nhở thế hệ sau lòng
tôn kính, tự hào với những giá trị nghề nghiệp mà cha ông ta để lại và khuyến khích sự
truyền nghề kế tục. Chẳng hạn, tơ lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm Châu Phong (huyện Tân
Châu, tỉnh An Giang), tranh Đông Hồ; Lễ hội ở Bát Tràng thường diễn ra từ 14 đến 22
tháng 02 âm lịch hàng năm việc tế tự ở đình, rước lễ trên sông và quanh làng … Các cuộc
thi văn, thơ và đặc biệt là tay nghề, thử tài là sinh hoạt văn hoá rất sôi động và thể hiện giá
trị văn hoá truyền thống, là dấu ấn văn hoá dân gian. Những sản phẩm của các LNTT sản
xuất ra mang tính nghệ thuật cao, mang đặc tính riêng của từng LNTT và những sản phẩm
có “hàm lượng” văn hoá đậm đặc, chính những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị văn hoá
đơn thuần trở thành những sản phẩm văn hoá mang truyền thống dân tộc.
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG
1.2.1. Tác động của quản lý nhà nước tới phát triển làng nghề, làng nghề
truyền thống
- Định hướng và khuyến khích phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống.
Trong quá trình CNH, HĐH nông thôn làng nghề luôn giữ một vị trí quan trọng,
luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cập nhiều qua các kỳ đại hội. Nghị quyết Đại
hội VIII của ĐCSVN đã xác định: “Phát triển các ngành nghề, LNTT và các ngành nghề
mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu …” [4, tr.45].
Đại hội IX của ĐCSVN tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển mạnh công nghiệp và dịch
vụ nông thôn, hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông
thôn, các làng nghề gắn với thị trường xuất khẩu …” [5, tr.172].
Để cụ thể hoá quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và luật
pháp có liên quan đến phát triển làng nghề, LNTT như Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư … các chính sách tín dụng, chính sách đầu tư,
đặc biệt là quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn đã tạo động lực cho
LNTT phát triển. Qua đó, cho thấy Đảng, Nhà nước đánh giá cao vai trò của làng nghề và coi
trọng việc phát triển LNTT ở nông thôn. Nội dung cụ thể sau:
+ Nhà nước cho phép chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp để
phát triển ngành nghề nông thôn.
+ Lập quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản để
đảm bảo nguồn nguyên liệu tại chỗ, ổn định cho ngành nghề nông thôn phát triển.
+ Cơ sở ngành nghề nông thôn được vay vốn của các tổ chức tín dụng dưới hình
thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội theo quy định tại Điều
26 của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay
của các tổ chức tín dụng.
+ Cơ sở ngành nghề nông thôn được giảm 50% trở lên về chi phí thuê diện tích
tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm trong nước. Nhà nước khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi và tài trợ một phần chi phí cho các cơ sở ngành nghề nông thôn và
nghệ nhân được tham quan, học tập, tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm và tìm
hiểu thị trường ở nước ngoài.
+ Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ chức, chỉ đạo và dành nguồn kinh phí
cần thiết trong kế hoạch hằng năm cho việc nghiên cứu, đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu
mã, sử dụng các nguồn nguyên liệu trong nước; hướng dẫn việc áp dụng các loại công
nghệ phù hợp để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, đa dạng hoá sản phẩm, nâng
cao giá trị sản phẩm làng nghề; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, giải
quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trong ngành nghề nông thôn.
+ Ưu tiên đào tạo và sử dụng lao động đối với những hộ gia đình mà Nhà nước thu
hồi đất để phát triển ngành nghề, lao động là người địa phương. Khuyến khích các nghệ
nhân, HTX, tổ chức, hiệp hội mở các lớp truyền nghề, dạy nghề cho lao động.
Nghị định số 134 của Chính phủ ngày 09 tháng 6 năm 2004 về “Khuyến khích phát
triển công nghiệp nông thôn” (được gọi là hoạt động Khuyến công), bao gồm những nội
dung cụ thể sau:
+ Hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức, cá nhân khởi sự doanh nghiệp lập dự án đầu tư phát
triển công nghiệp nông thôn, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, tuyển dụng, đào tạo lao động,
huy động vốn, xin ưu đãi đầu tư và các thủ tục hành chính khác theo đúng quy định của
pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và địa
phương.
+ Hướng dẫn, tư vấn cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đầu tư xây dựng dây
chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng
cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề.
+ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm kiếm thị trường, đối tác kinh doanh và tổ
chức triển lãm, hội chợ và giới thiệu sản phẩm.
+ Tổ chức các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, tham quan, khảo sát; hỗ trợ tạo điều
kiện để các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn liên doanh, liên kết hợp tác kinh tế, tham
gia các hiệp hội ngành nghề.
+ Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và thực hiện dịch
vụ tư vấn KHCN để hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn.
Thông tư số 03 của Bộ Công nghiệp ngày 23 tháng 6 năm 2005 về “Hướng dẫn
thực hiện một số nội dung của Nghị định 134/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích phát
triển công nghiệp nông thôn”. Nội dung tóm tắt của hoạt động Khuyến công được thực
hiện dưới các hình thức sau:
+ Tổ chức các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề.
+ Tổ chức các điểm tư vấn hoặc tiến hành tư vấn trực tiếp tại cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn.
+ Trực tiếp hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn lập dự án khởi sự doanh
nghiệp, đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm mới, đổi mới và ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng
cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
+ Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ có kèm theo đào tạo cho cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn.
+ Xây dựng mô hình trình diễn và tổ chức trình diễn kỹ thuật để phổ biến công nghệ
mới, sản xuất sản phẩm mới và nhân rộng các mô hình tốt đã có.
+ Tổ chức, hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội chợ, triển lãm,
tham quan, khảo sát, học tập trao đổi kinh nghiệm, liên doanh liên kết, hợp tác kinh tế và
tham gia các hiệp hội ngành nghề.
+ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh.
+ Các hình thức Khuyến công khác phù hợp với các hoạt động quy định tại Điều 3
Nghị định 134/2004/NĐ-CP.
Nghị định số 66 của Chính phủ ngày 07 tháng 7 năm 2006 về “Phát triển ngành
nghề nông thôn”, bao gồm những nội dung sau:
+ Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển ngành nghề
nông thôn dài hạn của cả nước và từng vùng kinh tế gắn liền với việc thực hiện CNH,
HĐH nông thôn.
+ Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch.
+ Xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp, làng nghề tập trung.
+ Hỗ trợ xử lý môi trường, tiếp cận tín dụng.
+ Thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.
+ Khuyến khích ứng dụng KHCN.
+ Hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực phục vụ ngành nghề.
- Cơ chế chính sách của Nhà nước
Sự phát triển LNTT một cách tự phát, không có tổ chức, quản lý của Nhà nước thì
gây ô nhiễm, tàn phá môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội và
môi trường. Không có sự quản lý của Nhà nước, LNTT tự do cạnh tranh, chẳng những
không phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển, không nâng cao được năng lực cạnh tranh
của LNTT với thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước không tổ chức, không quản lý
phát triển của LNTT sẽ không thu được thuế, không có điều kiện để phát triển cơ sở hạ
tầng. Cơ chế chính sách phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy LNTT phát triển và ngược lại cơ
chế chính sách đi ngược lại với lợi ích nhân dân sẽ kìm hãm sự phát triển của LNTT. Cơ
chế là chủ trương, định hướng của Đảng, gắn liền với ý chí chủ quan của con người. Chủ
trương, định hướng được xác định trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn mới tạo ra cơ
chế khách quan, phù hợp quy luật và tác động tích cực đến LNTT và ngược lại. Chính sách
là cụ thể hoá của cơ chế nhằm hướng dẫn hoạt động của LNTT đi đúng hướng, đúng quỹ
đạo.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng
Là một vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ quan trọng đối với LNTT mà còn quan
trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, đối với đầu tư của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông được mở rộng, thông tin liên lạc, điện,
nước, cầu cống, trường, trạm … được đầu tư xây dựng đầy đủ, hiện đại tạo điều kiện thuận lợi
cho cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm của LNTT. Yếu tố này có tác động mạnh mẽ
tới yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ của người sản xuất, tới việc phát triển LNTT.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, LNTT
Quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp có cơ sở khoa học trong
tổng thể nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Trên cơ sở quy hoạch đó mà có kế
hoạch thực hiện từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm đảm bảo những chuẩn mực đã đặt ra.
Có quy hoạch, LNTT mới đủ điều kiện để phát triển, có điều kiện mở rộng quy mô, áp
dụng được công nghệ hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh; các chính sách
hỗ trợ vay vốn ưu đãi hoặc đền bù đất đai của Nhà nước phù hợp với thực tế và lợi ích của
nhân dân thì việc xây dựng và phát triển LNTT được thực hiện nhanh chóng. Mặt khác, có
quy hoạch Nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển cũng như khắc phục được
tình trạng sản xuất nhỏ, tự phát của các LNTT, từ đó có chính sách điều chỉnh phù hợp.
- Tổ chức gắn kết các ngành du lịch, văn hoá với các làng nghề truyền thống
Là một trong những xu hướng được quan tâm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Tiềm năng du lịch ở các LNTT hiện nay là rất lớn; Mỗi LNTT gắn với một vùng văn
hoá, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng. Việc
du khảo các LNTT là để thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng kinh tế, văn hoá của mỗi
vùng. Vì vậy, một số LNTT đã phát triển hình thức này, coi đây là một trong những cách
thức nhằm giới thiệu, quảng cáo làng nghề và sản phẩm truyền thống, qua đó tạo lập thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Dệt thổ cẩm Châu Phong, tơ lụa Tân Châu, đan đát, mộc chạm
trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe, sản xuất gạch ngói, rập chuột, lưỡi câu, khô
cá sặc bổi … đã thực sự thu hút khách tham quan, du lịch, tìm hiểu sản phẩm truyền thống,
quy trình và phương pháp sản xuất, tìm hiểu thị trường và ký kết hợp đồng kinh tế. Có thể
nói rằng, phát triển tiềm năng du lịch ở các LNTT là một xu hướng rất cần được quan tâm.
- Tạo điều kiện về đầu vào, đầu ra cho sản phẩm
Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của các LNTT.
Trong những giai đoạn trước đây, nguồn nguyên vật liệu được coi là một trong những điều
kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của các LNTT bởi việc hỗ trợ tích cực của các
phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng, chất lượng,
số lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn nguyên vật liệu này vẫn có những ảnh
hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành sản phẩm. Cho đến nay nguồn nguyên liệu
cung cấp cho một số LNTT vẫn phong phú, đặc biệt là nguyên liệu cho các nghề chế biến
lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với nhiều nghề khác thì nguồn nguyên liệu lại là một khó
khăn gây nhiều cản trở tới sản xuất do nguồn nguyên vật liệu đang bị cạn dần đi không đủ đáp
ứng nhu cầu thị trường.
1.2.2. Phát huy các nhân tố của bản thân các làng nghề
- Nhân tố truyền thống của từng hộ gia đình
LNTT thường gắn với những kinh nghiệm truyền thống, cha truyền con nối, do đó
đã xuất hiện nhiều nghệ nhân tài hoa. Tính truyền thống của làng nghề tạo nên uy tín lan
truyền qua bao thế hệ trong phạm vi rộng lớn, do đó nó tự phát hình thành thị trường cung
ứng vật tư, lao động, tiền vốn và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố tác động cản
trở việc di chuyển LNTT đến một địa điểm mới, một khu mới tách biệt dân cư để xây dựng
mô hình cụm công nghiệp làng nghề. Ngày nay, một số địa phương đã hình thành nhiều
làng nghề mới, nhưng làng nghề này nằm xung quanh LNTT đóng vai trò là vệ tinh, là nơi
sản xuất gia công cho LNTT, vấn đề tiêu thụ của làng nghề này rất khó khăn.
Sản xuất LNTT có nguồn gốc từ nghề tiểu thủ công nghiệp được tách ra từ sản xuất
nông nghiệp. Lúc đầu người nông dân chỉ tận dụng thời gian lao động nhàn rỗi trong lao
động sản xuất nông nghiệp để sản xuất sản phẩm phục vụ cuộc sống và lao động sản xuất
của họ. Vì thế, sản xuất LNTT mang tính chất sản xuất nhỏ, manh mún tự phát với kỹ
thuật thô sơ, lạc hậu. Tính chất này đã ăn sâu trong tâm trí người nông dân và trở thành
yếu tố tâm lý. Yếu tố này tác động cản trở đến việc xây dựng LNTT với quy mô, máy móc
hiện đại và tập trung theo hướng phát triển bền vững. Yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ biểu hiện
ở chỗ họ không muốn và không có vốn đầu tư xây dựng và sản xuất, không dám vay vốn
để mở rộng quy mô; không muốn rời bỏ lối sống tự do cá nhân, tự phát để vào cụm công
nghiệp LNTT, chịu sự kiểm soát của chính quyền, chịu đóng thuế Nhà nước, …
Cơ sở vật chất của các LNTT đều do cá nhân, hộ gia đình đầu tư xây dựng một cách
tự phát tuỳ theo khả năng sản xuất, lao động và tiền vốn của từng hộ gia đình. Từ việc mua
máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cung ứng nguyên vật liệu đến việc tổ chức tiêu thụ
cũng đều do người nông dân tự phát xây dựng, không theo quy hoạch, không tính đến tác
hại của những người xung quanh, chỉ miễn sao có lợi cho gia đình của họ. Như vậy, tính
cộng đồng trong các LNTT thường không có, nếu có là tính gia đình, dòng họ. Khi xây dựng
cụm công nghiệp LNTT theo hướng phát triển bền vững tức là có quy hoạch, có kế hoạch
của chính quyền, của pháp luật; người nông dân phải rời bỏ, tháo dỡ cơ sở vật chất cũ của
mình để xây dựng mới theo quy hoạch của Nhà nước. Điều đó gặp trở ngại lớn ở chỗ người
dân phải bỏ cũ, xây mới sẽ không có đủ vốn để làm. Mặt khác, trước đây gia đình tận dụng
đất đai, lao động của mình và không phải đóng thuế Nhà nước, nay phải thuê đất, thuê lao
động và phải đóng thuế sản xuất kinh doanh. Đây là một một yếu tố tác động cản trở việc
xây dựng và phát triển LNTT theo hướng phát triển bền vững.
- Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững
Phát triển LNTT gắn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, ổn định lâu dài. Trong
nền kinh tế thị trường, bản thân LNTT tự nó phát triển nhờ cơ chế chính sách của Nhà
nước và tác động của cơ chế thị trường. Mặt khác, vì mục tiêu lợi ích của mình, các cá
nhân, hộ gia đình đã đầu tư vốn, máy móc, thiết bị, lao động … để mở rộng quy mô sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, đa dạng hoá loại hình sản xuất nhằm
tạo ra nhiều sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Trong giai đoạn thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn tạo cho LNTT có những điều kiện phát triển mạnh như cơ sở
hạ tầng, KHCN, thị trường cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng.
Đặc biệt, hiện nay Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) đã
tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của LNTT, nhất là điều kiện mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm và ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Trong điều kiện đó LNTT phải có
năng lực cạnh tranh mới có thể phát triển được nhưng cạnh tranh phải gắn với vấn đề môi
trường và xã hội. Sở dĩ như vậy, vì quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá đang
có xu hướng xoá dần đi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thông thường và thay vào
đó là hàng rào quy định về môi trường và sức khoẻ. Các ngân hàng nước ngoài sẽ đầu tư
vào Việt Nam 100% vốn và có xu hướng ràng buộc các khoản vay với những chứng chỉ về
môi trường. Như vậy, để duy trì tăng trưởng cao và ổn định của LNTT không chỉ đơn
thuần là kinh tế mà còn những vấn đề môi trường và xã hội.
Phát triển LNTT gắn với mục tiêu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ và
phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Việc tăng trưởng kinh tế của các LNTT đóng góp to lớn
vào gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Thu nhập tăng làm tăng nhu cầu tiêu dùng cho
sản xuất và đời sống, dịch vụ phát triển. Việc sử dụng máy móc thiết bị vào sản xuất của
các LNTT góp phần giải quyết việc làm cho bộ phận lớn lao động nông thôn, thực hiện
được việc xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế LNTT đã góp phần chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn từng bước hình thành các khu đô thị LNTT. Điều đó
dẫn đến vấn đề quan hệ kinh tế - xã hội trong LNTT có những thay đổi theo cơ chế thị
trường, theo sự phát triển LNTT như quan hệ giữa chủ và người làm thuê, giữa người mua,
kẻ bán … điều đó tác động ảnh hưởng tới sự thay đổi văn hoá truyền thống, phong tục tập
quán của LNTT. Cho nên để duy trì sự phát triển của LNTT yêu cầu sự phát triển phải gắn
liền với sự thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và duy trì, bảo tồn và phát triển văn hoá
truyền thống, phong tục tập quán của LNTT.
Phát triển LNTT gắn với mục tiêu sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ tài
nguyên môi trường. Sản xuất trong LNTT luôn là quá trình gồm hai mặt. Một mặt, đó là
quá trình khai thác, chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên để sản xuất ra sản phẩm.
Mặt khác, đó là quá trình phát thải, sự phát thải nảy sinh từ bản thân quá trình sản xuất của
LNTT và sự tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp của người dân.
Việc phát triển sản xuất LNTT đòi hỏi phải cung ứng nhiều nguyên vật liệu, nhiều
sản phẩm công nghiệp. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp của LNTT phần lớn sử dụng lao
động thủ công và công nghệ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu, mang tính sản xuất nhỏ, do đó gây
tốn kém, lãng phí nhiều nguyên vật liệu. Điều đó dẫn đến phải khai thác tài nguyên thiên
nhiên nhiều hơn, gây cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, việc tái tạo tài nguyên thiên nhiên
không kịp với khai thác, đã gây tác động to lớn đến môi trường tự nhiên và môi trường
sống của con người. Mặt khác, chính lao động thủ công với công nghệ thô sơ, lạc hậu đã
tạo ra lượng phát thải rất lớn, nhưng thiếu các biện pháp thích hợp để xử lý chất thải là
nguyên nhân trực tiếp gây ra ô nhiễm môi trường sống. Sự phát triển của LNTT dẫn tới sự
đô thị hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nhu cầu tiêu dùng của đời sống dân cư ở
nông thôn ngày càng gia tăng, song cùng vấn đề này là ý thức, nếp sống của người dân
trong LNTT bị thay đổi theo nền kinh tế thị trường, dẫn đến phát thải, gây ô nhiễm môi
trường sống ngày càng gia tăng. Vì vậy, để phát triển bền vững LNTT cần phải gắn với
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm có hiệu quả, phải gắn với việc xử lý chất thải
và quản lý môi trường chặt chẽ. Muốn vậy, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương
phải có quy hoạch, khai thác tài nguyên, phải quy hoạch xây dựng LNTT thành những cụm
công nghiệp LNTT, gắn với việc sử dụng máy móc hiện đại, xử lý chất thải hợp lý nhằm
bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường sống. Quản lý và kiểm soát môi trường LNTT
phải do chính các hộ gia đình, các doanh nghiệp thực hiện, không ai có thể làm thay và
làm tốt hơn họ. Vì vậy, mọi người dân phải nhận thức được và có năng lực tự điều chỉnh
và kiểm soát môi trường. Điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương phải tăng
cường giáo dục cho người dân nông thôn nhận thức được ý thức trách nhiệm trước cộng
đồng; Đồng thời, phải tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát môi trường.
1.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.3.1. Phát triển các làng nghề truyền thống ở một số nước
- Nhật Bản
Ở Nhật Bản, tuy CNH diễn ra nhanh và phát triển mạnh, song làng nghề vẫn tồn tại,
các nghề thủ công vẫn được mở mang. Họ không những chỉ duy trì và phát triển các ngành nghề
cổ truyền mà còn mở ra một số nghề mới. Đồng thời, Nhật Bản cũng rất chú trọng đến việc hình
thành các xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị trấn, thị tứ ở nông thôn để làm vệ tinh cho những xí nghiệp
lớn ở đô thị.
Ngành nghề TTCN của Nhật Bản bao gồm: chế biến lương thực, thực phẩm, nghề
đan lát, nghề dệt chiếu, nghề thủ công mỹ nghệ, nghề dệt lụa, nghề rèn nông cụ … Đầu thế
kỷ thứ XX, Nhật Bản hiện còn 867 nghề thủ công cổ truyền hoạt động. Năm 1992 đã có
2.640 lượt người của 62 nước trong đó có Trung Quốc, Malaysia, Anh, Pháp tới thăm
LNTT của Nhật.
Trong các ngành nghề nổi lên có nghề rèn là nghề thủ công cổ truyền phát triển ở
nhiều làng nghề và thị trấn của Nhật. Thị trấn Takeo tỉnh GiFu là một trong những địa
phương có nhiều nghề cổ truyền từ 700 đến 800 năm, đến nay vẫn tiếp tục hoạt động, hiện
nay cả thị trấn có khoảng 200 hộ gia đình với 1.000 lao động là thợ thủ công chuyên
nghiệp, hằng năm sản xuất ra 9 - 10 triệu nông cụ các loại, với chất lượng cao, mẫu mã
đẹp. Điều đáng chú ý là công nghệ chế tạo nông cụ của Nhật từ thủ công dần dần được
HĐH với các máy gia công tiến bộ và kỹ thuật tiên tiến. Thị trấn Takeo có trung tâm
nghiên cứu mẫu mã và chất lượng công cụ với đầy đủ thiết bị đo lường hiện đại theo tiêu
chuẩn quốc gia. Mặc dù, hiện nay Nhật Bản đã trang bị đầy đủ máy móc nông nghiệp và
đạt trình độ cơ giới hoá các khâu canh tác dưới 95%, nhưng nghề sản xuất nông cụ cũng
không giảm sút nhiều. Nông cụ của Nhật Bản với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không chỉ
tiêu thụ ở trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Vào những năm 1970 ở tỉnh Oita (miền Tây Nam Nhật Bản) đã có phong trào “Mỗi
thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền trong nông thôn, do đích
thân ông Tỉnh trưởng phát động và tổ chức. Kết quả cho thấy, ngay những năm đầu tiên họ
đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu được 1,2 tỷ USD trong đó 378 triệu USD thu
được từ bán rượu đặc sản Sakê của địa phương, 114 triệu USD thu từ bán các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ. Phong trào phát triển ngành nghề cổ truyền “Mỗi thôn làng một sản phẩm”
đã nhanh chóng lan rộng ra khắp nước Nhật.
Đi đôi với việc phát triển ngành nghề cổ truyền Nhật Bản còn nghiên cứu các chủ
trương chính sách, ban hành các luật lệ, thành lập các viện nghiên cứu, viện kỹ thuật và
thành lập nhiều văn phòng cố vấn khác. Nhờ đó, các hoạt động phi nông nghiệp được phát
triển mạnh mẽ; thu nhập ngoài nông nghiệp chiếm 85% tổng thu nhập của hộ. Năm 1993
nghề thủ công và làng nghề đã đạt giá trị sản lượng tới 8,1 tỷ USD.
- Hàn Quốc
Sau chiến tranh kết thúc Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng đến công nghiệp nông
thôn, trong đó có ngành nghề thủ công và LNTT. Đây là một chiến lược quan trọng để
phát triển nông thôn. Các mặt hàng được tập trung sản xuất là: hàng thủ công mỹ nghệ, hàng
TTCN phục vụ du lịch và xuất khẩu, đồng thời tập trung chế biến lương thực, thực phẩm theo
công nghệ cổ truyền.
Chương trình phát triển ngành nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn tạo thêm việc
làm cho nông dân bắt đầu từ 1967; Chương trình này tập trung vào các nghề sử dụng lao
động thủ công, công nghệ đơn giản và nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, sản xuất
quy mô nhỏ, khoảng 10 hộ gia đình liên kết với nhau thành tổ hợp tác được ngân hàng
cung cấp vốn tín dụng với lãi suất thấp để mua nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển ngành nghề thủ công truyền thống cũng được triển khai rộng khắp từ
những năm 1970 đến 1980, đã xuất hiện 908 xưởng thủ công dân tộc chiếm 2,9% các xí
nghiệp vừa và nhỏ, thu hút 23.000 lao động, hoạt động theo hình thức sản xuất tại gia là
chính. Đây là loại hình nông thôn với 79,4% dựa vào các hộ gia đình riêng biệt, sử dụng
nguyên vật liệu địa phương và bí quyết truyền thống. Để phát triển công nghiệp thủ công
truyền thống Chính phủ đã thành lập 95 hãng thương mại về những mặt hàng này. Tương
lai của các nghề thủ công truyền thống còn đầy hứa hẹn do nhu cầu về tiêu thụ sản phẩm
dân gian bắt đầu tăng. Qua đây có thể đánh giá được hiệu quả lao động của chương trình
làng nghề thủ công truyền thống là rất thiết thực [48].
- Trung Quốc
Nghề thủ công ở Trung Quốc có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải, dệt tơ
lụa, luyện kim, nghề làm giấy … Sang đầu thế kỷ XX Trung Quốc có khoảng 10 triệu thợ
thủ công chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp làm việc trong các hộ gia đình, trong phường
nghề và làng nghề. Đến năm 1954 số người làm nghề TTCN được tổ chức vào HTX. Sau này
phát triển thành xí nghiệp Hương Trấn và cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số địa phương.
Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công, thương nghiệp, xây
dựng … hoạt động ở khu vực nông thôn. Nó bắt đầu xuất hiện vào năm 1978 khi Trung
Quốc thực hiện chính sách mở cửa. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ đã góp
phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn. Những năm 80 các xí nghiệp cá thể và
làng nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra 68% giá trị sản lượng công
nghiệp nông thôn và trong số 32% sản lượng công nghiệp nông thôn do các xí nghiệp cá
thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể từ làng nghề. Trong các hàng thủ công xuất khẩu,
hàng thảm có vị trí đáng kể (chiếm 75% số lượng thảm ở thị trường Nhật) [21].
- Ấn Độ
Ở nông thôn Ấn Độ trong thời kỳ CNH, nhiều cơ sở công nghiệp mới, sản xuất
công cụ cải tiến, công nghiệp cơ khí chế tạo và công nghiệp chế biến đã được phát triển.
Đồng thời, Chính phủ còn khuyến khích ngành công nghiệp cổ truyền và TTCN cùng phát
triển. Các mạng lưới cơ sở cơ khí chế tạo công cụ cổ truyền rải rác ở nông thôn với trên
10.000 hộ gia đình quy mô vừa và nhỏ, được trang bị thêm những công cụ sản xuất mới,
nữa cơ khí và cơ khí như lò bể cải tiến, máy gia công kim loại … nhằm nâng cao năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm. Những cơ sở này đã sản xuất hàng triệu công cụ nông
nghiệp thủ công và nửa cơ khí, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về công cụ sản xuất
của nông dân.
Ấn Độ là nước có nền văn minh, văn hoá dân tộc lâu đời được thể hiện rất rõ trên
các sản phẩm thủ công truyền thống, đồng thời cũng là nơi có nhiều ngành nghề và LNTT.
Bên cạnh nghề nông, hàng triệu người dân sinh sống bằng các nghề TTCN với doanh thu
hàng năm gần 1.000 tỷ Rupi. Có những ngành nghề làm ra hàng tiêu dùng thủ công mỹ
nghệ cao cấp như kim hoàn vàng, bạc, ngọc ngà, đồ mỹ nghệ … trong số 0,03% sản lượng
kim cương của thế giới mà Ấn Độ khai thác được do 75 vạn thợ chế tác kim cương lớn
nhất trên thế giới. Trên thực tế, kim cương của Ấn Độ không nhiều nhưng họ đã nhập kim
cương thô của Nga về chế tác để cạnh tranh với Ixraen và Hà Lan.
Viện thủ công mỹ nghệ của Ấn Độ là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ yêu
cầu phát triển ngành nghề cổ truyền. Trong thời gian qua, ngoài việc nghiên cứu kỹ thuật, công
nghệ mẫu mã, mặt hàng còn tổ chức 165 cuộc triển lãm, hàng thủ công mỹ nghệ ở trong và
nước ngoài để giới thiệu các mặt hàng đặc sắc của Ấn Độ, nghiên cứu và tìm thị trường xuất
khẩu ra nước ngoài [8].
- Thái Lan
Ở Thái Lan có nhiều ngành nghề TTCN và làng nghề. Các ngành nghề thủ công
truyền thống như chế tác vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra
nhiều hàng hoá xuất khẩu đứng vào hàng thứ hai trên thế giới. Do kết hợp tay nghề của
người nghệ nhân tài hoa với công nghệ kỹ thuật tiên tiến, do đó sản phẩm làm ra đạt chất
lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng
bạc, đá quý năm 1990 đạt gần 2 tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền của Thái Lan trước đây
chỉ SX để đáp ứng tiêu dùng trong nước. Nhưng gần đây ngành này đã phát triển theo
hướng CNH, HĐH và trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ đứng thứ hai sau gạo.
Năm 1989 nghề gốm Thái Lan đã xuất khẩu được 300 triệu bath. Hiện nay, sản phẩm gốm
được thị trường Mỹ và Châu Âu ưa chuộng. Vùng gốm truyền thống ở Chiêng Mai đang
được xây dựng thành trung tâm gốm quốc gia với 3 mặt hàng: gốm truyền thống, gốm
công nghiệp, gốm mới được SX trong 21 xí nghiệp chính và 72 xí nghiệp lân cận. Cho đến
nay 95% hàng xuất khẩu của Thái Lan là đồ dùng trang trí nội thất và quà lưu niệm. Để
nâng cao chất lương sản phẩm, Thái Lan đã tích cực xúc tiến chương trình nâng cao tay
nghề cho công nhân của 93 xí nghiệp gốm Chiêng Mai và Lam Pang. Bên cạnh đó, nghề
kim hoàn chế tác ngọc, đồ gỗ vẫn tiếp tục phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân
cư ở nông thôn [7].
- Indonesia
Chương trình phát triển ngành nghề TTCN được Chính phủ Indonesia hết sức quan
tâm bằng việc đề ra kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: xây dựng các xưởng và trung tâm để bán sản phẩm
TTCN.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai: thực hiện các dự án hướng dẫn và phát triển công
nghiệp nhỏ nhằm giáo dục đào tạo, mở mang các hoạt động SX TTCN của những doanh
nghiệp nhỏ.
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan để quản lý, chỉ
đạo hướng dẫn nghiệp vụ cung cấp vật tư thiết bị, tiêu thụ sản phẩm.
Chính phủ Indonesia đã đứng ra tổ chức một số trung tâm trợ giúp công nghiệp nhỏ,
đề ra các chính sách khuyến khích hỗ trợ công nghiệp nhỏ phát triển; trong đó chú ý đến
chính sách khuyến khích về thuế và ưu tiên công nghiệp nhỏ chế biến nông sản xuất khẩu.
“Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia” được Nhà nước tổ chức và chỉ đạo nhằm thúc đẩy
ngành nghề TTCN phát triển như: tổ chức thiết kế mẫu mã, hội chợ triển lãm ở nông thôn
…
Sự nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề TTCN ở nông thôn đã đem
lại hiệu quả thiết thực. Ở đảo Java, số liệu điều tra 10 làng nghề thủ công cho thấy 44% lao
động nông thôn có tham gia ít hoặc nhiều vào hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp (19% làm
ở các cơ sở SX TTCN và 16% làm ở các dịch vụ nông thôn). Thu nhập của nông dân ở đây từ
nguồn ngoài nông nghiệp trong những năm gần đây tăng từ 12% lên 23% tổng thu nhập [13].
- Philippin
Ngay từ đầu Chính phủ Philippin đã quan tâm đến CNH nông nghiệp, nông thôn
trên cơ sở phát triển ngành nghề TTCN và công nghiệp nông thôn. Từ 1978 - 1982 Chính
phủ đã đề ra chương trình và dự án phát triển công nghiệp nông thôn, mà trước hết tập
trung vào ngành nghề TTCN SX hàng tiêu dùng đơn giản, chế biến thực phẩm và chế biến
công cụ cho nông nghiệp. Chương trình của Chính phủ chủ yếu tập trung giúp TTCN về
tài chính, công nghệ và tiếp thị. Cụ thể là miễn thuế cho các xí nghiệp có quy mô dưới 20
lao động và ưu tiên vốn tín dụng với lãi suất thấp cho xí nghiệp nhỏ để hỗ trợ chuyển giao
kỹ thuật công nghệ và thông tin thị trường giá cả.
Các ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm được chú ý hơn cả để tập trung vào
xuất khẩu. Chẳng hạn, nghề chế biến NATA - nước dừa tinh khiết là món ăn lâu đời của
người dân. Cả nước có khoảng 300 hộ gia đình chế biến NATA cung cấp cho công ty thực
phẩm Inter food để xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cổ truyền này năm 1993 là
14 triệu USD trong đó 85% xuất khẩu sang Nhật Bản [13].
1.3.2. Những kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống của các nước trên
Từ thực tiễn phát triển LNTT của các nước trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm
sau:
- Một là, phát triển làng nghề truyền thống gắn với quá trình công nghiệp hoá nông
thôn
Trong quá trình CNH, đô thị hoá, thương mại hoá ở các nước đã có lúc làm cho nét
độc đáo, tinh xảo của làng nghề bị phai nhạt lu mờ. Nhưng với cách nhìn nhận mới, các
nước đã chú trọng và coi làng nghề là bộ phận của quá trình CNH nông thôn. Do vậy, khi
tiến hành CNH họ thường kết hợp thủ công với kỹ thuật cơ khí hiện đại tuỳ điều kiện cơ sở
vật chất của mỗi nước mà áp dụng công nghệ cổ truyền hay công nghệ hiện đại. Đồng thời,
tổ chức các cơ sở SX gần vùng nguyên liệu và đặt tại làng xã có nghề truyền thống để tiện
cho việc phát triển SX, giao lưu hàng hoá.
- Hai là, chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn
Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan trọng, đối với sự
nghiệp phát triển của LNTT. Vì thế, các nước đều chú ý đầu tư giáo dục và đào tạo tay
nghề cho người lao động để họ tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến. Bởi vì, việc hình thành một
đội ngũ lao động có tay nghề cao là rất quan trọng. Nếu thiếu yếu tố này thì việc tiếp thu
KHCN sẽ không thành công như mong đợi. Nhìn chung, các nước đều triệt để sử dụng
những phương pháp huấn luyện tay nghề cho người lao động như: bồi dưỡng tại chỗ, bồi
dưỡng tập trung, ngắn hạn … theo phương châm thiếu gì huấn luyện nấy. Xúc tiến thành
lập các trung tâm, các viện nghiên cứu để đào tạo một cách có hệ thống mà các cơ sở sản
xuất hoặc địa phương có nhu cầu. Để bồi dưỡng và đào tạo tay nghề cho người lao động
các nước cũng rất chú ý đến kinh nghiệm thực tiễn, tức là mời những nhà kinh doanh,
những nhà quản lý có kinh nghiệm để báo cáo một số chuyên đề tập huấn, hoặc mang sản
phẩm đi triển lãm, trao đổi … tiến hành hoạt động công nghiệp cộng đồng (gia đình, làng
xóm, phường hội) để phổ biến kỹ thuật.
- Ba là, đề cao vai trò của Nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho
làng nghề truyền thống phát triển sản xuất kinh doanh
Trong quá trình SX kinh doanh của LNTT, từ vài thập kỷ gần đây các Nhà nước rất
quan tâm và có nhiều chủ trương chính sách đề cập đến vấn đề phát triển ngành nghề thủ
công truyền thống. Trong đó, chủ trương hỗ trợ về tài chính, tín dụng đóng vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển của LNTT. Sự hỗ trợ tài chính, vốn của Nhà nước được
thông qua các dự án cấp vốn, bù lãi suất cho ngân hàng hoặc bù giá đầu ra cho người SX.
Thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ này mà các làng nghề lựa chọn kỹ thuật gắn với lựa chọn
hướng SX. Nhà nước tạo điều kiện cho ngành nghề thủ công truyền thống đổi mới công
nghệ mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường.
- Bốn là, Nhà nước có chính sách thuế và thị trường phù hợp để thúc đẩy làng nghề
truyền thống phát triển
Đi đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách thuế và thị trường của Nhà
nước để khuyến khích LNTT, ngành nghề truyền thống phát triển. Bởi vì chính sách
thuế được coi như phương tiện để kích thích sự phát triển của LNTT và đóng vai trò
thúc đẩy sự tiến bộ của XH; còn thị trường là điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại của mỗi
xí nghiệp trong mỗi làng nghề. Thị trường không chỉ là nơi mua bán vật tư, nguyên liệu
và sản phẩm của LNTT mà còn có cả những ý kiến cố vấn kỹ thuật, các dịch vụ với
nhiều thông tin quý giá.
- Năm là, khuyến khích sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp và
trung tâm công nghiệp với làng nghề truyền thống
Sự kết hợp giữa đại công nghiệp với TTCN và trung tâm công nghiệp với LNTT là
thể hiện sự phân công hợp tác lao động thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, nhất là các
vấn đề lựa chọn kỹ thuật, lựa chọn hướng sản xuất. Để tạo dựng cho mối quan hệ này, ở
hầu hết các nước đều thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với
LNTT.
Ở Nhật Bản LNTT đóng vai trò làm gia công, vệ tinh của các công ty lớn, khu công
nghiệp tập trung và cung cấp những sản phẩm trung gian cho chúng, chương trình này được
thực hiện ở Inđônêxia là: các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ LNTT nâng cao
năng lực quản lý quy trình công nghệ, marketing, cung cấp tài chính, mua nguyên liệu thô và
đứng ra đảm bảo cho LNTT vay vốn ngân hàng còn LNTT có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ,
đồng thời làm nhiệm vụ gia công cho trung tâm công nghiệp lớn. Ở Thái Lan các trung tâm
công nghiệp đứng ra đấu thầu công việc. Sau đó một phần công việc nhận thầu được đưa về
cho LNTT làm gia công số chi tiết của sản phẩm.
- Sáu là, mô hình tổ chức sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong các làng
nghề với nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến là hình thức sản xuất hộ gia đình.
Hầu hết ở các nước hình thức tổ chức sản xuất trong làng nghề nông thôn rất đa
dạng: Hộ gia đình, doanh nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ … nhưng trong đó hộ gia đình là
chủ yếu đóng vai trò làm gia công, vệ tinh cho các công ty lớn, các khu vực công nghiệp
tập trung.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM HÌNH
THÀNH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
* Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên An Giang có diện tích tự nhiên 3.536 km2, có 11 tuyến địa giới hành chính bao gồm
thành phố Long Xuyên, thị xã và 9 huyện, trong đó có 2 huyện miền núi với tổng số 154
phường, xã, thị trấn. Năm 2006, dân số toàn tỉnh là 2.210.271 người, mật độ dân số trung bình là 625 người/km2. Gồm các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer; Trong đó người kinh
chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là dân tộc Khmer chiếm 3,8% dân số tỉnh sống chủ yếu ở vùng
núi 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn; dân tộc Chăm có tỷ lệ thấp chỉ vào khoảng 0,6% dân số
tỉnh sống chủ yếu ở 2 huyện Tân Châu, Phú Tân và một số ít ở huyện Châu Thành.
Phía Tây Bắc giáp Campuchia dài 104 km (theo Hiệp ước hoạch định biên giới Việt
Nam - Campuchia ký ngày 27/12/1985), Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,789 km, Nam giáp
tỉnh Cần Thơ 44,734 km, Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107,628 km. An Giang là tỉnh đầu
nguồn, tiếp nhận cùng lúc 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu. Hàng năm đón nhận nước lũ về
khoảng 4 tháng và hình thành mùa nước nổi, dòng phù sa bồi đắp tự nhiên giúp cho sự phát
triển ngành trồng trọt cây hàng năm, nhưng cũng để lại nhiều hậu quả do lũ lụt gây ra.
An Giang vừa có đồng bằng phù sa, vừa có đồi núi; trong đó, có núi Sam - chùa Bà
Chúa Xứ, vùng thất sơn với Thiên Cấm sơn (ngọn cao nhất 710 mét), Thuỷ Đài sơn, Anh
Vũ sơn …
An Giang nằm ở cửa ngõ Tây Nam trong lưu vực sông Mêkông, trên tuyến đường
bộ và đường thuỷ quốc tế quan trọng nối Campuchia, Lào, Thái Lan với phần Nam bộ Việt
Nam và Biển Đông. Tuyến đường này sẽ ngày càng trở nên cần thiết cho phát triển kinh tế
của các nước và An Giang sẽ là khâu nối quan trọng trong quá trình hội nhập nền kinh tế
quốc tế Việt Nam với các tỉnh trong và ngoài nước nhất là khu vực Đông Nam Á. Theo quy
hoạch chung phát triển của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ có khoảng 21,7 triệu dân
vào năm 2010, lượng vận chuyển qua các cửa khẩu thuộc An Giang sẽ tăng gấp đôi. Với vị
trí địa lý trên, An Giang có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế, dịch vụ, du lịch, ngân
hàng, thương mại và là một tiền đề cho việc xây dựng kế hoạch phát triển công nghiệp -
TTCN của tỉnh trong tương lai.
An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung
bình hàng năm khoảng 27 độ C. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm, có năm lên
tới 1700 - 1800 mm. Độ ẩm trung bình 80% - 85% và có sự dao động theo chế độ mùa
mưa. Khí hậu nói chung cơ bản là thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
+ Phần lớn đất đai khá màu mỡ, bao gồm 37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm
đất chính, trong đó chủ yếu là nhóm đất phù sa trên 151.600 ha (44,5%) và đất phù sa có
phèn chiếm 93.800 ha (27,5%), đất bằng phẳng phù hợp với sinh trưởng của nhiều loại cây
trồng. Cơ cấu sử dụng đất và mặt nước của tỉnh qua các năm được trình bày tại Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Hiện trạng đất đai của tỉnh An Giang
Đơn vị tính: ha
Năm 1995 2002 2003 2004 2005 2006
Loại đất
Tổng diện tích tự nhiên 340.623 340.623 340.623 340.623 353.551 353.676
1.Đất nông nghiệp 246.687 260.446 261.575 261.575 281.970 281.416
2. Diện tích mặt nước 130 1.461 1.461 1.461 2.334 2360
nuôi trồng thuỷ sản
3. Đất lâm nghiệp 6.390 15.969 12.471 12.471 14.114 14.621
4. Đất chuyên dùng 20.794 26.546 28.959 28.959 37.674 37.844
5. Đất ở 19.530 17.815 15.026 15.026 15.422 15.443
6. Đất chưa sử dụng 47.092 18.386 21.131 21.131 2.036 1.992
Nguồn: [2].
Tuy nhiên, diện tích có khả năng canh tác mở thêm không nhiều (10%) nên tỉnh sẽ
tiếp tục đẩy mạnh thâm canh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích màu, rau, đậu
… trong đó ngô, sắn được chọn ưu tiên phát triển nhanh làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến.
+ Tài nguyên thuỷ sản, An Giang có sông Tiền và sông Hậu chảy qua lãnh thổ của
tỉnh tạo ra nguồn lợi kinh tế thuỷ sản không nhỏ. Nuôi trồng thuỷ sản là một nghề truyền
thống lâu đời của nhân dân địa phương và một thế mạnh kinh tế của tỉnh. Tỉnh có kế hoạch
đầu tư phát triển nguồn tài nguyên thuỷ sản để cung cấp ổn định nguyên liệu cho các nhà
máy chế biến.
+ Tài nguyên khoáng sản và các nguồn nguyên liệu hiện có rất đa dạng và phong
phú cung cấp cho các ngành công nghiệp - TTCN, truyền thống:
Nguyên liệu cung cấp cho nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ: dâu tằm cung cấp cho
ngành se tơ tằm, dệt thổ cẩm xuất khẩu (Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Phú Tân); tre, trúc
cung cấp cho nghề làm tre mỹ nghệ (Chợ Mới, Long Xuyên); cây lục bình cung cấp cho
nghề sản xuất thảm, đá điêu khắc mỹ nghệ (Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn).
Nguyên liệu cung cấp cho nghề sản xuất mây, tre, đan, gốm sứ, kim khí tập trung ở
Long Xuyên, Chợ Mới, Tri Tôn.
+ An Giang có nhiều danh lam, thắng cảnh nổi tiếng như Miếu Bà Chúa xứ, đền
chùa ở Núi Sam, thắng cảnh Núi Cấm, nhiều di tích lịch sử … cùng với hệ thống kênh rạch
chằng chịt có thể là những điểm du lịch sinh thái thu hút du khách trong và ngoài nước.
Tỉnh có đường giao thông thuận tiện liên kết du lịch thuỷ, bộ với các tỉnh trong khu vực và
quốc tế, nhất là các nước ASEAN trên tuyến đường bộ.
* Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang
- Về tăng trưởng kinh tế
Dịch vụ - du lịch được coi là trọng tâm phát triển của An Giang trong các năm tới.
SX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2006, giá trị SX
toàn ngành công nghiệp - TTCN An Giang đạt 3.473 tỷ đồng, tăng 17,89% so năm trước,
với giá trị tăng thêm 1.489 tỷ đồng, tăng 16,19% so năm 2005. Thông qua chương trình
Khuyến công, các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã giải ngân cho 1.568 dự án
công nghiệp - TTCN và 1.014 hộ SX TTCN vay 4.654 tỷ đồng để đổi mới thiết bị công
nghệ, đầu tư mở rộng SX, đạt 186,17% kế hoạch năm (2.500 tỷ đồng) và bằng 194,78% so
năm 2005.
Hoạt động Khuyến công tỉnh An Giang năm 2007 hướng về phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khôi phục và phát triển các làng nghề, kinh tế hợp tác với các nội dung
vốn tín dụng đầu tư phát triển SX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 3.500 tỷ đồng, đào
tạo tập huấn dạy nghề, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ … Từ đầu năm 2007 đến nay,
hoạt động Khuyến công tiếp tục có nhiều chuyển biến, các ngân hàng thương mại đã giải
ngân gần 310 dự án và hộ SX với số tiền 673 tỷ đồng (tăng trên 16% so cùng kỳ), trong đó
có 6 dự án vay trung hạn với số tiền trên 4 tỷ đồng (bằng 13%).
Trong quý I/2007, UBND tỉnh đã công nhận thêm 4 làng nghề gồm dệt Văn Giáo
(Tịnh Biên), lưỡi câu, bánh tráng Mỹ Khánh, se nhang Bình Đức (TP Long Xuyên) nâng
tổng số làng nghề trên địa bàn tỉnh được công nhận. Tỉnh An Giang có 18 làng nghề truyền
thống, hoạt động Khuyến công năm 2007 đẩy mạnh tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp
cho các làng nghề chọn lựa trang thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu SX và thị
trường; hướng dẫn thực hiện các qui định của Nhà nước về tiêu chuẩn, qui phạm, định
mức kinh tế kỹ thuật, chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ sở, doanh
nghiệp, hộ SX ở các làng nghề TTCN liên kết và hỗ trợ nhau trong SX, hình thành các mô
hình công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ hợp tác, nhằm phát huy sức mạnh nguồn lực, về nhân
lực, tài chính kỹ thuật, công nghệ thị trường … tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập kinh
tế quốc tế: In tờ bướm, giới thiệu hàng sản phẩm thủ công mỹ nghệ và hàng đặc sản các
làng nghề; phối hợp với các ngành liên quan hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
cơ sở SX ở các làng nghề tham gia các hội chợ triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm,
tham quan khảo sát thị trường để tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật SX kinh doanh …
- Về văn hoá - xã hội
+ Tình hình lao động và phân bố lao động trong các ngành kinh tế quốc dân do địa
phương quản lý.
Bảng 2.2: Cân đối lao động xã hội có đến 01/7 hàng năm
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006
A. Nguồn lao động (1b+2) 1.372.04 1.400.11 1.431.36 1.462.55 1.502.17
4 9 0 8 0
1. Số người trong độ tuổi lao 1.259.12 1.287.74 1.318.93 1.350.11 1.387.27
động 9 0 5 5 5
1a. Mất sức lao động 15.501 16.286 17.080 17.873 18.663
1b. Có khả năng lao động 1.243.62 1.271.46 1.301.85 1.332.24 1.368.61
4 3 0 2 2
2. Số người ngoài tuổi lao
128.416 128.651 129.519 130.308 133.566 động thực tế có tham gia lao
động
B. Phân phối nguồn lao động 1.372.04 1.400.11 1.431.36 1.462.55 1.502.17
4 9 0 8 0 (1+2+3+4+5)
1. Số người đang làm việc 1.026.60 1.051.19 1.070.85 1.108.54 1.148.04
5 0 2 2 7 trong các ngành kinh tế
2. Số người trong độ tuổi lao 71.936 73.989 81.974 81.050 83.672 động đang đi học
3. Số người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động 199.615 201.924 204.431 206.938 202.241
làm nội trợ
4. Số người trong độ tuổi có
6.436 5.454 4.491 3.527 3.897 khả năng lao động không việc
làm
5. Số người trong độ tuổi có
67.446 67.552 69.623 62.493 64.326 khả năng lao động có nhu cầu
việc làm
Nguồn: [2].
Nhìn chung, lực lượng lao động rất dồi dào nhưng chất lượng lao động rất thấp.
Năm 2006, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 12%, có trên 151 ngàn lao động cần có việc
làm, chiếm trên 10% tổng số lao động của tỉnh.
+ Cơ sở hạ tầng của tỉnh đã được đầu tư đúng mức, nhất là giao thông nông thôn
đã được chú ý xây dựng. Đến 31/12/2006, đã có 150 trên tổng 154 xã, phường của tỉnh
có đường ôtô đến các trung tâm xã, phường chiếm tỷ lệ 97,4%.
Bảng 2.3: Thực trạng đường ôtô đến các trung tâm phường, xã
tại thời điểm 31/12/2006
Chỉ tiêu Tổng số Số phường, xã Số phường, xã Phân theo phường, xã đã có chưa có huyện, thị toàn tỉnh
Thành phố Long Xuyên 13 13 -
7 7 - Thị xã Châu Đốc
14 14 - Huyện An Phú
11 11 - Huyện Tân Châu
19 19 - Huyện Phú Tân
13 13 - Huyện Châu Phú
14 14 - Huyện Tịnh Biên
15 15 - Huyện Tri Tôn
13 9 4 Huyện Châu Thành
18 18 - Huyện Chợ Mới
17 17 - Huyện Thoại Sơn
154 150 4
Nguồn: [2].
Một số tuyến đường chính được Trung ương và Tỉnh nâng cấp như quốc lộ 1, quốc
lộ 91 từ Long Xuyên tới cửa khẩu quốc tế huyện Tịnh Biên, Tân Châu, An Phú, … đã tạo
điều kiện tốt cho giao thông của tỉnh, đặc biệt là các huyện miền núi cải thiện đời sống,
đẩy mạnh giao lưu sản xuất và tiếp thu khoa học kỹ thuật với các huyện, thị khác trong
tỉnh.
+ Tính đến nay, điện lưới quốc gia đã đến toàn bộ 154/154 phường, xã, thị trấn
trong tỉnh. Mức tiêu thụ điện bình quân đầu người hàng năm khoảng 500 kwh và 98% số
hộ được sử dụng điện lưới quốc gia. Hiện nay 100% số xã, phường, thị trấn có hệ thống
thông tin liên lạc.
+ An Giang đã hoàn thành nhiệm vụ xoá mù chữ và phổ cập tiểu học, phổ cập trung
học cơ sở ở các xã, thị trấn trong toàn tỉnh. Ngoài ra, tỉnh còn có 1 trường Đại học và 3
trường Trung học chuyên nghiệp, trong đó có 1 trường Trung học Dạy nghề do Sở Lao
động thương binh - xã hội và một trường Trung học Kinh tế kỹ thuật thuộc Sở Giáo dục và
đào tạo.
+ Toàn tỉnh hiện có 53 hệ thống cấp nước sạch với tổng công suất 55.840 m3/ngày
đêm, trong đó có 11 hệ thống trung tâm các huyện, thị có công suất từ 1.000 đến 20.000 m3/ngày đêm và 42 hệ thống cấp nước không lắng lọc của các tư nhân ở các khóm, ấp. Đã có
80% hộ dân được cung cấp nước sạch phục vụ nhu cầu sinh hoạt, SX công nghiệp - TTCN,
dịch vụ nông thôn.
+ Công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh được thực hiện đồng bộ thông qua các dự
án trực tiếp tác động đến người dân. Mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 1%, năm 2006 hộ
nghèo còn 12,5% với 53.700 hộ và dự kiến đến năm 2010 đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Tỉnh
uỷ đề ra là 5% (theo tiêu chí mới).
2.1.2. Đặc điểm hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống của tỉnh
An Giang
Đến năm 2007, An Giang có 29 làng nghề trong đó có 18 làng nghề được công
nhận LNTT rất đa dạng. Qua khảo sát có thể nêu một số LNTT tiêu biểu sau:
- Làng nghề truyền thống tơ lụa Tân Châu
Tân Châu là huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và một phần sông Hậu có ưu thế về
địa lý tự nhiên cho phép Tân Châu phát triển một nền kinh tế đa dạng, cả về sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và thương mại dịch vụ.
Nói đến Tân Châu là người ta nghĩ ngay đến lụa Cẩm tự, Lãnh mỹ A. “Tân Châu
quê lụa” được người ta gán ghép cho địa danh là rất đúng, bởi vì từ thế kỷ 19 vùng đất Tân
Châu gắn liền với cây dâu, con tằm và nghề dệt lụa cũng rất phát triển. Không ai biết Tân
Châu đã hình thành ngành nghề dệt lụa từ năm nào, nhưng vào những năm 1920 làng Long
Hưng (nay là ấp Long Hưng) lúc đó dân cư còn thưa thớt nhưng hầu hết đều sống bằng
nghề tơ lụa, hộ thì trồng dâu nuôi tằm, hộ thì ươm tơ dệt lụa, nhuộm, … và thu nhập chính
của người dân lúc đó là từ tơ lụa. Cho đến năm 1940, Tân Châu đã trở thành trung tâm tơ
lụa lớn nhất Nam bộ lúc bấy giờ với những lò ươm tơ, dệt lụa và đã hình thành “con đường
tơ lụa” đầy huyền thoại ngày trước. Nhưng con đường phát triển của lụa Tân Châu không
phải lúc nào cũng thuận lợi; đến những năm 1993, hàng tơ lụa Tân Châu mất dần thị
trường do sự cạnh tranh của hàng dệt từ sợi tơ tổng hợp nhập ngoại tràn vào có giá rẻ hơn,
đa dạng về màu sắc, mẫu mã; nhiều hộ gia đình bỏ nghề truyền thống chuyển sang dệt
nylon, se tơ.
Hiện nay trên địa bàn làng nghề tơ lụa Tân Châu có tổng số là 304 hộ, trong đó có
162 hộ có người tham gia làng nghề. Sản phẩm chính của làng nghề là tơ se, Lãnh mỹ A,
… thị trường trong và ngoài nước như Campuchia, Lào, Thái Lan, các nước EU, …
- Làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Châu Phong
LNTT dệt thổ cẩm Châu Phong ở ấp Phũm Soài xã Châu Phong, huyện Tân Châu
không biết có từ bao giờ, tuy nhiên tại nơi đây có một khu nghĩa địa cổ khắc niên đại 1700,
có lẽ người Chăm đã hình thành từ thời gian đó và cũng từ đó bắt đầu hình thành nghề dệt
thổ cẩm cho đến tận bây giờ; Tộc người Chăm thường sống thành cụm ven sông, đàn ông
thì làm nghề đánh bắt thuỷ sản, còn phụ nữ Chăm do tập tục cấm cung nên thường làm
nghề dệt. Trước năm 1975, hàng dệt thổ cẩm của người Chăm có mặt ở hầu hết các nước
Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và kể cả nước Ấn Độ;
đến năm 1984, do quy luật cạnh tranh và thị hiếu của người tiêu dùng nghề dệt thổ cẩm
Chăm bị chựng lại.
Hiện nay LNTT dệt thổ cẩm Châu Phong với 296 hộ thì có 161 hộ tham gia làng
nghề. Sản phẩm gồm: khăn choàng tắm, sà rông, vải thổ cẩm, khăn và các hàng lưu niệm
như túi xách, móc khoá, …
- Làng nghề truyền thống rập chuột An Châu
Làng nghề sản xuất rập chuột An Châu, huyện Châu Thành hình thành vào khoảng năm
1957, lúc đó thì nghề rập chuột chưa được thịnh hành mạnh nên các hộ sản xuất đa phần phục
vụ cho gia đình và bà con xung quanh sử dụng. Phần lớn các người phát minh ra nghề rập chuột
đã mất và truyền nghề lại cho con cháu. Tính đến nay làng nghề được hình thành cũng trải qua ba
thế hệ từ cha truyền nghề cho con, con truyền cho cháu; thế hệ sau nắm vững cách làm và tự tách
riêng mở cơ sở và tự tiêu thụ sản phẩm chủ yếu ở các tỉnh miền Tây, miền Trung và Campuchia;
làng nghề phát triển mạnh nhất vào năm 1992 và cho đến nay.
Hiện nay LNTT rập chuột An Châu với 667 hộ thì có 300 hộ tham gia làng nghề
giải quyết việc làm cho 1.065 lao động của địa phương.
- Làng nghề truyền thống mộc dân dụng Long Điền A
LNTT mộc dân dụng Long Điền A, huyện Chợ Mới hình thành vào khoảng năm
1892 do làn sóng di cư từ miền Bắc vào sinh sống ở các tỉnh miền Tây nam bộ. Theo
truyền miệng của những người làm nghề mộc thì họ truyền nghề lại cho con cháu mình và
cả những người sống tại địa phương có nhu cầu học nghề. Nghề mộc dân dụng lúc đầu chủ
yếu là cất nhà, đóng đồ gia dụng phục vụ trong gia đình (những đồ này đều có chạm trổ)
với tinh thần cần cù, chịu khó, ham học hỏi, làng nghề ngày càng phát triển. Từ năm 1990
nền kinh tế địa phương phát triển ổn định do nhu cầu sử dụng đồ mộc tăng cao nhất là các
mặt hàng cao cấp phục vụ cho trang trí nội thất.
Hiện nay LNTT mộc dân dụng Long Điền A với 2.249 hộ trong đó có 1.369 hộ
tham gia làng nghề. Sản phẩm chủ yếu là các loại tủ, bàn, ghế, giường, nhà cửa, …
Ngoài các LNTT nêu trên, các LNTT ở nông thôn tỉnh An Giang đều có từ rất lâu,
phát triển rất đa dạng, phong phú và có đặc điểm hình thành, phát triển được khái quát
như sau:
Thứ nhất, LNTT của tỉnh An Giang đa dạng về quy mô, về cơ cấu ngành nghề và
gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. LNTT của An Giang được ra đời và phát triển từ sản
xuất nông nghiệp nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp nông thôn. Do nhu cầu việc làm
và thu nhập mà ban đầu người nông dân đã làm nghề thủ công và coi đó là nghề phụ làm
thêm bên cạnh nghề làm ruộng vào những lúc thời gian nhàn rỗi hoặc sử dụng lao động
nhàn rỗi. Lúc đầu nghề thủ công chủ yếu là sản xuất và sửa chữa những sản phẩm phục vụ
sản xuất nông nghiệp và đời sống như nghề se tơ, dệt lụa, dệt thổ cẩm, thêu tranh, nghề
rèn, đan đát, chằm nón, bó chổi bông cỏ, se nhang, nghề sản xuất lưỡi câu, rập chuột, bánh
tráng, bánh phồng, khô các loại, chế biến mắm các loại, nghề mộc dân dụng, đóng xuồng
ghe, ... về sau do nhu cầu phải trao đổi hàng hoá và do lực lượng sản xuất phát triển, nghề
thủ công phát triển, một bộ phận dân cư trong làng đã tách khỏi sản xuất nông nghiệp và
làm nghề tiểu thủ công nghiệp những sản phẩm của họ vẫn phục vụ nông nghiệp và đời
sống của người dân trong làng và những làng xung quanh. Mặt khác, mặc dù chuyên làm
nghề tiểu thủ công nghiệp nhưng vẫn giữ đất nông nghiệp để sản xuất thóc gạo đảm bảo
cuộc sống của họ. Trong những năm đổi mới, nhờ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước mà ngành nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, đa dạng hoá quy mô, loại hình sản
xuất, đa dạng hoá sản phẩm, phong phú về mẫu mã đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và
phong phú của con người. Sản lượng các ngành nghề tăng lên nhanh chóng, làm thay đổi
cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn, nhưng sản xuất TTCN vẫn gắn chặt với sản
xuất nông nghiệp vì trong một chừng mực nào đó người thợ thủ công nghiệp vẫn là người
dân sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, sản xuất trong các LNTT tỉnh An Giang chủ yếu bằng phương pháp thủ công,
công nghệ thô sơ, lạc hậu như nghề tơ lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm (Châu Phong, Văn Giáo),
rèn Phú Mỹ, se nhang Bình Đức, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe Mỹ Hiệp, … những nghề
này chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và sức lao động của người nông dân cùng với hệ
thống công cụ lao động thủ công, thô sơ, lạc hậu nên năng suất lao động thấp. Ngày nay, tuy
có sự phát triển của KHCN, máy móc hiện đại, một số công cụ lao động làm nghề tiểu thủ
công nghiệp đã được cơ khí hoá, HĐH nhưng chưa được tự động hoá mà vẫn phải dựa vào
sức lao động và đôi bàn tay của người thợ. Một số nghề mới xuất hiện như đan thảm lục bình
Chợ Vàm, sản xuất đường thốt nốt (Núi Tô, An Tức, Cô Tô), quạt thốt nốt Óc Eo, chế biến
mắm Khánh Hoà, thêu tranh, dệt chiếu Uzu … tuy có sử dụng nhiều máy móc thay cho lao
động thủ công nhưng phần lớn là những máy móc cũ, lạc hậu bị các cơ quan thải loại, người
dân mua về sửa chữa hoặc cải tiến cho phù hợp, nên trình độ cơ khí hoá vẫn còn thấp.
Thứ ba, quy mô sản xuất kinh doanh của LNTT hầu hết là quy mô gia đình, cha
truyền con nối, nên quy mô sản xuất bị giới hạn trong phạm vi gia đình huyết thống. Trong
mô hình sản xuất này, người chủ gia đình là người thợ cả, có kỹ thuật cao vừa tổ chức sản
xuất kinh doanh, vừa quản lý và hạch toán kinh doanh, vừa là người truyền nghề, quản lý
kỹ thuật, mọi thành viên còn lại trong gia đình, dòng họ là những người tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo năng lực trình độ của mỗi người mà được người chủ
giao công việc cụ thể. Trong thời kì kế hoạch tập trung, bao cấp, các gia đình làm nghề
tiểu thủ công nghiệp phải gia nhập HTX tiểu thủ công nghiệp. Do cơ chế quản lý của giai
đoạn này mà LNTT không phát triển và bị mai một, HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động
kém hiệu quả, nên đã bị tan rã dần vào đầu thời kì đổi mới. Trong thời kì đổi mới nhờ chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý thay đổi, LNTT được phát huy
mạnh mẽ, khai thác mọi tiềm năng của các hộ gia đình vào sản xuất kinh doanh. Do cơ chế
thị trường các gia đình trong LNTT phải cạnh tranh với nhau, nên quy mô sản xuất kinh
doanh đã được mở rộng, lao động sản xuất đã được thuê mướn bên ngoài, anh em, con
cháu gia đình đóng vai trò quản lý từng khâu, từng mắc xích quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Hiện nay, tuy đã xuất hiện nhiều Tổ Hợp tác và HTX nhưng quy mô sản
xuất vẫn giới hạn trong phạm vi gia đình hoặc dòng họ. Các Tổ Hợp tác và HTX này đóng vai
trò là trung tâm, vệ tinh tìm kiếm thị trường, tiêu thụ lớn về sản phẩm hoặc cung ứng lớn về
vật tư cho các hộ gia đình thực hiện dưới hình thức hợp đồng.
Thứ tư, phương pháp dạy nghề trong các LNTT là truyền nghề. Xuất phát từ đặc
điểm quy mô sản xuất chủ yếu là gia đình, nên việc dạy nghề cho con cháu hoặc người
thân là hình thức truyền nghề trực tiếp, tức là hướng dẫn trực tiếp từng thao tác, vừa làm
vừa học nhằm giữ bí quyết nhà nghề. Mặt khác, nhiều nghề sản xuất những sản phẩm độc
đáo, mang đậm bản sắc dân hoá dân tộc như nghề dệt lụa, dệt thổ cẩm, tranh thêu, mộc
chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng … Do đặc thù nghề nghiệp mà không thể sử dụng máy
móc để sản xuất hàng loạt được mà phải dựa vào lao động thủ công, dựa vào bàn tay khéo
léo, tinh xảo của người thợ nên việc dạy nghề vẫn phải hướng dẫn trực tiếp từng thao tác,
vừa học vừa làm. Ngày nay KHCN hiện đại, xuất hiện nhiều máy móc hiện đại một số
công việc, công đoạn của quá trình đã sử dụng máy móc thay thế cho lao động. Chẳng hạn
như nghề mộc dân dụng, đóng xuồng ghe đã sử dụng các máy cưa, máy lộng, máy bào
máy khoan để thay thế cho các lao động bào, cưa, xẻ, đục,… Hoặc nghề dệt lụa, dệt thổ
cẩm đã sử dụng mô tơ thay thế cho chân đạp máy dệt, … nhưng các công việc quyết định
đến chất lượng, thẩm mỹ và tính chất độc đáo của sản phẩm vẫn sử dụng lao động thủ
công. Vì vậy, trong các LNTT việc dạy nghề cho lao động chủ yếu là truyền nghề.
Thứ năm, sản phẩm LNTT mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, tính truyền thống.
Mặt khác, do dạy nghề là hình thức truyền nghề, nên giữ được bí quyết, giữ được nét độc
đáo của sản phẩm làng nghề mà địa phương khác, làng nghề khác không thể làm được. Vì
nét độc đáo, truyền thống đó của sản phẩm, do đó nó chi phối được thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng
đa dạng, phong phú, nên các LNTT đã nhanh chóng đổi mới sản xuất, đa dạng sản phẩm
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, trong xu thế hội nhập, nhiều sản phẩm LNTT
đã xuất khẩu ra thị trường thế giới. Bởi vậy, sản phẩm của LNTT tất yếu phải đa dạng và
phong phú phù hợp với nhu cầu trong và ngoài nước. Đồng thời, chất lượng sản phẩm
không ngừng nâng cao đảm bảo khả năng cạnh tranh của thị trường.
Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, ngành du lịch phát triển, sản phẩm LNTT đã thể
hiện những nét văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, phong cảnh, thiên nhiên, con
người Việt Nam … như dệt thổ cẩm (Chăm, Khmer), lụa Tân Châu, tranh thêu, mộc chạm
trổ mỹ nghệ, sản xuất đường thốt nốt … nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch mà còn
giới thiệu về văn hoá, con người và đất nước Việt Nam với bạn bè trên thế giới.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
2.2.1. Phân tích hiện trạng làng nghề truyền thống
2.2.1.1. Số lượng và quy mô làng nghề truyền thống
Năm 2007, An Giang có 29 làng nghề, trong đó có 18 LNTT và 11 làng nghề.
Trong số 18 LNTT có 16 LNTT phát triển ổn định và 2 LNTT ở tình trạng tồn tại và phát
triển khó khăn.
Trong bảng giá trị sản xuất công nghiệp -TTCN trên địa bàn tỉnh An Giang tính
theo giá cố định năm 1994 (Bảng 2.4) cho thấy giá trị sản xuất của kinh tế ngoài quốc
doanh và kinh tế cá thể, tư nhân có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân do cơ chế chính
sách của Đảng và Nhà nước thuận lợi, tạo điều kiện phát triển LNTT. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, LNTT là điểm đến của du khách trong và ngoài nước, đồng thời sản phẩm
LNTT không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn phải đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu.
Theo khảo sát gần đây của hiệp hội làng nghề Việt Nam, 22,3% sản phẩm làng nghề nước
ta có chất lượng ngang bằng và 16,2% có giá cả cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Bảng 2.4: Giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN An Giang giai đoạn
2001 - 2006 theo giá cố định 1994 phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Kinh tế ngoài Khu vực Kinh tế quốc doanh quốc doanh Tổng giá trị đầu tư Năm SX CN nước Tỷ trọng Tỷ trọng Số lượng Số lượng ngoài % %
2000 1.513.300 662.681 43,8 795.632 52,6 55.017
2001 1.705.730 648.704 38,0 1.000.885 58,7 56.141
2002 1.983.497 625.956 31,6 1.347.441 67,9 10.100
2003 2.219.746 700.142 31,5 1.504.823 67,8 14.781
2004 2.575.586 756.171 29,4 1.798.455 69,8 20.960
2005 2.966.259 860.041 29,0 2.083.521 70,2 22.697
2006 3.473.054 920.190 26,5 2.525.806 72,7 27.058
Nguồn: [41].
Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các LNTT còn yếu, ngoài lý do chất lượng, quy
mô sản xuất nhỏ, phân tán còn có nguyên nhân quan trọng là phụ thuộc nhiều vào trung
gian. Được biết khoảng 95% sản phẩm LNTT tiêu thụ qua kênh công ty thương mại nhỏ,
công ty tư nhân … các hộ kinh doanh gặp khó khăn do cơ sở hạ tầng LNTT kém, khó tiếp
cận thông tin thị trường, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng quy mô sản xuất, ô nhiễm môi
trường ngày càng gia tăng. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của LNTT, số lượng LNTT, quy
mô LNTT cũng được gia tăng. Bên cạnh những LNTT, làng nghề mới ra đời phát triển ngày
càng tăng, lực lượng lao động trong nông thôn thu hút vào LNTT ngày càng nhiều góp phần
thay đổi cơ cấu lao động nông thôn. Đến nay trong tổng số 154 xã, phường, thị trấn của tỉnh
An Giang, có 17 xã có LNTT.
2.2.1.2. Lao động và chất lượng lao động trong các làng nghề truyền thống
Nhóm LNTT hoạt động ổn định và phát triển tốt như mộc trạm trổ, mộc dân dụng, sản
xuất rập chuột, lưỡi câu, rèn nông cụ … những sản phẩm này phù hợp với nhu cầu thị trường
luôn được đầu tư để tăng cường năng lực sản xuất.
Nhóm LNTT hoạt động cầm chừng không phát triển được có nguy cơ mai một, mất
nghề gồm các LNTT sản xuất tơ lụa, dệt thổ cẩm. Đây là những LNTT sản xuất những sản
phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường hoặc không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm
công nghiệp.
Một số LNTT phát triển mạnh có khả năng nhân rộng ra các làng khác:
- HTX rèn Phú Mỹ sản xuất ra các loại nông cụ như rèn cuốc, xẻng, dao, lưỡi hái,
liềm, cày bừa … tạo ra giá trị trên 1 tỷ đồng thu nhập trên 12 triệu đồng/lao động; sản xuất
lưỡi câu Long Xuyên và sản xuất rập chuột Châu Thành tạo ra giá trị trên 34 tỷ đồng, tạo
việc làm cho 489 hộ và thu hút 1.767 lao động tại chỗ.
- Các xã Long Điền A, Tấn Mỹ, Mỹ Luông, Long Giang huyện Chợ Mới sản xuất đồ gỗ
mỹ nghệ, các loại sản phẩm như giường tủ, bàn, ghế, tranh, tượng, cầu thang; dệt thổ cẩm Tân
Châu, Tịnh Biên sản phẩm như tơ se, khăn choàng tắm, thổ cẩm … đã có mặt trên thị trường
trong nước và cả thị trường nhiều nước Châu Âu, Châu Á chủ yếu là xuất khẩu phi mậu dịch
qua biên giới và thông qua khách du lịch. Giá trị sản xuất trên 40 tỷ đồng trên năm, giải quyết
việc làm cho 2.351 hộ thu hút 4.662 lao động. Chỉ riêng xã Long Điền A thì LNTT mộc chạm
trổ mỹ nghệ với 2.294 hộ có 1.369 hộ thu hút 2.300 lao động, doanh thu hàng năm đạt 19,250 tỷ
đồng thu nhập bình quân 1,3 triệu đồng.
Bảng 2.5: Thống kê làng nghề truyền thống và lao động năm 2007
Tổng số xã có Tổng số xã có Tổng Tên huyện, xã có Tổng STT LNTT đã được LNTT chưa số lao LNTT số hộ công nhận được công nhận động
1. Tp. Long Xuyên 3 1 557 1.955
Bình Đức 1 231 744
Mỹ Hoà 1 189 702
Mỹ Khánh 1 60 120
Mỹ Hoà Hưng 1 77 389
2. Huyện Phú Tân 1.064 2.186 3 4
2 Phú Mỹ 520 800
1 Phú Bình 200 400
Chợ Vàm 1 100 400
Phú Thọ 1 58 177
Phú Hiệp 1 139 251
Hoà Lạc 1 46 158
2 3. Huyện Tân Châu 323 492
1 Châu Phong 161 291
1 Tân Châu 162 201
8 4. Huyện Chợ Mới 1 2.736 6.752
1 Long Điền A 1.369 2.300
1 Long Giang 1 113 380
1 Tấn Mỹ 127 278
1 Mỹ Luông 460 1.450
1 Mỹ Hội Đông 146 310
1 Hội An 310 1200
1 Hoà Bình 100 217
1 Mỹ Hiệp 111 627
1 5. Huyện Tịnh Biên 136 147
1 Văn Giáo 136 147
6. Huyện Châu 447 3.093 1 1 Thành
1 An Châu 1 447 3.093
7. Châu Phú 2 320 738
Bình Mỹ 1 170 384
Bình Thuỷ 1 150 354
8. Huyện An Phú 2 279 714
Đa Phước 1 232 464
Khánh An 1 47 250
Tổng cộng: 18 11 5.862 16.077
Nguồn: [42].
Qua Bảng số liệu 2.5. tình hình lao động tham gia vào các LNTT cho thấy:
- Lực lượng lao động trong các LNTT là tận dụng triệt để lao động nhàn rỗi ở nông
thôn, phân công theo hướng chuyên môn hoá từng khâu, từng đoạn của quá trình sản xuất.
Hàng loạt các hệ thống dịch vụ được phát triển đồng bộ như thu gom, vận chuyển nguyên
vật liệu. Bên cạnh đó, còn có các lực lượng lao động hoạt động trong các khâu bán hàng,
dịch vụ, thương mại nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng cao của LNTT.
- Các LNTT chưa xây dựng được chiến lược về thị trường nhất là thị trường nước
ngoài, chưa xây dựng được thương hiệu, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng chưa cao, tính
cạnh tranh thấp, nguồn vốn nhỏ nên khả năng đầu tư theo chiều sâu đối với công nghệ
còn hạn chế nhiều. Việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước còn gặp khó
khăn, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu, yếu kém, hầu hết công nghệ trong các LNTT là
cổ truyền, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề của người lao động thấp, khả năng,
trình độ quản lý của chủ cơ sở, chủ hộ còn hạn chế. Tuy nhiên, qua tiếp xúc một số
LNTT cho thấy tay nghề của thợ thủ công và nghệ nhân hoàn toàn có thể làm ra những
sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã hợp thị hiếu, nhưng người thợ chưa có sự tiếp cận và
thiếu thông tin về thị trường, nhất là thị trường nước ngoài.
- Hầu hết, các cơ sở sản xuất, hộ gia đình không chú trọng đến đầu tư xử lý chất
thải, gây ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới đời sống dân sinh và môi trường sinh thái.
Không ít các cơ sở sản xuất còn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, chế
độ bảo hiểm người lao động, luật thuế, pháp lệnh kế toán thống kê, …
- Một số LNTT phát triển, đời sống người dân trong LNTT được nâng lên, nhưng
trình độ dân trí không nâng lên, dịch vụ phát triển ảnh hưởng môi trường xã hội như cờ
bạc, tệ nạn xã hội gia tăng, trẻ em không được quan tâm đến học tập, tình trạng thất học
cũng gia tăng.
2.2.1.3. Tổ chức sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các LNTT tồn tại dưới hình thức các HTX
TTCN, lúc đó sản xuất nông nghiệp là chính còn nghề thủ công có phát triển nhưng chỉ coi
đó là nghề phụ, bổ trợ cho nông nghiệp. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước có chủ trương chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, các LNTT dần dần được khôi phục. Đồng thời, các làng nghề mới được xây dựng và
phát triển, tổ chức sản xuất theo hình thức cá thể, hộ gia đình, tổ hợp tác, HTX, doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH tham gia hoạt động theo pháp luật, tạo ra sản phẩm phục
vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
Bảng 2.6: Tổng hợp số đơn vị sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh năm 2007
STT Đơn vị HTX Hộ cá thể
1. Thành phố Long Xuyên 480
2. Huyện Phú Tân 1 720
3. Huyện Tân Châu 1 323
4. Huyện Chợ Mới 2.736
5. Huyện Tịnh Biên 1 136
6. Huyện Châu Thành 300
Tổng cộng: 3 4.695
Nguồn: [42].
Qua số liệu ở Bảng 2.6. cho thấy loại hình sản xuất theo hộ gia đình của tỉnh chiếm
trên 99,9%, số liệu này nói lên hình thức sản xuất theo hộ gia đình là chủ yếu với 4.695 hộ
giải quyết cho 16.077 lao động doanh thu hàng năm trên 182 tỷ thu nhập bình quân một lao
động từ 450.000 đồng đến 1.300.000 đồng, biểu hiện tính phân tán, manh mún về tổ chức sản
xuất, nặng tư tưởng bảo thủ của từng gia đình, thiếu sự hợp tác rộng trong các LNTT hoặc
giữa các LNTT với nhau, hạn chế trong việc đổi mới công nghệ, kỹ thuật tiên tiến và khả năng
tìm kiếm thị trường. Tuy nhiên, hình thức sản xuất theo hộ gia đình có ưu thế phù hợp với quy
mô sản xuất nhỏ, phù hợp với cách quản lý cũng như trình độ của người thợ, đảm bảo được sự
gắn bó giữa quyền lợi và trách nhiệm, mọi thành viên trong gia đình đều được huy động vào
những công việc khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, tận dụng được thời gian lao
động nhàn rỗi trong nông thôn nhất là giải quyết tốt đối với lao động nữ tại địa phương.
Bên cạnh loại hình tổ chức sản xuất theo hộ gia đình, trong LNTT còn có loại hình
sản xuất HTX được tổ chức theo hình thức sản xuất tập trung hoặc HTX cổ phần mà xã
viên là các hộ gia đình được HTX đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm
trong LNTT. Tuy nhiên, loại hình sản xuất HTX hiện nay trong các LNTT có phát triển
song chưa nhiều chiếm tỷ trọng rất nhỏ như Tân Châu, Tịnh Biên, Phú Tân.
2.2.1.4. Vốn và nguồn vốn trong các làng nghề truyền thống
Vốn là yếu tố quan trọng bảo đảm cho các LNTT hoạt động nhất là đổi mới thiết bị,
công nghệ, mua nguyên liệu, đào tạo lao động, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, …
Để đảm bảo cho hoạt động các LNTT nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng lớn.
Song thực trạng về vốn ở các LNTT cho thấy:
Thứ nhất, mức độ trang bị vốn cho một cơ sở sản xuất kinh doanh bình quân từ 50
đến 200 triệu đồng cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh, của một hộ chuyên sản xuất là 20
triệu đồng và của một hộ nông nghiệp kiêm là 8,5 triệu đồng. Quy mô vốn đầu tư cho một
hộ gia đình ở các LNTT cũng khác nhau, chẳng hạn như ở Tân Châu vốn bình quân cho
một hộ se tơ dệt lụa là 45 triệu đồng trong khi đó làng nghề sản xuất rập chuột chỉ có số
vốn là 3 triệu đồng, làng nghề tre, mây, đan lát, bông chổi là 1,2 triệu đồng.
Thứ hai, về cơ cấu nguồn vốn thì vốn tự có của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong
LNTT là chủ yếu, hầu hết các cơ sở, hộ gia đình vay trực tiếp ngân hàng từ thế chấp tài sản
cố định của mình, còn vay từ các chương trình Nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ
cấu nguồn vốn vay.
Từ thực trạng về vốn và cơ cấu nguồn vốn của các cơ sở kinh doanh và hộ gia đình
trong các LNTT của các địa phương trong tỉnh cho thấy để phát triển các LNTT các chủ cơ
sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình phải dựa vào vốn tự có là chính, song mức vốn trang
bị lại thấp do đó cơ sở kinh doanh, hộ gia đình muốn đổi mới công nghệ, trang thiết bị, mở
rộng quy mô sản xuất, cải tiến mẫu mã, dự trữ nguồn nguyên liệu (vì một số sản phẩm
LNTT dùng nguyên liệu thời vụ như sậy, gỗ, lục bình, tơ tằm, … cần phải mua dự trữ)
nhưng do thiếu vốn nên không thực hiện được, trong khi đó cơ chế, chính sách về huy
động vốn và cho vay, đặc biệt là tín dụng ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa theo kịp xu
thế phát triển của các LNTT từ đó làm mất cơ hội phát triển của các cơ sở sản xuất, hộ gia
đình để mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho gia đình và người lao
động. Sự trợ giúp của Nhà nước cho các cơ sở sản xuất, hộ gia đình trong các LNTT theo
các chương trình còn quá ít.
2.2.1.5. Về kỹ thuật công nghệ trong các làng nghề truyền thống
Trước đây, trong các LNTT công cụ sản xuất chủ yếu là công cụ thô sơ do người
thợ thủ công chế tạo ra. Đến nay, trong các LNTT của tỉnh đã có sự thay đổi đáng kể, các
cơ sở sản xuất, hộ gia đình đã có đầu tư công nghệ, máy móc, trang thiết bị phục vụ cho sản
xuất. Sự đổi mới kỹ thuật, công nghệ được gắn liền với điện khí hoá, cơ khí hoá sản xuất,
nhiều LNTT đã dùng điện làm động lực cho máy xẻ, máy bào, máy rập, se tơ, dệt lụa, thổ
cẩm, … thay cho lao động thủ công. LNTT rập chuột Châu Thành có 9 cơ sở có máy rập sắt
thay cho làm thủ công trước đây nguyên liệu cho sản phẩm rập chuột giao cho các hộ gia đình
làm từng công đoạn chuyên môn hoá từ đó đã nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm;
LNTT mộc dân dụng Chợ Mới thường xuyên thay đổi mẫu mã, sản phẩm phù hợp với nhu
cầu thị trường, sản xuất bằng máy móc theo dây chuyền từ chế biến gỗ thành sản phẩm như
cưa, đục, bào, chà láng, sơn, … với hơn 50 cơ sở mỗi cơ sở thu hút bình quân 15-20 lao
động tại địa phương.
Sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ trong các LNTT gắn liền với việc tăng năng suất,
chất lượng, hiệu quả đồng thời vẫn giữ được các yếu tố truyền thống trong một sản phẩm.
Chẳng hạn, LNTT dệt thổ cẩm Tân Châu từ khi đổi mới thiết bị công nghệ từ dệt thủ công
sang dệt bằng máy đã nâng cao năng suất lao động lên nhiều lần, sản phẩm có thể dệt được
với nhiều loại hoa văn phức tạp, đa dạng, khổ rộng vừa thể hiện được nét tinh hoa văn hoá dân
tộc vừa mang tính hiện đại đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Sự đổi mới kỹ thuật công nghệ ở các LNTT bước đầu đã tạo đà cho sự phát triển
bền vững cho các LNTT, song nhìn chung còn chậm, công nghệ còn ở mức độ thấp, máy
móc thiết bị phần lớn là công cụ đơn giản được người sản xuất cải tiến chế tạo để sử dụng
nên chất lượng thấp. Mặt khác, các thiết bị đa số là thiết bị tận dụng nên dây chuyền công
nghệ không có sự đồng bộ, chắp vá, các cơ sở sản xuất chỉ trang bị máy móc, thiết bị ở
một số khâu quan trọng có ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình sản xuất còn các khâu khác vẫn
tận dụng lao động thủ công.
Đánh giá tổng quát là kỹ thuật công nghệ của các cơ sở sản xuất kinh trong các
LNTT của địa phương vẫn còn ở trình độ thấp, công nghệ thô sơ, lạc hậu còn chiếm phần
lớn, đổi mới công nghệ còn chậm, chưa có hệ thống, chưa cơ bản. Điều đó hạn chế rất lớn
tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm LNTT trên thị trường trong và ngoài nước.
2.2.1.6. Sản phẩm và tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền
thống
Sản phẩm của các LNTT trong tỉnh rất đa dạng, phong phú đặc biệt là từ khi chuyển
sang kinh tế thị trường sản phẩm trong LNTT đáp ứng nhu cầu từ cấp thấp đến cấp cao của
thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn, mộc dân dụng, mộc chạm trổ Chợ Mới với
hàng chục loại sản phẩm khác nhau, nghề song mây tre đan, bông sậy, thổ cẩm có tới hơn
50 loại sản phẩm, sản xuất rập chuột, lưỡi câu cũng có 20-30 loại kiểu cách khác nhau. Tơ
lụa Tân Châu cũng có một số sản phẩm khác như dệt lụa, dệt vải, dệt khăn, dệt gấm…
Sản phẩm của các LNTT trong tỉnh sản xuất ra với khối lượng lớn, ngày càng được
đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, trong đó sản phẩm mộc dân dụng, rập
chuột, lưỡi câu, chổi bông cỏ, se nhang, đóng xuồng ghe, … đang có nhu cầu lớn trên
thị trường trong và ngoài tỉnh. Các sản phẩm độc đáo đang được ưa chuộng, có nhu cầu
tiêu thụ trong và ngoài nước như tơ lụa, thổ cẩm, chạm trổ mỹ nghệ đang hướng mạnh
tới thị trường xuất khẩu.
Về tình hình tiêu thụ sản phẩm của LNTT hiện nay chủ yếu theo các phương thức
sau:
Thứ nhất, hộ sản xuất bán trực tiếp cho người tiêu dùng, nghĩa là hộ sản xuất kinh
doanh trong các LNTT tự tổ chức trưng bày giới thiệu sản phẩm và bán hàng ngay tại nơi
sản xuất; hoặc hộ sản xuất bán cho người làm dịch vụ thu mua đem hàng bán tận tay người
tiêu dùng; do các hộ sản xuất tự tiêu thụ sản phẩm nên không thống nhất được giá bán dẫn
đến tình trạng bán phá giá trong các LNTT.
Thứ hai, tiêu thụ sản phẩm thông qua các đại lý là doanh nghiệp, công ty thương
mại, công ty có chức năng xuất nhập khẩu. Song, các doanh nghiệp này không trực tiếp
quan hệ với từng hộ sản xuất mà phải thông qua một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân
như: HTX, công ty TNHH hoặc một hộ sản xuất lớn. Các tổ chức kinh tế này tiêu thụ sản
phẩm cho các LNTT thông qua các hình thức sau: các hộ sản xuất làm gia công cho các tổ
chức nói trên; các hộ sản xuất mua nguyên liệu sản xuất bán sản phẩm cho các tổ chức
kinh tế; các hộ sản xuất mua đứt, bán đoạn. Hình thức này dễ dẫn đến tình trạng ép giá
trong các LNTT. Chẳng hạn như HTX dệt thổ cẩm Tân Châu cung cấp nguyên liệu cho
các hộ sản xuất sau đó đến thu gom thành phẩm đem tiêu thụ trong và ngoài nước.
Như vậy, hình thức tiêu thụ sản phẩm của các LNTT khá đa dạng, song nhìn chung
việc tiêu thụ sản phẩm trong các LNTT còn nhiều khó khăn, hạn chế. Tình trạng nhiều mặt
hàng của LNTT chỉ phục vụ nhu cầu tiêu thụ của địa phương mà chưa mở rộng được thị trường
tỉnh khác và thị trường nước ngoài.
2.2.1.7. Về tình hình môi trường trong các làng nghề truyền thống
Sau thời kì đổi mới LNTT từng bước được khôi phục và phát triển, tuy nhiên cùng
với sự phát triển đó một vấn đề bức xúc cũng được đặt ra là vấn đề môi trường. Hầu hết
các LNTT môi trường đều ô nhiễm với mức độ khác nhau, gây ảnh hưởng không nhỏ đến
sức khoẻ nhân dân về môi trường không khí, môi trường nước và môi trường đất.
Ở các LNTT mộc dân dụng, chổi bông cỏ, se nhang, … thải ra hàm lượng bụi lớn
làm ô nhiễm không khí gây cho con người mắc các bệnh về phổi, viêm phế quản khá cao.
Các LNTT như rập chuột, lưỡi câu, đóng xuồng ghe, … các thiết bị cưa, bào, cán sắt, đập
dập, gây tiếng ồn ảnh hưởng đến thần kinh, thính giác của con người. Ngoài ra, những LNTT
như dệt, nhuộm là những nơi nguồn nước bị ô nhiễm rất cao do sử dụng nhiều hoá chất lại
không được xử lý trước khi thải vào đất làm thay đổi thành phần hoá, lý của đất làm giảm
năng suất cây trồng vật nuôi và ảnh hưởng tới sức khoẻ con người.
Nhìn chung chất thải trong các LNTT đã không được xử lý đúng quy định nên gây
ô nhiễm môi trường nặng nề. Sự ô nhiễm chất thải vừa là hậu quả đồng thời cũng vừa là
nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của các LNTT.
2.2.2. Tác động của quản lý nhà nước tới sự phát triển làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh
2.2.2.1. Tác động từ các nội dung quản lý nhà nước tới các làng nghề truyền
thống
- Về chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Khu - cụm công
nghiệp - TTCN huyện, thị, thành phố - tỉnh An Giang. Năm 2006 Tỉnh ủy có Nghị quyết
số 06-NQ/TU ngày 22/12/2006 về việc phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp từ
nay đến năm 2010; chương trình phát triển công nghiệp - TTCN giai đoạn 2007 - 2010;
quyết định số 37/2007/QĐ-UBND ngày 07/8/2007 về việc ban hành Quy chế quản lý Khu
- cụm công nghiệp - TTCN huyện, thị, thành phố - tỉnh An Giang; chương trình số 03/CTr-
UBND ngày 17/12/2007 Bảo tồn và phát triển làng nghề TTCN tỉnh An Giang giai đoạn
2008 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; đề án phát triển sản xuất TTCN cho người dân tộc
Khmer, Chăm giai đoạn 2008 - 2010. Nội dung cơ bản của các chính sách mới là cần
khuyến khích hỗ trợ bảo tồn phát triển làng nghề phải xem xét lợi thế của địa phương mình
và phải được quan tâm một cách đầy đủ nhằm nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh, chất
lượng sản phẩm hàng TTCN cả lượng và chất có khả năng hoặc tiềm năng xuất khẩu cao
để góp phần vào định hướng phát triển và duy trì ổn định làng nghề tầm nhìn đến năm
2020, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế của địa phương.
Về chủ trương chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Để tạo điều kiện cho làng
nghề phát triển mạnh, Nhà nước cùng địa phương ban hành chính sách khuyến khích phát
triển cụm làng nghề. Tỉnh xây dựng quy hoạch tổng thể khu, cụm công nghiệp và hiện nay
tỉnh có 3 khu công nghiệp lớn là khu công nghiệp Bình Hoà, quy mô 131,71 ha (Châu
Thành), khu công nghiệp Bình Long quy mô 28,56 ha (Châu Phú), khu công nghiệp Vàm
Cống quy mô 198,83 ha (thành phố Long Xuyên) do Ban Quản lý khu công nghiệp tỉnh
quản lý. Ngoài ra, có 18 khu, cụm công nghiệp - TCCN, làng nghề do cấp huyện quản lý
với tổng diện tích quy hoạch là 592,5 ha [45]. Sở Tài nguyên Môi trường trực tiếp tổ chức,
hướng dẫn các xã quy hoạch và hướng dẫn cá nhân, doanh nghiệp làm dự án thuê đất xây
dựng doanh nghiệp làng nghề TTCN; đồng thời tổng hợp báo cáo trình UBND tỉnh phê duyệt.
Đây là chủ trương đúng đắn và sáng tạo, không những mở rộng mặt bằng, tăng cường cơ sở
vật chất, cơ sở hạ tầng, các công trình dịch vụ mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị sản xuất theo hướng hiện đại.
Như vậy, Nhà nước có chính sách tác động tới LNTT nhưng xét về tổng thể thì
chưa có hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh các khu công nghiệp địa phương, các
LNTT; đồng thời chưa có cơ quan quản lý thống nhất các khu công nghiệp địa phương,
cụm công nghiệp, LNTT ở cấp vĩ mô. Bởi vậy, chưa đáp ứng được cho việc xây dựng
chính sách thích ứng, phù hợp với yêu cầu của khu công nghiệp, cụm công nghiệp, LNTT
ở nước ta nói chung và của tỉnh An Giang nói riêng.
- Để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn cho sản xuất kinh doanh của các LNTT, An
Giang đã chú trọng đến hệ thống các Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ vốn cho tất cả các dự án khả thi của các hộ sản xuất
đều được ngân hàng cho vay 70% giá trị mua sắm tài sản cố định bằng nguồn vốn vay trung
hạn và hỗ trợ cho vay từ 30 - 50% vốn vay lưu động. Nhiều LNTT được ngân hàng cho vay
đã nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh từ đó tăng thu nhập cho các hộ trong
LNTT. Ngoài sự hỗ trợ về vốn, tỉnh còn có chính sách giảm thuế, hỗ trợ trong việc giải phóng
mặt bằng cho những hộ gia đình vào cụm công nghiệp LNTT.
2.2.2.2. Tổ chức thực thi quản lý nhà nước địa phương đối với làng nghề truyền
thống
- Tổ chức quản lý
Để các khu, cụm công nghiệp, LNTT hình thành và hoạt động có hiệu quả, tỉnh An
Giang đã thành lập ban quản lý các khu công nghiệp có nhiệm vụ giúp các cấp, các ngành,
trước hết là UBND cấp xã, huyện thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các khu,
cụm công nghiệp, LNTT. Ban Quản lý này là một đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp
nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản theo quy định hiện hành của Nhà nước. UBND
các xã, huyện quản lý khu, cụm công nghiệp là cơ quan quản lý trực tiếp các LNTT; đồng
thời, là đầu mối phối hợp với các cơ quan chuyên môn của UBND huyện, thị, xã, các tổ chức
kinh tế - xã hội và UBND các xã có LNTT, giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình
quản lý các khu, cụm công nghiệp, LNTT.
Các LNTT chưa nhận được sự quan tâm giúp đỡ có hiệu lực của Nhà nước cũng
như các ngành có liên quan về thông tin, công nghệ, tiếp cận thị trường nên hiệu quả sản
xuất kinh doanh của LNTT còn thấp.
Hệ thống chính sách cho LNTT chưa đồng bộ như chính sách tài chính, tín dụng,
đào tạo lao động, công nghệ, bảo hiểm xã hội và chưa có chính sách ưu đãi các nghệ nhân,
chính sách hỗ trợ cho một số sản phẩm quan trọng ở các LNTT.
Chưa có cán bộ chuyên trách theo dõi để tìm cách tháo gỡ khó khăn cho các LNTT.
- Về hỗ trợ của Nhà nước
Khu công nghiệp lớn thuộc tỉnh và Nhà nước quản lý thì tỉnh xây dựng quy hoạch,
xây dựng cơ sở hạ tầng để đón nhận các nhà đầu tư. Cụm công nghiệp, LNTT của các
huyện và xã quản lý thì huyện, xã quy hoạch. Mặc dù, các dự án quy hoạch LNTT của các
huyện đều do tỉnh phê duyệt nhưng suy cho cùng cũng mang tính chủ quan của các huyện,
xã mà không nằm trong hệ thống quy hoạch tổng thể của tỉnh. Vì thế việc hỗ trợ cơ sở hạ
tầng phục vụ LNTT còn tuỳ thuộc vào ngân sách huyện, xã. Huyện, xã nào có nguồn thu,
có ngân sách lớn thì hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho làng nghề, các xã còn lại vận dụng chủ
trương đổi đất lấy cơ sở hạ tầng mà xây dựng lên. Điều đó lại tuỳ thuộc vào vị trí địa lý
của từng xã mà giá trị đất đai có khác nhau, dẫn đến nguồn thu của từng địa phương
cũng khác nhau, do đó cơ sở hạ tầng cho LNTT xây dựng lên cũng khác nhau. Huyện
Tân Châu có 2 làng nghề được công nhận là LNTT là tơ lụa Tân Châu và dệt thổ cẩm
Châu Phong. Huyện có vị trí địa lý thuận lợi, đầu mối giao lưu với các tỉnh và nước bạn
Campuchia cả đường thuỷ và bộ, đất đai có giá trị tương đối cao, nên việc thực hiện đổi
đất lấy cơ sở hạ tầng thực hiện đạt hiệu quả cao. Huyện đầu tư, hỗ trợ xây dựng cơ sở
hạ tầng khang trang cho các làng nghề như hệ thống đường giao thông, thông tin liên
lạc, điện, nước sạch, giáo dục đào tạo và y tế …
Thông qua khảo sát một số LNTT ta thấy việc hỗ trợ cơ sở hạ tầng của tỉnh đối với
LNTT còn ít và không đồng bộ. Việc phát triển các dịch vụ như tiêu thụ sản phẩm, cung
cấp vật tư, dịch vụ du lịch, văn hoá, thông tin, tài chính … chủ yếu là do các hộ gia đình,
các HTX đảm nhiệm và hoạt động một cách tự phát thiếu tổ chức, thiếu quy hoạch.
- Tổ chức các lớp đào tạo nghề nâng cao trình độ dân trí
Công tác đào tạo nghề trong các làng nghề chủ yếu là truyền nghề, người thợ vừa
làm vừa học kinh nghiệm, học kiến thức của người thợ cả hay nghệ nhân. Phương pháp
đào tạo trong làng nghề là cầm tay chỉ việc, là truyền khẩu, vừa học vừa làm. Trong những
năm gần đây Sở Công nghiệp có tổ chức cho một số cơ sở đào tạo nghề theo chương trình
Khuyến công của tỉnh, nhưng chủ yếu đào tạo cơ khí, sửa chữa điện tử, chăn nuôi trồng
trọt hoặc may mặc để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh như Bình
Dương, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh; công tác đào tạo phục vụ cho các LNTT còn
hạn chế đến nay chỉ mới có hai lớp về sản xuất rập chuột.
Nghề TTCN đem lại nguồn thu lớn và chủ yếu cho các gia đình trong LNTT. Do
đặc điểm ngành nghề là sử dụng lao động thủ công trong gia đình và thuê mướn bên ngoài,
đồng thời vì lợi ích của mỗi gia đình nên tình trạng thất học của các em còn nhiều. Mặc dù,
Nhà nước thực hiện chủ trương phổ cập hết chương trình tiểu học, địa phương hỗ trợ xây
dựng trường học nhưng thiếu hỗ trợ chính sách khuyến khích giáo dục và đào tạo nên tình
trạng trẻ em thất học còn diễn ra.
- Về bảo vệ môi trường tự nhiên
Hiện nay việc tác động của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc xử lý các chất
thải tại LNTT vẫn còn hạn chế, chưa chú ý quan tâm thực sự. Bởi vậy, tình trạng làm ô
nhiễm môi trường, tác động ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người lao động trong làng nghề
và cộng đông dân cư. Theo thông tin từ Sở Tài nguyên và Môi trường thì hiện nay có trên
7.000 cơ sở sản xuất lớn nhỏ trong toàn tỉnh. Do vậy, chỉ tham mưu cho các cấp biện pháp
quản lý môi trường cũng đã không kham nổi, còn không thể cử cán bộ quản lý môi trường
đi vận động hay kiểm tra vệ sinh môi trường thường xuyên. Mặt khác, tình trạng ô nhiễm
càng khó hạn chế khi có không ít lãnh đạo địa phương chưa nghiêm túc trong việc chỉ đạo
thực hiện các quy định cũng như xử lý các vi phạm về quản lý môi trường trên địa bàn
mình quản lý.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.3.1. Những đóng góp nổi bật
- Công tác quản lý nhà nước về LNTT ở An Giang đã góp phần quan trọng trong đổi
mới, hoàn thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy các cơ sở sản xuất, hộ gia đình LNTT phát
triển. Nhiều biện pháp, chính sách của Nhà nước đã triển khai trên thực tế đã tạo niềm tin của
nhân dân trong phát triển LNTT.
- Đã có quan điểm chỉ đạo của Tỉnh uỷ về khôi phục, phát triển làng nghề truyền
thống; các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh, huyện đã triển khai nhiều biện pháp như:
tiến hành quy hoạch cụm làng nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và nhiều biện pháp
hỗ trợ khác giúp LNTT phát triển.
- LNTT của An Giang khá đa dạng, phong phú và có lịch sử phát triển khá dài. Trải
qua các giai đoạn thăng trầm nhưng đến nay vẫn giữ được những sản phẩm và làng nghề
có thương hiệu trong vùng và trong nước, đang từng bước vươn ra thị trường quốc tế.
- Đến nay An Giang có 29 làng nghề, trong đó có 18 LNTT, có 3 HTX và 5.862 hộ
gia đình thu hút 16.077 lao động. Giá trị sản xuất đạt hơn 182 tỷ đồng chiếm khoảng 9%
giá trị sản xuất công nghiệp nông thôn. Các cơ sở sản xuất, hộ gia đình trong LNTT đã chủ
động đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng
hoá các mặt hàng truyền thống như: dệt lụa, dệt thổ cẩm, mộc trạm trổ, đóng xuồng ghe,
rập chuột, … nhờ đó, bước đầu đã tạo được khí thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, thúc đẩy các ngành kinh
tế cùng phát triển.
2.3.2. Mặt hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, về vốn sản xuất
Đối với các LNTT, vốn cho sản xuất là vấn đề đang được đặt ra. Quy mô vốn của
các hộ, cơ sở trong các LNTT nhỏ vì thế các cơ sở, các hộ sản xuất trong các LNTT luôn
trong tình trạng thiếu vốn. Do thiếu vốn nên các cơ sở, hộ gia đình sẽ không dám mạnh
dạn phát triển mở rộng sản xuất, ký kết các hợp đồng lớn, các hộ gia đình sẽ không dám
theo nghề triệt để mà phải bám vào ruộng đất nông nghiệp nói cách khác thiếu vốn khiến
cho LNTT vẫn phải lệ thuộc vào nông nghiệp.
LNTT thiếu vốn là do vốn của LNTT được huy động từ nhiều nguồn, trong đó
nguồn vốn tự có là chủ yếu. Song nguồn vốn này lại phụ thuộc vào sự tích luỹ từ thu nhập
của các hộ, các cơ sở sản xuất trong LNTT, mà thu nhập các hộ, các cơ sở sản xuất nhìn
chung chưa cao lắm. Đối với vốn tín dụng từ ngân hàng, các hộ, cơ sở sản xuất khó tiếp
cận bởi không đủ tài sản thế chấp để vay, thủ tục vay vẫn còn phiền hà, thời hạn cho vay
ngắn. Đối với nguồn vốn vay của tư nhân thì lãi suất vay quá cao, lượng vay ít khó đáp
ứng được yêu cầu của sản xuất. Đối với nguồn vốn hỗ trợ theo chương trình của Nhà nước
còn quá ít. Mặc dù, hiện nay Nhà nước có các quỹ quốc gia giải quyết việc làm, xoá đói
giảm nghèo, quỹ hỗ trợ dân tộc theo chương trình 135 của Chính phủ, … đã cho vay ưu
đãi song vẫn còn hạn hẹp trong khi nhu cầu vay vốn của các hộ, cơ sở sản xuất là rất lớn.
Thứ hai, về lao động
Số lượng lao động làm nghề trong các LNTT gia tăng nhưng trình độ văn hoá, trình
độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề còn thấp, hay số lượng lao động ngày càng tăng lên
nhưng nhìn chung chất lượng lao động còn thấp. Năng lực quản lý và kinh nghiệm sản
xuất kinh doanh của các hộ gia đình, cơ sở còn bị hạn chế về nhiều mặt. Hầu hết các chủ
hộ, chủ cơ sở sản xuất chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức về pháp luật, chính sách
kinh tế của các LNTT. Nguyên nhân do:
- Phương thức truyền nghề trong các LNTT chủ yếu là theo phương thức truyền
kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình sản xuất chứ chưa được đào tạo một cách bài bản.
Mặt khác, trình độ hiểu biết của người thợ thủ công trong tỉnh về giá trị thẩm mỹ để tạo ra
được sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tính hấp dẫn cạnh tranh trên thị trường còn rất yếu.
Cần phải có thời gian để có một đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi tạo ra được sản phẩm có tính
cạnh tranh cao. Đây là một thách thức lớn khi tỉnh dự kiến tập trung đi trước một bước về
phát triển hệ thống sản phẩm, mẫu mã nhằm tạo một bước ngoặt trong chiến lược phát
triển LNTT của tỉnh trong thời gian tới.
- Nhà nước chưa quan tâm đúng mức tới khu vực kinh tế nông thôn nói chung và
LNTT nói riêng về đầu tư phát triển văn hoá, đầu tư cho công tác đào tạo tay nghề cho
người lao động, chưa mở các lớp tập huấn để trang bị cho các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất
về kiến thức quản trị kinh doanh, cách quản lý cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Do
đó, dẫn đến tình trạng người thợ không đủ trình độ để tiếp thu công nghệ hiện đại và kỹ
thuật truyền thống cũng không được kế tục nên chất lượng sản phẩm của LNTT không
đảm bảo, không cạnh tranh được trên thị trường, còn đối với chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất
chưa có đủ kiến thức để áp dụng các phương pháp quản lý sản xuất, quản lý chất lượng sản
phẩm tiên tiến nên năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm còn cao.
Thứ ba, trình độ công nghệ kỹ thuật thấp, sự đổi mới công nghệ và mẫu mã sản
phẩm diễn ra chậm
Trong những năm vừa qua có khá nhiều cơ sở sản xuất ở các LNTT trên địa bàn
tỉnh đã tích cực đổi mới thiết bị công nghệ. Song về cơ bản trình độ kỹ thuật công nghệ ở
các LNTT còn thấp kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa hệ thống, chưa cơ bản. Việc đổi mới
này chỉ dừng lại trọng điểm một số LNTT và tập trung ở một số khâu nhất định, chưa chú
trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, an toàn lao động, mẫu mã sản phẩm thay đổi chậm.
Nguyên nhân của tình hình trên là do:
- Do thói quen dẫn đến sự bảo thủ về kỹ thuật, đồng thời hình thức tổ chức sản xuất
trong các LNTT chủ yếu là dưới hình thức hộ gia đình, quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên
người sản xuất không đủ điều kiện lắp đặt dây chuyền sản xuất đồng bộ mà phần lớn chỉ là
thiết bị chắp vá, tự chế hoặc mua lại thiết bị cũ của một số nước như Đài Loan, Trung
Quốc nên chất lượng sản phẩm không cao, chi phí sửa chữa thường xuyên lớn.
- Do trình độ văn hoá của người lao động còn thấp nên không tiếp thu được trình độ
kỹ thuật tiên tiến nên hạn chế việc trang bị máy móc thiết bị.
- Trong các LNTT, những thợ kỹ thuật chuyên đi vào nghiên cứu, sáng tạo mẫu mã
thực sự còn ít và hạn chế chưa được đào tạo cơ bản, chủ yếu do sự tìm tòi, tự học của
người lao động và chủ cơ sở sản xuất nên mẫu mã chậm thay đổi, do đó hạn chế khả năng
cạnh tranh của sản phẩm thị trường trong và ngoài nước.
Thứ tư, về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là các dịch vụ phục vụ phát triển còn yếu, chưa đáp
ứng yêu cầu của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, các đường giao thông nông thôn tuy
được nâng cấp mở rộng nhưng việc đi lại còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng
xa, các cơ sở phục vụ thương mại như chợ, cửa hàng, kho tàng, bến bãi, … ở nông thôn phát
triển còn chậm. Trong các LNTT các cơ sở sản xuất thường nằm xen kẽ trong các khu dân cư
nên việc phát triển sản xuất và xử lý môi trường gặp nhiều khó khăn. Trong những năm qua,
ngành giao thông đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông
thôn bằng các nguồn vốn khác nhau như: mở 5 tuyến đường vào các LNTT, 4 tuyến giao
thông miền núi kết hợp du lịch … nhưng việc cải tạo cơ sở hạ tầng đòi hỏi rất nhiều vốn, kinh
phí đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các ngành thương mại, giao thông, du lịch, các ngành có
liên quan để có kế hoạch triển khai phù hợp, sự đóng góp của các hộ gia đình, chủ cơ sở sản
xuất trong LNTT để phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Hàng năm, An Giang phải chịu
ảnh hưởng của nạn lụt bão trong thời gian 3 đến 4 tháng gây rất nhiều khó khăn trong lưu
thông và sản xuất nói chung và cho LNTT nói riêng.
Thứ năm, về thị trường tiêu thụ
Thị trường tiêu thụ trong các LNTT hiện nay chủ yếu vẫn là thị trường tại địa
phương và các tỉnh trong khu vực. Về thị trường nước ngoài của sản phẩm LNTT chủ yếu
là xuất khẩu sang thị trường các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia … nhưng với
khối lượng chưa được nhiều bởi mẫu mã các sản phẩm trong các LNTT còn đơn điệu, hơn
nữa sản xuất phần lớn chưa đủ khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn, một số sản phẩm chậm
đổi mới, cải tiến trong khi các nước nhập khẩu lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng sản phẩm
cũng như hình thức bao bì, đóng gói và điều kiện vệ sinh công nghiệp.
Mặt khác, hệ thống tiêu thụ sản phẩm trong LNTT của An Giang nói chung gồm
nhiều thành phần tham gia, bắt đầu từ khâu sản xuất nguyên vật liệu và kết thúc khi sản
phẩm đến tay khách hàng. Có thể thấy trong hệ thống tiêu thụ, các thành phần trung gian,
thương nhân đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo luồng phân phối tiêu thụ ổn định
ở các vùng sản xuất phân tán, đặc biệt ở các LNTT. Trong điều kiện thị trường ổn định về
giá cả thì việc tiêu thụ sản phẩm, nếu giảm được càng nhiều thành phần trung gian tham
gia trong từng kênh tiêu thụ của sản phẩm thì thu nhập của các hộ thu gom, các hộ, cơ sở sản
xuất trong LNTT sẽ tăng lên. Nhìn chung tuỳ theo biến động về nhu cầu thị trường, các thành
phần trung gian sẽ điều tiết giá cả kinh doanh để thu được lợi nhuận có lợi trong kinh doanh.
Đặc biệt, trong điều kiện sản xuất phân tán, giao thông cũng như thông tin chưa được phát
triển, việc sản xuất kinh doanh của phần lớn các cơ sở sản xuất ở các LNTT còn phụ thuộc
nhiều vào hoạt động của các thương nhân trung gian kể cả trong việc xuất khẩu.
Để có thể đảm bảo được sự phát triển bền vững của LNTT của tỉnh, cần phải có hệ
thống quản lý, phân tích và phổ biến thông tin về nguồn nguyên liệu, thị trường trong và
ngoài nước, thị hiếu về mẫu mã và nhu cầu thị trường cho các cơ sở sản xuất và hộ gia
đình để giảm bớt các hình thức trung gian không cần thiết trong kênh phân phối nhằm đảm
bảo các lợi ích tương đối công bằng của các bên tham gia trong quá trình sản xuất, lưu
thông và tiêu thụ sản phẩm, giảm giá thành trong hệ thống phân phối và đẩy mạnh sản
xuất.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
3.1.1. Xác định phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Mục tiêu phát triển LNTT hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp - TTCN là để
phát triển kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội của nông nghiệp nông thôn. Đó là
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tỉnh An Giang phát triển LNTT hay xây
dựng các khu, cụm công nghiệp - TTCN nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, thu
hút lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, làm cơ sở nền tảng để phát triển công
nghiệp. Quá trình đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn và cũng chính là thực hiện quá trình đô thị hoá nông thôn của tỉnh. Muốn
thực hiện có hiệu quả việc phát triển LNTT hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp -
TTCN theo hướng bền vững theo các hướng sau:
- Xây dựng quy hoạch phát triển LNTT hay xây dựng các cụm công nghiệp LNTT,
khu - cụm công nghiệp - TTCN, của từng huyện, xã cần gắn với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đi đôi với phát triển thương mại, dịch vụ. Đây là khâu quan
trọng cần phải đi trước, nó ảnh hưởng và quyết định đến sự phát triển lâu dài, bền vững
của LNTT hay các cụm công nghiệp LNTT, khu - cụm công nghiệp - TTCN, cũng như bảo
vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Khi xây dựng LNTT hay xây dựng các cụm công nghiệp
LNTT, khu - cụm công nghiệp - TTCN là để hạn chế ô nhiễm môi trường và đạt hiệu quả
kinh tế cao.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động của LNTT các cụm công nghiệp
LNTT, khu - cụm công nghiệp - TTCN. Để quản lý LNTT, các cụm công nghiệp LNTT,
khu - cụm công nghiệp - TTCN có hiệu quả phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước
và chức năng quản lý nội bộ LNTT các cụm công nghiệp LNTT, khu - cụm công nghiệp -
TTCN. Trong đó, cần phải phân công, phân cấp quản lý: ai làm chức năng quản lý nhà
nước, ai làm chức năng quản lý nội bộ để không chồng chéo nhau.
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách theo hướng tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển LNTT, các cụm công nghiệp LNTT, khu - cụm
công nghiệp - TTCN.
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, điện,
nước, bưu chính viễn thông, trường, trạm y tế … nhằm tạo điều kiện để LNTT, các cụm
công nghiệp LNTT, khu - cụm công nghiệp - TTCN mở rộng quy mô sản xuất, chuyển
giao công nghệ, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Tạo điều kiện
LNTT, các cụm công nghiệp LNTT, khu - cụm công nghiệp - TTCN mở rộng giao lưu sản
xuất, mở rộng thị trường cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Việc quy hoạch xây dựng LNTT, các cụm công nghiệp LNTT, khu - cụm công
nghiệp - TTCN phải tuỳ thuộc vào từng ngành nghề khác nhau. Những ngành nghề nào
không cần nhiều diện tích, không gây ô nhiễm môi trường thì không nhất thiết phải hình
thành cụm công nghiệp LNTT. Những ngành nghề nào cần nhiều diện tích, gây ô nhiễm
môi trường thì nhất thiết phải xây dựng cụm công nghiệp LNTT. Khi quy hoạch xây dựng
cụm công nghiệp LNTT phải tính toán đầy đủ diện tích cần thiết cho một hộ gia đình để
mở rộng sản xuất, tránh tình trạng giải quyết diện tích một hộ gia đình sản xuất quá hẹp,
không thể mở rộng sản xuất dẫn đến biến cụm công nghiệp LNTT trở thành khu dân cư.
Xây dựng cụm công nghiệp LNTT phải quy hoạch khu vực sản xuất, khu vực dịch vụ cung
cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Khu tiêu thụ sản phẩm có thể gắn liền với khu
dân cư và phải quy hoạch xây dựng thống nhất theo một mẫu mã, kiến trúc nhất định của
cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo tổng thể kiến trúc hài hoà, đảm bảo môi trường
xanh - sạch - đẹp, gắn liền với hoạt động văn hoá, du lịch. Có như vậy mới thực hiện được
chủ trương xây dựng mô hình du lịch LNTT của tỉnh góp phần tăng trưởng kinh tế bền
vững.
- Phát triển cụm công nghiệp LNTT phải gắn với việc giải quyết chế độ chính sách
cho những hộ có diện tích đất bị thu hồi phục vụ cho xây dựng cụm công nghiệp LNTT
như cho họ làm dịch vụ hoặc tuyển dụng vào làm việc trong các cụm công nghiệp LNTT.
Phát triển cụm công nghiệp LNTT phải gắn với việc sử dụng lao động nông nghiệp của
làng nghề, xã nghề hoặc các xã xung quanh cụm công nghiệp LNTT nhằm giải quyết việc
làm cho người nông dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp
nông thôn.
- Phát triển LNTT phải theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu, mô hình tổ chức
sản xuất, định hướng ưu tiên công nghệ tiên tiến, hiện đại kết hợp với cổ truyền trong các
LNTT.
3.1.2. Chú trọng phát triển làng nghề truyền thống nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Cần phải nhận thức đúng đắn vị trí của LNTT trên địa bàn tỉnh An Giang trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một bộ phận
quan trọng của chiến lược CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
LNTT nông thôn giữ một vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
mô hình nông thôn mới văn minh, hiện đại. Đặc biệt, sự phát triển LNTT nông thôn còn là
một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH là quy luật tất yếu
khách quan trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế nhưng đây là một quá trình lâu dài với
nhiều nội dung phức tạp như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế. Nội
dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo ngành kinh tế là thúc đẩy cơ cấu kinh tế
nông thôn từ thuần nông chuyển sang cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Đây là con đường tất yếu để phát triển một cách toàn diện nền kinh tế nông thôn, tạo điều kiện
khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có của địa phương và từng bước hình thành cơ cấu
kinh tế nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH, sự
phát triển của các LNTT đóng một vai trò rất quan trọng, bởi nó tạo ra những tiền đề hỗ trợ
cho sự phát triển nền đại công nghiệp và các ngành công nghiệp. Mặt khác, các LNTT ở
nông thôn còn là cầu nối giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp, giữa khu
vực nông thôn với thành thị, giữa tính truyền thống với sự hiện đại. Do vậy, sự phát triển
của các LNTT ở nông thôn là quá trình vận động, biến đổi để thích ứng dần với những
điều kiện mới.
Nhận thức được vai trò quan trọng của LNTT nông thôn, những năm qua Đảng ta
đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển các LNTT nông thôn nhất là LNTT sản xuất
hàng xuất khẩu, kinh doanh dịch vụ gắn với du lịch và đã ban hành nhiều chính sách nhằm
khôi phục và khuyến khích phát triển các LNTT ở nông thôn.
3.1.3. Phát triển làng nghề truyền thống trong mối quan hệ liên kết, hỗ trợ,
chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các địa phương trong và ngoài tỉnh
LNTT gắn liền với máy móc cũ, lạc hậu, thô sơ và lao động thủ công. Nhưng sản
phẩm LNTT gắn liền với nét văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc và gắn liền với
kỹ nghệ tinh xảo của những bàn tay tài hoa do các nghệ nhân hay người thợ tạo nên. Phát
triển LNTT là mở rộng quy mô sản xuất của các LNTT, sử dụng công nghệ hiện đại, áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất hàng loạt. Do đó, để kết hợp hài hoà giữa tính hiện
đại và kỹ thuật truyền thống trong việc tạo ra sản phẩm LNTT cần phải nghiên cứu cải tiến
áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại vào khâu nào, giai đoạn nào của quá trình
sản xuất; còn khâu nào, thao tác nào phải sử dụng lao động thủ công, kỹ thuật truyền
thống. Có như vậy mới đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
3.1.4. Ưu tiên vị trí mặt bằng sản xuất thuận lợi, quy hoạch diện tích đất khu,
cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cho phát triển làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh
Công tác quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp LNTT là khâu đầu tiên phải được
coi trọng vì khâu này ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự phát triển lâu dài, bền
vững của cụm công nghiệp LNTT. Mục tiêu thành lập cụm công nghiệp LNTT là để hạn
chế ô nhiễm môi trường và phát triển kinh doanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi quy
hoạch xây dựng cụm công nghiệp LNTT phải thực hiện một số nguyên tắc sau:
- Những ngành nào, sản phẩm nào tăng trưởng mà không ô nhiễm môi trường như
thêu ren, mây tre đan, se nhang, chổi bông cỏ … thì không nhất thiết phải thành lập cụm
công nghiệp LNTT.
- Những ngành nào, sản phẩm nào làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu thì kiên
quyết thành lập cụm công nghiệp LNTT để tách khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư. Cần
tránh tình trạng biến cụm công nghiệp LNTT thành một khu dân cư mới. Cụm công nghiệp
LNTT phải có hệ thống xử lý chất thải, phải có hệ thống cây xanh, phải quy hoạch xây
dựng thống nhất theo một mô hình kiến trúc tạo nên một tổng thể hài hoà có môi trường
xanh, sạch, đẹp.
- Quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp LNTT phải chú ý kết hợp:
+ Phát triển ngành nghề trong chiến lược lâu dài.
+ Phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
+ Sử dụng đất đai của tỉnh một cách có hiệu quả.
+ Phát triển các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ trên địa
bàn tỉnh.
3.1.5. Phát triển làng nghề truyền thống sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ
phục vụ du lịch gắn các tour du lịch với các làng nghề truyền thống của tỉnh
Cùng với việc xây dựng cụm công nghiệp LNTT, làng nghề mới, cần bảo tồn không
gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá, sản xuất của các LNTT. Nghĩa là, khi xây dựng cụm
công nghiệp LNTT cần phải bảo tồn, lưu giữ lại một bộ phận môi trường, cảnh quan, các hoạt
động sản xuất và sinh hoạt văn hoá của LNTT du lịch. Như vậy, không chỉ có những chủ
trương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển cụm công nghiệp LNTT mà còn phải có chính
sách hỗ trợ nhằm bảo tồn không gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá của LNTT tiêu biểu.
Trong cụm công nghiệp LNTT cần xây dựng trung tâm triển lãm, hội chợ nhằm
giới thiệu, quảng bá sản phẩm và văn hoá LNTT. Trên phạm vi toàn tỉnh cần xây dựng
trung tâm hội chợ triển lãm, hội chợ thương mại, du lịch, … để quảng bá, giới thiệu các
sản phẩm thủ công, những kết quả, thành tựu bảo tồn và phát huy văn hoá LNTT. Cần xây
dựng một phòng bảo tàng trưng bày, giới thiệu lịch sử, văn hoá LNTT.
Xây dựng và phát triển du lịch LNTT gắn với khu di tích lịch sử, di sản văn hoá của
tỉnh tạo nên một quần thể các điểm du lịch, thu hút du khách trong và ngoài nước góp phần
tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
3.2.1. Nhóm giải pháp quản lý nhà nước
3.2.1.1. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho làng nghề truyền
thống
Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, tồn tại và phát
triển LNTT nông thôn. Tình trạng thiếu hụt, lạc hậu, yếu kém của hệ thống công trình giao
thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường, trường
học, trạm y tế … ở khu vực nông thôn trong tỉnh nói chung cũng như trong các LNTT nói
riêng đang tạo ra không ít trở ngại, khó khăn cho sự khôi phục và phát triển các LNTT.
Bên cạnh các giải pháp tình huống đang được nhiều địa phương trong tỉnh thực hiện một
cách năng động, linh hoạt, cần thiết phải có giải pháp tổng thể, đồng bộ về phát triển cơ sở
hạ tầng nông thôn trong tỉnh nói chung và trong các LNTT nói riêng.
Thứ nhất, phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn
Sự phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn trong vùng có liên quan đến vấn
đề cung cấp dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho các LNTT cũng như mở rộng thị trường nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hệ thống đường giao thông nông thôn khá phát
triển, hầu hết các xã có hệ thống đường giao thông nông thôn cho ôtô đi lại được. Hệ thống
đường giao thông nông thôn của tỉnh đã vươn tới các xóm, ấp hình thành mạng lưới khá
hoàn chỉnh với chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên, khó khăn và yếu kém của hệ thống
đường giao thông nông thôn tỉnh An Giang nói chung và trong các LNTT nói riêng vẫn
còn nhiều. Trước hết là giao thông liên xã, liên ấp xuống cấp nghiêm trọng, những con
đường xuống xã, xuống ấp vừa hẹp lại vừa xấu nhất là vào mùa mưa bão việc đi lại vận
chuyển vật liệu, hàng hoá càng khó khăn hơn. Thêm vào đó, do ngân sách địa phương và
nguồn vốn đóng góp của dân trong các LNTT có hạn nên việc nâng cấp, cải tạo, sửa chữa
hệ thống đường giao thông nông thôn trong các làng, xã còn hạn chế.
Để phát triển hệ thống đường giao thông trong LNTT nông thôn trong tỉnh cần
phải:
- Đẩy mạnh khảo sát thiết kế và quy hoạch phát triển đồng bộ hệ thống công trình
giao thông, bao gồm cả hệ thống đường sá đi lại trong từng LNTT và hệ thống cầu cống,
bến bãi bên ngoài LNTT, hệ thống cấp thoát nước để xử lý triệt để chất thải trong LNTT.
- Nguồn vốn để xây dựng hệ thống đường giao thông bên cạnh việc huy động đóng góp
trực tiếp, tại chỗ của dân cư và các cơ sở sản xuất trong các LNTT từ nguồn ngân sách của địa
phương các cấp, Nhà nước cần tăng cường đầu tư trực tiếp từ ngân sách trung ương và các
khoản đầu tư tín dụng ưu đãi khác.
Thứ hai, phát triển mạng lưới cung cấp điện
Ở các LNTT nông thôn An Giang hiện nay đã được cung cấp điện phục vụ chiếu
sáng cho đời sống sinh hoạt và sản xuất. Song điện nông thôn vẫn còn một số tồn tại như:
lượng điện phục vụ cho sản xuất của LNTT vẫn còn thiếu, hệ thống điện và công trình
phân phối điện trong nông thôn cũng như trong LNTT chưa được quy hoạch, thiếu đồng
bộ, giá điện còn cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có giải pháp giải quyết mạng lưới
điện nông thôn để các LNTT ổn định sản xuất kinh doanh, cụ thể:
- Tiếp tục mở rộng, hoàn thiện các công trình mạng lưới điện và phân phối điện
quốc gia đến tận các LNTT nông thôn, đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho việc quy hoạch, cải
tạo đồng bộ và tiêu chuẩn hoá mạng lưới điện hạ thế đến từng hộ dân và cơ sở sản xuất
kinh doanh.
- Nhà nước cần có chính sách và biện pháp can thiệp đối với giá điện sản xuất ở
nông thôn tạo sự bình đẳng về chi phí năng lượng đầu vào so với thành thị. Đồng thời, Nhà
nước tạo điều kiện khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các LNTT sử dụng
điện thay thế các nguồn năng lượng khác gây ô nhiễm môi trường như than, củi, trấu …
Thứ ba, phát triển hệ thống thông tin liên lạc
Mạng lưới thông tin liên lạc trong các LNTT nông thôn trong tỉnh nhìn chung vẫn
còn thiếu và lạc hậu. Để phát triển mạng lưới thông tin liên lạc phục vụ sản xuất kinh
doanh trong các LNTT cần phải:
- Tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ thuật của các
trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, xã, thị trấn; đồng thời mở mang mạng lưới thông tin
xuống tận các xã, ấp, cụm dân cư làm cho thông tin về thị trường, giá cả được tiếp cận nhanh
nhất đối với các LNTT trong tỉnh.
- Tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên lắp đặt, thuê bao điện thoại cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh trong các LNTT có thể lắp đặt nhiều điện thoại phục vụ cho sản xuất kinh
doanh.
Thứ tư, cải tạo, nâng cấp cơ sở trường học, trạm y tế, nhà văn hoá
Trong các LNTT ở nông thôn hệ thống trường học, trạm y tế, nhà văn hoá trong
thời gian tới cần phải kết hợp giữa đầu tư của ngân sách Nhà nước với sự đóng góp của
nhân dân để cải tạo nâng cấp hệ thống cơ sở trường học, trạm y tế tốt hơn nữa. Đặc biệt là,
các địa phương tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị cho các cơ sở hướng
nghiệp, dạy nghề, cung cấp kiến thức kinh doanh và chuyển giao công nghệ phù hợp với
tình hình hiện nay cho khu vực nông thôn nói chung và các LNTT nói riêng.
3.2.1.2. Khai thông mối quan hệ liên kết kinh tế giữa làng nghề truyền thống và
thị trường tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh
Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của LNTT trên địa bàn tỉnh cần phải:
- Tích cực tạo điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở ký kết các
hợp đồng buôn bán nhằm tạo ra một thị trường nước ngoài có tính chất lâu dài và ổn định.
Trên cơ sở Nhà nước định hướng khuyến khích các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình của
LNTT và đặc biệt là những làng nghề mới sản xuất những sản phẩm mà thị trường có nhu
cầu. Trước mắt, thành lập các tổ chức và có đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu, dự
báo thị trường về sản phẩm của LNTT trong và ngoài nước.
Cần mở rộng hệ thống thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin thị trường, giá cả cho
các cơ sở sản xuất nhằm giúp các cơ sở sản xuất trong các LNTT nghiên cứu xử lý thông
tin thị trường có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như mẫu mã, kiểu dáng, loại
sản phẩm có khả năng sẽ được khách hàng chấp nhận. Trên cơ sở đó, các cơ sở sản xuất
trong các LNTT hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, chiến lược mặt hàng, thay đổi
mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Mặt
khác, giúp các LNTT giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại chúng như các
ấn phẩm về nghề, LNTT, phim ảnh truyền hình, quảng cáo, giúp các LNTT ứng dụng công
nghệ thông tin vào việc tiêu thụ sản phẩm như nối mạng Internet để quảng cáo sản phẩm ra
nước ngoài.
- Tạo điều kiện cho người sản xuất trong các LNTT được xuất khẩu trực tiếp sản
phẩm của mình không qua khâu trung gian. Đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu hàng
hoá, mở rộng phạm vi quỹ hỗ trợ xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu ở các LNTT trong
vùng để khuyến khích các cơ sở tìm kiếm thị trường nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Tạo điều kiện cho các nghệ nhân, các LNTT tham gia gia công cho các doanh
nghiệp ở đô thị, khu - cụm công nghiệp - TTCN để tạo điều kiện cho họ quảng cáo tiêu thụ
các sản phẩm LNTT tại các đô thị lớn, trung tâm công nghiệp lớn. Đây là hướng đi quan
trọng giúp cho LNTT mở rộng thị trường tiêu thụ từ đó có khả năng phát triển LNTT một
cách bền vững.
- Hình thành hệ thống chợ làng tại các LNTT kết hợp với xây dựng các trung tâm
thương mại cụm xã để thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá, bởi lẽ chợ làng mà người sản xuất
trong các LNTT phát hiện ra nhu cầu của người tiêu dùng trong vùng để đáp ứng một cách
tốt nhất trong điều kiện có thể được.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các LNTT
mở các đại lý, các cửa hàng, quầy hàng giới thiệu sản phẩm tại các đô thị và các tụ điểm
thương mại ở các địa phương khác nhau. Đồng thời, phải tạo ra được mối liên kết giữa các
đơn vị sản xuất kinh doanh trong các LNTT với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước, trong
đó các doanh nghiệp này sẽ đứng ra làm đầu mối thu mua - bao tiêu sản phẩm cho các cơ
sở sản xuất kinh doanh ở các LNTT trên tinh thần hợp tác, liên kết lâu dài đó chính là biện
pháp tạo thị trường ổn định, lâu dài cho các LNTT.
- Cần phải có những biện pháp đồng bộ hiệu quả trong công tác quản lý thị trường,
chống hàng giả, trốn thuế, có chính sách điều tiết nhập khẩu hợp lý để khuyến khích và
bảo vệ sản xuất cho các LNTT.
- Phát triển mạnh du lịch để thu hút du khách nước ngoài đến địa phương tham quan
du lịch, tạo cơ hội cho các LNTT tham gia xuất khẩu tại chỗ. Bởi vì, khách nước ngoài đến
Việt Nam họ thường tìm tòi để thưởng thức vẻ đẹp của dân tộc, những nét văn hoá đặc sắc
độc đáo của dân tộc. Những vẻ đẹp độc đáo đó được thể hiện rõ nét trong sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của những LNTT như dệt thổ cẩm (Chăm, Khmer), dệt lụa, mộc dân dụng,
mộc chạm trổ mỹ nghệ, …
3.2.1.3. Thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển làng nghề
truyền thống
- Chính sách thị trường
Một là, về thị trường sản phẩm, hàng hoá
Thị trường sản phẩm hàng hoá vẫn là thị trường quan trọng nhất của LNTT An
Giang. Trong đó các mặt hàng mộc dân dụng, nông sản … là những mặt hàng có khối
lượng tiêu thụ lớn. Ngoài ra, các mặt hàng tranh thêu, gạch ngói, nông cụ, rập chuột, quần
áo may sẵn … vẫn có nhu cầu ngày càng tăng do đời sống của nhân dân được cải thiện.
Các sản phẩm mỹ nghệ trang trí cho nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội thời gian tới vẫn tiếp
tục phát triển. Song những mặt hàng này đang chịu áp lực của hàng nhập lậu tràn lan. Vì vậy,
một mặt cần nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của LNTT nhờ các biện pháp: đầu tư,
đổi mới công nghệ, tiếp thị, tìm thị trường, liên doanh, liên kết, tăng cường tổ chức sản xuất và
quản lý sản phẩm. Mặt khác, phải phát triển các hình thức gia công hợp tác làm “vệ tinh” cho
doanh nghiệp Nhà nước ở đô thị để tạo ra thị trường lớn và ổn định. Tạo mọi điều kiện cho
các thành phần kinh tế trong LNTT thay đổi mẫu mã của sản phẩm, nắm vững thị hiếu của
người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Đồng thời, có biện pháp kích cầu cũng như nâng cao mức
thu nhập để tăng sức mua của dân. Kiên quyết ngăn chặn hàng nhập lậu, khuyến khích tiêu
dùng hàng nội địa. Phát triển mạnh các trung tâm thương mại, hình thành các tụ điểm thương
mại, thị trấn, thị tứ, chợ ở nông thôn.
Hai là, về thị trường du lịch
Lượng khách trong và ngoài nước du lịch đến An Giang ngày một tăng nhất là các
ngày lễ hội của địa phương như lễ hội Bà Chúa xứ Núi Sam, lễ hội dân tộc Chăm, Khmer …
họ thường mua những sản phẩm như tơ lụa, thổ cẩm, tranh thêu, khô, mắm các loại … do đó
cần phải phát triển mẫu mã mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức mua của khách du
lịch. Việc quan trọng hàng đầu là phải có chiến lược phát triển sản xuất phục vụ cho khách du
lịch. Những sản phẩm sản xuất bán ra cho khách du lịch phải có nét đặc thù, tính độc đáo và
đặc sắc mang yếu tố truyền thống Việt Nam từ đó họ sẽ có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm
của LNTT tạo tiền đề cho thị trường xuất khẩu phát triển.
Ba là, thị trường xuất khẩu
Tiềm năng xuất khẩu trong LNTT của tỉnh còn rất lớn và khả quan, song khối lượng
xuất khẩu hiện nay còn nhỏ bé; về lâu dài, xuất khẩu vẫn là thị trường quan trọng. Vấn đề
đặt ra hiện nay là: phải có kế hoạch đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển sản phẩm xuất
khẩu trên thị trường quốc tế. Khác với tính chất của sản phẩm bán cho khách du lịch là
mang đặc tính của truyền thống Việt Nam; sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài cần được
khai thác kỹ lưỡng năng lực truyền thống để tạo ra những sản phẩm mới và có mẫu mã phù
hợp với thị hiếu và tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thích
hợp đối với những nhà sản xuất các mặt hàng truyền thống để họ có cơ hội duy trì phát
triển mặt hàng thông qua việc mở rộng sản xuất, bồi dưỡng tay nghề cho sự nghiệp kế tục
và cải tiến sản phẩm. Đối với các cơ sở sản xuất trong LNTT coi trọng thị trường tiêu thụ
nước ngoài thông qua các cơ quan ngoại thương, ngoại giao để nắm vững thị hiếu tiêu
dùng của từng khu vực, từng nước đối với từng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta và tiến
hành công tác dự báo, dự đoán thị trường nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý;
thường xuyên nghiên cứu sự biến động nhu cầu và thị hiếu khách hàng ở các nước khác
nhau mà cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Chú ý hơn nữa việc phát triển quan hệ với các
loại khách hàng ở những thị trường khác nhau để tạo khả năng mở rộng thị trường. Tiến
hành tìm chọn những bạn hàng nước ngoài để liên doanh, liên kết trong sản xuất sản phẩm
xuất khẩu. Trên cơ sở đó thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý nước ngoài để xây dựng
sản phẩm của Việt Nam trong cách nhìn của người nước ngoài.
Bốn là, thị trường chuyển giao công nghệ
Phát triển cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, sử dụng triệt để
những thành tựu công nghệ trong nước, công nghệ truyền thống, đồng thời khai thác kịp
thời công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kết hợp hài hoà giữa kích thích nhập khẩu công
nghệ với khuyến khích sáng tạo sản xuất, chuyển giao công nghệ trong nước; phát triển
hoạt động tư vấn dịch vụ cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN năng cao năng lực công nghệ
tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Có chính sách đánh thuế thấp hoặc miễn giảm thuế đối với
những máy móc thiết bị có hàm lượng KHCN cao và những máy móc thiết bị nhỏ lẻ sử
dụng trong các LNTT. Do vậy, đi đôi với việc sử dụng đôi bàn tay khéo léo của người thợ
cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống bằng cách dùng máy cơ khí trong các khâu tạo
phôi sơ chế và xử lý nguyên vật liệu …
- Chính sách tài chính tín dụng
Giải pháp tạo vốn và khuyến khích đầu tư cần được ưu tiên theo hướng:
- Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu quả cho SX
kinh doanh ở các LNTT. Để thực hiện tốt vấn đề này cần có trung tâm hỗ trợ tài chính và
bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ này vô cùng to lớn trong việc tạo và nâng cao quy mô SX
được mở rộng và thu hút vốn đầu tư ngày càng nhiều.
- Đa dạng hoá hình thức cho vay vốn đối với LNTT, thay đổi định mức cho vay và
thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở SX kinh
doanh sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Mở rộng hình thức cho
vay tín chấp, cho vay có bảo lãnh đối với hộ nông dân quá nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn
để họ có điều kiện SX kinh doanh. Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản nhưng
vẫn phải đảm bảo an toàn vốn.
- Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong nông thôn. Đó là tín dụng cộng
đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển SX trong LNTT. Các tổ chức tín dụng
nông thôn cần đổi mới thủ tục cho vay vốn, mở rộng quy mô và phạm vi cho vay sao cho
phù hợp với quy mô SX của họ. Đồng thời, có chính sách, biện pháp bảo hiểm vốn, tài sản
cho quỹ tín dụng.
- Trong các LNTT hiện nay đang xuất hiện một số chủ SX kinh doanh do làm ăn
hiệu quả đã trở thành những người có vốn lớn, nắm quyền chi phối toàn bộ quá trình SX
kinh doanh của làng. Số còn lại do nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố thiếu vốn đang
trở thành người làm thuê hoặc con nợ của các ông chủ. Để tránh tình trạng bóc lột quá mức
đối với thợ thủ công, những người nghèo, Nhà nước cần có các hình thức, biện pháp xử lý
nghiêm đối với hiện tượng cho vay nặng lãi, hình thức lừa đảo, chiếm dụng vốn của nhau
nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh trong LNTT.
- Chính sách đầu tư, trước tiên cần ưu tiên vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước để hỗ
trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho LNTT. Sự ưu tiên này cần tập trung vào các
cơ sở SX sử dụng nhiều lao động, SX những mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đối với những mặt
hàng mới SX lần đầu, Nhà nước tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai, kho bãi để khuyến
khích họ đổi mới mẫu mã.
- Chính sách thuế
Để khuyến khích và tạo điều kiện cho LNTT phát triển, chính sách thuế phải trở
thành đòn bẩy kích thích SX và là công cụ điều tiết có hiệu quả của Nhà nước. Đánh thuế
đúng sẽ làm cho người lao động trong LNTT tích cực phát triển SX kinh doanh, tạo thêm
nhiều việc làm mới, nâng cao nguồn thu nhập cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước
cần bổ sung hoàn chỉnh một số vấn đề chính sách thuế theo hướng sau:
- Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hộ
gia đình SX kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới đưa vào SX. Nhưng việc thực
hiện chính sách này cần có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đúng mức, tránh những
hiện tượng tiêu cực xảy ra.
- Để khuyến khích sự đổi mới công nghệ trong LNTT, cần có chính sách miễn giảm
thuế từ 2 - 3 năm đối với cơ sở SX thực hiện áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ
phát triển SX, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhằm tăng thu nhập và tạo việc
làm cho người lao động.
- Trước mắt ưu tiên miễn giảm thuế đối với những LNTT SX hàng xuất khẩu, sử
dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc các cơ sở SX có vệ tinh ở nông thôn. Trong đó,
cần đặc biệt ưu tiên các cơ sở của thương binh, người tàn tật, gia đình chính sách …
- Miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề gắn với việc giải quyết việc làm tại chỗ
cho người lao động, các trung tâm dạy nghề truyền thống và các cơ sở dạy nghề tư nhân.
Các cơ sở này rất cần được miễn giảm thuế để vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng
như sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế. Đồng thời, xoá bỏ các
khoản chi phí và những khoản thu ngoài quy định của pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm
minh những hiện tượng trốn thuế, lậu thuế.
- Nhà nước cần xem xét thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các hộ, các doanh nghiệp
trong LNTT vì các đơn vị này không có được hoá đơn hợp lệ do mua nguyên liệu thu gom,
mua lẻ, chi phí vận tải thuê ngoài và một số vật liệu phụ khác … nếu không có hoá đơn
chứng từ hợp lệ thì bị xử lý theo quy định. Đồng thời, có chính sách ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ, vì điều kiện SX còn lạc hậu, công nghệ
chắp vá nên lãi suất rất thấp.
- Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề cho người
lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng SX ở LNTT cần phải có giải pháp mang tính hệ thống
và đồng bộ theo các hướng sau:
- Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong LNTT. Đây là điều
kiện cơ bản để đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề có trình độ ở LNTT. Bởi vì, trong thời
gian qua, nhiều LNTT do tiếp xúc với nghề sớm các em học sinh ngoài giờ học đã tham
gia phụ việc và kiếm được tiền, do cái lợi trước mắt mà các bậc cha mẹ sẵn sàng cho con
em mình bỏ học để làm nghề. Mặc dù, số lao động trẻ có thể rất giỏi về kỹ thuật tay nghề
nhưng lại hạn chế về trí thức, sẽ là trở ngại lớn cho quá trình CNH, HĐH nông thôn.
- Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Tập trung chủ
yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển của LNTT. Ngoài các tổ
chức, các trung tâm dạy nghề, cần có cơ sở dành riêng đào tạo cho LNTT. Thông qua các
cơ sở này, Nhà nước có sự tài trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung chương trình.
Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền nghề trực tiếp với đào tạo cơ
bản. Đối với những ngành nghề đan lát, mộc dân dụng, dệt, đóng xuồng ghe … có thể áp
dụng truyền nghề trực tiếp, còn những nghề như thợ thêu, thợ kim hoàn, SX móc câu, rập
chuột, gạch ngói … nhất thiết phải có quy trình đào tạo công phu. Có kế hoạch cụ thể cùng
với chính quyền địa phương và ngành giáo dục các cấp đưa chương trình hướng nghiệp
vào các trường phổ thông ở LNTT. Đối với con em thuộc diện gia đình chính sách, nên có
hình thức dạy nghề miễn phí và trợ cấp một phần kinh phí để các em yên tâm học tập.
- Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hoá hình thức dạy nghề. Các đơn vị tổ chức
SX kinh doanh cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện có, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch bố
trí cho đi đào tạo với nhiều hình thức: dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ …
đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử dụng; phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm.
Những mặt hàng mới, mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để đào tạo nghề.
Khẩn trương xúc tiến thành lập các trường dạy nghề truyền thống ở bậc cao đẳng để tạo ra
những nhà doanh nghiệp ở nông thôn biết quản lý kinh tế và những chuyên gia kỹ thuật
giỏi. Đồng thời, thành lập các viện nghiên cứu giúp LNTT về dịch vụ, tư vấn, về quản lý
kinh doanh, về xuất nhập khẩu và pháp luật.
- Kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến
thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ trong LNTT. Nội dung và
hình thức đào tạo cần tập trung vào những vấn đề mới như cung cấp thông tin, những kiến
thức cập nhật, phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là kiến thức kinh tế thị trường. Việc
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế cho các chủ doanh nghiệp không thể thực
hiện theo kiểu máy móc giản đơn mà xuất phát từ nhu cầu của thị trường, có nghĩa là thị
trường cần gì thì đào tạo nấy. Nội dung đào tạo bồi dưỡng cần đặc biệt quan tâm đến việc phổ
biến hệ thống luật pháp có liên quan đến tổ chức SX kinh doanh của LNTT. Bởi vì, nhiều nhà
doanh nghiệp, chủ cơ sở SX trong LNTT trình độ hiểu biết luật pháp còn hạn chế, nhất là Luật
kinh tế và Luật lao động …
- Vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và tay nghề cho người lao động không
phải chỉ do Nhà nước làm mà phải trên cơ sở cơ chế chính sách nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của các tổ chức, các thành phần kinh tế cùng tham gia. Trước mắt, các LNTT cần
chủ động đào tạo tay nghề cho người lao động. Để khuyến khích loại hình đào tạo này phải
có chính sách không thu thuế trực tiếp đối với họ. Động viên các nghệ nhân dạy nghề và
truyền bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ sau. Đặc biệt là những nghề thủ công tinh xảo mà
họ tích luỹ được.
Trong quá khứ cũng như hiện tại LNTT luôn là bộ phận cơ bản hình thành lịch sử
văn hoá, văn minh Việt Nam. Những di sản văn hoá của dân tộc đều là sản phẩm của nghề
thủ công trong lịch sử. Các công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ như đình đền, lâu đài, lăng
tẩm … cho đến những công cụ SX đều là sản phẩm thủ công do các thế hệ nghệ nhân và
thợ thủ công làm ra. Ngay cả trong điều kiện phát triển của công nghệ hiện đại, sản phẩm
thủ công truyền thống vẫn cần thiết cho con người. Bởi vì, do tính độc đáo và tinh xảo với
“bàn tay vàng” của người thợ thủ công vẫn được coi trọng, được bảo tồn và phát triển. Thế
nhưng trong mấy chục năm qua, có lúc các nghệ nhân đã bị lãng quên, nhiều người đã phải
bỏ nghề đi làm việc khác.
Nhận rõ vai trò của nghệ nhân đối với LNTT, cần phải tiến hành một số việc cần
thiết như sau:
- Nhà nước cần có chủ trương chỉ đạo các địa phương tiến hành điều tra nắm lại
toàn bộ số nghệ nhân của LNTT (kể cả số còn sống và đã mất). Từ đó làm rõ những ông tổ
nghề của ngành nghề truyền thống để tìm đến con cháu và dòng họ ông tổ nghề đã được
truyền lại bí quyết nghề mà có chính sách cụ thể nhằm khôi phục, phát triển những nghề đã
thất truyền.
- Để bảo tồn và phát triển LNTT một mặt phải phát động phong trào khôi phục nghề
truyền thống ở các địa phương, mặt khác phải xem xét, suy tôn những danh hiệu nghề
nghiệp cho nghệ nhân và dòng họ, coi đây là niềm vinh dự, tự hào về nghề nghiệp của gia
đình, dòng họ.
- Mỗi huyện nên thành lập “câu lạc bộ, hiệp hội nghề truyền thống” để thu hút các nghệ
nhân tham gia. Từ đây, các nghệ nhân có điều kiện tiếp xúc, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau, đồng thời cũng là nơi truyền nghề cho thế hệ sau.
- Thông qua các hội nghề nghiệp hoặc câu lạc bộ nghề truyền thống mà có chính
sách đãi ngộ đối với nghệ nhân. Đối với những nghệ nhân già yếu, không còn sức lao
động, nên có một số tiền nhất định để chu cấp cho các cụ, động viên họ truyền lại bí quyết
nghề cho con cháu. Những nghệ nhân tuy sức khoẻ còn tốt nhưng việc hành nghề gặp khó
khăn; Nhà nước có khoản trợ cấp hỗ trợ họ từng bước phát triển nghề bằng cách cải tiến
mẫu mã phục hồi quy trình, tìm kiếm bí quyết, tổ chức làm thử sản phẩm … sau đó có điều
kiện mở rộng quy mô SX, giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại chúng,
qua triển lãm, qua tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài.
- Khẩn trương nghiên cứu và đưa ra tiêu chuẩn để phong tặng danh hiệu cho các
nghệ nhân, làm cho họ say mê với nghề nghiệp và đem hết nhiệt tình truyền nghề cho lớp
trẻ. Hàng năm hoặc 5 năm một lần tổ chức xét và công nhận danh hiệu cao quý để trao
tặng cho người thợ giỏi, những nghệ nhân tài hoa có nhiều công sức đóng góp cho LNTT
và cả những nhà kinh doanh, chủ cơ sở xuất sắc. Những người được phong tặng, Nhà nước
nên có khoản trợ cấp hàng tháng để động viên họ. Đối với những nghệ nhân có nhiều phát
minh, sáng kiến và có công trong việc đào tạo nghề, truyền nghề, Nhà nước nên tổ chức
cho họ được đi tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài khuyến khích họ đưa những
tri thức mới, nét văn hoá hiện đại kết hợp với nét độc đáo, tinh xảo cổ truyền của dân tộc,
để sản phẩm làm ra vừa mang yếu tố truyền thống, vừa mang yếu tố hiện đại.
3.2.1.4. Tạo lập và gắn kết các ngành du lịch, văn hoá với làng nghề truyền
thống
Mở rộng các chương trình giới thiệu và quảng bá các LNTT đến tận tay các du
khách trong và ngoài nước: cung cấp thông tin về lịch sử làng nghề, sản phẩm, điều kiện tự
nhiên và xã hội, các lễ hội của làng và địa phương có LNTT, tạo điều kiện cho du khách tự
tay làm ra các sản phẩm theo ý thích của mình, tổ chức các hội chợ triển lãm, trưng bày và
giới thiệu sản phẩm … có thể khai thác thị trường tiêu thụ mới.
Chuyển hướng SX sang lĩnh vực quà lưu niệm có thể mang lợi nhuận nhanh và cao
gấp nhiều lần, đồng thời thể hiện sự sáng tạo và năng động của người thợ LNTT trước
hoàn cảnh đổi mới.
Tuy nhiên, các LNTT cũng cần chú ý không để các dịch vụ quá lạm dụng mà thu
lợi nhuận một cách thái quá, gây ấn tượng không tốt đến du khách. Sự phối hợp chặt chẽ
giữa LNTT với các công ty du lịch đảm bảo lợi ích cho hai bên trong hiện tại và tương lai.
Vì vậy, LNTT cần nâng cao trình độ của người thợ, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và ứng
xử trong giao tiếp, từ đó khẳng định vai trò và vị thế của LNTT để không chỉ thu hút du
khách hiện tại mà còn để họ giới thiệu và quảng bá hình ảnh về sản phẩm, con người của
LNTT cho du khách trong tương lai.
3.2.1.5. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và tổ chức thực hiện của cơ quan quản lý
nhà nước đốí với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển các LNTT đã có những biến đổi sâu sắc,
có LNTT đã bị mai một, có làng nghề mới xuất hiện, vì vậy cần thiết phải có quy hoạch
các LNTT trong vùng để trên cơ sở đó xây dựng phương án khôi phục và phát triển các
LNTT.
Quy hoạch và kế hoạch khôi phục, phát triển LNTT ở nông thôn trong tỉnh phải gắn
với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của cả tỉnh, từng địa phương và phải
lấy thị trường làm căn cứ.
Về công tác quy hoạch, trước tiên cần phải điều tra khảo sát toàn bộ LNTT hiện có
ở nông thôn và làng nghề mới theo tiêu chí rõ ràng. Điều tra khảo sát để nắm vững số
lượng, chất lượng, chủng loại các ngành nghề, LNTT cho từng địa phương trong tỉnh.
Những LNTT nào có điều kiện thuận lợi cần khuyến khích phát triển thì phải có biện pháp
chỉ đạo, hỗ trợ có hiệu quả; nếu LNTT nào gặp khó khăn phải tập trung chỉ đạo, tháo gỡ
tạo điều kiện cho phát triển; nếu LNTT nào nếu xét thấy khó tồn tại thì tạo điều kiện cho
chuyển nghề mới; những LNTT nào đã bị mai một thì có biện pháp khôi phục. Những
LNTT nào có thể phát triển quy mô lớn thì phải có biện pháp phát triển mở rộng; những
LNTT có thể phát triển ở những địa phương có lợi thế để tăng sức cạnh tranh thì phải có
kế hoạch đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất tính tự phát trong việc phát triển LNTT trên
địa bàn.
- Quy hoạch phát triển các LNTT theo hướng hình thành cụm trung tâm TTCN,
cụm công nghiệp LNTT và dịch vụ của mỗi làng xã, tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực
nhà ở, đảm bảo kết cấu hạ tầng, nhà xưởng cho SX kinh doanh và bảo vệ môi trường. Hình
thành cụm trung tâm TTCN, cụm công nghiệp LNTT và dịch vụ hợp lý sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho LNTT phát triển bởi ưu thế của cụm trung tâm TTCN, cụm công nghiệp
LNTT là phát huy được hiệu quả SX kinh doanh khai thác triệt để lợi thế tiềm năng về tài
nguyên, lao động của địa phương; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hội nghề nghiệp
hoạt động một cách có hiệu quả.
- Mỗi huyện trong từng địa phương của tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể có thể quy
hoạch một số cụm công nghiệp LNTT để ổn định mặt bằng sản xuất. Những cụm công nghiệp
LNTT này làm nòng cốt cho địa phương trong việc thu hút lao động, giải quyết vấn đề môi
trường trong quá trình SX kinh doanh.
- Quy hoạch phát triển LNTT theo mô hình làng nghề gắn với du lịch. Trong các
LNTT có khu vực SX, có nơi trưng bày giới thiệu sản phẩm và du khách đến sẽ không chỉ
tham quan mà còn được chứng kiến cách thức làm ra sản phẩm từ các nghệ nhân, thợ cả
trong LNTT; từ đó thu hút được khách tham quan du lịch trong và ngoài nước, tiêu thụ
được sản phẩm, thu hút được vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Quy hoạch và kế hoạch phát triển các LNTT cần phải gắn với quy hoạch kết cấu
hạ tầng nông thôn như: hệ thống giao thông, điện, nước, trường, trạm, thông tin liên lạc …
trong quy hoạch cần chú ý cả vấn đề nâng cao trình độ văn hoá và sức khoẻ cho người lao
động trong các LNTT.
- Việc đảm bảo nguyên liệu cho các LNTT có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
của LNTT trên địa bàn tỉnh; vì thế đi đôi với việc quy hoạch phát triển LNTT cần phải quy
hoạch vùng nguyên liệu. Nguyên liệu cho LNTT có nhiều loại khác nhau, có loại phải qua
trồng trọt, chăn nuôi song lại có những loại sử dụng chủ yếu qua khai thác từ tài nguyên
thiên nhiên như rừng, quặng mỏ … loại nguyên liệu này hiện nay đang khai thác một cách
bừa bãi, thiếu kế hoạch. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu SX ổn định lâu dài cho các LNTT
cần phải có quy hoạch, kế hoạch khai thác hợp lý và bảo vệ chu đáo. Mặt khác, phải tập
trung xây dựng các cơ sở chuyên khai thác, chế biến và cung cấp vật tư, nguyên liệu cho
các LNTT.
- Quy hoạch khôi phục và phát triển LNTT là biện pháp hết sức quan trọng và cần
thiết để sắp xếp, bố trí LNTT cho từng địa phương của tỉnh, bố trí khu vực dân cư, nhà
cửa, mặt bằng SX, nguyên liệu, kết cấu hạ tầng, đảm bảo cho các LNTT phát triển một
cách bền vững, đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá thuận lợi và
bảo vệ môi trường trong các LNTT. Vì vậy, chính quyền địa phương của từng nơi cần phải
nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch tổ chức khu dân cư, khu SX kinh doanh vừa hiện đại vừa
văn minh đảm bảo cuộc sống dân cư không bị ô nhiễm.
3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các làng nghề
3.2.2.1. Đổi mới nhận thức của người dân
Nhận thức của người dân có vai trò quan trọng trong việc xây dựng LNTT, cụm
công nghiệp LNTT theo hướng phát triển bền vững. Để làm thay đổi nhận thức người dân
trong các LNTT, cụm công nghiệp LNTT phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn và phát triển kinh tế thị trường làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
nhằm tác động mạnh đến nhận thức của người dân LNTT. Từ thực tế phát triển kinh tế của
địa phương người dân LNTT nhận thức được rằng: nhờ chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước mà số hộ SX TTCN tăng, sản phẩm trong LNTT ngày nhiều lên. Để SX của
gia đình thu được lợi nhuận nhiều hơn thì phải:
- Mở rộng quy mô SX, tức là mở rộng thêm nhà xưởng, sử dụng thêm nhiều lao
động.
- Phải cạnh tranh trong SX, muốn cạnh tranh buộc phải đổi mới mẫu mã, sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường, sản phẩm phải đẹp hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ
hơn, …
- Phải đầu tư thêm máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để giảm bớt lao động thủ
công nhằm giảm chi phí, tăng năng suất lao động lên đáp ứng yêu cầu tiêu dùng ngày một
tăng về cả số lượng và chất lượng.
Mặt khác, các tổ chức chính trị, xã hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân,
hội người cao tuổi, … tổng kết, đánh giá thực tế hoạt động SX kinh doanh của các LNTT
về các vần đề như: tăng trưởng kinh tế, mở mang ngành nghề, ô nhiễm môi trường, tình
hình sức khoẻ, bệnh tật của người dân LNTT … qua đó nhằm tác động thay đổi nhận thức
cho người dân. Xây dựng quy ước hoạt động LNTT về các vấn đề mở rộng SX, chỗ mua
bán nguyên vật liệu, chỗ tiêu thụ sản phẩm hoặc chỗ giới thiệu việc làm cho lao động …
đảm bảo vệ sinh môi trường cảnh quan xanh, sạch, đẹp và giữ được phong tục tập quán
của LNTT. Bằng những quy ước, lệ làng và dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi sai trái đi
ngược lợi ích của LNTT như gây ô nhiễm môi trường, lấn chiếm đường làng ngõ xóm …
- LNTT tự tổ chức dồn điền, đổi thửa theo chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi trong nông nghiệp nhằm mở rộng diện tích nhà xưởng, mở rộng quy mô SX. Điều
đó, sẽ tác động thay đổi lối làm ăn nhỏ lẽ, manh mún chuyển lên làm ăn lớn, quy mô lớn,
liên doanh liên kết giữa các gia đình trong LNTT với nhau …
3.2.2.2. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, LNTT trên địa bàn tỉnh An Giang đang
xuất hiện các hình thức tổ chức SX kinh doanh mới; do vậy, cần tạo điều kiện cho LNTT
phát triển một cách đa dạng phong phú các hình thức tổ chức SX kinh doanh đó là:
- Thứ nhất, hộ gia đình
Hộ gia đình là hình thức tổ chức SX kinh doanh chính và có hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay. Với hình thức này, các thành viên trong gia đình đều được huy động vào
những công việc của quá trình SX kinh doanh. SX hộ gia đình phát triển mạnh mẽ và chủ
yếu ở các LNTT có quy mô nhỏ, quá trình SX không có yêu cầu cao về phân công lao
động và hợp tác lao động. Quá trình SX kinh doanh của hộ gia đình do người chủ gia đình,
thường là thợ giỏi nắm toàn bộ quyền điều hành SX. Con cháu trong nhà tuỳ theo trình độ
có thể đảm nhiệm một phần công việc hay chỉ phụ việc.
Tổ chức SX kinh doanh trong các hộ gia đình đã tận dụng được lao động và phù
hợp với trình độ quản lý của người thợ thủ công hiện nay. Bởi vì, nhiều loại hình sản
phẩm chỉ do một hoặc vài người thực hiện từ đầu cho đến khi hoàn thành như: tranh
thêu, dệt lụa, dệt chiếu, đan đát, bó chổi bông sậy, se nhang. Do quan hệ hợp tác không
nhiều, nên việc truyền nghề trong gia đình, cho người thân bằng phương pháp trực tiếp
ngay trong gia đình, dòng họ … nên đa số phát huy được năng lực tài nghệ của thợ thủ
công. Sản phẩm của họ làm ra dễ thấy kết quả hàng ngày. Hơn nữa, SX theo hộ gia
đình còn có cái lợi là không cần mặt bằng SX chung, chủ yếu tận dụng nhà ở để SX
kinh doanh.
- Hình thức SX kinh doanh này, có ưu thế nhất định về tính tự chủ trong SX kinh
doanh, trong sử dụng lao động và thời gian lao động. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và sự tiến bộ của KHCN, hộ gia đình ngày càng bộc lộ những khiếm khuyết với
yêu cầu SX kinh doanh ngày càng cao. Mỗi hộ gia đình, không đủ tầm nhìn chiến lược để
định hướng phát triển nghề nghiệp. Việc truyền nghề trong gia đình bị giới hạn bởi thiếu
kiến thức văn hoá, kỹ thuật và xã hội để tiếp thu KHKT tiên tiến; trình độ hiểu biết về thị
trường, marketing còn hạn hẹp, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh ngay trong các
LNTT.
Vì vậy, các cơ quan chức năng của trung ương cũng như tỉnh, huyện cần tăng cường
chỉ đạo giúp đỡ và hướng dẫn hộ gia đình trong LNTT SX kinh doanh một cách hợp lý, có
hiệu quả về kinh tế, xã hội. Tạo điều kiện cho các hộ SX kinh doanh thuận lợi, thu các
khoản đóng góp hợp lý. Động viên giúp đỡ hộ gia đình nộp thuế cho Nhà nước và thực
hiện kinh doanh theo đúng luật pháp hiện hành, tránh tình trạng trốn thuế, lậu thuế. Có
chính sách phù hợp, giúp đỡ những hộ nghèo về vốn, kỹ thuật để họ SX kinh doanh đạt kết
quả và giúp họ tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
- Thứ hai, tổ hợp tác
Tổ hợp tác là hình thức liên kết tự nguyện của những hộ trong LNTT để thực hiện một
số khâu, một số công đoạn của quá trình SX kinh doanh. Hình thức liên kết được thực hiện
thông qua việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm hoặc SX ra sản phẩm chung. Sự liên kết
này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các hộ gia đình ứng xử, giải quyết nhanh nhạy trong
nền kinh tế thị trường hợp lý hơn và bảo đảm hiệu quả của quá trình SX sản phẩm. Trong quá
trình SX kinh doanh ở LNTT mặc dù có sự liên kết hợp tác, nhưng SX hộ gia đình vẫn là
chính, gia đình vẫn đảm nhận toàn bộ công việc kể cả SX và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay,
trong các LNTT hình thức tổ hợp tác đang phát triển rộng rãi, bởi vì nó bổ sung cho nhau về
vốn, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý … các hộ SX trong LNTT đã liên kết với nhau,
giúp đỡ nhau tạo việc làm, tiêu thụ sản phẩm, dự đoán xu hướng của thị trường, tạo thành các
chân rết cho những hộ lớn. Sự hoạt động này đã và đang có hiệu quả nhất định ở LNTT của
tỉnh.
Định hướng đối với tổ hợp tác trong thời gian tới là khuyến khích mở rộng quy mô
liên kết, góp vốn, góp sức để tổ chức hoạt động kinh doanh. Nhà nước có chính sách ưu
tiên cho các tổ hợp tác về vốn, về hướng nghiệp. Trên cơ sở nên cao tính tự chủ của kinh tế
hộ, xây dựng các tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng trong LNTT, nơi nào có điều kiện thì thành
lập HTX vững chắc đạt hiệu quả cao. Các tổ hợp tác này phải dựa vào những yếu tố cơ bản để
phát triển thành HTX như: tự nguyện lập tổ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi, có góp vốn và
góp sức (nhưng ở quy mô nhỏ), có tổ chức bộ máy quản lý ổn định.
- Thứ ba, hợp tác xã
HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu lợi ích chung,
tự nguyện cùng góp sức, góp vốn lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh
tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động SX kinh
doanh, dịch vụ, du lịch và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.
HTX trong LNTT xét về lâu dài là loại hình SX kinh doanh chủ yếu; bởi lẽ HTX là
một phương thức để kích thích SX và sử dụng vốn có hiệu quả, tạo điều kiện cho mọi
người được làm giàu chính đáng và thu hút rộng rãi người lao động tham gia.
Trước đây các HTX TTCN trong LNTT thường được ưu đãi về nhiều mặt như: được
ký hợp đồng gia công cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, được cấp đất, mua sắm máy móc và
trang thiết bị, được vay vốn tín dụng ngân hàng … nhưng từ khi chuyển đổi cơ chế, sang chế
độ hạch toán kinh doanh HTX kiểu cũ trong LNTT đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn do
cơ cấu chất lượng sản phẩm của HTX trong thời gian qua không theo kịp với nhu cầu thị hiếu,
mẫu mã thị trường và không có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thêm vào
đó là sự lạc hậu về kỹ thuật và trình độ quản lý chưa được đào tạo của cán bộ mà chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm là chính. Khi chuyển sang cơ chế mới Nhà nước lại chưa quan tâm đúng
mức đến làng nghề, dẫn đến có lúc thả nổi cho bộ phận kinh tế này trôi dạt trước cơn lốc của
kinh tế thị trường.
Một khi đã thừa nhận kinh tế hộ là yếu tố cấu thành kinh tế HTX thì việc lựa chọn
hình thức nào là do trình độ phát triển, nhu cầu của kinh tế hộ quy định. Một khi kinh tế hộ
đã trở thành kinh tế tự chủ và đồng thời cũng xuất hiện những yêu cầu hợp tác giữa các hộ
với nhau để thực hiện có hiệu quả hơn những công đoạn của quá trình SX kinh doanh. Vì
vậy trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của kinh tế hộ, xây dựng các tổ chức kinh tế HTX đa
dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến HTX tuân thủ theo nguyên tắc: tự nguyện gia
nhập và rút ra khỏi HTX, quản lý dân chủ và bình đẳng, tự chịu trách nhiệm và cùng có
lợi, chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của HTX, hợp tác và phát
triển cộng đồng. HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần của xã viên và tuỳ theo
loại hình hợp tác mà có sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, xã viên được phân phối
theo kết quả lao động và theo cổ phần.
Ở các LNTT hiện nay có nhiều mô hình tổ chức HTX tuỳ theo trình độ ngành nghề
thủ công của địa phương như HTX nông nghiệp, TTCN. Song HTX TTCN là chủ yếu, bởi
vì khả năng vốn của người lao động ngày càng có nhiều người tham gia vào HTX, nơi họ
có thể phát huy tài năng tốt hơn so với làm ăn cá thể.
HTX tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, trước hết cần tập trung được năng
lực và ưu thế sẵn có để SX sản phẩm đạt chất lượng cao. Đồng thời, đứng ra làm gia công
và nhận những hợp đồng lớn đem lại thu nhập cho các gia đình trong làng nghề. HTX có
thể sử dụng nguồn vốn góp, hoặc vốn vay mà đưa KHKT vào SX. Nhưng vấn đề quan
trọng hàng đầu của việc đưa tiến bộ KHKT vào làng nghề là phải xác định được công nghệ
thích hợp, nó phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện, quy mô sản phẩm, trình độ tiếp nhận
của cán bộ hay xã viên không. Để nâng cao chất lượng cho người thợ, HTX có trách nhiệm
đứng ra tổ chức đào tạo thợ một cách cơ bản và hệ thống, mà điều này hộ gia đình không
làm được.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường việc tổ chức sắp xếp lại các HTX trong
LNTT là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa chiến lược. Do vậy phải có biện pháp chuyển đổi
phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế mới. Sự chuyển đổi phương thức hoạt
động của HTX là vấn đề phức tạp đòi hỏi có sự chỉ đạo sâu sát của cấp uỷ chính quyền địa
phương nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển HTX. Từng bước hướng HTX trong làng
nghề đi vào hoạt động theo đúng luật HTX. Trong quản lý điều hành phát huy hết vai trò
của hộ xã viên và có trách nhiệm bảo đảm khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra là chính, còn khâu
SX nên giao cho hộ gia đình đảm nhiệm, họ làm tại nhà với tư cách là đơn vị kinh tế tự
chủ.
- Thứ tư, doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là hình thức
được tồn tại từ lâu, nhưng nó thực sự đi vào hoạt động kể từ khi có Luật doanh nghiệp tư
nhân ra đời vào 12/1990. Tuy mới bắt đầu phát triển, nhưng tốc độ nhanh và có sự cuốn
hút của nhiều nhà kinh doanh. Bởi vì, giám đốc doanh nghiệp tư nhân là người có quyền tự
do và chủ động trong mọi hoạt động. Đặc biệt, Luật doanh nghiệp được thông qua 6/1999
quy định cho các loại hình doanh nghiệp chung, trừ doanh nghiệp Nhà nước, thì mặt bằng
pháp lý giữa các doanh nghiệp với nhau khá bình đẳng, điều này đã tạo đà cho doanh
nghiệp tư nhân hoạt động ổn định trong nền kinh tế thị trường.
Ở An Giang, việc thành lập doanh nghiệp tư nhân thường do những người có tiềm
lực kinh tế nổi trội trong làng, có đầu óc tổ chức và tham vọng kinh doanh. Công tác quản
lý điều hành doanh nghiệp rất linh hoạt, ứng xử nhanh chóng những tác động của thị
trường để thay đổi ngành nghề kinh doanh, cũng như áp dụng công nghệ mới vào SX.
Quan hệ giữa chủ và thợ là mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau, vì thế người lao động được phân
phối sát với giá trị sức lao động của mình. Một số doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra khả năng
phát triển SX với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút hàng trăm lao động có việc
làm. Tuy nhiên, trong quá trình SX kinh doanh, loại hình doanh nghiệp này vẫn còn gặp
nhiều khó khăn, nhất là việc huy động vốn để mở rộng SX, bởi lẽ chế độ trách nhiệm của
doanh nghiệp tư nhân là trách nhiệm vô hạn.
Để loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển cùng với quá trình CNH, HĐH Nhà
nước cần tạo môi trường pháp lý ổn định, khuyến khích và động viên các chủ doanh
nghiệp yên tâm bỏ vốn vào phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Đồng thời, cho
phép họ được tham gia xuất khẩu hàng hoá trực tiếp với nước ngoài. Vì vậy, các doanh
nghiệp tư nhân trong LNTT phải chủ động đổi mới trang thiết bị, công nghệ để mở rộng quy
mô SX. Trước mắt, cần giải quyết tốt khó khăn về đầu ra cho sản phẩm, nhất là sản phẩm từ
nông nghiệp.
- Thứ năm, công ty TNHH
Hình thức công ty TNHH là công ty có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm hữu
hạn trong phần vốn góp, trong đó các thành viên cùng góp vốn để thực hiện kinh doanh,
cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ, chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Cơ sở pháp lý của loại hình tổ chức này là
Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp. Công ty TNHH phát triển ở những làng
nghề có trình độ tập trung hoá cao, có quan hệ rộng rãi với thị trường và có khả năng về
đổi mới công nghệ. Sự phát triển của công ty TNHH trong nền kinh tế thị trường là một
động lực để thúc đẩy các nhà kinh doanh huy động một lượng vốn lớn vào sản xuất, đồng
thời tạo điều kiện cho những người có vốn nhỏ dễ dàng góp vốn đầu tư cũng như chuyển
nhượng vốn góp của mình.
Định hướng đối với loại hình công ty này trong làng nghề là chính quyền địa
phương các cấp nên hướng dẫn họ tổ chức lại SX, để thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô
SX, đưa tiến bộ KHKT vào SX nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, khắc phục tình trạng
manh mún, chất lượng không đều và tạo khả năng chiếm lĩnh thị trường …
- Thứ sáu, công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu
trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các
hoạt động SX kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần ra đời có chậm hơn so với các loại hình tổ chức khác, nhưng trong
tương lai, loại hình này có vị trí đáng kể ở các LNTT. Bởi vì, nó có khả năng huy động vốn
lớn, thu hút đầu tư và kỹ năng quản lý bên ngoài rất lớn. Trên phương diện tập trung vốn, loại
hình công ty cổ phần có ưu việt hơn hẳn doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH. Nhưng hiện
nay nó ít được áp dụng bởi trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn hạn hẹp, không muốn
chia sẻ quyền lực trong quản lý. Vì vậy, thời gian tới Nhà nước cần tạo điều kiện cho công ty
cổ phần trong LNTT hoạt động có hiệu quả, đúng với ý nghĩa của nó.
3.2.2.3. Liên kết trong việc cung ứng và tiêu thụ sản phẩm
Một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của các
LNTT là vấn đề thị trường. Thực tế thời gian qua cho thấy LNTT nào giải quyết tốt vấn đề
đầu ra cho sản phẩm thì LNTT đó tồn tại và phát triển mạnh.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các LNTT hiện nay tuy đã có bước phát triển
nhưng vẫn còn nhỏ hẹp, phân tán, thị trường địa phương tại chỗ. Về mặt lý thuyết thị
trường này có quy mô rất lớn, song trên thực tế do sức mua của các tầng lớp dân cư nông
thôn còn thấp nên cần phải mở rộng thị trường ở các vùng, địa phương khác và đặc biệt là
thị trường nước ngoài.
Để mở rộng thị trường, trước hết về phía bản thân các hộ gia đình, các cơ sở sản
xuất trong các LNTT phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy các
cơ sở sản xuất, các hộ gia đình trong các LNTT nông thôn trên địa bàn tỉnh cần chú ý đầu
tư nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra thương hiệu sản phẩm có uy tín và đăng ký bản
quyền thương hiệu, cải tiến mẫu mã cho hợp thị hiếu, tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng về
chất lượng, giá cả, phương thức phục vụ và phải lấy chữ tín làm đầu. Không những thế các
cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất kinh doanh ở các LNTT nông thôn cần đẩy mạnh liên
doanh, liên kết và tiêu thụ sản phẩm với các cơ sở sản xuất ở các vùng kinh tế khác để có
điều kiện tiếp cận, mở rộng thị trường.
3.2.3. Nhóm giải pháp về các hiệp hội làng nghề
3.2.3.1. Hình thành và phát triển các hiệp hội về các sản phẩm của làng nghề
Để giữ được truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của làng nghề, ngoài việc
thôn, xóm đưa ra những quy ước, quy định còn phải thành lập câu lạc bộ, hiệp hội làng
nghề. Các câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề trên nguyên tắc tự nguyện nhưng có sự tác động
bởi lệ làng, phong tục tập quán và quy ước nhằm tạo điều kiện để các hộ gia đình liên kết
với nhau, trao đổi thông tin với nhau về KHCN, thị trường nguyên liệu, sức lao động, tiền
vốn và thị trường tiêu thụ. Sinh hoạt câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề có tác động mạnh đến
sự thay đổi nhận thức và hành động của người dân làng nghề. Bằng những quy ước, lệ làng
mà thôn, xóm, làng nghề có khả năng huy động sức người sức của vào việc xây dựng cơ sở
hạ tầng của địa phương như hệ thống giao thông, điện nước, trường, trạm y tế và những
công trình văn hoá của làng. Hơn thế nữa thông qua sinh hoạt câu lạc bộ, hiệp hội làng
nghề mà quy ước, lệ làng được củng cố, hoàn thiện có sức mạnh điều tiết các cá nhân, hộ
gia đình gia nhập các khu, cụm công nghiệp, LNTT của địa phương hoặc thực hiện giải
phóng mặt bằng nhanh chóng đúng tiến độ.
Bằng quy ước, lệ làng mà LNTT sẽ loại trừ hành vi làm hàng giả ảnh hưởng đến uy
tín, truyền thống làng nghề đã có bao đời nay.
Do đặc điểm của LNTT có từ lâu, nên đường làng ngõ xóm chật hẹp, cả làng làm
nghề, hộ gia đình có đất đai chật hẹp gặp khó khăn trong SX, hộ có diện tích rộng, mặt
đường thì thuận lợi trong SX, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm … nên xuất hiện nhu cầu di
chuyển từ nơi khó khăn sang nơi thuận lợi để SX kinh doanh. Đồng thời, tự phát hình
thành khu vực cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm có vị trí thuận lợi; từ đó hình
thành các thị trường vốn, lao động, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm. Đây là điều kiện
thuận lợi để LNTT tổ chức thành cụm công nghiệp LNTT tách khỏi khu dân cư, có điều
kiện mở rộng SX, mở rộng thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.
3.2.3.2. Tổ chức hỗ trợ, tư vấn kinh nghiệm về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Hình thành và phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ giúp đỡ LNTT trong quá
trình SX kinh doanh. Sự giúp đỡ của các tổ chức này nên tập trung vào những lĩnh vực như
xuất khẩu sản phẩm, chuyển giao công nghệ, đào tạo và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, tạo
điều kiện khuyến khích thành lập câu lạc bộ, hiệp hội LNTT vì thông qua câu lạc bộ, hiệp
hội LNTT mà các cơ sở SX kinh doanh, cá nhân người thợ được cung cấp thông tin về
kinh tế, KHCN cũng như giá cả thị trường để trên cơ sở đó mà hoạch định việc SX kinh
doanh của mình sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao.
Định kỳ tổ chức hội chợ LNTT nhằm giới thiệu sản phẩm LNTT. Qua hội chợ
LNTT giúp các gia đình, doanh nghiệp các địa phương giao lưu, học hỏi, giới thiệu sản
phẩm LNTT với nhau. Điều đó chính là giới thiệu nét văn hoá dân tộc của địa phương,
LNTT với khách hàng để quảng bá thương hiệu, sản phẩm của LNTT. Nơi tổ chức hội chợ
trưng bày sản phẩm LNTT cũng chính là nơi tổ chức du lịch làng nghề rất thuận lợi và
hiệu quả.
KẾT LUẬN
Làng nghề truyền thống nông thôn ở An Giang có những đóng góp quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song trên thực tế LNTT nông thôn ở nước ta
nói chung và An Giang nói riêng đang đứng trước những khó khăn, thách thức rất lớn
trong quá trình khôi phục và phát triển. Từ những kết quả khảo sát và nghiên cứu về các
LNTT của tỉnh cho phép chúng tôi rút ra kết luận chủ yếu như sau:
1. Khôi phục và phát triển LNTT nông thôn là một tất yếu khách quan trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển LNTT nông thôn có vai trò quan
trọng đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Với An Giang, lao động chủ
yếu làm nông nghiệp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn thì phát triển
LNTT có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc có từ lâu đời của vùng đất An Giang.
2. Trên cơ sở đánh giá, phân tích một cách toàn diện thực trạng khôi phục và phát
triển LNTT nông thôn ở An Giang cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được tương đối
khả quan về giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm
nghèo, cải thiện cơ cấu kinh tế nông thôn, … thì cũng còn tồn tại nhiều khó khăn cần phải
khắc phục. Luận văn đã nêu và phân tích những tồn tại khó khăn về vốn, về lao động, về
kỹ thuật công nghệ, về môi trường, về công tác quản lý của Nhà nước đối với các LNTT.
3. Luận văn đưa ra những quan điểm cần quán triệt trong quá trình khôi phục và
phát triển LNTT nông thôn ở An Giang. Trên cơ sở những quan điểm đó, luận văn đưa ra
phương hướng khôi phục và phát triển LNTT ở nông thôn An Giang trong thời gian tới
phù hợp với những nguồn lực của tỉnh. Để thực hiện phương hướng đó, luận văn đưa ra
một số giải pháp chủ yếu là hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển LNTT;
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các LNTT; đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và
nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động; đổi mới nhận thức của người dân phát triển
đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trong các LNTT; đổi mới công
nghệ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các LNTT; xây dựng và phát triển đồng bộ
kết cấu hạ tầng đồng bộ ở nông thôn; đổi mới các chính sách kinh tế và tăng cường công
tác quản lý nhà nước đối với các LNTT phát triển theo hướng bền vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Thống kê An Giang (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, An Giang.
2. Cục Thống kê An Giang (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, An Giang.
3. Nguyễn Văn Đại - Trần Văn Luận (1998), Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát
triển LNTT, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Điền (1997), CNH nông nghiệp, nông thôn các nước Châu Á và Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đỗ Đức Định (1997), "Cách mạng xanh, Cách mạng trắng, CNH nông thôn và phát triển
nông thôn ở Ấn Độ", Tạp chí Thông tin lý luận, (2).
9. Mạc Đồng (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Đỗ Thái Đồng (2001), Phát triển nông thôn, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh.
11. Vũ Thị Hà (2002), Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng
sông Hồng - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
12. Trần Văn Hiến (2006), Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với
việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Mai Thế Hởn (1997), "Để nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng CNH,
HĐH", Tạp chí Thương mại, (2).
14. Mai Thế Hởn (1998), "Thủ công nghiệp đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH,
HĐH", Tạp chí Thương mại, (11).
15. Mai Thế Hởn (1998), "Phát triển LNTT trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và
kinh tế nông thôn", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7).
16. Mai Thế Hởn (1999), "Phát triển LNTT ở Bắc Ninh", Tạp chí Hoạt động khoa học,
(1).
17. Mai Thế Hởn (1999), "Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường cho LNTT ở các
tỉnh ven Hà Nội", Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, (2).
18. Mai Thế Hởn (1999), "Vấn đề môi trường trong các LNTT ở vùng ven đô Hà Nội",
Tạp chí Khoa học công nghệ môi trường, (5).
19. Mai Thế Hởn (1999), "Tình hình phát triển làng nghề ở một số nước Châu Á và kinh
nghiệm cần quan tâm đối với Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới,
(6).
20. Mai Thế Hởn (2000), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp
hoá, Hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Hội thảo Quốc tế bảo tồn và phát triển LNTT (1996), Hà Nội.
22. Nguyễn Ngọc Khanh (1998), "Ngành nghề nông thôn là động lực xoá đói giảm
nghèo", Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, (4).
23. TS. Nguyễn Xuân Khoát (1998), "Phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Công nghiệp, (4).
24. Nguyễn Hữu Loan (2007), Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
theo hướng phát triển bền vững, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Trần Văn Luận (1992), "Thực trạng và giải pháp nhằm khôi phục và phát triển một số
nghề truyền thống", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (5).
26. Nguyễn Hữu Lực (1996), Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở đô thị Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
27. Phan Sỹ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay",
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (2).
28. Nguyễn Huy Oánh (1998), "Phát triển LNTT với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (245).
29. Dương Bá Phượng (1998), "Một số ý kiến về làng nghề ở Hải Hưng", Tạp chí Thông
tin lý luận, (9).
30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp tác xã, Hà
Nội.
31. Chu Hữu Quý, Bùi Ngọc Thanh (1991-1995), Các chính sách xã hội nông thôn, Đề
tài KX.08.04.
32. Sở Kế hoạch Đầu tư (2004), Báo cáo quy hoạch phát triển nghề và làng nghề Thành
phố Hà Nội đến 2010, Hà Nội.
33. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11
năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn.
34. Thủ tướng Chính phủ (2004), Nghị định số 134/2004/NĐ-TTg ngày 09 tháng 6 năm
2004 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông
thôn.
35. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 66/2006/NĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.
36. Nguyễn Trọng Tuấn (2006), Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Nguyễn Ty (1991), Một số vấn đề cơ bản về sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn Hà Bắc, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
38. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2005), Quyết định số 3195/2005/QĐ-UBND ngày
29 tháng 11 năm 2005 Về việc ban hành Quy định tiêu chí làng nghề tiểu thủ
công nghiệp.
39. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Quyết định số 2352/QĐ-UBND ngày 28
tháng 11 năm 2006 Về việc ban hành Chương trình Xây dựng khu công nghiệp,
cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp tỉnh An Giang giai đoạn 2006-2010.
40. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 37/2007/QĐ-UBND ngày 07
tháng 8 năm 2007 Về việc ban hành Quy chế quản lý Khu - cụm công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp huyện, thị, thành phố -tỉnh An Giang.
41. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 2925/QĐ-UBND ngày 29
tháng 10 năm 2007 Về việc ban hành Kế hoạch phát triển công nghiệp-TTCN
tỉnh An Giang giai đoạn 2007 - 2010.
42. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Chương trình số 03/CTr-UBND ngày 17
tháng 12 năm 2007 Bảo tồn và phát triển làng nghề TTCN tỉnh An Giang giai
đoạn 2008 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
43. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 81/2007/QĐ-UBND ngày 21
tháng 12 năm 2007 Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản
lý các Khu công nghiệp tỉnh An Giang.
44. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 584/QĐ-UBND ngày 07 tháng
4 năm 2008 Về việc hỗ trợ ứng dụng, đổi mới công nghệ; hỗ trợ tập huấn,
chuyển giao kỹ thuật và sản xuất thử nghiệm trên địa bàn tỉnh An Giang từ nay
đến năm 2010.
45. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Báo cáo số 65/BC-UBND ngày 06 tháng 6
năm 2008 Phát triển doanh nghiệp công nghiệp nông thôn giai đoạn 2008 -
2010.
46. Viện Sử học (1990), Nông dân và Nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
47. Võ Văn Việt (2008), Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển làng nghề ở tỉnh
Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
48. Đặng Ngọc Vinh (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Bùi Văn Vượng (1996), Phát triển môi trường thể chế cho làng nghề ở nông thôn
Việt Nam, Hội thảo khoa học về môi trường thể chế cho các hoạt động dịch vụ
và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, Hà Nội.
50. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam
trong quá trình CNH - HĐH, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.