Giảng dạy và nghiên cứu mỹ học tại ngôi trường 60 năm tuổi
lượt xem 2
download
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội (tiền thân là Trường Lý luận và Nghiệp vụ) là cơ sở đào tạo đầu tiên ở Việt Nam xây dựng được một tổ bộ môn đảm nhiệm việc bồi dưỡng lý luận mỹ học cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá. Mỹ học cũng là một trong số ít bộ môn hình thành sớm nhất của Trường. 56 năm qua, các thế hệ giảng viên bộ môn đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp đào tạo cũng như quá trình trưởng thành của khoa học non trẻ này ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giảng dạy và nghiên cứu mỹ học tại ngôi trường 60 năm tuổi
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU GIẢNG DẠY VÀ NGHIÊN CỨU MỸ HỌC TẠI NGÔI TRƯỜNG 60 NĂM TUỔI NGUYỄN HỒNG MAI Tóm tắt Trường Đại học Văn hoá Hà Nội (tiền thân là Trường Lý luận và Nghiệp vụ) là cơ sở đào tạo đầu tiên ở Việt Nam xây dựng được một tổ bộ môn đảm nhiệm việc bồi dưỡng lý luận mỹ học cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá. Mỹ học cũng là một trong số ít bộ môn hình thành sớm nhất của Trường. 56 năm qua, các thế hệ giảng viên bộ môn đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp đào tạo cũng như quá trình trưởng thành của khoa học non trẻ này ở nước ta. Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, mỹ học Abstract Hanoi University of Culture (formerly the School of Theory and Professional Skills) is the first training institution in Vietnam which could organize a unit in charge of improving aesthetic theory for cadres working in the cultural field. Aesthetic was also one of the few earliest academic majors in the university. In the past 56 years, generations of lecturers have contributed positively to the education cause as well as the maturing process of this young science in our nation. Key words: Hanoi University of Culture, aesthetic 1. Trong hệ thống các khoa học triết học, thành lập các khoa chuyên ngành (mở đầu là mỹ học là một khoa học non trẻ. Mặc dù, một Khoa Thư viện với lớp Cao đẳng hệ bốn năm), vài vấn đề xoay quanh chủ đề “thẩm mỹ” đã yêu cầu trang bị nền móng lý luận cơ bản cho được bàn thảo ngay trong nền văn hoá cổ đội ngũ cán bộ văn hoá trở nên cấp bách, Thứ đại - từ Đông sang Tây, từ Khổng Tử, Lão Tử trưởng Bộ Văn hoá Lê Liêm giao nhiệm vụ cho đến Palaông, Arixtốt, nhưng giới nghiên cứu Trường gấp rút xây dựng các bộ môn lý luận, thống nhất quan điểm: đến giữa thế kỷ XVIII, trước hết là triết học và mỹ học. Bộ Văn hoá với công trình hai tập Aesthetik của nhà triết mời chuyên gia Liên Xô Iakovlép sang giảng học người Đức là Baumgacten, mỹ học mới dạy khoá Nghiên cứu sinh Mỹ học đầu tiên thực sự trở thành một khoa học độc lập. Ở Việt (từ 12/1962 đến 7/1963). Sau khoá tập huấn Nam, việc giảng dạy và nghiên cứu mỹ học còn này, tháng 8/1963 bộ môn Mỹ học chính thức muộn hơn, nó chỉ chính thức được vận hành ra đời. Thời điểm ấy, đây là ngôi trường đầu vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Đáng chú ý, tiên ở nước ta có bộ môn Mỹ học. (Sau đó vài dấu ấn hình thành khoa học này gắn liền với năm, năm 1965, Khoa Ngữ văn Trường Đại học sự ra đời của ngôi trường mang tên Lý luận và Tổng hợp Hà Nội đưa một phần kiến thức mỹ Nghiệp vụ, Bộ Văn hoá - tiền thân của Trường học vào giảng dạy. Đó là phần “Các phạm trù Đại học Văn hoá Hà Nội hiện nay. mỹ học”, dựa trên cuốn sách cùng tên của tác giả Bôrép, do GS. Hoàng Xuân Nhị dịch). Đội Mỹ học là một trong số ít bộ môn lý luận ngũ cán bộ giảng dạy đầu tiên của bộ môn được xây dựng trong giai đoạn đầu thành lập được tập hợp từ nhiều nguồn: ngoài thầy Lê trường. Việc đổi tên Trường Cán bộ văn hoá Hồng Nam - nguyên là cán bộ tuyên huấn (Tổ thành Trường Lý luận và Nghiệp vụ (1961) cho trưởng bộ môn), còn có nhà báo Vũ Lân và thấy sự phát triển trong nhận thức của các cấp một số cán bộ mới tốt nghiệp từ các trường lãnh đạo Bộ và Trường. Bên cạnh việc xúc tiến đại học trong và ngoài nước như: thầy Tạ Văn 38 Số 27 - Tháng 3 - 2019
- Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN Thành (Sử học), Nguyễn Văn Tước, tức Hoài năm 80 của thế kỷ trước, Mỹ học là một trong Lam (Báo chí), Phạm Đình Khánh (Nghệ thuật ba môn lý luận cốt lõi (cùng Triết học và Lý luận học), Hà Huy Bính (Văn học)... Thế hệ các thầy văn hoá) được lãnh đạo Bộ đưa vào chương đã đặt nền móng cho công việc giảng dạy và trình thí điểm đào tạo Cao học Văn hoá (khoá nghiên cứu mỹ học của nhà trường nói riêng 2 năm). Cùng thời gian ấy, Bộ Đại học và Trung cũng như ở Việt Nam nói chung1. Tiếp theo, bộ học chuyên nghiệp cũng chọn Mỹ học là một môn có thêm thế hệ giảng viên thứ hai tiếp tục trong các môn tuyển thí sinh đi học Nghiên công việc từ những năm 70 cho đến những cứu sinh các ngành Văn hoá - Nghệ thuật ở năm đầu thế kỷ XXI, đó là các thầy cô: Nguyễn nước ngoài và giảng viên của bộ môn được Hồng Mai, Đặng Hồng Chương, Lê Như Tâm và mời bồi dưỡng kiến thức để thi tuyển. Như vậy, Vũ Thuý Minh. Hiện nay, công việc giảng dạy xét về mặt đào tạo, đóng góp của các giảng mỹ học của trường do thế hệ thứ ba là TS. Vũ viên mỹ học Trường Đại học Văn hóa Hà Nội rất Thanh Hoài đảm nhiệm với sự cộng tác của đáng được ghi nhận. TS. Đặng Hà Chi. Điểm chung của cả ba thế hệ Bên cạnh công việc đào tạo, trong hai thập giảng viên là không có ai được đào tạo chính kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước, Trường Lý luận và quy đúng chuyên ngành Mỹ học, nhưng bằng Nghiệp vụ, với nòng cốt là bộ môn Mỹ học, đã lòng đam mê đối với môn khoa học mới, bằng trở thành một trung tâm của các cuộc hội thảo quá trình lao động nghiêm túc, không ngừng nghiên cứu về đời sống thẩm mỹ dân tộc. Các nỗ lực tự học và nghiên cứu, kiên trì rèn luyện hội thảo đều thu hút được rất nhiều sự quan trong thực tiễn, họ đều đã hoàn thành tốt tâm của giới khoa học trong nước. Có thể nhắc công việc của mình, đóng góp đáng kể vào sự tới sự tham gia thường xuyên của GS. Vũ Khiêu nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá. Một và nhiều nhà khoa học tên tuổi như Đỗ Huy, số người đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Như Thiết, Trần Y Minh, Lê Anh Trà, Lê Ngọc Trà, những danh hiệu cao quý2. Lâm Vinh, Mịch Quang… Trong tình hình thực Trong gần sáu thập kỷ qua, các giảng viên tiễn đất nước vừa kết thúc cuộc kháng chiến bộ môn đã giảng dạy, truyền bá kiến thức mỹ chống Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất học cho hàng vạn học viên, sinh viên thuộc tất đất nước, mỗi cuộc hội thảo đều đặt ra những cả các chuyên ngành nghiệp vụ văn hoá, thuộc vấn đề lý thuyết mới mẻ, được bàn thảo sôi nổi. các cấp học (bồi dưỡng, trung cấp, cao đẳng, Có thể nhắc lại một vài ví dụ. Cuộc hội thảo về đại học và một số lớp cao học), thuộc mọi hệ Cái Anh Hùng nêu lên câu hỏi: “Liệu Cái Anh đào tạo (chính quy, chuyên tu, tại chức). Ngoài Hùng có phải là một phạm trù mỹ học cơ bản ra, trong mấy thập niên đầu, khi lực lượng bên cạnh Cái Cao cả - một phạm trù có tính giảng viên mỹ học còn rất mỏng, giảng viên truyền thống?”, hay “Cái Anh Hùng là phạm trù bộ môn đã tham gia giảng dạy nhiều đơn vị đạo đức học hay phạm trù Mỹ học?”. Trong hội đào tạo trong và ngoài ngành Văn hoá, không thảo về Cái Bi có ý kiến băn khoăn: “Trong xã chỉ ở Trung ương mà còn các trường trung cấp hội chủ nghĩa có thể tiềm ẩn những nguyên địa phương. Trong các lớp học do Trường trực nhân tạo ra Cái Bi không?”, hay “Những đặc tiếp tổ chức và quản lý, đáng chú ý có loại hình trưng tốt đẹp của xã hội mới có khả năng kiềm lớp “Chuyên tu Triết Mỹ”. Học viên lớp này chỉ chế tác nhân nảy sinh Cái Bi như thế nào?”. Bàn học hai môn kết hợp với đi thực tế địa phương về phương pháp sáng tạo nghệ thuật hiện đại, và trao đổi nghệ thuật. Đối tượng chiêu sinh hội thảo về “Phương pháp hiện thực xã hội chủ của khoá học bao gồm cán bộ quản lý văn hoá nghĩa” cũng đặt ra những vấn đề tranh cãi… cấp vụ, viện, trưởng phó sở, ty văn hoá các tỉnh Đến giai đoạn hiện nay, việc trả lời cho những và lực lượng văn nghệ sĩ (trong số đó có nhiều câu hỏi ấy có thể thấy đơn giản, nhưng ở thời nghệ sĩ nổi tiếng như ca sĩ Quốc Hương, các điểm ấy, không khí trao đổi học thuật khá sôi diễn viên điện ảnh Phi Nga, Đức Hoàn, Đức nổi đã có ý nghĩa thực sự quan trọng trong Lưu…). Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh phá việc hoàn chỉnh về mặt lý luận cho một khoa hoại, trường đi sơ tán ở huyện Yên Dũng (Bắc học còn non trẻ. Mặt khác, việc đứng ra tổ Giang), loại hình lớp này vẫn được duy trì đều chức các cuộc hội thảo khoa học này cũng góp đặn. Ở giai đoạn ấy, chứng chỉ “Chuyên tu Triết phần nâng cao vị thế của nhà trường trong xã Mỹ” được coi như một văn bằng hành nghề hội. Ngoài việc tham gia tích cực các hội thảo của nhóm đối tượng này. Sang đến đầu những của trường hay của các trung tâm nghiên cứu Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 39
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU khác, các giảng viên bộ môn còn tham gia viết điển hình của các mối quan hệ thẩm mỹ). Ở sách tham khảo, dịch thuật các tài liệu chuyên mỗi cấp độ, các thành tố được trình bày theo đề phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy3. Sau nguyên tắc Nguyên - Phân - Hợp (Sơ đồ 1). những tập bài giảng in ronéo từ những năm Tương quan giữa các thành tố thuộc hai 90, các giáo trình đã được biên soạn, bổ sung cấp độ đều theo cặp phổ quát và đặc thù: hoàn thiện qua từng năm. Đến nay, bộ môn đã Quan hệ thẩm mỹ và quan hệ nghệ thuật; Chủ có ba cuốn giáo trình xuất bản vào các năm 1991, 1995 và 2004. thể thẩm mỹ và chủ thể hoạt động nghệ thuật; Khách thể thẩm mỹ và khách thể - tác phẩm 2. Dựa vào các giáo trình được công bố nghệ thuật; Giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ làm nền tảng cho công việc đào tạo, trên cơ thuật. Chúng đồng dạng, đồng loại, đồng sở so sánh với giáo trình của một số trường đại chất, nhưng không đồng cấp. học khác, có thể nhận thấy sự phát triển ngày càng hoàn thiện về mặt lý thuyết của khoa học Mỗi cấp độ của đời sống thẩm mỹ bao quát Mỹ học đang được giảng dạy trong trường. trên bốn bình diện (Sơ đồ 2). Có thể đưa ra một vài dẫn chứng: Nhận thấy Cần nói thêm về bình diện thứ tư của đời tính phiến diện của quan niệm “Mỹ học là khoa sống thẩm mỹ, có liên quan trực tiếp tới công học về cái đẹp”, các nhà mỹ học Việt Nam đều việc đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá. Bình diện cố gắng tìm một thuật ngữ khác có khả năng này được giáo trình đề cập đến xuất phát từ bao quát rộng hơn đối tượng nghiên cứu. Một quan niệm: sự hình thành và phát triển các số người đưa ra thuật ngữ “Cái thẩm mỹ” (bao năng lực thẩm mỹ cũng như hiệu quả của hoạt gồm ba bộ phận: cái thẩm mỹ khách quan, động sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ (nghệ cái thẩm mỹ chủ quan và cái thẩm mỹ nghệ thuật) còn phụ thuộc vào cơ cấu và khả năng thuật) (1, tr.69-70). Tuy nhiên, tính mơ hồ của điều hành thực tiễn của hệ thống lãnh đạo quản thuật ngữ khiến nhiều người băn khoăn. Từ lý phân phối và truyền bá các giá trị thẩm mỹ. giáo trình năm 1991, Trường Đại học Văn hóa Hệ thống này luôn có mối tương tác, giữ vai Hà Nội đã đưa ra khái niệm “Đời sống thẩm mỹ” trò thúc đẩy hoặc kìm nén sự phát triển của với ý nghĩa là mặt thẩm mỹ của đời sống xã các thành tố khác. Các thiết chế văn hoá nằm hội hay đời sống xã hội dưới góc độ thẩm mỹ. trong hệ thống cũng có mối liên hệ và vai trò Từ đó, “Những quy luật cơ bản và phổ quát nhất tương tự. Coi nhẹ hoặc loại bỏ bất kỳ thành tố của đời sống thẩm mỹ” được coi như đối tượng nào cũng sẽ ảnh hưởng tới các thành tố còn nghiên cứu của khoa học này. lại. Ví dụ, chỉ khi các cơ quan nghiên cứu hoạt Sau đó, thuật ngữ “Đời sống thẩm mỹ” cũng động có hiệu quả thì các cấp lãnh đạo mới được giáo trình của một vài trường đại học sử được cung cấp cơ sở khoa học vững chắc để dụng. Tuy nhiên, cấu trúc của “Đời sống thẩm xây dựng đường lối, chính sách, các bộ phận mỹ” được lý giải thiếu hợp lý. Ví như quan quản lý mới am hiểu rõ đối tượng và điều hành điểm cho rằng đời sống thẩm mỹ (hay quan đúng quy luật. Nếu các cơ quan có trách nhiệm hệ thẩm mỹ) gồm ba bộ phận: Khách thể như Bộ Văn hoá, các hội nghệ thuật, các thiết thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật (2, chế văn hoá (nhà xuất bản, nhà in, nhà văn hoá, tr.8). Việc đặt nghệ thuật ngang hàng với hai thư viện, bảo tàng, triển lãm, phát hành sách, thành tố kia khiến cấu trúc của đời sống thẩm phát hành phim,…) kể cả hệ thống xét duyệt mỹ trở nên lỏng lẻo. Nhận thấy hạn chế này, khen thưởng, quỹ bảo trợ sáng tạo,… được tổ trong giáo trình xuất bản năm 2004, bộ môn chức tốt, đúng với vai trò chức năng của mình đề xuất phương pháp tiếp cận hệ thống trong thì đời sống thẩm mỹ của dân tộc mới phát đối tượng nghiên cứu, xây dựng một cấu trúc triển bền vững, toàn diện, hình thành được các khoa học chặt chẽ hơn. sản phẩm thẩm mỹ có giá trị cao. Có thể thấy, Đời sống thẩm mỹ của con người được việc quan tâm đến tính chất đặc thù của các hình dung có hai cấp độ và bốn bình diện. Hai ngành đào tạo tại Trường Đại học Văn hoá Hà cấp độ gồm cấp độ phổ quát (Quan hệ thẩm Nội đã tạo nên sự khác biệt trong giáo trình Mỹ mỹ của con người với hiện thực) và cấp độ đặc học của trường so với giáo trình của một số cơ thù (Nghệ thuật - hình thái biểu hiện tập trung, sở đào tạo khác. 40 Số 27 - Tháng 3 - 2019
- Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN Cấp độ đặc thù Giá trị NT Chủ thể hoạt động NT Khách thể, tác phẩm NT ĐỜI Quan hệ NT SỐNG THẨM MỸ Giá trị TM Chủ thể TM Khách thể TM Quan hệ TM Cấp độ phổ quát Sơ đồ 1. Các cấp độ của đời sống thẩm mỹ Sơ đồ 2. Các bình diện của đời sống thẩm mỹ 3. Có một câu hỏi được đặt ra: Lý do nào đã thêm: Dù ở đâu và bằng bất cứ cách nào, con đưa đến việc ngôi trường đào tạo cán bộ văn người cũng luôn luôn mong muốn đưa cái đẹp hoá lại là đơn vị đầu tiên ở nước ta thành lập vào cuộc sống. Con người tạo ra xung quanh tổ bộ môn Mỹ học và tại sao mỹ học có vai trò mình một cái tự nhiên thứ hai, đó là Văn hoá. của một khoa học cơ sở mà mọi cấp học đào Chúng ta có thể nhận thấy tính chất phổ quát, tạo cán bộ văn hoá bắt buộc tiếp cận? Câu trả tiêu biểu và nổi trội của khía cạnh thẩm mỹ lời được tìm kiếm từ Bản chất của văn hoá cũng trong mọi hoạt động văn hoá, mọi hiện tượng như Đối tượng nghiên cứu của Mỹ học. văn hoá. “Tuy văn hoá liên quan đến tất cả các chiều của cuộc sống, nhưng văn hoá thẩm mỹ Theo từ nguyên, Văn hoá là “sự biến đổi cho luôn là trung tâm của mọi nền văn hoá. Văn đẹp” và Quản lý văn hoá mang nội hàm “Quản hoá luôn là văn hoá thẩm mỹ” (3, tr.153). Còn lý quá trình con người hoạt động đồng hoá thẩm Mỹ học, như đã nói ở phần trên, là một trong mỹ đối với thế giới”. Trong tác phẩm “Bản thảo những khoa học triết học có hướng nghiên kinh tế triết học 1844”, khi so sánh giữa người cứu là những quy luật cơ bản và phổ quát nhất và động vật, C. Mác có lưu ý tới điểm phân biệt của đời sống thẩm mỹ. Trong các lĩnh vực của rõ nhất đó là “con người luôn luôn nhào nặn đời sống đều có thể tồn tại mặt thẩm mỹ, hay vật chất theo Quy luật của cái Đẹp”. Sau này, nói cách khác, mặt thẩm mỹ mang tính chất nhà văn Nga Mácxim Goócki còn nhấn mạnh đại diện, bao quát, thẩm thấu vào trong mọi Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 41
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU bình diện của tự nhiên, xã hội (chính trị, kinh giảng viên đi sâu tìm hiểu nghiên cứu những tế, đạo đức, lối sống,…). Trong quá trình chiếm vấn đề đang nảy sinh, đang nổi cộm trong đời lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, con người sẽ sống thẩm mỹ của dân tộc. khám phá và sáng tạo ngày càng nhiều các giá Kết luận trị thẩm mỹ cho chính mình và thế giới xung quanh. Với đối tượng nghiên cứu này, Mỹ học 60 năm khai sinh một mái trường và 56 gần gũi với người học - vừa với tư cách cá nhân năm hình thành một bộ môn, tuy không quá có khả năng sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ, vừa dài, nhưng những gì các thế hệ giảng viên mỹ với tư cách người cán bộ văn hoá là “cầu nối” học đã đóng góp cho sự nghiệp đào tạo cán giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động cảm thụ bộ văn hoá trên đất nước này không phải nhỏ. đang diễn ra trong xã hội. Trong một thời gian Khát vọng “Xây dựng một Đời sống thẩm mỹ dân dài, Mỹ học cùng với Lý luận văn hoá (bộ môn tộc ngày càng toàn diện và sâu sắc” đã được họ này được Trường thành lập vào đầu thập kỷ 80 nhen nhóm trong ý thức của những người làm của thế kỷ trước) luôn được coi là hai khoa học công tác quản lý văn hoá - nghệ thuật nhiều cơ sở, nền tảng của ngành Văn hoá. năm qua là một động lực quan trọng giúp đội Tuy nhiên, trong vòng hai thập kỷ gần ngũ này hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đây, vai trò của bộ môn Mỹ học trong chương trước xã hội, thực sự là những chủ thể giữ vai trình đào tạo của Trường đã thay đổi. Về mặt trò định hướng đời sống thẩm mỹ. tổ chức, từ một bộ môn khoa học độc lập trực N.H.M thuộc sự quản lý của Ban Giám hiệu, Mỹ học được nhập thành bộ môn của Khoa Mác Lênin (NGƯT., Nguyên giảng viên Khoa Kiến thức cơ bản, vào năm 1998, và đến nay, nó chỉ còn là một Trường ĐHVHHN) môn học nằm trong tổ các khoa học cơ bản Chú thích thuộc Khoa Kiến thức cơ bản. Thời lượng, thời 1 Thế hệ các giảng viên đầu tiên chỉ còn lại gian và lượng kiến thức giảng dạy của môn PGS.TS. Tạ Văn Thành. Hiện ông đang tham gia học này hiện chỉ bằng một phần ba thời lượng cộng tác tại Trường Đại học Hùng Vương, Tp. Hồ ở giai đoạn trước những năm 90. Chí Minh. Lần thay đổi đầu tiên xuất hiện sau khi Bộ 2 Giảng viên Nguyễn Văn Tước (tức Hoài Lam) Đại học công bố khung 7 chương trình đào tạo là người đầu tiên của Trường Đại học Văn hóa Hà và Trường Đại học Văn hoá Hà Nội nằm ở nhóm Nội được phong Phó giáo sư năm 1983, giảng khoa học nhân văn (khung chương trình 6) viên Nguyễn Hồng Mai được Nhà nước tặng với yêu cầu các khoa đào tạo ngành nhân văn danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 1997. đều học môn Mỹ học. Từ đó, số trường có bộ môn Mỹ học tăng lên (3 đơn vị học trình) kèm 3 Một số công trình đã được xuất bản như: theo việc tổ chức biên soạn giáo trình riêng. - Hoài Lam (1987), Tìm hiểu Mỹ học Mác Lênin, Môn học này ở Trường Đại học Văn hoá Hà Nxb. Văn hoá, Hà Nội. Nội vốn từ 90 tiết, giờ đây giảm đi một nửa, - Hoài Lam (1991), Về biện chứng của đời sống ngang bằng với môn học của các trường ngoài thẩm mỹ và nghệ thuật, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. ngành Văn hoá. Sau này, do kiến nghị của bộ môn, học phần Mỹ học nghệ thuật (2 đơn vị Tài liệu tham khảo học trình) được bổ sung vào chương trình đào 1. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2004), Giáo tạo của Khoa Quản lý văn hoá - nghệ thuật. trình Mỹ học đại cương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Lần thay đổi thứ hai thuộc giai đoạn đào tạo Hà Nội. tín chỉ. Lúc này, Mỹ học hoàn toàn bị bỏ qua 2. Đỗ Văn Khang (chủ biên) (1997), Mỹ học đại tính chất đặc thù là môn học cơ sở của ngành, cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. thời lượng rút xuống còn 2 tín chỉ (30 tiết). Với khối lượng thời gian trên lớp ít ỏi, người dạy 3. Viện Văn hóa (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hoá, Hà Nội. chỉ có thể đề cập khái quát những nguyên lý cơ bản, nhiều phần chỉ lướt qua (ví dụ Lịch sử Ngày nhận bài: 10 - 11 - 2018 tư tưởng), đặc biệt những phần liên quan đến nghề nghiệp của người cán bộ văn hoá bị loại Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 2 - 2019 bỏ. Điều kiện thực tế này không khuyến khích Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019 42 Số 27 - Tháng 3 - 2019
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thủy - Nhìn từ góc độ người trực tiếp giảng dạy
4 p | 150 | 17
-
Quan điểm và phương pháp nghiên cứu văn thơ Hồ Chí Minh: Phần 1
200 p | 128 | 17
-
Quan hệ ngoại giao của nước Đông Nam Á: Phần 1
59 p | 85 | 17
-
Văn hoá biển và một góc nhìn về: Phần 1
207 p | 12 | 6
-
Ebook Lịch sử Việt Nam giản yếu: Phần 2
323 p | 11 | 5
-
Ebook Lịch sử tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu - Phan 2
95 p | 23 | 5
-
Hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước Âu, Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897-1914
6 p | 35 | 4
-
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy Triết học: Phần 2
267 p | 11 | 4
-
PGS.TS. Nguyễn Công Lý - Người mở hướng nghiên cứu về văn học Phật giáo Việt Nam (Tấm gương người làm khoa học)
13 p | 59 | 4
-
Nâng cao chất lượng đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn từ chương trình trợ giảng tiếng Anh Fulbright - Mấy kinh nghiệm ở trường Cao đẳng Bến Tre
7 p | 55 | 3
-
Đánh giá các giá trị giáo dục về cuộc sống của một số tác phẩm văn học Mỹ - góc nhìn từ sinh viên tiếng Anh
11 p | 34 | 3
-
Xác định các yếu tố tác động đến hiệu quả giáo dục môi trường theo phương pháp lồng ghép tích hợp cho học sinh tiểu học ở vùng nông thôn tỉnh Hậu Giang
4 p | 73 | 3
-
Lớp động từ tình thái trong các bài diễn văn nhậm chức Tổng thống Mỹ
10 p | 41 | 3
-
Vấn đề giảng dạy chủ nghĩa Marx trong các trường đại học ở Hoa Kỳ
8 p | 32 | 2
-
Sử dụng Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông
7 p | 70 | 2
-
Lịch sử văn minh Mỹ theo cách lý giải của các học thuyết về lịch sử và văn hoá của các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ học
9 p | 60 | 1
-
Khảo sát đánh giá dữ liệu thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành tạo hình đa phương tiện phục vụ cho giảng dạy và học tập
12 p | 33 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn